"Giê-hô-va Đức Chúa Trời khiến cho A-đam ngủ mê, và lấy đi một xương sườn, rồi lấp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng chiếc xương sườn đã lấy từ A-đam dựng nên một người nữ và đưa đến cho A-đam. A-đam nói: “Bây giờ mới có người nầy, Là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là người nữ,Vì từ người nam mà có" (Sáng thế ký 2: 21-23).
Người Trung Quốc cổ đại ghi lại thao tác này của Chúa bằng từ ngữ 肉 mà học đọc là RÒU (nhục) , có nghĩa là THỊT. Nó bày tỏ một NGƯỜI được lấy ra từ BIÊN GIỚI, là bên hông của cơ thể NGƯỜI thứ hai, là A-đam. Đức Chúa Trời đã lấy một chiếc xương sườn từ bên sườn của A-đam, lấp thịt thế vào, và từ chiếc xương sườn đó Chúa đã tạo nên người phụ nữ.
Chữ tượng hình liên quan cơ bản đến RÒU (nhục) là từ nèi có nghĩa là BÊN TRONG. Hai ký tự kết hợp tạo nên tiếng nèi là ENTER ( Vào bên trong) và BORDER (biên giời). Lời tường thuật của Sáng thế ký 2: 21-23 nói rằng người phụ nữ đó "... đã bị lấy ra khỏi người đàn ông." Điều đó sẽ khiến cô ấy trở thành người đàn ông BÊN TRONG. Nèi vẫn được đàn ông Trung Quốc dùng để chỉ về vợ của họ, theo nghĩa đen, cô ấy là "người đàn ông BÊN TRONG của tôi."
@ Tiếng Hebrew: Tám trăm năm sau khi người Hoa sáng chế ra chữ 肉 (thịt), ông Môi se viết chữ "thịt" trong Sáng 2: 21-23. Chữ בָּשָׂר phiên âm là bâśâr, đọc là baw-sawr', nghĩa là flesh, là thịt trong tiếng Việt.
Xem hình chiết tự chữ 肉- nhục như dưới đây. Trong chữ nhục 肉, người trên là Ê-va, ra từ người nằm dưới ở bên trong là A-đam.