"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:7529624
Đang truy cập:219

Ý MUỐN CỦA TÍN ĐỒ 3, 4

prednisolone weight gain

buy prednisolone

cheap accutane

buy accutane online

ilosone

ilosone eugenevugts.nl

cialis online

cialis helyett

 CHƯƠNG BA

QUAN NIỆM SAI LẦM CỦA CÁC TÍN ĐỒ

Chúng ta không nên có quan niệm sai lầm rằng các tín đồ mà bị các ác linh lừa dối thì sẽ rất ô uế, suy thoái và tội lỗi. Chúng ta cần nhận thức rằng các tín đồ này hoàn toàn dâng mình cho Đức Chúa Trời và thật sự tiến bộ hơn các tín đồ bình thường. Họ nỗ lực vâng phục Chúa và sẵn lòng trả bất kỳ giá nào để bước theo Chúa. Vì họ hoàn toàn dâng mình cho Chúa nhưng không biết cách hợp tác với Đức Chúa Trời, nên họ rơi vào trong sự thụ động. Những người không giống như vậy thì không thể trở nên thụ động. Mặc dù họ có thể cho rằng mình hoàn toàn dâng mình cho Đức Chúa Trời, nhưng cách sống của họ vẫn theo các ý tưởng và lập luận của sự sống thiên nhiên. Họ vẫn sống theo ý muốn riêng của mình. Loại tín đồ này sẽ không rơi vào trong sự thụ động; họ sẽ không bị quỷ ám. Họ có thể nhường lập trường cho các ác linh trong các vấn đề khác nhưng trong vấn đề vâng phục ý muốn của Đức Chúa Trời, họ sẽ không nhường lập trường thụ động cho các ác linh. Tuy nhiên, chỉ những ai thật sự dâng mình, bất chấp thiệt hơn, và sẵn lòng lắng nghe và vâng phục mọi lệnh truyền của Đức Chúa Trời thì mới có thể trở nên thụ động và bị ám. Loại tín đồ này có ý muốn dễ rơi vào sự thụ động. Chỉ những ai sẵn lòng hoàn toàn vâng phục mọi mạng lệnh mới có thể trở nên thụ động.

Nhiều người hỏi: “Tại sao Đức Chúa Trời không bảo vệ họ? Chẳng phải động cơ của họ rất thuần khiết sao? Chẳng lẽ Đức Chúa Trời để cho những người trung tín tìm kiếm Ngài bị các ác linh lừa dối sao?” Nhiều người cho rằng Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ con cái Ngài trong mọi hoàn cảnh. Họ không biết rằng để nhận được sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, một người phải thỏa đáp điều kiện để được Đức Chúa Trời bảo vệ. Nếu một tín đồ thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác thì Đức Chúa Trời không thể cấm chúng công tác. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời tuân thủ các qui luật. Vì một tín đồ nộp mình, vô tình hoặc cố ý, vào trong tay các ác linh, nên Đức Chúa Trời không thể ngăn trở chúng có quyền cai trị trên tín đồ. Nhiều người nghĩ rằng hễ động cơ của họ thuần khiết, họ sẽ được miễn trừ khỏi việc bị lừa dối. Họ không biết rằng người dễ bị lừa dối nhất trong thế giới chính là những người có động cơ thuần khiết. Sự thành thật không phải là điều kiện không bị lừa dối; tri thức là điều kiện. Nếu một tín đồ không quan tâm đến các sự dạy dỗ của Kinh Thánh và không thức canh cầu nguyện, và nếu người ấy nghĩ rằng chỉ cần có động cơ thuần khiết thôi là người ấy có thể không bị lừa dối, thì chắc chắn người ấy sẽ bị lừa dối. Nếu người ấy bị lừa dối và thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác, làm sao người ấy có thể mong đợi Đức Chúa Trời bảo vệ mình?

Nhiều tín đồ cho rằng họ chắc chắn sẽ không bị lừa dối vì họ thuộc về Chúa. Hoặc họ cho rằng mình sẽ không bị lừa dối vì mình đã hoàn toàn dâng mình cho chúa và có được nhiều kinh nghiệm thuộc linh. Họ không biết rằng khi một tín đồ tự cho rằng mình vững chắc thì người ấy đã bị lừa dối rồi! Nếu một tín đồ không hạ mình xuống một chút, người ấy sẽ bị lừa dối đến cực điểm: tức là người ấy sẽ bị quỷ ám và vẫn nghĩ rằng mình đầy dẫy Thánh Linh. Bị ám không phải là vấn đề sự sống và không phải là vấn đề động cơ; đó là vấn đề tri thức. Khi một tín đồ nhận được quá nhiều sự dạy dỗ duy tâm và lúc bắt đầu nếp sống Cơ Đốc của mình, thì Thánh Linh rất khó hướng dẫn người ấy bằng lẽ thật mà người ấy cần. Tín đồ cũng có thể có định kiến đối với sự giải thích Kinh Thánh, khiến cho các tín đồ khác khó truyền sự sáng mà người ấy thiếu hụt đến cho người ấy.  Khi một tín đồ khoe khoang về sự an toàn đang lúc mình ở trong một tình trạng nguy hiểm như vậy, thì hoặc là người ấy cung cấp cho các ác linh một cơ hội để công tác, hoặc là người ấy để cho chúng tiếp tục công tác.

Chúng ta đã thấy sự thụ động là nguyên nhân của việc bị quỷ ám, nhưng sự thiếu hiểu biết là nguyên nhân cùa sự thụ động. Nếu một tín đồ không thiếu hiểu biết, người ấy sẽ không làm con mồi để bị quỷ ám. Thật ra “sự thụ động” đơn giản là sự vâng phục bị hiểu sai và sự dâng mình bị hiểu sai. Chúng ta cũng có thể nói rằng đó là sự vâng phục thái quá, sự dâng mình thái quá. Nếu một tín đồ có được tri thức và bởi đó nhận thức rằng các ác linh thích có và cần có sự thụ động của con người trước khi có thể công tác, người ấy sẽ không thể nào để cho chính mình rơi vào trong sự thụ động và bởi đó tạo cơ hội cho các ác linh công tác. Nếu một tín đồ biết rằng Đức Chúa Trời cần con người cùng lao tác với Ngài và Ngài không ao ước con người tự biến mình thành những cỗ máy, thì người ấy sẽ không để cho chính mình rơi vào trong sự thụ động và mong đợi Đức Chúa Trời đến chuyển động mình. Ngày nay, các tín đồ sa vào trong tình trạng này chính yếu là vì thiếu hiểu biết.

Các tín đồ có tri thức để biện biệt sự chuyển động của Đức Chúa Trời với công tác của Satan. Các tín đồ cần có tri thức để hiểu rõ nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời và điều kiện công tác của Satan. Chỉ những ai có sự tri thức này mới có thể giữ mình khỏi quyền lực của sự tối tăm. Satan dựa trên các lời nói dối để tấn công các tín đồ; vì vậy, phải có các lẽ thật để thay thế chúng. Satan muốn giữ các tín đồ trong sự tối tăm; vì vậy, sự sáng phải được chiếu sáng. Chúng ta phải nhớ kỹ nguyên tắc các ác linh công tác khác với nguyên tắc của Thánh Linh. Tuy nhiên, mỗi lúc công tác, chúng luôn luôn công tác theo nguyên tắc của chúng. Mặc dù các ác linh rất giỏi thay đổi diện mạo của chúng, nhưng nếu chúng ta nhìn vào toàn bộ công tác của chúng, chúng ta có thể nhận thấy rằng nguyên tắc bên trong luôn giống nhau. Sau khi nhận thức được sự khác biệt này, chúng ta phải kiểm tra các kinh nghiệm trong quá khứ của mình và biện biệt nguyên tắc như nền tẳng cho kinh nghiệm của chúng ta. Qua điều này, chúng ta sẽ có thể biện biệt điều gì từ thánh Linh và điều gì từ các ác linh. Bất cứ điều gì được thực hiện theo một nguyên tắc nào đó chắc chắn đều được thực hiện bởi loại linh tương ứng.

Vì các tín đồ rơi vào trong việc bị quỷ ám qua sự thiếu hiểu biết nên chúng ta cần xem xét chi tiết nhiều vấn đề mà các tín đồ rất dễ hiểu sai.

CHẾT VỚI ĐẤNG CHRIST

Sự thụ động của nhiều tín đồ là do hiểu sai lẽ thật “chết với Đấng Christ” . Vị sứ đồ nói: “Tôi đang chịu đóng đinh với Đấng Christ; và không còn tôi sống nữa mà Đấng Christ sống trong tôi; còn sự sống mà tôi hiện đang sống trong xác thịt là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời” (Gal 2:20). Dựa trên điều này, các tín đồ cho rằng nếp sống thuộc linh cao nhất là “không còn tôi sống nữa”. Họ cho rằng họ phải đánh mất nhân cách của mình, họ không còn có ý muốn và khả năng riêng nữa, và “cái tôi” của họ phải chết hoàn toàn. Bởi đó, họ trở nên một cỗ máy vâng phục Đức Chúa Trời. Họ nghĩ rằng họ không được có bất kỳ cảm xúc nào nữa, họ phải kết liễu nhân cách của mình và loại bỏ mọi ao ước, mối quan tâm và sở thích của cuộc sống. Họ trở nên như một thi thể. Do đó, không còn những “cái tôi” nữa; “thân vị” của họ đều ra đi. Họ nghĩ rằng loại điều răn này đòi hỏi họ phải xóa bỏ chính mình, hủy diệt chính mình và “tự sát” đến mức không còn có bất kỳ cảm xúc nào về chính mình hay về nhu cầu, tình trạng, cảm nhận, ao ước, môi trường, tâm trạng, sự thoải mái, nỗi buồn…v…v.. của mình nữa, hầu cho họ chỉ cảm thức sự vận hành, công tác và chuyển động của Đức Chúa Trời thôi. Họ cho rằng việc chết đối với chính mình nghĩa là không còn có sự tự ý thức nữa. Vì vậy, họ giao “sự tự ý thức” của mình cho sự chết và cố gắng chết đến mức họ không còn cảm nhận bất cứ điều gì ngoài sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Họ nhận thức rằng sự chết phải được hoàn thành. Vì vậy, mỗi lần có sự tự ý thức, họ chuyên tâm đặt chính mình vào chỗ chết. Mỗi lần cảm thức mình có một niềm ao ước, một sự thiếu hụt, một nhu cầu, một mối quan tâm hay cảm nhận họ chuyên tâm xử lý điều đó và đặt điều đó vào chỗ chết.

Họ cho rằng họ đã bị đóng đinh với Đấng Christ và “cái tôi” không còn nữa. Họ cũng cho rằng Đấng Christ đang sống trong họ và “tôi” không còn sống nữa. “Tôi chịu đóng đinh với Đấng Christ” Vì vậy, “tôi” đã chết. Họ cố gắng đem sự chết này vào trong sự thực hành bằng cách không còn có bất cứ ý tưởng hay cảm nhận nào nữa. Họ Nghĩ rằng nhân cách của họ phải không còn hiện hữu nữa, vì “Đấng Christ sống trong tôi”. Vì Đấng Christ sống trong họ nên họ nghĩ rằng họ phải tự thuận phục Ngài cách thụ động và để cho Ngài suy nghĩ và cảm nhận thay cho mình. Nhưng họ không lưu ý đến cụm từ tiếp theo của Paul: “Sự sống mà tôi hiện đang sống trong xác thịt!” Paul đã chết, nhưng Paul không chết! “Tôi” đã bị đóng đinh trên thập tự giá, nhưng “tôi” vẫn sống. Sau khi trải qua thập tự giá, Paul nói: “Tôi hiện đang sống”!

Trong Galati 2:20, có hai cái “tôi”, cái trên chết, cái dưới vẫn sống.

Thập tự giá không tiêu diệt “cái tôi”. Nó hiện hữu mãi mãi. Thậm chí sau khi lên thiên đàng, sẽ vẫn còn “cái tôi”. Sự cứu rỗi có ý nghĩa gì nếu một ai đ1o có thể thay thế “tôi” lên thiên đàng?  Ý nghĩa của việc chấp nhận sự chết của Đấng Christ là chết đối với tội lỗi và giao nộp sự sống hồn chúng ta cho sự chết. Thậm chí điều tốt nhất, cao nhã nhất và tinh sạch nhất cũng phải bị giao nộp cho sự chết.

Chúng ta đã nói về điều này nhiều lần trước đây. Đức Chúa Trời muốn chúng ta từ chối tấm lòng sống bởi sự sống thiên nhiên của mình. Ngài muốn chúng ta sống bởi Ngài và hấp thụ sự sống Ngài từng hồi lúc để toàn bản thể chúng ta được cung ứng các như cầu. Ngài không có ý định tiêu diệt các chức năng khác nhau của bản thể chúng ta, và Ngài cũng không muốn toàn bản thể chúng ta rơi vào trong sự thụ động. Trái lại, nếp sống Cơ Đốc đòi hỏi chúng ta vận dụng ý muốn của mình hằng ngày, cách đơn nhất, chủ động và tin cậy để phủ nhận sự sống thiên nhiên của mình và nhờ cậy sự sống thuộc linh của Đức Chúa Trời. Giống như sự chết của thân thể con người không phải là một sự tiêu diệt hoàn toàn, sự chết trong hồ lửa không phải là một sự tiêu diệt hoàn toàn thì sự đóng đinh với Đấng Christ trong nếp sống thuộc linh cũng vậy. Thân vị con người phải hiện hữu, và đại diện cho thân vị con người – ý muốn – cũng phải hiện hữu. Chỉ có sự sống thiên nhiên mà bởi đó con người sống mới phải chết. Đây là sự dạy dỗ của Kinh Thánh.

Sau khi một tín đồ chấp nhận sự hiểu sai về việc chết với Đấng Christ và để cho mình rơi vào trong sự thụ động (1) người ấy sẽ không còn chủ động nữa, (2) Đức Chúa Trời sẽ không còn dùng người ấy nữa, vì điều này nghịch lại với nguyên tắc công tác của Ngài; và (3) các ác linh sẽ nắm lấy cơ hội để nhập vào người ấy vì tình trạng này phù hợp với điều kiện công tác của các ác linh. Vì vậy, hậu quả của sự hiểu sai về việc chết với Đấng Christ và cố gắng thực hành điều đó không gì khác hơn là bị quỷ ám và giả vờ là được Đức Chúa Trời đổ đầy. Chúng ta đã nhìn thấy các tín đồ ở nhiều nơi bị quỷ ám và có nhiều kinh nghiệm lập dị sau khi hiểu sai sự dạy dỗ của Galatia 2:20-

Sau khi tín đồ “chết” theo cách này, các ác linh khiến người ấy không còn cảm nhận gì và không hề biết đến nhu cầu có các cảm nhận của chính mình. Khi người ấy tiếp xúc với người khác, họ cảm thấy người ấy giống như một bức tượng sắt hoặc đá; người ấy dường như không hề có các cơ quan cảm nhận. Người ấy không nhận thức được các nỗi khổ của người khác và không nhận thức được mình khiến người khác chịu khổ thế nào. Người ấy không có khả năng nhận biết, phân biệt điều gì bên ngoài hoặc bên trong mình. Người ấy không hề có ý thức về thái độ, diện mạo hay hành động của mình. Người ấy không vận dụng ý muốn để suy nghĩ, suy luận, hay quyết định trước khi phát ngôn và hành động. Người ấy không biết các lời nói, ý tưởng và cảm xúc của mình từ đâu đến. Ý muốn của chính người ấy không bao giờ hành động, nhưng nhiều lời nói, ý tưởng và cảm xúc biểu hiện qua người ấy bằng cách chiếm đoạt người ấy như thể người ấy là một ống dẫn để tuôn đổ vậy. Mọi hành động và cách cư xử của người ấy đều máy móc. Người ấy không biết lý do cho những điều này. Người ấy hoang mang và hành động chỉ vì nhận được mệnh lệnh và áp bức từ một nguồn nào đó mà mình không biết. Mặc dù người ấy không có “sự tự ý thức” nhưng chỉ cần người khác đối xử tệ với mình một chút thôi, người ấy sẽ rất dễ hiểu lầm và cảm thấy tổn thương. Người ấy trải qua các ngày của mình trong tình trạng tê liệt. Người ấy tin rằng mình đã chết với Đấng Christ và thậm chí không còn cảm thức chính mình nữa. Người ấy không biết rằng “sự thiếu ý thức” vừa là điều kiện vừa là hậu quả của việc các ác linh ám người ấy. Điều này khiến cho các ác linh bám chặt, cản trở, tấn công, cưỡng bức, đưa ra các đề nghị với người ấy, suy nghĩ giùm, hỗ trợ và thúc giục người ấy tiến tới mà không có bất cứ sự giới hạn nào cả vì người ấy không có cảm nhận gì cả.

Vì vậy, chúng ta phải ghi nhớ rằng điều chúng ta thường biết đến như là “việc chết đối với bản ngã” là chết đối với sự sống, năng lực, ý kiến và hoạt động của bản ngã ngoài Đức Chúa Trời. Đó không phải là sự chết của thân vị một người. Chúng ta không triệt tiêu chính mình để thân vị chúng ta không còn hiện hữu nữa. Điều này phải được làm cho sáng tỏ. Khi chúng ta nói mình không có bản ngã, điều đó nghĩa là chúng ta không có hoạt động của bản ngã. Chúng ta không đang nói rằng sẽ không có sự hiện hữu của thân vị chúng ta nữa! Nếu một tín đồ nghĩ rằng mình phải tiêu diệt sự hiện hữu của thân vị, mình không được suy nghĩ, cảm nhận hay có ý kiến hoặc không được có bất cứ chuyển động thân thể nào, nhưng thay vì vậy phải sống nếp sống trong mơ, cả ngày lẫn đêm, không biết mình đang ở đâu, thì người ấy sẽ bị quỷ ám. Người ấy có thể nghĩ rằng đây thật sự là chết đối với bản ngã, mình thật sự là một người không có bản ngã và kinh nghiệm thuộc linh của mình cao hơn bất kỳ ai khác. Nhưng sự dâng mình của người ấy không phải là dâng mình cho Đức Chúa Trời mà là cho các ác linh.

SỰ VẬN HÀNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

“Vì đó là Đức Chúa Trời vận hành trong anh em vừa muốn vừa làm vì niềm vui thích tốt lành của Ngài” (Phil.2:13). Câu này cũng rất bị hiểu lầm. Một tín đồ có thể nghĩ rằng chỉ có Đức Chúa Trời mới là Đấng muốn và làm, Ngài đặt lòng muốn và làm trong minh và Đức Chúa Trời sẽ muốn và làm giùm cho người ấy. Điều này nghĩa là người ấy không cần muốn hay làm bất cứ điều gì; Đức Chúa Trời muốn và làm giùm cho người ấy. Người ấy là một tín đồ ngoại hạng và không cần muốn hay làm nữa; Đức Chúa Trời là Đấng muốn và làm. Người ấy chỉ là một cổ máy vô thức và không liên quan gì đến việc muốn và làm cả.

Các tín đồ này không biết rằng câu này nghĩa là Đức Chúa Trời chỉ làm trong chúng ta theo mức độ chúng ta sẵn lòng muốn và làm. Đức Chúa Trời sẽ không làm hơn điều này; Ngài sẽ chỉ làm đến điểm này. Đức Chúa Trời sẽ không muốn và làm giùm cho con người. Đúng hơn, Đức Chúa Trời sẽ chỉ làm khi con người sẵn lòng muốn và làm theo niềm vui thích tốt lành của Ngài. Việc muốn và công tác vẫn phải là của con người. Vị sứ đồ rất cẩn trọng. Đây là lý do tại sao ông nói: “Đó là Đức Chúa Trời vận hành trong anh em vừa muốn vừa làm”. Đức Chúa Trời không muốn và làm một mình, nhưng “trong anh em”; thân vị của anh em vẫn còn. Chính anh em vẫn phải muốn và làm. Muốn và công tác vẫn là việc của anh em. Mặc dù Đức Chúa Trời vận hành, nhưng Ngài không thay thế. Muốn và làm là việc của con người. Ý nghĩa về sự vận hành của Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời làm trong chúng ta, chuyển động trong chúng ta, làm mềm mại chúng ta và khích lệ chúng ta để sản sinh trong chúng ta một tấm lòng có xu hướng vâng phục ý muốn của Ngài. Ngài không muốn làm giùm chúng ta để vâng phục ý muốn của Ngài. Ngài chỉ khiến chúng ta có ý hướng về ý muốn của Ngài. Khi đó, chính chúng ta vẫn phải muốn vâng phục. Câu này dạy dỗ rằng ý muốn của con người cần sự hỗ trợ từ quyền năng của Đức Chúa Trời. Ngoài Đức Chúa Trời, bất cứ diều gì con người quyết định và làm theo ý muốn của mình điều vô dụng. Đức Chúa Trời không muốn làm giùm con người; Ngài muốn con người nương cậy quyền năng của Ngài để muốn. Không phải là Đức Chúa Trời thay thế chúng ta trong việc muốn, mà là chúng ta muốn bởi việc Ngài làm.

Tuy nhiên, một tín đồ có thể không nhận thức được diều này. Người ấy có thể nghĩ rằng vì Đức Chúa Trời đang vận hành bên trong mình nên mình không cần chuyển động. Người ấy chỉ cần thụ động để cho Đức Chúa Trời vận hành và đồng đi với Ngài bên ngoài lẫn bên trong. Vì Đức Chúa Trời vận hành để muốn nên người ấy không cần vận dụng ý muốn của mình; tất cả những gì người ấy phải làm là để cho một ý muốn khác đến trên mình và sử dụng mình. Do đó, người ấy không dám quyết định, lựa chọn hay kháng cự điều gì; đúng hơn, người ấy thụ động chờ đợi sự ngự xuống của ý muốn Đức Chúa Trời. Khi một ý muốn bên ngoài đưa ra một quyết định cho người ấy, người ấy chấp nhận điều đó. Người ấy dập tắt mọi điều ra từ ý muốn của mình. Hậu quả của hành động này là: (1) tín đồ không sử dụng ý muốn của mình; (2) Đức Chúa Trời cũng không sử dụng ý muốn của Ngài để đưa ra bất cứ đề xuất nào cho người ấy, vì Ngài muốn tín đồ chủ động cùng lao tác với Ngài; (3) các ác linh nắm lấy cơ hội để bắt giữ ý muốn thụ động của người ấy và hành động thay cho người ấy để người ấy hoặc trở nên tê liệt, không tiến bộ gì, hoặc nóng cháy bằng “lửa của các quỷ”; và (4) vào lúc này, tín đồ có thể nghĩ rằng Đức Chúa Trời đang suy nghĩ giùm cho mình. Trong thực tế, quyền bính của sự tối tăm đã trở nên chúa của người ấy.

Chúng ta phải nhìn thấy sự khác biệt giữa việc Đức Chúa Trời “muốn” thay cho chúng ta và việc chúng ta cộng tác với Đức Chúa Trời qua việc vận dụng ý muốn của mình. Nếu Đức Chúa Trời quyết định thay cho chúng ta, thì vấn đề đó sẽ tuyệt đối không có liên hệ gì với chúng ta. Mặc dù tay chúng ta có thể làm một điều gì đó, nhưng lòng chúng ta không đề xuất điều đó. Khi tỉnh táo lại, chúng ta sẽ nhận thức rằng những điều này không phải do chúng ta làm. Tuy nhiên, nếu chúng ta sử dụng ý muốn của mình để chủ động công tác với Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ thấy rằng, mặc dù một điều gì đó được thực hiện bởi việc nương cậy nơi sức lực của Đức Chúa Trời nhưng thật ra điều đó được thực hiện bởi chúng ta. Một người hoàn toan bị quỷ ám thì không ý thức về bất cứ hành động nào của mình khi các quỷ “đến”. Người ấy có thể điên cuồng trong chốc lát, nhưng sau đó người ấy hoàn toàn không biết mình làm gì. Điều này cho chúng ta biết rằng mọi điều điên cuồng đều do các quỷ thực hiện qua ý muốn của người ấy và thay cho người ấy. Khi một tín đồ bị lừa dối, người ấy có thể nghĩ rằng vào lúc đó mình đã làm mọi sự, nói mọi lời và nghĩ ra mọi ý tưởng. Nhưng ngay khi được soi sáng bởi ánh sáng của Đức Chúa Trời va bắt đầu hỏi mình có thật sự muốn làm, nói và nghĩ những điều này không, người ấy sẽ nhận thức rằng những điều này chẳng có liên quan gì với mình cả. Đúng hơn, những điều này nhập vào người ấy và tự thực hiện thay cho người ấy.

Ý muốn của Đức Chúa Trời không phải là tiêu diệt ý muốn của chúng ta. Nếu chúng ta nói:”Từ nay trở đi, tôi sẽ không có ý muốn của mình nữa. Tôi sẽ chỉ để cho ý muốn của Đức Chúa Trời được biểu lộ từ tôi”, thì không phải chúng ta dâng mình cho Đức Chúa Trời đâu; đúng hơn, chúng ta đã lập một giao ước với các ác linh vì Đức Chúa Trời không dùng ý muốn của Ngài để thay thế ý muốn của chúng ta. Thái độ đúng đắn phải là: “Tôi có ý muốn của tôi, nhưng ý muốn của tôi muốn ý muốn của Đức Chúa Trời”. Chúng ta phải đặt ý muốn của chúng ta về phía Đức Chúa Trời, không phải bởi sự lực của chúng ta, nhưng bởi sự sống của Đức Chúa Trời. Lẽ thật đích thực là sự sống mà sử dụng ý muốn của chúng ta trong quá khứ phải bị đặt vào chỗ chết. Bây giờ chúng ta sẽ sử dụng ý muốn của mình bởi sự sống của Đức Chúa Trời. Chúng ta không tiêu diệt ý muốn của mình; nó vẫn ở đó-- chỉ có sự sống thay đổi. Sự sống thiên nhiên phải chết, nhưng sự tác nhiệm của ý muốn vẫn hiện hữu. Nó được Đức Chúa Trời đổi mới và bây giờ sự sống mới của chúng ta đang sử dụng nó.

CÔNG TÁC CỦA THÁNH LINH

Có nhiều tín đồ rơi vào trong sự thụ động và bị quỉ ám vì thiếu hiểu biết về công tác của Thánh Linh. Có nhiều sự hiểu sai thường gặp như:

A.   Chờ Đợi Thánh Linh

Hội thánh ngày nay thật sự rất thiếu hiểu biết về Thánh Linh trong kinh nghiệm! Ở nhiều nơi, nhiều tín đồ có ý định tốt đã nhấn mạnh các sự dạy dỗ về Thánh Linh. Trong số đó, những sự dạy dỗ thường gặp nhất là một người phải “chờ đợi sự đổ đầy của Thánh Linh”,”chờ đợi sự ngự xuống của Thánh Linh” và “chờ đợi báp têm của Thánh Linh”. Trong sự thực hành, một số người cầu nguyện suốt đêm trong nhà mình và kiêng ăn một thời gian dài, “chờ đợi để nhận được Lễ Ngũ Tuần của riêng mình”. Một số buổi nhóm biến thành “buổi nhóm chờ đợi” ngay khi bài giảng kết thúc, để những ai muốn tìm kiếm Thánh Linh có thể chờ đợi. Cho nên, nhiều người thật sự nhận được các kinh nghiệm khác thường và kinh nghiệm linh siêu nhiên ngự xuống trên họ, khiến họ có các cảm nhận kỳ diệu khác thường, nhìn thấy các khải tượng và ánh sáng lạ, nghe các tiếng nói, nói tiếng lạ, rung lắc và có các hiện tượng khác. Sau điều này, chúa Jesus trở nên quý báu hơn đối với họ và nhiều tội lỗi lỗi tỏ tường bị quăng xa. Họ trở nên vui mừng và nhiệt tình hơn, nghĩ rằng mình đã nhận được báp-têm của Thánh Linh. Những hành động này dựa trên các câu sau: “Này, Ta sai lời hứa của Cha Ta đến trên các ngươi; nhưng về phần các ngươi, hãy ở lại trong thành cho đến khi các nhươi mặc lấy quyền năng từ trên cao” (Luke 24:49). “Ngài truyền bảo họ đừng rời khỏi Jerusalem, nhưng chờ đợi lời Cha hứa” (Công.1:4).

Chúng ta phải chú ý đến một vài điểm quan trọng. Thật sự Chúa Jesus đã truyền bảo các môn đồ chờ đợi Thánh Linh đến trên họ. Tuy nhiên, sau ngày Lễ Ngũ Tuần, chúng ta không tìm thấy chỗ nào trong Công Vụ hay trong các Thư Tín, các sứ đồ truyền bảo các tín đồ “chờ đợi” để nhận được Thánh Linh. Sau Lễ Ngũ Tuần, “tiếp nhận” được dùng hay thay cho “chờ đợi” (Công 19:2).

Hơn nữa, khi các môn đồ chờ trong mười ngày, Thánh Linh không nói họ “chờ đợi” cách thụ động. Đúng hơn, họ cầu nguyện và nài xin trong sự hòa hợp. sự chờ đợi thụ động thâu đêm như hiện nay (một số người còn chờ hơn mười ngày) khác với kinh nghiệm của các môn đồ.

Hơn nữa, sau Lễ Ngũ Tuần, mỗi khi chúng ta đọc về việc các tín đồ được đầy dẫy Thánh Linh, họ đều được đầy dẫy ngay lập tức. Họ không phải chờ đợi giống như các sứ đồ ban đầu (đối chiếu Công 4:31, 9:17, 10:44).

Thánh Linh không thể được kêu cầu trực tiếp. Ngài cũng không đến qua sự nài xin của chúng ta, vì Ngài là một ân tứ (đối chiếu Luke 11:13, John 14:16). Hơn nữa, Ngài ngự xuống vào Lễ Ngũ Tuần. Trong toàn bộ Tân Ước, chua từng có ai kêu cầu Thánh Linh cách trực tiếp. Không có trường hợp nào trong Kinh Thánh mà con người trực tiếp xin sự ngự xuống và báp-têm của Thánh Linh. Thay vì vậy, Kinh Thánh nói rằng Chúa Jesus “sẽ báp-têm các ngươi trong Thánh Linh” (Matt. 3:11).

Ngoài ra, như chúng ta đã đề cập trước đó, Thánh Linh chỉ đến trên “người mới”, tức là người bên trong. Mong đợi Thánh Linh đến trên thân thể vật lý, đòi hỏi cảm xúc và ấn định một cảm nhận nào đó làm bằng chứng cho sự ngự xuống của Thánh Linh là nguồn gốc của sự lừa dối.

Vì vậy, sự thực hành “chờ đợi Thánh Linh” ngày nay không phù hợp với Kinh Thánh, vì sự thực hành này hoàn toàn thụ động. Đa phần loại chờ đợi này dều diễn ra vào ban đêm khi hân thể đã rất mệt mỏi. Hơn nữa, thường có một thời gian dài kiêng ăn và nhiều ngày chờ đợi. Tâm trí của tín đồ tự nhiên trở nên rất lộn xộn. Hơn nữa, việc cầu nguyện kéo dài, hoặc ngồi hay quỳ gối, “chờ đợi” sự ngự xuống của Thánh Linh trên thân thể, sẽ rất dễ đặt ý muốn vào tình trạng thụ động hoàn toàn. Tín đồ không kháng cự, biện biệt, hay lựa chọn bất cứ điều gì. Người ấy chỉ thụ động chờ đợi một linh đến trên mình, đánh mình ngã xuống đất, hoặc dùng lưỡi và miệng của mình để ban cho mình một cảm nhận lạ. Một sự chờ đợi như vậy cung cấp một con đường cho các ác linh đến. Chẳng lạ gì khi trong tình trạng như vậy, tín đồ nhận được các kinh nghiệm siêu nhiên. Những kinh nghiệm siêu nhiên phải chờ đợi cho đến khi con người trở nên thụ động, chúng  mới có thể biểu lộ. Tuy nhiên, Thánh Linh sẽ không làm bất cứ công tác nào, vì điều đó nghịch lại với nguyên tắc công tác của Ngài. Các ác linh tận dụng cơ hội và trở nên rất năng động. Chúng thực hiện nhiều công tác giả mạo trên tín đồ. Vào lúc này, mọi lời cầu nguyện, lời hứa và đức tin dâng lên cho Thánh Linh thật ra đều là dâng lên cho các ác linh. Mặc dù dường như có một bầu không khí dễ chịu đổ đầy ngôi nhà trong loại buổi nhóm này và mọi người đều cảm thấy bình an và vui mừng, và mặc dù có thể nhiều sự hiến dâng và công tác ra từ một buổi nhóm như vậy, nhưng sự sống thiên nhiên vẫn chua được xử lý.

B.   Vâng Phục Thánh Linh

Các tín đồ, theo lời trong Công Vụ 5:32: “Thánh Linh mà Đức Chúa Trời đã ban cho những người vâng phục Ngài”, nghĩ rằng họ phải “vâng phục Thánh Linh”. Vì họ không bước theo lệnh truyền trong Kinh Thánh để kiểm tra và biện biệt linh của lẽ thật với linh của sự lầm lạc, nên họ xem mọi linh đến trên họ đều là Thánh Linh. Toàn bộ bản thể họ trở nên một cỗ máy. Bất cứ điều gì limh ở trên họ hướng dẫn họ làm, họ sẽ vâng phục theo đó. Mỗi khi làm bất cứ điều gì, trước hết họ xoay qua thân thể mình để chờ đợi một mạng lệnh. Khi thời gian trôi qua, tình trạng thụ động này sẽ dần dần  trở nên tệ hơn và linh ở trên họ có thể trực tiếp tiếp quản các chi thể của họ, như miệng và tay của họ. Tín đồ nghĩ rằng loại vâng phục Thánh Linh này sẽ làm vui lòng Đức Chúa Trời. Họ không nhận thức rằng câu này không bao giờ bảo chúng ta vâng phục Thánh Linh. Đúng hơn, lời đó nói rằng chúng ta phải vâng phục Đức Chúa Trời Cha qua Thánh Linh. Vị sứ đồ bảo chúng ta trong câu trước (c.29) rằng chúng ta phải “vâng phục Đức Chúa Trời”. Nếu tín đồ nhận lấy Thánh Linh làm đối tượng vâng phục của mình và quên đi Đức Chúa Trời Cha, người ấy sẽ bị dẫn dắt để đi theo một linh ở trong hoặc quanh mình và không vâng phục Cha trên trời qua Thánh Linh. Đây là khởi đầu của sự thụ động và điều này cung cấp cho các ác linh cơ hội để thực hành sự lừa dối. Khi một người đi vượt qua Kinh Thánh một chút, người ấy sẽ đối mặt với nhiều mối nguy hiểm!

C. Thánh Linh Là Ông Chủ

Chúng tôi đã nói ở một chỗ khác là Đức Chúa Trời kỷ luật linh chúng ta qua Thánh Linh và linh chúng ta cai trị thân thể, toàn bản thể chúng ta, qua hồn (tức là ý muốn). Chỉ đọc sơ qua lời này thì dường như không thấy gì quan trọng, nhưng mối quan hệ thuộc linh mà nó ngụ ý thì rất trọng yếu. Thánh Linh chỉ bày trỏ ý muốn của Ngài cho chúng ta bằng cách tác động đến trực giác của chúng ta. Khi Thánh Linh đổ đầy, Ngài chỉ đổ đầy linh chúng ta. Ngài không trực tiếp cai trị hồn hoặc thân thể chúng ta. Ngài cũng không trực tiếp đổ đầy hồn hoặc thân thể chúng ta. Điểm này phải được lưu ý kỹ. Chúng ta không thể mong Thánh Linh suy nghĩ qua tâm trí chúng ta, cảm nhận qua tình cảm chúng ta và đề xuất qua ý muốn chúng ta. Đúng hơn, Thánh Linh biểu lộ ý muốn của Ngài trong trực giác để chính tín đồ suy nghĩ, cảm nhận và đề xuất theo ý muốn của Ngài. Nhiều tín đồ cho rằng họ phải dâng tâm trí (đầu) họ cho Thánh Linh và để cho Ngài suy nghĩ từ bên trong họ. Họ không biết rằng đây là sai lầm lớn nhất. Thánh Linh không bao giờ trực tiếp thay thế con người hoặc sử dụng tâm trí con người theo cách này. Thánh Linh không bao giờ đòi hỏi con người hiến dâng cách thụ động. Ngài muốn con người công tác với Ngài. Ngài không công tác giùm con người . Tín đồ có khả năng là dật tắt sự chuyển động của Ngài. Ngài không ép buộc tín đồ làm bất cứ điều gì.

Thánh Linh cũng không trực tiếp cai trị thân thể con người. Để một người phát ngôn, chính người ấy phải dùng miệng của mình. Để một người chuyển động, chính người ấy phải nhấc chân mình lên. Để một người làm việc, chính người ấy phải sử dụng tay mình. Thánh Linh của Đức Chúa Trời không bao giờ xâm phạm sự tự do của con người. Ngoài việc công tác trong linh con người, tức là trong sự sáng tạo mới của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ không chuyển động bất cứ phần nào khác trong thân thể con người mà độc lập với ý muốn con người. Cho dù con người  sẵn lòng, Ngài cũng không thay thế con người và chuyển động bất cứ phần nào của thân thể con người, vì con người có ý muốn tự do. Con người phải là chủ của chính mình; người ấy phải sử dụng thân thể của mình. Đây là luật của Đức Chúa Trời. Chính Đức Chúa Trời không vi phạm luật của Ngài.

Chúng ta thường nói rằng “Thánh Linh kiểm soát con người”. Nếu chúng ta có ý nói rằng Thánh Linh công tác bên trong chúng ta, khiến chúng ta vâng phục Đức Chúa Trời, thì sự diễn đạt này đúng. Nếu chúng ta có ý nói rằng Thánh Linh trực tiếp kiểm soát toàn bản thể chúng ta thì điều này tuyệt đối sai trật. Dựa trên điều này, chúng ta có thể phân biệt công tác của các ác linh và công tác của Thánh Linh. Thánh Linh cư trú trong linh chúng ta để bày tỏ rằng chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời; các ác linh bám chặt lấy thân thể chúng ta vì chúng có chủ đích điều khiển chúng ta như một cỗ máy. Thánh Linh đòi hỏi sự hợp tác của chúng ta, trong khi các ác linh tìm kiếm sự kiểm soát trọn vẹn và trực tiếp. Mối liên hiệp của chúng ta với Đức Chúa Trời là ở trong linh, không phải trong thân thể hay trong hồn. Nếu chúng ta sai lầm nghĩ rằng tâm trí, tình cảm, ý muốn và thân thể của chúng ta đều đều phải trực tiếp được Đức Chúa Trời “chuyển động” thì các ác linh sẽ đem vào công tác giả mao của chúng. Đúng là tín đồ không nên hành động theo ý tưởng, tình  cảm ý muốn riêng của mình. Nhưng khi nhận được sự khải thị trong linh, người ấy phải sử dụng tâm trí, tình cảm và ý muốn của mình để thực hiện mạng lệnh của Thánh Linh. Việc từ bỏ hồn và thân thể mình rồi mong đợi Thánh Linh trực tiếp sử dụng chúng là bước đầu tiên dẫn đến việc bị quỷ ám.

Watchman Nee (Người thuộc Linh)

 

 

CÁCH SỐNG THUỘC LINH CỦA TÍN ĐỒ

Các tín đồ ngày nay có nhiều sự hiểu sai về cách sống thuộc linh. Bây giờ, chúng ta chỉ có thể xem xét sơ lược một vài điểm:

A. Nói chuyện

“Vì các ngươi không phải là người phát ngôn, mà Linh của Cha các ngươi là Đấng phát ngôn trong các ngươi” (Matt. 10:20). Một tín đồ có thể nghĩ rằng điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời sẽ phát ngôn thay cho người ấy, người ấy không cần phát ngôn và Đức Chúa Trời sẽ phát ngôn lời ra miệng người ấy. Một tín đồ như vậy “dâng” miệng mình cho Đức Chúa Trời. Người ấy không đưa ra bất cứ quyết định nào và mong đợi trở nên “cái loa” của Đức Chúa Trời. Môi và dây thanh quản rơi vào trong sự thụ động và người ấy để bất kỳ tác động siêu nhiêu bên ngoài nào sử dụng người ấy. Một số người giảng các sứ điệp cho Chúa nghĩ rằng họ không cần dùng tâm trí và ý muốn trong buối nhóm và họ đơn giản dâng miệng của mình cách thụ động cho Đức Chúa Trời và để cho Đức Chúa Trời phát ngôn qua miệng. Hậu quả của hành động này là: (1) chính tín đồ không phát ngôn; (2) Đức Chúa Trời cũng không phát ngôn, vì Đức Chúa Trời không xem con người là chiếc máy ghi âm; và (3) các ác linh lợi dụng sự thụ động của tín đồ để phát ngôn qua miệng người ấy. Điều này thường khiến cho tín đồ kinh nghiệm một loại quyền năng phát ngôn qua miệng mình khiến người ấy có thể nhận được “các sứ điệp từ trời”. Vì điều được phát ngôn có thể rất tốt nên tín đồ xem các lời này là từ Đức Chúa Trời.

Câu Kinh Thánh trong Matthew đơn giản chỉ về tình trạng mà trong đó một người bị bắt bớ và thử nghiệm. Lời kinh thánh không nói rằng Thánh Linh sẽ phát ngôn thay cho tín đồ. Kinh nghiệm của các sứ đồ Peter và John trước công hội về sau xác quyết cho điều này.

B. Hướng Dẫn

“Và tai ngươi sẽ nghe một lời đằng sau mình nói rằng: “con đường đây, hãy bước đi trong đó” (Isa. 30:21). Các tín đồ không nhận thức rằng câu này đặc biệt chỉ về người Israel-  dân Đức Chúa Trời trong xác thịt-- trong thiên hi niên. Vào lúc đó, sẽ không có công tác giả mạo của các ác linh nữa. Các tín đồ xem loại hướng dẫn bởi một tiếng nói siêu nhiên như vậy là sự dẫn dắt cao nhất. Họ nghĩ rằng họ vượt trội hơn người khác, có sự hướng dẫn siêu nhiên mọi lúc. Họ không sử dụng lương tâm hay trực giác của mình. Họ chỉ thụ động chờ đợi một tiếng nói siêu nhiên. Họ cho rằng mình không cần suy nghĩ, xem xét, lựa chọn hay quyết định. Nhưng chỉ cần “ vâng phục” cách thụ động. Họ để cho một tiếng nói thay thế chức năng của trực giác và lương tâm. Kết quả là: (1) các tín đồ không sử dụng trực giác và lương tâm; (2) Đức Chúa Trời sẽ không truyền lệnh cho họ để khiến họ vâng phục như cái máy; và (3) các ác linh sẽ sử dụng một tiếng nói siêu nhiên để thay thế sự khải thị trong trực giác. Khi đó, các ác linh sẽ nhập vào các tín đồ.

Từ điểm này trở đi, các tín đồ không còn quan tâm đến sự thúc giục của trực giác, tiếng nói của lương tâm, điều họ hiểu và cảm thức hay điều người khác nói. Họ chỉ ngoan cố đi theo tiếng nói siêu nhiên mà không một chút suy xét. Tiêu chuẩn đạo đức của họ dần dần hạ thấp, và thậm chí họ không hề hay biết , vì họ đã để cho các ác linh thay thế lương tâm mình và họ không còn có thể biện biệt thiên ác nữa.

C.   Trí Nhớ

“Nhưng Đấng An Ủi… sẽ… nhắc nhở các ngươi mọi điều mà Ta đả nói với các ngươi” (John 14:26). Tín đồ không nhận thức rằng ý nghĩa của lời này là Thánh Linh sẽ soi sáng tâm trí người ấy để khiến người ấy nhớ lời của Chúa. Người ấy cho rằng điều đó có nghĩa là mình không cần sử dụng trí nhớ của mình nữa và Đức Chúa Trời sẽ khiến người ấy nhớ mọi sự. Kết quả của điều này là tín đồ để cho trí nhớ của mình sa vào trong sự thụ động. Người ấy không còn vận dụng ý muốn của mình để sử dụng trí nhớ nửa. Các hậu quả là: (1) tín đồ không vận dụng ý muốn của mình để sử dụng trí nhớ; (2) Đức Chúa Trời cũng không sử dụng nó, vì không ai hợp tác với Ngài; và (3) các ác linh bước vào và phô bày mọi điều có lợi cho chính chúng trước mặt người ấy, để người ấy không thể từ chối chúng. Ý muốn của người ấy trở nên thụ động để không có cách nào kiểm soát trí nhớ nữa.

D. Tình Yêu

“Tình yêu của Đức Chúa Trời đã được đổ vào lòng chúng ta qua Thánh Linh” (Rô-ma 5:5). Các tín đồ hiểu sai câu này là họ không cần phải yêu thương và Thánh Linh sẽ ban cho họ tình yêu của Đức Chúa Trời. Họ xin Đức Chúa Trời yêu thương qua họ và cung ứng cho họ đầy đủ tình yêu của Ngài hầu cho họ có thể đầy dẫy tình yêu của Đức Chúa Trời. Họ không còn yêu nữa; đúng hơn, họ muốn Đức Chúa Trời làm cho họ yêu. Họ không còn sử dụng khả năng yêu thương nữa, và họ để cho chức năng yêu thương của mình rơi vào trong sự tê cóng. Kết quả là: (1) chính các tín đồ không yêu thương; (2) Đức Chúa Trời sẽ không phủ nhận con người hoặc chức năng yêu thương tự nhiên của con người; Ngài sẽ không ban cho con người tình yêu siêu nhiên; và (3) các ác linh sẽ sống thay cho con người và biểu hiện tình yêu và sự căm ghét của chúng theo ý muốn của chúng. Các ác linh được phép cho người ấy một sự thay thế về tình yêu vì người ấy quá thụ động và không sử dụng ý muốn của mình để kiểm soát chức năng yêu thương của mình. Cuối cùng, tín đồ sẽ trở nên giống như gỗ đá. Người ấy sẽ cảm thấy lạnh lẽo đối với mọi sự và không biết tình yêu là gì. Đây là lý do nhiều tín đồ quá hà khắc và không ai có thể gần họ được mặc dù họ có thể thánh khiết.

Chúa Jesus nói: ”Ngươi phải yêu Chúa Đức Chúa Trời ngươi bằng cả tấm lòng, cả hồn, cả tâm trí và cả sức lực ngươi” (Mark 12:30). Đây là tình yêu của ai? Đây là tấm lòng, hồn, tâm trí và sức lực của ai? Tất nhiên là của chúng ta. Sự sống thiên nhiên của chúng ta phải chết, nhưng mọi chức năng này của chúng ta phải còn lại.

D.   Sự Khiêm Nhường

“Vì chúng tôi không dám xếp hạng hoặc sánh mình với bất cứ ai tự tiến cử mình” (2Cor. 10:12). Vì một tín đồ hiểu sai ý nghĩa của sự khiêm nhường, nên người ấy nghĩ rằng mình phải giấu mình trong mọi sự. Kết quả là sự tự trọng đúng đắn mà Đức Chúa trời cho phép không còn ở đó nữa. Đa phần sự tự hạ phẩm giá của mình chính là một hình thức khác của sự thụ động và bị ám. Kết quả là: (1) tín đồ phủ nhận chính mình; (2) Đức Chúa Trời không đổ đầy người ấy; và (3) các ác linh lợi dụng sự thụ động của người ấy để giữ người ấy trong tình trạng “khiêm nhường” này hơn nữa.

Khi một tín đồ bị ám và tự hạ nhục mình, môi trường xung quanh người ấy dường như trở nên tối tăm, tuyệt vọng và yếu đuối. Những ai tiếp xúc với người ấy đều cảm thức một loại lạnh lẽo, chán nản và buồn rầu. vào những thời khắc quan trọng, người ấy thoái lui và khiến người khác lúng túng. Công tác của Đức Chúa Trời chẳng có gì quan trọng đối với người ấy. Cả trong lời nói lẫn hành động, người ấy đặc biệt chú ý đến việc giấu đi “cái tôi” của mình. Nhưng đang khi người ấy hành động như vậy, “cái tôi” của người ấy trái lại càng bị phơi bày nhiều hơn. Hơn nữa, điều đó trở nên sự ngăn trở thật cho những ai thật sự thuộc linh. Khi các nhu cầu lớn dấy lên trong vương quốc Đức Chúa Trời, sự tự hạ phẩm giá của mình cách thái quá sẽ không cho phép người ấy nhấc một ngón tay của mình lên. Cảm thức về sự thiếu năng lực, vô vọng, bất năng, và nhạy cảm kéo dài được biểu lộ trong người ấy. Tín đồ nghĩ rằng đây là sự khiêm nhường thật, đó là không quan tâm đến chính mình. Người ấy không nhận thức rằng đây là kết quả công tác nội quan công khai của các ác linh. Sự khiêm nhường thật là ngưỡng trông Đức Chúa Trời và tiến lên phía trước.

SỰ RA LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Trong thế giới này, ngoài ý muốn của con người, còn có hai ý muốn khác hoàn toàn đối lập nhau. Đức Chúa Trời không chỉ muốn chúng ta vâng phục Ngài; Ngài còn muốn chúng ta chống cự Satan. Do đó, Đức Chúa Trời đặt hai vấn đề này lại với nhau hai lần trong Kinh Thánh. James 4:7a nói: “Vậy nên, hãy thuận phục Đức Chúa Trời”, và 4:7b nói: “Và chống lại ma quỷ”. 1 Peter 5:6-9 nói: “Vậy nên, hạ mình dưới bàn tay đại năng của Đức Chúa Trời… đối thủ của anh em là ma quỷ… Hãy chống cự hắn, vững vàng trong đức tin của anh em”. Đây là sự quân bình trong lẽ thật. Một tín đồ phải thuận phục Đức Chúa Trời trong mọi sự mình gặp phải. Người ấy phải xưng nhận rằng lệnh truyền của Đức Chúa Trời là tốt nhất cho người ấy. Mặc dù chịu khổ, người ấy sẵn lòng vâng phục vì đây là ý muốn của Đức Chúa Trời. Đây là điều chúng ta đã nói đến trong chương một. Đây là một nửa của lẽ thật. Các sứ đồ biết rằng chúng ta sẽ có nguy cơ bị thiên lệch nên họ lập tức nói rằng chúng ta phải chống lại ma quỷ sau khi thuận phục. Lý do cho điều này là ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời, còn có ý muốn của ma quỷ. Nhiều lần hắn giả mạo ý muốn của Đức Chúa Trời, nhất là trong các hoàn cảnh của chúng ta. Nếu chúng ta bị làm cho hiểu sai rằng trong trong thế giới này chỉ có ý muốn của Đức Chúa Trời thôi, thì chúng ta sẽ bị ma quỷ lừa dối và nhận lấy ý muốn của hắn làm ý muốn của Đức Chúa Trời. Do đó, Đức Chúa Trời muốn chúng ta vâng phục Ngài và đồng thời chống lại ma quỷ. Chống cự là công tác của ý muốn. Chống cự là ý muốn chống đối, không sẵn lòng, từ chối và không đồng ý. Đức Chúa Trời muốn chúng ta sử dụng ý muốn của mình. Đây là lý do tại sao Ngài nói: “Hãy chống lại”. Đức Chúa Trời sẽ không chống cự thay cho chúng ta; chính chúng ta phải chống cự. Chúng ta vẫn có một ý muốn và chúng ta vẫn phải dùng ý muốn của mình để vâng phục lời Đức Chúa Trời. Đây là sự dạy dỗ của Kinh Thánh.

Nhưng tín đồ hiểu sai và cho rằng ý muốn của Đức Chúa Trời được biểu lộ trong sự sắp xếp môi trường của Ngài. Đối với người ấy, mọi sự đến trên mình đều hoàn toàn là ý muốn của Đức Chúa Trời. Cho nên ý muốn của người ấy không cần phải sự lựa chọn, suy xét, quyết định, chống cự hay bất cứ điều gì thêm nữa. Người ấy chỉ chấp nhận mọi sự trong im lặng. Điều này nghe có vẻ tốt lành và đúng đắn. Nhưng không thể tránh khỏi có sự hiểu lầm. Đúng là chúng ta thừa nhận bàn tay của Đức Chúa Trời đằng sau mọi việc. Chúng ta cũng biết rằng mình phải hoàn toàn thuận phục dưới bàn tay của Đức Chúa Trời. Nhưng đây là vấn đề thái độ nhiều hơn là hành vi. Nếu bất cứ điều gì xảy đến với chúng ta đều là ý muốn được truyền lệnh của Đức Chúa Trời thì chúng ta có gì để nói? Đây là vấn đề thái độ. Khi chúng ta sẵn lòng vâng phục. Đức Chúa Trời, chúng ta có thể kiểm tra và hỏi thêm: Các vấn đề có phải đến từ các ác linh không? Hay chúng được Đức Chúa Trời cho phép? Nếu chúng được Đức Chúa Trời chỉ định, chúng ta không có gì để nói. Nhưng nếu không phải, chúng ta phải công tác với Đức Chúa Trời để chống lại chúng. Chúng ta không nên thuận phục mọi hoàn cảnh mà không xem xét và kiểm tra điều đó hằng ngày. Thái độ của chúng ta phải luôn như vậy, nhưng sự thực hành của chúng ta phải được thực hiện chỉ sau khi chúng ta hiểu hoàn cảnh. Nếu không, chúng ta có thể đang vâng phục ý muốn của ma quỷ.

Các tìn đồ không nên là những người không có tâm trí. Họ hoàn toàn không được thụ động và bị kiểm soát bởi hoàn cảnh. Đúng hơn, mỗi khi đương đầu với bất cứ điều gì, họ phải luôn luôn hăng hái, năng động và có ý thức kiểm tra nguồn gốc của điều đó, thử nghiệm bản chất của nó và hiểu được nội dung của nó và rồi quyết định hành động. Thuận phục Đức Chúa Trời là điều quan trọng, nhưng điều này không có nghĩa là phải thuần phục cách mù quáng. Sự kiểm tra hăng hái không có nghĩa là chúng ta có thể không vâng phục Đức Chúa Trời trong hoàn cảnh của mình. Đúng hơn, điều đó có nghĩa là chúng ta có ý định thuần phục Đức Chúa Trời, nhưng chúng ta muốn biết điều chúng ta đang thuần phục có phải là từ Đức Chúa Trời hay không. Ngày nay, hiếm có tín đồ nào thuận phục trong thái độ. Điều này nghĩa là cho dù họ biết một điều gì đó đến từ Đức Chúa Trời, nhưng cũng hiếm có ai thuần phục. Nhưng khi họ được Đức Chúa Trời phá vỡ, họ vẫn không biện biệt được một vấn đề có phải đến từ Đức Chúa Trời không; hễ một điều gì đó đến, họ chấp nhận điều đó mà không có bất cứ câu hỏi nào. Lẽ thật quân bình là thuận phục trong thái độ, nhưng đồng thời, chỉ chấp nhận một điều gì đó sau khi sáng tỏ về nguồn gốc của điều đó.

Nhiều tín đồ dâng mình hoàn toàn không hiểu được sự khác biệt. Họ chỉ thụ động thuần phục hoàn cảnh, cho rằng mọi sự đều là sắp xếp của Đức Chúa Trời. Điều này tạo cơ hội cho các ác linh lợi dụng và làm khổ họ. Các ác linh sẽ chuẩn bị các hoàn cảnh như những cái bẫy để các tín đồ hoàn thành ý muốn của chúng. Chúng có thể khuấy động bão tố và khiến tín đồ chịu khổ. Theo cách này, chúng khiến các tín đồ chịu khổ vì tội lỗi của người khác, trong khi xem đây là một gương mẫu của việc không kháng cự “kẻ ác” (Matt. 5:39). Họ không nhận thức rằng Đức Chúa Trời cũng muốn họ “đấu tranh với tội lỗi” (Heb. 12:4), để đắc thắng linh của thời đại này qua việc đắc thắng các hoàn cảnh.

Các kết quả của sự thực hành này là: (1) họ không còn sử dụng ý muốn của mình để lựa chọn và quyết định nữa; (2) Đức Chúa Trời sẽ không gây áp lực cho họ qua môi trường của họ; và (3) các ác linh sẽ lợi dụng hoàn cảnh để tiếp quản ý muốn thụ động của họ. Khi đó, các tín đồ sẽ thuận phục các ác linh và nghĩ rằng mình đang thuận phục Đức Chúa Trời.

SỰ CHỊU KHỔ VÀ SỰ YẾU ĐUỐI

Vì tín đồ hoàn toàn dâng mình nên người ấy nghĩ rằng mình phải nhận lấy con đường thập tự và chịu khổ vì Đấng Christ. Người ấy cũng nghĩ rằng sự sống thiên nhiên của mình chẳng có ích gì. Người ấy muốn nhận được quyền năng từ Đức Chúa Trời, vì vậy người ấy sẵn lòng trở nên yếu đuối, hi vọng rằng bởi làm như vậy, người ấy sẽ trở nên mạnh mẽ. Cả sự chịu khổ lẫn sự yếu đuối đều làm vui lòng Đức Chúa Trời, nhưng cả hai đều có thể trở nên nền tảng cho các ác linh công tác qua sự hiểu sai của tín đồ.

Một tín đồ có thể xem việc mình chịu khổ là sự thu đạt cao nhất. Sau sự dâng mình, người ấy có thể thụ động thuận phục mọi nỗi khổ xảy đến với người ấy, bất kể nỗi khổ đó đến bởi phương tiện gì. Người ấy tin rằng sự chịu khồ của mình là vì Chúa và sẽ có phần thưởng và sự thu đạt. Người ấy không nhận thức cách rõ ràng rằng mình phải vận dụng ý muốn để lựa chọn điều Đức Chúa Trời muốn mình chọn và chống cự mọi điều ác linh ban cho. Nếu người ấy thụ động chấp nhận mọi nỗi khổ, các ác linh sẽ có một cơ hội tốt để khiến người ấy chịu khổ trong các nỗi khổ của chúng. Thụ động chịu khổ có thể khiến các ác linh giáng các nỗi khổ xuống trên tín đồ. Sau khi các tín đồ chịu những nổi khổ và tin rằng chúng đến từ Đức Chúa Trời-tin các lời nói dối của các ác linh- người ấy trình dâng cho các ác linh một cơ hội để đặt mình dưới nỗi khổ lâu dài. Người ấy có thể không nhận thức rằng nỗi khổ của người ấy là kết quả của việc người ấy thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác và sự chịu khổ của người ấy không đến từ Đức Chúa Trời. Người ấy có thể nghĩ rằng mình đang chịu khổ vì hội thánh, lấp đầy các phần còn thiếu trong các hoạn nạn của Đấng Christ. Người ấy có thể nghĩ rằng mình là người tuận đạo, khi trong thực tế, người ấy chỉ là một nạn nhân. Người ấy hãnh diện trong việc chịu khổ, không biết rằng đây là dấu hiệu của việc bị quỉ ám!

Có một điều chúng ta phải chú ý. Các nỗi khổ đến như kết quả của việc bị quỷ ám luôn luôn vô nghĩa. Chúng tuyệt đối không sản sinh bất cứ kết quả nào và vô chủ đích. Chúng là những nỗi khổ chẳng có ý nghĩa gì cả. Hơn nữa, không có Thánh Linh làm chứng trong trực giác của chúng ta rằng những điều này đến từ Đức Chúa Trời. Các ý tưởng này chỉ đến từ tín đồ.

Nếu kiểm tra một chút, tín đồ có thể khám phá ra rằng trước khi dâng mình, người ấy không có loại kinh nghiệm này. Chỉ khi dâng mình cho Chúa và chọn chịu khổ, người ấy mới có loại kinh nghiệm này. Hơn nữa, sau khi người ấy chọn và chấp nhận mọi nỗi khổ, người ấy nghĩ rằng mọi nỗi khổ này đều từ Đức Chúa Trời. Thật ra, nếu không nói là tất cả thì phần lớn các nỗi khổ đó đều đến từ quyền lực của sự tối tăm. Vì người ấy đã nhường lập trường cho các ác linh và tin các lời nói dối của chúng nên toàn bộ nếp sống của người ấy đầy dẫy các hoạn nạn. Không có lý do gì cho những điều đó, người ấy không biết nguyên nhân của chúng và không có sự khen tặng nào đó. Nếu tín đồ biết về việc bị quỷ ám, người ấy sẽ hiểu vấn đề này giống như có nhiều tội lỗi lỗi không thể cất đi vì quỷ ám, thì cũng có nhiều hoạn nạn không rõ nguồn gốc do quỷ ám gây ra. Sau khi một tín đồ biết lẽ thật về việc bị quỷ ám, người ấy sẽ có thể cất bỏ tội lỗi và cũng cất bỏ các hoạn nạn vô nghĩa.

Về sự yếu đuối, tín đồ có thể có một sự hiểu lầm tương tự. Người ấy có thể nghĩ rằng mình phải yếu đuối trong một thời gian dài để có được quyền năng của Đức Chúa Trời. Người ấy xem xét lời của vị sứ đồ: “Khi tôi yếu đuối, là lúc tôi có quyền năng”(2 Cor. 12:10), và nghĩ rằng mình phải yếu đuối trước khi có thể mạnh mẽ. Người ấy không nhận thức rằng vị sứ đồ chưa bao giờ nói: “Tôi phải yếu đuối để tôi có thể mạnh mẽ”. Ông nghĩ chỉ nói về một trong các kinh nghiệm của mình. Ông chỉ nói rằng khi ông yếu đuối, ân điển của Đức Chúa Trời đã làm vững mạnh để ông hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời. Paul không cầu xin sự yếu đuối này. Ông thật sự yếu đuối, nhưng Đức Chúa Trời đã làm ông mạnh mẽ. Đây không phải là một sự nài khuyên các tín đồ hãy chọn sự yếu đuối; Paul không có ý định là một tín đồ mạnh mẽ phải chủ định chọn sự yếu đuối để Đức Chúa Trời làm cho người ấy trở nên mạnh mẽ. Đúng hơn, ý định của ông là hướng dẫn những tín đồ đã yếu đuối rồi để họ có thể mạnh mẽ!

Việc chủ định chọn sự yếu đuối là sai trật; nó cung cấp một cơ hội chín muồi cho các ác linh. Việc chọn sự yếu đuối và hoạn nạn đều thỏa đáp điều kiện cho các ác linh công tác vì chúng chủ định đặt ý muốn của con người về phía các ác linh. Nhiều tín đồ lúc trước thì lành mạnh. Nhưng họ chọn sự yếu đuối và nghĩ rằng bởi làm như vậy, họ sẽ mạnh mẽ trong Đức Chúa Trời. Họ ngạc nhiên khi thấy là sự yếu đuối của họ chọn trở nên càng lúc càng rõ ràng hơn theo thời gian, trong khi sức lực mà họ mong đợi không bao giờ trở thành hiện thực. Cuối cùng, họ trở nên một gánh nặng cho người khác và hoàn toàn vô dụng trong công tác của Đức Chúa Trời. Việc lựa chọn sự yếu đuối này sẽ không bao giờ đem đến sức lực của Đức Chúa Trời. Trái lại, nó cho các ác linh một cơ hội để tấn công. Nếu một tín đồ không kháng cự, chống đối và tử chối một sự yếu đuối như vậy cách xác định thì người ấy sẽ còn yếu đuối lâu dài.

ĐIỂM TRỌNG YẾU NHẤT-

Nhiều điều chúng ta bàn đến chỉ liên quan đến hành vi của những người cực đoan. Có nhiều người không có hành vi thái quá như vậy. Tuy nhiên, nguyên tắc vẫn như nhau. Ai thụ động trong ý muốn hoặc thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác đều sẽ nhận thấy các quỷ công tác trong mình. Mặc dù nhiều tín đồ không ý thức khi chọn những điều này, nhưng họ vô thức rơi vào sự thụ động và nhường lập trường cho các ác linh. Kết quả là họ lún sâu vào trong vị trí nguy hiểm. Tất cả những ai có kinh nghiệm được đề cập ở trên hãy tự hỏi xem mình có thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác hay không. Điều này sẽ cứu họ khỏi nhiều kinh nghiệm giả mạo và các nỗi khổ không cần thiết.

Chúng ta biết rằng các ác linh lợi dụng lẽ thật trong Kinh Thánh. Nhưng lẽ thật mà chúng lợi dụng bị suy diễn quá mức và vượt qua giới hạn nguyên thủy của nó. Việc phủ nhận bản ngã, thuận phục, chờ đợi lệnh truyền của Đức Chúa Trời, chịu khổ, v..v., tất cả đều là lẽ thật Kinh Thánh. Nhưng vì tìn đồ thiếu hiểu biết về nguyên tắc của nếp sống thuộc linh nên các ác linh có thể lợi dụng sự ngu dại của tín đồ và khiến người ấy thỏa đáp điều kiện để chúng công tác. Nếu một người không kiểm tra nguyên tắc liên quan đến mọi sự dạy dỗ để xem nó tương ứng với công tác của Thánh Linh hay công tác của các ác linh, người ấy sẽ bị lừa dối. Mọi lẽ thật bị suy diễn một chút thôi cũng trở nên vô cùng nguy hiểm. Vì vậy, chúng ta phải cẩn thận.

Bây giờ chúng ta phải sáng tỏ thấu đáo về sự khác biệt cơ bản giữa nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời và nguyên tắc công tác của Satan trên chúng ta: (1) Đức Chúa Trời muốn tín đồ vận dụng mọi quan năng của toàn bản thẩ mình qua ý muốn của người ấy, hợp tác với Đức Chúa Trời đến mức được đổ đầy bằng Thánh Linh. (2) Các ác linh đòi hỏi tín đồ phải thụ động, từ bỏ mọi quan năng của toàn bản thể mình, toàn bộ hoặc một phần, để chúng thuận tiện công tác.

Trong trường hợp trước, Thánh Linh đổ đầy vào linh con người và ban cho linh con người sự sống, quyền năng, sự tự do, sự mở rộng và sự đổi mới cũng như làm vững mạnh toàn bản thể người ấy và giải phóng người ấy khỏi ách nô lệ. Trong trường hợp sau, các ác linh chiếm hữu các quan năng của con người qua sự thụ động. Nếu con người không biện biệt được điều đó, chúng sẽ khiến cho người ấy đánh mất nhân cách và ý muốn của mình; chúng làm cho người ấy trở nên con rối của chúng bằng cách giam cầm, đàn áp, cướp đoạt, ép buộc và vây quanh người ấy. Chúng muốn chinh phục hồn và thân thể con người, đem con người vào trong xiềng xích và lấy đi sự tự do của con người.

Trong trường hợp trước, ngoài việc hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời trong trực giác của mình, tín đồ còn có thể suy nghĩ và hiểu được bằng tâm trí và điều khiển toàn bản thể mình qua sự vận dụng ý muốn tự do để hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong trường hợp sau, tín đồ bị tác động bên ngoài đè nén và cho rằng tác động đó đại diện cho ý muốn của Đức Chúa Trời; người ấy không thể suy nghĩ hay đưa ra bất cứ quyết định nào. Người ấy bị ép buộc bởi một tác động cách máy móc.

Ngày nay, vô số con cái Đức Chúa Trời để cho chính mình rơi vào trong sự thụ động theo tiềm thức. Họ dừng chức năng của ý muốn và tâm trí mình lại; cho nên, họ bị ám và chịu khổ. Bất kể sự thụ động ở mức độ thấp đến đâu, nó cũng đủ để các ác linh công tác. Nếu mức độ thụ động cao, nó sẽ nhường chỗ cho sự biểu lộ nhiều phép lạ siêu nhiên qua thân thể. Sự biểu lộ này sẽ tương tự như sự biểu lộ được nhìn thấy trong các thầy phù thủy khi họ nhường chỗ cho các ác linh. Sự khác biệt duy nhất là trong trường hợp trước, có hình thức bên ngoài là một Cơ Đốc nhân. Chúng ta không nên ngạc nhiên bởi các kinh nghiệm siêu nhiên của nhiều tín đồ, như nói tiếng lạ, thấy khải tượng, nghe tiếng nói… Chúng chỉ đi theo một qui luật. Giống như trong lĩnh vực tự nhiên, mọi vấn đề đều có một qui luật, thì trong lĩnh vực thuộc linh, mọi sự cũng đều có một qui luật. Nếu có một hiện tượng hoặc hành vi nào đó, chắc chắn phải có một kết quả ra từ hiện tượng và hành vi đó. Đức Chúa Trời là Đấng thiết lập các qui luật sẽ tuân thủ các qui luật đó. Vì vậy, nếu một người vô tình hay cố ý vi phạm luật này, người ấy sẽ kinh nghiệm một hậu quả đã được nói trước. Dù anh em là Cơ Đốc nhân hay là người thực hành tà thuật, hễ anh em thụ động, các ác linh sẽ nhập vào anh em. Nếu một người hợp tác vói Đức Chúa Trời qua việc vận dụng ý muốn, tâm trí và sức lực của mình, Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ công tác. Đây cũng là một qui luật.

Watchman Nee (Người thuộc linh)

CHƯƠNG BỐN

CON ĐƯỜNG ĐẾN SỰ TỰ DO

Một tín đồ dâng mình có thể rơi vào trong sự thụ động cách ngu dại và bị lừa dối trong nhiều năm mà vẫn không biết về mối nguy hiểm của vị trí mình đang ở. Người ấy có thể ngày càng trở nên thụ động hơn theo thời gian, cho đến khi phạm vi của sự thụ động trở nên rộng lớn đến nỗi nó gây ra nỗi đau khôn xiết cho tâm trí, tình cảm, thân thể và môi trường của người ấy. Do đó, điều trọng yếu là phải rao giảng ý nghĩa của sự dâng mình cho người ấy.Trong các chương trước, chúng ta nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tri thức vì tri thức về lẽ thật là điều tuyệt đối không thể thiếu trong việc giải cứu một người khỏi sự thụ động. Nếu không có tri thức về lẽ thật thì không thể kinh nghiệm sự giải cứu. Một tín đồ thụ động rơi vào trong tình trạng đó vì sự lừa dối và lý do cho sự lừa dối là sự ngu dại và thiếu hiểu biết. Nếu không ngu dại và thiếu hiểu biết thì không thể bị lừa dối.

 

NHẬN BIẾT LẼ THẬT

Chúng ta phải biết lẽ thật về mọi điều. Chúng ta phải biết lẽ thật về việc đồng công tác với Đức Chúa Trời; chúng ta phải biết lẽ thật về công tác của các ác linh; chúng ta phải biết lẽ thật về việc dâng mình; và chúng ta phải biết lẽ thật về những điều siêu nhiên. Đây là bước đầu  tiên để được giải cứu. Một tín đồ phải biết lẽ thật về nguồn gốc và bản chất mọi kinh nghiệm của mình trước khi có hy vọng về sự giải cứu. Tín đồ (1) bị lừa dối, (2) sau đó trở nên thụ động, (3) bị quỉ ám, (4) rồi bị lừa dối vào trong sự thụ dộng hơn nữa. Vì vậy, nếu một t1in đồ muốn được tự do, tránh khỏi bị quỉ ám và tránh khỏi mọi sự lừa dối và thụ động xảy ra như kết quả của việc bị quỉ ám, người ấy phải loại bỏ sự lừa dối. Nếu điểm đầu tiên – sự lừa dối – được kết liễu, thì các điểm khác nhau– sự thụ động, việc bị ám và sự lừa dối và thụ động hơn nữa – sẽ tan rã ra từng điều một. Khi một người bị lừa dối, người ấy mở cửa cho các ác linh bước vào. Khi một người thụ động, người ấy nhường lập trường cho các ác linh đứng và lưu lại. Kết quả của hành động này là bị quỷ ám. Để được giải cứu khỏi việc bị ám,  phải loại bỏ sự thụ động. Để loại bỏ sự thụ động, phải loại bỏ sự lừa dối. Để loại bỏ sự lừa dối, phải biết lẽ thật. Vì vậy, tri thức về lẽ thật là bước đầu tiên để được giải cứu. Thật ra, chỉ có lẽ thật mới có thể trả tự do cho con người!

Từ đầu sách này chúng ta đã nhiều lần cảnh báo các tín đồ về mối nguy hiểm của mọi kinh nghiệm siêu nhiên ( như là các dấu hiệu, tiếng nói, phép lạ, điều kỳ diệu, lửa, nói tiếng lạ, cảm giác..) Chúng ta không có ý nói rằng mọi kinh nghiệm siêu nhiên đều phải bị cự tuyệt, từ chối và chống đối. Nói như vậy thì không phù hợp với Kinh Thánh, vì Kinh Thánh bảo chúng ta rằng Đức Chúa Trời đã thực hiện nhiều điều siêu nhiên. Chủ đích của chúng ta là cho các tín đồ thấy rằng các kinh nghiệm siêu nhiên không phải chỉ ra từ một nguồn duy nhất. Các ác linh có thể bắt chước điều Đức Chúa Trời làm. Việc biện biệt điều gì ra từ Đức Chúa Trời và không ra từ Đức Chúa Trời là rất quan trọng. Nếu một tín đồ không chết đối với nếp sống tình cảm của mình và thiết tha theo đuổi các kinh nghiệm trong cảm xúc của mình, người ấy sẽ bị lừa dối. Chúng ta không nói rằng các tín đồ phải từ chối mọi điều siêu nhiên.  Chúng ta đơn giản khuyên các tín đồ từ chối mọi điều siêu nhiên đến từ Satan. Trong chương này, chúng ta muốn chỉ ra các sự khác biệt cơ bản giữa công tác của Thánh Linh và công tác của các ác linh để các tín đồ  biết cách biện biệt hai điều đó.

Ngày nay, các tín đồ đặc biệt  dễ bị lừa dối trong những điều siêu nhiên. Vì các sự lừa dối này nên họ bị các ác linh ám. Chúng ta thiết tha hy vọng rằng một tín đồ sẽ dành thời gian biên biệt những điều siêu nhiên để tránh bị lừa dối. Một tín đồ đừng bao giờ quên rằng nếu Thánh Linh ban cho người ấy một kinh nghiệm siêu nhiên, người ấy vẫn có thể sử dụng tâm trí của mình. Người ấy không cần phải hoàn toàn hoặc phần nào thụ động để có được một kinh nghiệm như vậy. Ngay sau khi nhận được một kinh nghiệm như vậy, người ấy vẫn có thể sử dụng lương tâm của mình để biện biệt thiện ác, và người ấy có thể quyết định chấp nhận hoặc từ chối điều đó. Phải không có sự ép buộc nào. Nếu các ác linh cho một người một kinh nghiệm siêu nhiên, trước hết chúng phải đặt người ấy vào trong tình trạng thụ động, tâm trí người ấy phải trở nên trống không, và mọi hành động của người ấy phải bị điều khiển bởi một quyền lực bên ngoài. Đây là sự khác biệt cơ bản. Trong 1 Corinth 14, vị sứ đồ nói về các ân tứ thuộc linh, siêu nhiên của các thánh đồ. Trong số đó, có các sự khải thị, lời tiên tri, nói tiếng lạ, và các biểu hiện siêu nhiên khác.Vị sứ đồ thừa nhận rằng tất cả những điều đó đều đến từ Thánh Linh. Nhưng trong câu 32, ông cho chúng ta biết đặc điểm của các ân tứ thần thượng này. “Tâm linh của các tiên tri phải thuận phục các tiên trí”. Vị sứ đồ nói rằng nếu một tiên tri ( tín đồ) có được một điều gì đó  thật sự ra từ Thánh Linh, thì linh mà người ấy có được sẽ thuận phục người ấy. Nếu Thánh Linh cho con người vô số loại kinh nghiệm siêu nhiên, thì linh vẫn thuận phục người ấy; Thánh linh sẽ không đi ngược lại ý muốn con người để sử dụng bất cứ phần nào của thân thể người ấy. Một người vẫn có quyền kiểm soát trên chính mình. Chỉ có loại linh thuận phục tiên tri mới là linh ra từ Đức Chúa Trời. Bất cứ linh nào đòi hỏi sự thuận phục của tiên tri đều không ra từ Đức Chúa Trời. Vì vậy, chúng ta đừng nên từ chối mọi điều siêu nhiên. Tuy nhiên, chúng ta phải kiểm tra xem linh siêu nhiên đó có đòi hỏi chúng ta thuận phục cách thụ động hay không. Nếu một người được ân tứ nói tiếng lạ hoặc một ân tứ tương tự mà không thể kiểm soát chính mình, nếu người ấy không thể phát ngôn khi muốn phát ngôn và im lặng khi muốn im lặng, nếu người ấy không thể ngồi yên và bị buộc phải quăng mình xuống đất, hoặc nếu một quyền lực bên ngoài kiểm soát người ấy, thì điều đó chỉ tỏ rằng linh người ấy nhận được là ác linh, Đây là sự khác biệt cơ bản giữa công tác của Thánh Linh và công tác của các ác linh. Công tác của Thánh Linh muốn con người có sự tự do đầy đủ, trong khi công tác của các ác linh muốn con người thụ động. Vì vậy, nếu một tín đồ muốn biết kinh nghiệm của mình ra từ đâu, người ấy phải kiểm tra xem mình có thụ động hay không. Điều này sẽ giải quyết mọi nan đề. Một tín đồ bị lừa dối vì người ấy không biết lẽ thật cơ bản này.

Vì vậy, nếu một tín đồ muốn tự do, người ấy phải kết thúc sự ngu dại của mình. Nói cách khác, người ấy phải biết lẽ thật. Biết lẽ thật đơn giản nghĩa là nhận biết tình trạng thật về một vấn đề. Các lời nói dối của Satan làm tín đồ đui mù, và lẽ thật của Đức Chúa Trời trả tự do cho tín đồ. Nhưng có một nan đề: để biết lẽ thật, một người cần trả giá, vì lẽ thật này sẽ đập tan hư vinh mà tín đồ có được từ các kinh nghiệm quá khứ. Người ấy có thể nghĩ mình đang tiến bộ gấp đôi người khác, mình đã thuộc linh rồi sẽ không phạm sai lầm. Thật khó để khiến người ấy thừa nhận rằng mình có thể bị quỷ ám hoặc chứng minh cho người ấy thấy rằng thật ra người ấy đang bị quỷ ám! Nếu một tín đồ không sẵn lòng trung tín với mọi lẽ thật của Đức Chúa Trời, thì người ấy rất khó chấp thuận lẽ thật khiến người ấy chịu khổ và bị hạ thấp. Chấp nhận điều một người thích thì không khó; nhưng chấp nhận lẽ thật lấy đi hư vinh của một người thì không dễ. Tuy nhiên, bất cứ ai kịch liệt kháng cự lẽ thật này đều phải cẩn thận kẻo người ấy bị quỷ ám. Nhận thức mình có thể bị lừa dối thì dễ hơn; còn nhận thức mình đã bị ám và thừa nhận điều đó thì khó hon nhiều! Đức Chúa Trời phải ban ân điển cho chúng ta. Nếu không, dù biết lẽ thật, chúng ta vẫn kháng cự lẽ thật. Chấp nhận lẽ thật là bước đầu tiên dẫn đến sự cứu rỗi. Chúng ta phải sẵn lòng nhận biết mọi lẽ thật về chính mình. Tuy nhiên, chúng ta cần phải hạ mình và thành thật thì mới sẵn lòng nhận biết lẽ thật về các kinh nghiệm thuộc linh và siêu nhiên của mình.

Có các cách khác nhau để các tín đồ bị quỉ ám có được lẽ thật. Một số người bị cột trói chặt đến nỗi họ đánh mất sự tự do trong mọi sự. Kết quả là điều này khiến họ thức tỉnh và nhận thức lẽ thật về chính mình. Một số tín đồ có được lẽ thật vì họ nhận thức rằng dù chín mươi chín phần trăm kinh nghiệm của họ dường như đến từ Đức Chúa Trời thì vẫn còn có một phần nhỏ các yếu tố sai trật pha trộn vào. Điều này dấy lên lòng ngờ vực và khiến họ nghi ngờ không biết kinh nghiệm của mình có thật sự ra từ Đức Chúa Trời không. Qua điều này họ hiểu lẽ thật. Một số người có được lẽ thật khi các tín đồ khác rao giảng lẽ thật cho họ và soi sáng họ về sự kiện có thật. Dù có được lẽ thật bằng cách nào, một tín đồ cũng đừng bao giờ từ chối tia sáng đầu tiên.

Nghi ngờ là bước đầu tiên để có được lẽ thật. Đây không phải là nghi ngờ Thánh Linh hoặc nghi ngờ Đức Chúa Trời và lời Ngài. Đây là nghi ngờ các kinh nghiệm quá khứ của chúng ta. Sự nghi ngờ này là cần thiết và thậm chí là phù hợp với kinh thánh vì Đức Chúa Trời muốn chúng ta chứng thực (thử nghiệm) các linh (1 John 4:1). Nếu chúng ta tin vào một điều gì đó thì không cần kiểm tra nữa, nếu chúng ta phải kiểm tra thì điều đó có nghĩa là chúng ta không thể xác quyết điều đó từ đâu đến. Chúng ta thường có ý tưởng sai trật và loại kiểm tra này có thể xúc phạm Thánh Linh. Chúng ta không nhận thức rằng Thánh Linh muốn chúng ta thực hiện những sự kiểm tra như vậy. Nếu một điều gì ra từ Thánh Linh , thì điều đó vẫn ra từ Thánh Linh dù bị kiểm tra. Nếu nó ra từ các ác linh, nó sẽ bị phơi bày là giả mạo. Đức Chúa Trời có khiến anh em rơi vào vị trí hiện tại không? Có thể có các sự mâu thuẫn trong công tác của Thánh Linh sao? Lẽ nào anh em chưa từng phạm sai lầm trong mọi điều anh em làm?

Khi một tín đồ nhận được một chút ánh sáng từ lẽ thật, người ấy sẽ thừa nhận rằng rất có thể mình bị lừa dối. Điều này cho lẽ thật có cơ hội công tác. Sai lầm lớn nhất mà tín đồ có thể mắc phải là nghĩ rằng mình không bao giờ sai trật. Người khác có thể sai, chứ người ấy không bao giờ sai. Điều này sẽ khiến người ấy bị lừa dối đến cuối cùng. Nhưng sau khi hạ mình, người ấy sẽ thấy rằng mình bị lừa dối. Nếu người ấy so sánh nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời với điều kiện công tác của các ác linh thì người ấy sẽ thấy rằng các kinh nghiệm quá khứ của mình đều được tiếp nhận trong sự thụ động. Người ấy thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác và kết quả là có nhiều kinh nghiệm kỳ lạ; ban đầu, chúng khiến người ấy vui mừng, nhưng về sau chúng đem đến nhiều nỗi khổ. Khi người ấy so sánh thái độ của mình trong quá khứ, nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời và điều kiện công tác của các ác linh, người ấy sẽ nhận thấy rằng mình không chủ động cùng công tác với Đức Chúa Trời. Đúng hơn, người ấy chỉ cố gắng bước theo ý muốn của Đức Chúa Trời cách thụ động. Vì vậy, mọi kinh nghiệm kỳ diệu hoặc chán nản của người ấy chắc hẳn đều đến từ các ác linh. Khi đó người ấy sẽ thừa nhận rằng mình bị lừa dối. Một tín đồ không chỉ phải tiếp nhận lẽ thật, người ấy còn phải công nhận lẽ thật. Chỉ bởi công nhận lẽ thật, các lời nói dối của Satan bới bị kết liễu. Kinh nghiệm của một tín đồ phải theo các bước sau đây: (1) người ấy phải tin rằng một tín đồ có thể bị lừa dối; (2) người ấy phải đặc biệt tin rằng mình có thể bị lừa dối; (3) người ấy phải công nhận rằng  mình thật sự bị lừa dối; và (4) khi đó, người ấy phải tiến lên để hỏi tại sao mình bị lừa dối.

SỰ KHÔI PHỤC LẬP TRƯỜNG

Đang khi có thể nói chắc chắn rằng một tín đồ có thể nhường lập trường cho các ác linh, chúng ta cần hỏi lập trường là gì. Trước khi một tín đồ hỏi mình có lập trường gì bên trong, trước hết người ấy phải nghiên cứu lập trường là gì. Nếu không, người ấy sẽ xem một điều gì đó bị quỹ ám là không phải quỷ ám, còn một điều gì đó không phải là quỷ ám thì lại cho rằng đó là quỷ ám. Có thể người ấy sẽ lẫn lộn giữa chiến trận thuộc linh hằng ngày chống lại quyền bính tối tăm với chiến trận để được tự do khỏi quỷ ám. Bởi làm như vậy, người ấy cung cấp sự thuận tiện cho các ác linh thực hiện công tác của chúng.

Ngoài vấn đề tội lỗi lỗi, một tín đồ phải nhận thức rằng người ấy để cho ý muốn của mình trở nên thụ động mỗi khi chấp nhận sự giả mạo của các ác linh, và người ấy nhường lập trường cho các ác linh mỗi khi tin vào các ý tưởng mà chúng tiêm vào. (Điểm này đã được bàn đến trong chương trước). Hiện tại sự chú ý của chúng ta tập trung nơi sự thụ động. Thụ động là để cho tâm trí hoặc thân thể của mình rơi vào tình trạng hoàn toàn bất động – ngừng sử dụng mọi quan năng của một người. Đó là dừng mọi nỗ lực có ý thức để kiểm soát tâm trí và dừng sử dụng ý muốn, lương tâm và trí nhớ. Qua sự thụ động, một lập trường trọng yếu bị giao nộp. Giữa vòng các tín đồ, mức độ thụ động có khác nhau. Chiều sâu của sự thụ động quyết định chiều sâu của việc bị quỉ ám. Tuy nhiên, bất kể tín đồ rơi vào trong mức độ thụ động nào, người ấy cũng phải cắt đi lập trường này ngay khi có sự thụ động. Một tín đồ phải quyết tâm, xác quyết và kiên định chống đối các ác linh có được bất kỳ lập trường nào trong mình,. Người ấy phải đặc biệt chống đối chúng trong các lĩnh vưc mà người ấy bị lừa dối. Điều tối quan trọng là một tín đồ bị lừa dối phải biết lập trường mà mình đã từ bỏ và đòi lại lập trường đó.

Một ý tưởng thường gặp về vấn đề quỷ ám là một người chỉ cần đuổi quỷ ra bởi danh của Chúa. Nhưng phương pháp này không thích đáng đối với vấn đề quỷ ám trong các tín đồ, vì có sự khác biệt giữa tín đồ bị ám với người ngoại bị ám. Người ngoại bị ám qua tội lỗi, trong khi các tín đồ bị ám qua sự lừa dối. Do đó, phương cách để được giải cứu là không bị lừa dối nữa. Nếu nguyên nhân bị ám là do bị lừa dối và chúng ta chỉ ra lệnh cho các quỷ lìa khỏi thì chúng ta chỉ xử lý kết quả chứ không xử lý nguyên nhân. Điều này có thể hiệu quả trong một thời gian, nhưng người ấy sẽ không có được sự tự do lâu dài. Nếu một người không xử lý nguyên nhân bị quỷ ám, là điều liên quan đến lập trường, thì các quỷ có thể vâng phục và lìa khỏi trong một thời gian, nhưng chúng sẽ trở lại qua lập trường mà chúng vẫn đang chiếm giữ. Đây không phải là lý thuyết . Đây là điều Chúa có ý nói trong Mathew 12:43-45. Nếu “nhà” mà trước đó các quỷ đã sống bị giật đổ, chúng có thể lìa khỏi trong một thời gian, nhưng chúng sẽ sớm trở lại, và tình trạng của người ấy sẽ tệ hơn trước. “Ngôi nhà” này là lập trường mà con người nhường cho các các linh.

Do đó, mặc dù đuổi quỷ là điều quan trọng, nhưng xử lý vấn đề lập trừng là điều không thể thiếu. Đuổi quỷ ra cũng vô dụng nếu lập trường chưa được xử lý, vì các quỷ vẫn sẽ trở lại. Đây là lý do tại sao nhiều tín đồ không thể có được sự tự do lâu dài cho chính mình hay cho người khác sau khi đuổi quỷ trong danh Chúa. Dù các quỷ có thể được đuổi ra những lập trường không thể bị đuổi ra, đúng hơn, lập trường cần giành lại. Nếu một người không đặc biệt và liên tục giành lại lập trường thụ động và bị lừa dối thì sẽ không có sự tự do lâu dài.

Nếu một tín đồ không xử lý lập trường mà người ấy nhường cho các ác linh, điều đó sẽ khiến các ác linh bước vào và ở lại. Mặc dù một người có thể đuổi các quỷ trong mình hoặc trong người khác ra trong danh Chúa và mặc dù các quỷ có vẻ như đã lìa khỏi, nhưng người đó vẫn chưa thật sự tự do. Chỉ có một vài sự biểu lộ của các quỷ biến mất. Chúng có thể thay đổi sang một loại biểu lộ khác hoặc chúng có thể dừng sự biểu lộ hiện tại trong một thời gian để tránh bị tấn công thêm. Khi tín đồ ít thức canh, chúng sẽ đổi mới các sự biểu lộ của chúng. Tóm lại, nếu lập trường chưa được xử lý, các quỷ vẫn có một điều gì đó để bám lấy. Tâm trí phải tiếp nhận lẽ thật và ý muốn phải hăng hái, năng động và quyết tâm từ chối mọi lập trường. Đây là cách duy nhất

Vì vậy, khi một tín đò nhận thức rằng mình bị ám qua sự lừa dối, người ấy phải tìm kiếm ánh sáng, tìm hiểu xem mình đã nhường lập trường gì, và loại bỏ lập trường đó. Các ác linh bước vào qua lập trường được nhường cho chúng. Nếu chúng ta loại bỏ lập trường, chúng sẽ lìa khỏi.

Vì vậy, khi một tín đồ phát hiện ra mình đã nhường lập trường cho các ác linh trong một vấn đề cụ thể, người ấy phải lập tức giành lại lập trường. Vì người ấy bị ám bởi từ bỏ chủ quyền và sự tự kiểm soát để rơi vào trong sự thụ động, nên người ấy phải vận dụng ý muốn của mình cách hăng hái và chống đối quyền lực của sự tối tăm qua quyền năng của Đức Chúa Trời trong các sự cám dỗ và nỗi khổ khác nhau, làm cho các lời mà ban đầu người ấy đã hứa với các ác linh ra vô hiệu. Vì sự thụ động ăn sâu vào dần dần nên nó cũng chỉ có thể được loại bỏ dần dần. Mức độ thụ động mà tín đồ khám phá ra là mức độ mà người ấy có thể từ chối. Nếu sự thụ động kéo dài trong một thời gian dài thì cũng cần một thời gian dài để giải cứu. Đi xuống dốc thì dễ, nhưng đi lên dốc thì khó. Trở nên thụ động thì dễ, nhưng để được tự do thì khó. Điều đó đòi hỏi sự hợp tác của toàn bản thể tín đồ để giành lại lập trường mà người ấy đã nhường. Chỉ khi đó người ấy mới được tự do.

Một tín đồ phải cầu nguyện và xin Đức Chúa Trời bày tỏ cho người ấy thấy mình đã bị lừa dối ở đâu. Người ấy phải thành thật ao ước Đức Chúa Trời bày tỏ cho thấy tình trạng thật của toàn bản thể mình. Nói chung, bất cứ điều gì một tín đồ sợ nghe và khiến người ấy khó chịu khi điều đó được đề cập đến là lĩnh vực mà người ấy đã nhường lập trường cho các ác linh. Nếu tín đồ sợ xử lý một điều gì đó, thì người ấy phải xử lý điều đó, vì chín mươi phần trăm là các ác linh đang chiếm giữ lập trường đằng sau đó. Một tín đồ phải tiếp nhận ánh sáng từ Đức Chúa Trời để kiểm tra sự đau yếu của mình cũng như các nhân tố khác. Sau khi sáng tỏ về sự đau yếu của mình, người ấy phải giành lại lập trường từ các ác linh cách xác định. Ánh sáng là điều không thể thiếu. Nếu không, tín đồ sẽ xem những điều siêu nhiên là tự nhiên và những điều thuộc về các ác linh là những điều thuộc về thân thể vật lý. Điều này khiến cho các ác linh có thể nhập vào tín đồ vĩnh viển mà không gặp trở ngại gì. Có thái độ này giống như là đang nói “amen” với các quỷ vậy.

GIÀNH LẠI LẬP TRƯỜNG

Có một nguyên tắc chung cho mọi lập trường được nhường cho các ác linh. Đây là sự thụ động, nghĩa là ý muốn không chủ động. Do đó, để giành lại lập trường, ý muốn phải một lần nữa trở nên chủ động. Tín đồ phải (1) vâng phục ý muốn của Đức Chúa Trời, (2) chống đối ý muốn của Satan và (3) vận dụng ý muốn của mình và tự kết hiệp mình với ý muốn của các thánh đồ. Trách nhiệm giành lại lập trường nằm ở nơi ý muốn. Vì ý muốn thụ động cần trở nên ý mướn phải chống lại sự thụ động

Bước đầu tiên ý muốn phải thực hiện là quyết định. Quyết định là đặt ý muốn ở trong một chiều hướng nào đó. Khi một tín đồ chịu khổ bởi các ác linh, được soi sáng bởi lẽ thật và được khuấy động bởi Thánh Linh, người ấy sẽ không còn có thể tiếp tục chịu để cho các ác linh nhập vào nữa. Tự phát người ấy sẽ được dẫn đến chỗ ghét các ác linh. Người ấy sẽ quyết tâm chống đối mọi công tác của các ác linh. Người ấy sẽ quyết định giành lại sự tự do và chủ quyền của mình. Người ấy cũng quyết định đuổi các ác linh ra. Thánh linh của Đức Chúa Trời sẽ công tác trong người ấy để tạo ra một sự căm ghét đối với các ác linh. Càng khổ sở bao nhiêu, người ấy càng căm ghét bấy nhiêu. Càng bị cột trói bao nhiêu, người ấy càng căm ghét bấy nhiêu.  Càng nghĩ về điều đó, thời gian bị ám càng nhiều, người ấy càng căm ghét. Cưối cùng, người ấy tạo ra sự quyết định là chịu giải cứu hoàn toàn khỏi quyền lực của sự tối tăm. Loại quyết định này là là bước đầu tiên đối với việc giành lại lập trường. Nếu quyết định nầy là chân thật, một người sẽ không xoay lại bất kể bị các ác linh chống đối ra sao trong diễn trình giành lại của mình. Từ nay trở đi, người ấy quyết tâm và quyết định chống đối các ác linh.

Tín đồ cũng phải vận dụng ý muốn của mình để lựa chọn. Điều này nghĩa là người ấy phải chọn tương lai của mình. Trong những ngày chiến trận, sự lựa chọn của một tín đồ chiếm một vị trí quan trọng. Tín đồ phải liên tục tuyên bố rằng mình chọn sự tự do, muốn sự tự do và sẽ không thụ động. Người ấy sẽ vận dụng các quan năng của mình và nhận diện mọi mưu chước của các ác linh. Người ấy muốn các ác linh thất bại và người ấy muốn cắt đứt mọi sự ràng buộc với quyền lực của sự tối tăm. Người ấy sẽ từ chối mọi lời nói dối và những cái cớ từ các ác linh. Loại lựa chọn bằng tâm trí như vậy và loại tuyên bố lặp đi lặp lại như vậy rất hữu dụng trong chiến trận. Chúng ta phải nhận thức loại tuyên bố này đơn giản bày tỏ rằng tín đồ đã đưa ra một sự lựa chọn như vậy; điều đó không có nghĩa là tín đồ đã quyết định làm một điều như vậy. Quyền lực của sự tối tăm không bị ảnh hưởng bởi điều tín đồ “quyết định” làm. Tuy nhiên, nếu tín đồ chọn chống đối các ác linh cách cụ thể bằng ý muốn của mình, chúng sẽ chạy trốn. Mọi điều này đều liên hệ đến nguyên tắc là con người có ý muốn tự do. Mặc dù tín đồ có thể để cho chúng bước vào, nhưng bây giờ người ấy có thể lựa chọn một điều khác với điều người ấy đã từng cho phép và không chừa lại lập trường nào cho các ác linh.

Trong chiến trận này, tín đồ phải thực hiện mọi công tác của ý muốn cách hăng hái. Ngoài việc đưa ra các quyết định và các sự lựa chọn, người ấy còn phải kháng cự nữa. Điều này nghĩa là người ấy vận dụng khả năng của ý muốn để chống lại các ác linh. Hơn nữa, người ấy phải từ chối. Từ chối là đóng cửa chính mình lại và không cho các ác linh bất cứ điều gì. Về một mặt, tín đồ phải chống đối công tác của các ác linh trong mình, và mặt khác, người ấy phải từ chối các ác linh. Chống đối nghĩa là ngăn không cho các ác linh công tác thêm nữa; từ chối nghĩa là cất đi mọi lời hứa trước đây với các ác linh, tức là cất đi mọi lời hứa mà đem đến công tác của chúng. Do đó, khi sự từ chối được thêm vào sự chống đối, các ác linh sẽ không thể công tác. Trước hết chúng ta phải chống đối, sau đó chúng ta phải có thái độ từ chối. Thí dụ, chúng ta phải từ chối các ác linh bằng cách nói: “Tôi quyết tâm”. Điều này nghĩa là chúng ta vận dụng ý muốn của mình để giữ chặt sự tự do. Nhưng chúng ta cũng cần phải chống đối, nghĩa là chúng ta phải vận dụng sức lực cách thực tiễn để giao tranh với kẻ thù và duy trì sự tự do mà ý muốn chúng ta đã có được qua sự từ chối. Loại từ chối và chống đối này phải tiếp diễn cho đến khi chúng ta hoàn toàn được tự do.

Kháng cự là một trận chiến thật sự. Kháng cự đòi hỏi sức lực kết hợp giữa linh, hồn và thân thể. Nhưng phần chính yếu phải được vận dụng là ý muốn. Quyết định, lựa chọn và từ chối đều là các vấn đề thái độ. Nhưng kháng cự là vấn đề thực hành. Kháng cự là hành động biểu hiện thái độ. Nó liên quan đến việc vật lộn trong linh và bằng quyền năng của linh, trong đó ý muốn đẩy các ác linh ra khỏi lập trường mà chúng đang đứng. Đó là một cuộc đột kích trên chiến trường đối với quyền lực tối tăm. Kháng cự  là đuổi đi, xua đuổi và đẩy qua một bên bằng khả năng của ý muốn. Các ác linh chiếm lập trường mà tín đồ đã nhường cho chúng; khi thấy thái độ chống đối của tín đồ, chúng vẫn chiếm giữ lập trường ban đầu và sẽ không rút  lui. Kháng cự là tín đồ đuổi các ác linh bằng “quyền năng thật”. Kháng cự là tín đồ “thúc ép” các ác linh và buộc chúng “bị đuổi đi”. Do đó, khi một tín đồ tham dự vào một công tác kháng cự như vậy, người ấy phải sử dụng sức lực và vận dụng ý muốn của mình để đuổi các ác linh ra. Nếu không, sự tuyên bố trong thái độ là vô dụng. Sự thực hành phải đi cặp theo thái độ. Hơn nữa, kháng cự mà không từ chối cũng chẳng có ích lợi là bao, vì các lời hứa cho các ác linh ban đầu phải được đòi lại

Watchman Nee (Người thuộc linh)

Oooooooooooo

 

Diễn trình Giành Lại Lập trường-

Trong diễn trình giành lại lập trường, tín đồ phải quyết định bằng ý muốn của mình và lựa chọn, từ chối. Người ấy phải kháng cự bằng ý muốn của mình. Người ấy phải quyết định đánh trận chiến đó. Người ấy phải chọn sự tự do. Người ấy phải từ chối mọi lập trường và chống cự để kẻ thù không chiếm thêm lập trường và lấy đi sự tự do của mình. Trong việc quyết định, từ chối, lựa chọn và chống cự như vậy, tín đồ đang chiến đấu vì chủ quyền của mình. Chúng ta đừng bao giờ quên vấn đề ý muốn tự do. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một ý muốn tự do. Do đó, chúng ta phải là ông chủ của chính mình. Nhưng bây giờ, các ác linh đã tiếp quản các chi thể của chúng ta và các chức năng của chúng ta trở thành ông chủ của “bản thể” chúng ta. Chúng ta đã đánh mất chủ quyền của mình. Khi một tín đồ bắt đầu giành lại lập trường của mình, người ấy đang chống đối các ác linh trong công tác “thay thế” người ấy của chúng. Vì vậy, người ấy phải chiến đấu. Tín đồ phải liên tục tuyên bố rằng mình không cho phép các ác linh xâm phạm quyền của mình. Người ấy không để cho các ác linh xâm phâm nhân cách của mình. Người ấy không để cho các ác linh nhập vào mình. Người ấy không để cho các ác linh tiếp quản bản thể mình. Người ấy sẽ không bước theo các ác linh cách mù quáng. Người ấy sẽ không! Người ấy sẽ không ! Người ấy sẽ là chủ của chính mình. Người ấy muốn biết điều mình đang làm. Người ấy sẽ kiểm soát bản thể mình. Người ấy muốn toàn bản thể thuận phục mình. Người ấy từ chối mọi công tác của các ác linh trên mình. Người ấy từ chối mọi quyền công tác của chúng trên mình. Khi người ấy vận dụng ý muốn của mình để thốt ra quyết định, sự lựa chọn và sự từ chối của mình, các ác linh sẽ không thể tiếp tục công tác. Vì ý muốn đã quyết định, từ chối và lựa chọn nên người ấy phải giáng thêm một đòn nữa là sự kháng cự của ý muốn.

Khi tín đồ giành lại lập trường bằng ý muốn của mình, nếp sống người ấy sẽ kinh nghiệm một sự khởi đầu mới. Chuyện gì sai thì đã sai rồi. Bây giờ người ấy có một sự khởi đầu tươi mới. Người ấy có thể giành lại mọi điều mình đã dâng cho các ác linh. Linh, hồn và thân thể phải được lấy lại từ kẻ thù. Người ấy phải dâng mình một lần nữa cho Đức Chúa Trời. Mọi lập trường được nhường cho các ác linh qua sự thiếu hiểu biết phải được bác bỏ. Mọi quyền đã nhường cho chúng phải được lấy lại. Phương cách như sau:

Từ chối mọi điều người ấy đã từng tiếp nhận. Lìa khỏi mọi điều người ấy  đã bám chặt.

Hủy bỏ mọi điều người ấy đã sắp xếp.

Bãi bỏ mọi điều người ấy đã hứa.

Không tin vào bất cứ điều gì người ấy đã tin.

Phá hủy mọi điều người ấy đã làm trước đây.

Rút lại mọi điều người ấy đã nói.

Giải tán mọi điều mà chính người ấy đã liên kết.

Nói ra mọi điều người ấy đã giữ im lặng.

Chống đối mọi sự người ấy đã hợp tác.

Từ chối ban cho những gì trước đây người ấy đã ban cho.

Lật đổ mọi sự suy xét, bàn luận và hứa hẹn trước đây.

Từ chối mọi lời cầu nguyện, câu trả lời và sự chữa lành trước đây.

Mọi biện pháp này đều nhắm vào các ác linh. Trước đây, tín đồ xem các ác linh là Thánh Linh. Vì vậy, đã có một mối tương giao thân mật. Bây giờ người ấy sáng tỏ về mối liên hệ này, và sẽ đòi lại điều người ấy đã cho chúng trong sự thiếu hiểu biết. Một người nhường lập trường cho các ác linh trong những sự việc riêng biệt. Do đó, để giành lại lập trường, một người phải cất đi từng rào cản một. Rào cản lớn nhất cho sự tự do đối với một tín đồ là thái độ giành lại lập trường bằng ý muốn cách tổng quát, bao hàm và không rõ ràng; trong khi từ chối để đòi lại lập trường thì phải theo cách cụ thể, từng điểm một và chi tiết. Sự chống đối tổng quát đối với lập trường mà các ác linh đoạt lấy sẽ chỉ cho tín đồ một thái độ đúng đắn. Để có được sự tự do, người ấy phải giành lại mọi lập trường cách chi tiết. Điều này có thể rất khó. Nhưng nếu ý muốn thật sự vì sự tự do, và nếu tín đồ xin ánh sáng của Đức Chúa Trời soi sáng, khi Thánh Linh chỉ ra mọi điều trong quá khứ, người ấy chỉ cần kháng cự từng chi tiết một, và mọi điều đó sẽ ra đi.Nếu tín đồ sẵn lòng kiên nhẫn tiến tới, người ấy sẽ thấy rằng đây là phương cách thực tiễn để được giải cứu. Người ấy sẽ được phóng thích từng điều một vào trong sự tự sự do. Một sự kháng cự tổng quát bày tỏ rằng chúng ta chống đối công tác của các ác linh, còn sự kháng cự chi tiết buộc các ác linh ra đi và từ bỏ lập trường mà chúng nắm giữ.

Việc một tín đồ trở nên thụ động trong ý muốn của mình giống như việc đi xuống dốc; mọi sự đều tiến triển theo chiều hướng đi xuống cho đến khi người ấy rơi xuống điểm thấp nhất. Để giành lại lập trường, người ấy phải xoay lại và đi lên từng bước một. Người ấy phải leo lên bằng với số bước mà người ấy đã đi xuống ban đầu; người ấy không thể bỏ qua một bước nào. Người ấy dần dần rơi vào trong sự lừa dối và thụ động, vì vậy người ấy phải dần dần hiểu biết và sống động. Mọi chỗ thụ động phải được lật đổ và giành lại, từng chỗ một. Khi chân người ấy bước thêm một bước, người ấy đang giành lại thêm một bước. Trước đây, người ấy đã bước từng bước đi xuống. Bây giờ, người ấy đang bước từng bước đi lên. Chúng ta phải lưu ý là điều chúng ta nhường cho các ác linh gần đây nhất là điều chúng ta đi xuống là bước đầu tiên mà chúng ta đi lên

Việc lật đổ lập trường trong tín đồ không được dừng lại cho đến khi người ấy đạt đến vị trí tự do ban đầu. Tín đồ phải biết mình đi xuống từ đâu. Người ấy phải trở lại tình trạng nguyên thủy. Người ấy phải biết tình trạng bình thường của mình; người ấy phải biết ý muốn của mình năng động ra sao, tâm trí của mình sáng tỏ thế nào và thân thể của mình mạnh mẽ bao nhiêu. Người ấy phải biết tình trạng hiện tại của mình và so sánh cả hai. Khi đó, người ấy sẽ nhận thức mình đã đi xuống bao xa qua sự thụ động. Người ấy phải đặt tình trạng bình thường ở trước mặt mình mọi lúc, nhưng vẫn xem xét tình trạng bình thường này như mục đích nhỏ nhất. Người ấy không nên thỏa mãn cho đến khi ý muốn người ấy chủ động kiểm soát mọi phần của toàn bản thể mình; chừng nào đạt đến điều này, người ấy mới đạt đến tình trạng bình thường trong diễn trình giành lại tự do, một tín đồ phải nhận diện rõ tình trạng của mình. Chỉ khi đó người ấy mới có thể không bị lừa dối để nghĩ rằng mình được tự do trong khi thực tế người ấy chưa được khôi phục lại tình trạng bình thường.

Chúng ta phải hoàn toàn giành lại những gì chúng ta không còn có thể kiểm soát, những điều dường như nằm ngoài quyền hạn của chúng ta, dù đó là ý tưởng, trí nhớ, sự tưởng tượng, sự biện biệt, sự phán xét, tình yêu, khả năng chọn lựa và chống cự, hoặc bất cứ phần nào của thân thể chúng ta rơi vào trong sự thụ động và mất đi tình trạng bình thường của nó, đều khiến chúng ta không thể làm chủ chính mình. Chúng ta phải sử dụng ý muốn của mình để sử dụng các quan năng của chúng ta. Giây phút chúng ta sa vào trong sự thụ động, các ác linh sẽ nắm giữ các quan năng thụ động của chúng ta và sử dụng chúng thay cho chúng ta hoặc với sự giúp đỡ của chúng ta. Khi chúng ta nhìn thấy tình trạng thật của mình và muốn giành lại lập trường và sử dụng quan năng của mình một lần nữa, chúng ta sẽ cảm thấy điều này rất khó thực hiện. Đây là vì: (1) ý muốn của chúng ta vẫn yếu đuối và không thể kiểm soát mọi sự, và (2) các ác linh sẽ dốc hết sức để chiến đấu với chúng ta. Thí dụ, một tín đồ có thể rơi vào trong sự thụ động trong vấn đề quyết định. Mặc dù người ấy bác bỏ lập trường này và không để cho các ác linh công tác nữa, và mặc dù người ấy quyết định vận dụng quyết định của mình và không ở dưới sự kiểm soát của các ác linh nữa, nhưng người ấy sẽ thấy rằng: (1) người ấy không thể tự quyết định điều gì, và (2) các ác linh sẽ không để cho người ấy quyết định điều gì hay hành động theo bất cứ cách nào. Khi một tín đồ ám cố gắng lật đổ quyền bính của các ác linh, các ác linh sẽ cố gắng ngăn không cho tù nhân của chúng tự do hành động.

Bây giờ tín đồ phải lựa chọn có tiếp tục thụ động, để cho các ác linh tiếp tục chuyển động hay không. Nếu người ấy không sẵn lòng để cho các ác linh sử dụng mình theo cách này, mặc dù người ấy tạm thời không thể “quyết định” bất cứ điều gì, nhưng người ấy sẽ không để cho các ác linh sử dụng khả năng quyết định của mình. Vì vậy, trận chiến vì sự tự do bắt đầu. Cuộc chiến này hoàn toàn là một trận đấu của ý muốn. Vì ý muốn đã sa vào trong sự thụ động nên nó để cho mọi quan năng của toàn bản thể mình rơi vào trong sự thụ động. Ý muốn (thân vị) đã đánh mất chủ quyền của nó và không còn có thể tự do kiểm soát và điều khiển mọi quan năng của toàn thể bản thể nữa. Kết quả là các ác linh buớc vào thay thế ý muốn (thân vị) để kiểm soát và chỉ đạo mọi quan năng của toàn bản thể. Do đó, nếu tín đồ muốn được tự do, ý muốn cần chỗi dậy: (1) chống đối sự cai trị của các ác linh, (2) khôi phục lập trường đã mất, và (3) công tác cách tính cực với Đức Chúa Trời và vận dựng toàn bản thể mình. Mọi sự đều lệ thuộc vào ý muốn. Khi ý muốn chống đối các ác linh và không để cho chúng chiếm hữu các quan năng của mình thì chúng sẽ rút lui. Như chúng ta đã đề cập trước đây, các ác linh có thể bước vào vì tín đồ đã cho phép chúng. Vì vậy, sự từ chối hiện tại của người ấy là cần thiết để hủy bỏ sự tán thành trước đây hầu cho các ác linh sẽ phải mất lập trường tấn công của chúng. Khi người ấy cẩn thận chống cự, các ác linh không thể công tác nữa.

Mỗi tấc lập trường phải được khôi phục. Mỗi điểm lừa dối phải được vạch trần. Tín đồ phải có sự kiên nhẫn để chiến đấu với kẻ thù trong mọi sự và chiến đấu đến cuối cùng. Người ấy phải biết rằng việc từ chối mọi lập trường không có nghĩa là người ấy đã khôi phục mọi lập trường rồi, vì không phải mọi lập trường đều được khôi phục ngay khi người ấy từ chối. Các ác linh vẫn sẽ tranh đấu đến cùng. Ý muốn của tín đồ cần trải qua trận chiến rất khốc liệt trước khi có thể trở nên mạnh mẽ, đầy quyền năng, và tự do. Do đó, tín đồ phải liên tục thực hiện việc lật đổ lập trường. Hơn nữa, người ấy cần lật đổ cách kiên trì, cho đến khi mỗi điểm lập trường đều được phơi bày, từ chối và bãi bỏ, cho đến khi mọi quan năng của toàn bản thể người ấy có thể xoay chuyển theo ý muốn con người. Mọi quan năng thụ động phải được khôi phục lại tình trạng làm việc bình thường của chúng. Tâm trí cần suy nghĩ rõ ràng; tâm trí cần phải có thể suy nghĩ về các chủ thể để mà ý muốn muốn suy nghĩ. Hơn nữa, không một ý tưởng nào được nằm ngoài tầm kiểm soát của ý muốn. Trí nhớ cần phải có thể ghi nhớ những việc mà một người muốn nhớ và không đầy các ý tưởng mà người ấy không muốn. Các hành động khác của thân thể - ca hát, phát ngôn, đọc và cầu nguyện – cũng cần được kiểm soát bởi ý muốn. Ý muốn cần năng động để có thể làm chủ toàn bản thể. Mọi khả năng khác của toàn  bản thể con người đều cần phải tác nhiệm bình thường.

Một tín đồ không chỉ phải từ chối lập trường bị các ác linh chiếm giữ, mà còn phải từ chối mọi công tác được thực hiện bởi các ác linh. Một tín đồ cần vận dụng ý muốn của mình để nhận lấy chỗ đứng chống lại mọi công tác của các linh. Điều này sẽ làm khổ các ác linh. Khi đó, tín đồ cầu xin Đức Chúa Trời ban cho mình ánh sáng để nhận biết các công tác của các ác linh và từ chối chúng từng điểm một. Công tác của các ác linh trên tín đồ bao gồm: (1) thay thế các hoạt động của tín đồ và (2) tác động đến các hoạt động của tín đồ. Vì vậy, tín đồ phải từ chối công tác của chúng bằng cách không cho phép (1) các hoạt động của mình bị thay thế hoặc (2) các hoạt động của mình bị ảnh hưởng. Tín đồ phải từ chối không chỉ lập trường tạo cơ hội cho các ác linh mà còn phải từ chối lập trường bảo tồn chúng trong vị trí hiện tại. Khi một tín đồ chống cự theo cách này, người ấy sẽ thấy chúng dùng mọi phương tiện của chúng để chống đối người ấy. Nếu không gây chiến với chúng bằng mọi sức lực của mình, người ấy không thể trở lại tình trạng bình thường và giành lại tự do. Khi một tín đồ đánh trận theo các này, người ấy sẽ khám phá ra rằng ban đầu mình không thể sử dụng các quan năng của mình. Nhưng khi người ấy dùng mọi sức lực của mình để tấn công toàn bộ quyền lực của chúng, ý muốn người ấy hoàn toàn có thể khôi phục từ thụ động trở lại năng động, và người ấy một lần nữa có thể cai trị trên toàn bản thể mình. Cả sự thụ động lẫn việc bị quỷ ám đều bị tiêu diệt trong chiến trận này.

Khi tín đồ đánh trận để giành lại lập trường, người ấy sẽ trải qua những thời kỳ rất đau khổ. Trong việc quyết tâm cố gắng giành lại tự do của mình, người ấy sẽ cảm thấy đau đớn vô cùng và cảm nhận được một sự tranh đấu dữ dội vì sự kháng cự của quyền lực tối tăm. Khi người ấy cố gắng sử dụng ý muốn của mình để (1) chống đối quyền bính của các ác linh và (2) thực hiện bổn phận của mình, người ấy sẽ kinh nghiệm cường độ kháng cự của các ác linh đang chiếm hữu người ấy. Khi người ấy bắt đầu chiến đấu, người ấy chưa nhận thức được mình sa ngã bao nhiêu. Chỉ khi nào người ấy chiến đấu với các ác linh từng chút một và giành lại lập trường từng chút một, cảm nhận sự chống đối và ách nô lệ từ các ác linh, người ấy mới nhận thức được mức độ sa ngã của mình. Vì các ác linh chống đối quá dữ dội và vì chúng rất miễn cưỡng từ bỏ ách nô lệ của chúng, nên các triệu chứng của người ấy càng trở nên tệ hơn khi người ấy khởi xướng chiến tranh để giành lại lập trường. Dường như càng chiến đấu, người ấy càng ít có quyền năng và các lĩnh vực bị kẻ thù ám càng rối reng và hỗn loạn hơn. Tình trạng này là dấu hiệu của chiến thắng. Mặc dù tín đồ cảm thấy tệ hơn trước, nhưng thật ra tình trạng của người ấy đang được cải thiện vì các triệu chứng này chỉ tỏ rằng sự kháng cự của tín đồ đã sản sinh các hiệu quả, và các ác linh đang cảm nhận được sự tấn công của tín đồ. Cho nên, chúng chổi dậy kháng cự lại. Tuy nhiên, đây chỉ là sự vùng vẫy cuối cùng của chúng mà thôi. Nếu tín đồ cứ kiên trì, các ác linh nhất định sẽ chạy trốn.

Trong chiến trận này điều quan trọng là tín đồ phải luôn luôn đứng trên Rô-ma 6:11, công nhận rằng mình là một với Chúa và vì Chúa đã chết nên mình cũng đã chết. Đức tin này sẽ giải phóng người ấy khỏi quyền bính của các ác linh vì chúng không có quyền bính trên người chết. Đây phải là chỗ đứng vững chắc của tín đồ. Trong suốt thời gian này, người ấy cũng phải học tập sử dụng lời của Đức Chúa Trời để xử lý mọi lời nói dối của kẻ thù, vì chúng sẽ nói với người ấy rằng người ấy đã sa ngã sâu đến nỗi không thể được phục hồi. Trong sự chịu khổ vì sự xung đột, nhất là khi các  ác linh vùng vẫy lần cuối và tín đồ kinh nghiệm sự đau khổ cực điểm, chúng sẽ khiến người ấy chán nản và cảm thấy mình vô vọng và không thể được tự do. Nếu tín đồ nghe theo ma quỷ, người ấy sẽ rơi vào trong mối nguy hiểm lớn nhất. Tín đồ phải nhận thức rằng Golgotha đã hủy diệt Satan và các ác linh của hắn (Heb. 2:14; Col 2:14-15; John 12:31-32). Sự cứu rỗi đã được hoàn thành. Mỗi tín đồ có thể được giải cứu ra khỏi quyền bính của sự tối tăm và được chuyển dời vào trong vương quốc của Con yêu dấu Ngài trong kinh nghiệm của mình (Col.1:13). Hơn nữa, dựa trên sự thật là việc đòi lại lập trường sẽ đem đến nỗi khổ lớn hơn, nên chúng ta biết rằng các ác linh đang run rẩy vì công tác đòi lại này. Vì vậy, những gì đã làm là đúng đắn và lập trường phải càng được chiếm lại nhiều hơn. Bất kể các ác linh đưa ra các sự biểu lộ mới gì, và bất kể chúng khiến một người chịu khổ hay hành động bao nhiêu, hễ người ấy nhận thức được nguồn là các ác linh, người ấy phải từ chối các sự biểu lộ và phớt lờ chúng. Đừng cảm thấy tiếc cho chúng hay bàn bạc về chúng. Sau khi một người từ chối chúng, người ấy không nên chú ý đến chúng nữa.

Nếu một tín đồ thật trung tín phớt lờ bất cứ sự buồn rầu tạm thời nào và dạn dĩ đòi lại lập trường bằng ý muốn của mình, người ấy sẽ thấy sự tự do của mình dần dần trở lại. Nếu lập trường được từ chối và giành lại cách chi tiết, mức độ quỷ ám cũng sẽ giảm từng chút một. Nếu một tín đồ không nhường lập trường mới cho các ác linh thì quyền lực của việc bị quỷ ám sẽ giảm tương xứng với sự thu hẹp lại của lập trường. Mặc dù có thể phải mất một thời gian tín đồ mới có thể hoàn toàn tự do. Có thể trong quá khứ, người ấy không có cảm nhận gì cho chính mình, cho các giác quan, diện mạo hoặc nếp sống hằng ngày của mình. Bây giờ, dần dần có các cảm nhận trở lại. Tín đồ không nên bị làm cho hiểu sai rằng nếp sống thuộc linh của người ấy đang thụt lùi vì lại cảm thấy những điều này. Người ấy phải nhận thức rằng mình đã đánh mất ý thức về những điều này khi bị quỷ ám. Vì người ấy bắt đầu được tự do nên các cảm nhận về những điều đó đang trở lại. Các cảm nhận này bày tỏ rằng các ác linh đã nhập vào các giác quan của người ấy nhưng bây giờ chúng đang lìa khỏi người ấy. Khi một tín đồ đạt đến bước này, người ấy phải trung tín tiến lên, vì người ấy sẽ sớm kinh nghiệm sự giải phóng đầy đủ. Tuy nhiên, trước khi trở lại tình trạng bình thường, người ấy không nên thỏa mãn với chút ít thành công. Nếu muốn trục xuất các quỹ hoàn toàn, lập trường phải hoàn toàn được khôi phục.

SỰ DẪN DẮT THẬT

Chúng ta phải hiểu cách Đức Chúa Trời dẫn dắt cũng như mối liên hệ giữa ý muốn con người và ý muốn Đức Chúa Trời.

Chúng ta phải nhận thức rằng sự thuận phục của một tín đồ đối với Đức Chúa Trời phải là vô điều kiện. Hơn nữa, khi nếp sống thuộc linh của một tín đồ đạt đến đỉnh cao, ý muốn của người ấy phải làm một với ý muốn của Đức Chúa Trời. Điều này không có nghĩa là tín đồ không còn có ý muốn của mình nữa. Quan năng ý muốn vẫn hiện hữu, nhưng tính khí thiên nhiên ra đi. Đức Chúa Trời vẫn cần quan năng ý muốn của con người để công tác với Ngài vì sự hoàn thành ý muốn của Ngài. Khi nhìn vào khuôn mẫu của Chúa Jesus, chúng ta có thể thấy rằng một người làm một với Đức Chúa Trời vẫn có khả năng có ý muốn “Ta không tìm kiếm ý muốn riêng mà tìn ý muốn của Đấng đã sai ta” (John 5:30) “Chẳng phải để làm theo ý muốn riêng của Ta mà là theo ý muốn của Đấng đã sai  Ta” (6:38) “Nhưng không theo ý Con, mà ý Cha được nên” (Luke 22:42). Do đó, chúng ta có thể thấy rằng Chúa Jesus, Đấng làm một với Cha, vẫn có ý muốn riêng của Ngài bên cạnh ý muốn của Cha. Các câu này không nói rằng Ngài không có ý muốn của Ngài; đúng hơn, lời kinh thánh nói rằng Ngài không tìm kiếm, thực hiện hoặc hoàn thành ý muốn riêng của Ngài. Vì vậy, ai thật sự làm một với Đức Chúa Trời đều không được kết liễu chức năng của ý muốn; đúng hơn, người ấy phải đặt ý muốn của mình về phía ý muốn của Đức Chúa Trời.

Sự dẫn dắt đích thực không có nghĩa là tín đồ phải vâng phục Đức Chúa Trời như một cái máy. Đúng hơn, điều đó có nghĩa là tín đồ phải chủ động thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không muốn tín đồ bước theo Ngài cách mù quáng; Ngài muốn tín đồ sử dụng toàn bản thể mình cách hợp lý để thực hiện ý muốn của Ngài. Những người lười biếng thích nhìn thấy Đức Chúa Trời hành động thay cho họ, còn họ thì thụ động bước theo. Nhưng Đức Chúa Trời không muốn các tín đồ lười biếng. Đức Chúa Trời muốn các tín đồ hăng hái chuẩn bị các chi thể của mình và chủ động vâng phục khi họ đã dành thời gian kiểm tra và hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời. Trước đây chúng ta đã nói về cách nhận biết ý muốn của Đức Chúa Trời qua trực giác. Vì vậy, chúng ta sẽ không lặp lại điều đó ở đây. Nếu một tín đồ ao ước vâng phục Đức Chúa Trời, người ấy phải trải qua các bước sau: (1) người ấy phải quyết tâm vâng phục ý muốn của Đức Chúa trời (John 7:17); (2) người ấy phải tiếp nhận sự khải thị về ý muốn của Đức Chúa Trời qua trực giác (Eph 5:17) (3) người ấy phải được Đức Chúa Trời làm cho vững mạnh để quyết tâm thực hiện điều đó (Phil 2:13); và (4) người ấy phải được Đức Chúa Trời làm cho vững mạnh để thực thi điều đó (phil 2:13) Đức Chúa Trời sẽ không thay thế tín đồ trong việc thực hiện ý muốn của Ngài. Sau khi một tín đồ hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời , người ấy phải làm vững lập ý muốn của mình để thực hiện điều đó. Sau khi ý muốn được vững lập, người ấy phải xin quyền năng của Thánh Linh thực hiện điều đó cách thực tiễn.

Một tín đồ phải xin quyền năng của Thánh Linh vì ý muốn của người ấy quá yếu đuối không thể một mình hành động. Luôn luôn là “việc muốn thì có ở trong tôi, còn việc thực hiện điều thiện thì không” (Roma 7:18). Vì vậy, cần phải có Thánh Linh để làm vững mạnh người bên trong của chúng ta để chúng ta vâng phục Đức Chúa Trời cách thực tiễn. Trước hết Đức Chúa Trời vận hành bên trong chúng ta, làm cho chúng ta sẵn lòng. Kế tiếp, Đức Chúa Trời vận hành bên trong chúng ta vì niềm vui thích tốt lành của Ngài (Phil 2:13).

Đức Chúa Trời khải thị ý muốn của Ngài qua trực giác của chúng ta. Nếu ý muốn của một tín đồ liên hiệp với Ngài, Đức Chúa Trời sẽ gia tăng sức lực cho tín đồ và khiến tín đồ có thể để cho ý muốn của mình đi theo ý muốn của Đức Chúa Trời và thực hiện điều đó. Đức Chúa Trời muốn các tín đồ làm một với ý muốn của Ngài. Nhưng Ngài không muốn thay thế con cái Ngài trong sự áp dụng ý muốn của họ. Chủ đích của Đức Chúa Trời trong việc sáng tạo và cứu chuộc con người là để con người hoàn toàn tự do trong ý muốn của mình. Qua sự cứu rỗi được Chúa Jesus hoàn thành trên thập tự giá, các tín đồ ngày nay có thể tự do lựa chọn và bước theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Đây là lý do tại sao nhiều lệnh truyền trong Tân ước (tất cả đều gắn liền với sự sống và sự tín kính) đều đòi hỏi về phía tín đồ phải có sự luyện tập ý muốn để lựa chọn hay từ chối. Nếu Đức Chúa Trời muốn kết liễu quan năng ý muốn, thì các lệnh truyền này còn có ý nghĩa gì?.

Một tín đồ thuộc linh là người hoàn toàn có khả năng vận dụng ý muốn của mình. Người ấy phải liên tục lựa chọn ý muốn của Đức Chúa Trời và từ chối ý muốn của Satan. Mặc dù nhiều lần người ấy không thể nói được điều gì từ Đức Chúa Trời và điều gì từ Satan, nhưng người ấy vẫn có thể lựa chọn và từ chối. Người ấy có thể nói: “mặc dù tôi không biết điều gì thuộc về Đức Chúa Trời và điều gì thuộc về ma quỷ, nhưng tôi chọn Đức Chúa Trời và từ chối ma quỷ”. Mặc dù người ấy không biết điều gì thuộc về Đức Chúa Trời, nhưng người ấy có thể chọn Đức Chúa Trời trong “động cơ” của mình và chọn bất cứ điều gì thuộc về Đức Chúa Trời. Người ấy có thể nhận lấy thái độ là không muốn bất cứ điều gì ra từ ma quỷ, bất kể đó là điều gì. Bất kể điều gì đến trên người ấy, người ấy phải lựa chọn và từ chối. Nếu người ấy không biết cũng không sao; người ấy vẫn phải luôn luôn chọn ý muốn của Đức Chúa Trời. Người ấy có thể nói: “Mỗi khi tôi biết ý muốn của Đức Chúa Trời, tôi muốn ý muốn đó. Tôi sẽ luôn luôn chọn ý muốn của Đức Chúa Trời và từ chối ý muốn của Satan”. Bởi làm như vậy, Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ công tác bên trong người ấy và Ngài sẽ làm vững mạnh ý muốn đứng chống lại Satan hằng ngày đến mức Satan buông mất quyền lực của hắn hằng ngày. Khi đó, Đức Chúa Trời sẽ có thêm một đầy tớ trung tín trong một thế giới phản loạn. Khi một người liên tục từ chối ý muốn của Satan trong động cơ của mình và xin Đức Chúa Trời chứng thực điều gì là theo Ngài, người ấy sẽ nhận thức trong linh mình rằng thái độ của ý muốn đóng một vai trò to lớn trong nếp sống thuộc linh.

TỰ TRỊ

Khi nếp sống thuộc linh của tín đồ đạt đến đỉnh cao, người ấy có thể tự cai trị chính mình. Khi chúng ta nói rằng Thánh Linh bên trong chúng ta chủ trị chúng ta, chúng ta không có ý nói là chính Thánh Linh trực tiếp cai trị trên bất cứ phần nào của con người chúng ta. Nếu tín đồ có sự hiểu lầm này, người ấy hoặc sẽ bị quỷ ám hoặc sẽ chán nản khi không thấy Thánh Linh cai trị trên nếp sống của mình theo cách này. Nếu một tín đồ nhận thức rằng Thánh Linh đang dẫn dắt người ấy vào trong sự tự trị, người ấy sẽ không rơi vào trong sự thụ động; trái lại, người ấy sẽ tiến bộ nhiều trong nếp sống thuộc linh của mình.

“Bông trái của Linh là….tự chủ” (Gal 5:22-23 KJV) Nghĩa gốc của từ tự chủ là tự cai trị. Công tác của Thánh linh là dẫn dắt người bên ngoài của tín đồ vào trong sự thuận phục đầy đủ với sự tự trị của người ấy. Thánh Linh lệ thuộc vào ý muốn được đổi mới của tín đồ để cai trị trên chính người ấy. Mỗi khi một tín đồ hành động theo xác thịt, người bên ngoài phản loạn với linh. Sự phản loạn này không đến như một sự phản loạn hợp nhất, nhưng như các hành động phản loạn rời rạc. Khi một tín đồ thật sự thuộc linh và khi người ấy sản sinh bông trái của Linh, không chỉ có sự nhân từ, vui mừng, nhu mì,…v…v…, được tìm thấy trong người ấy (trong hồn người ấy), mà khả năng tự cai trị cũng được tìm thấy trong người ấy. Mặc dù người bên ngoài đôi lúc bị bối rối, nhưng bây giờ nó hoàn toàn được khuất phục và ở dưới sự cai trị của chính người ấy theo ý muốn của Thánh Linh.

Trước hết, một tín đồ phải kiểm soát linh mình để linh người ấy luôn luôn ở trong tình trạng, đúng đắn. Tâm linh không nên quá nóng hay quá chán nản, nhưng phải ở trong vị trí đúng đắn. Linh chúng ta, giống như các phần khác, cần ở dưới sự kiểm soát của ý muốn. Một tín đồ chỉ có thể kiểm soát linh mình và giữ linh trong vị trí đúng đắn khi tâm trí người ấy được đổi mới và khi người ấy đầy quyền năng của Thánh Linh. Một tín đồ có kinh nghiệm sẽ biết rằng khi linh bị kích động, người ấy phải vận dụng ý muốn của mình để kiểm soát linh. Khi linh quá chán nản , người ấy phải vận dụng ý muốn của mình để nâng đỡ linh. Chỉ theo cách này tín đồ mới có thể bước đi trong linh mỗi ngày. Lời này không mâu thuẫn với điều chúng ta đã nói trước đây về việc linh cai trị toàn bản thể. Khi nói rằng linh cai trị toàn bản thể chúng ta, chúng ta có ý nói rằng trực giác của linh biểu hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Cho nên, linh kiểm soát toàn bản thể chúng ta (bao gồm ý muốn) qua ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta nói rằng ý muốn chúng ta kiểm soát toàn bản thể, chúng ta có ý nói ý muốn chúng ta trực tiếp kiểm soát toàn bản thể chúng ta (bao gồm linh chúng ta) theo ý muốn của Đức Chúa Trời . Trong kinh nghiệm, hai điều này hoàn toàn tương thích với nhau. “Ai không cai trị trên linh của mình thì giống như một thành phố bị đạp đổ, và không có các bức tường” (Châm 25:28)

Thứ hai, tín đồ phải kiểm soát tâm trí của mình và các quan năng khác của hồn mình. Mọi ý tưởng phải thuận phục sự kiểm soát của ý muốn. Mọi ý tưởng lang thang phải đến dưới sự kiểm soát của ý muốn. “Bắt giam mỗi ý tưởng hầu dẫn đến sự vâng phục Đấng Christ’ (2 Cor 10:5) “Hãy đặt tâm trí anh em trên những điều ở trên trời” (Col 3:2)

Thứ ba, thân thể phải ở dưới sự kiểm soát. Thân thể con người phải là công cụ cho người đó và không trở thành chủ của người đó qua các sự khao khát và dục vọng hoang dã. Tín đồ phải dùng ý muốn của mình để kiểm soát, huấn luyện và bắt phục thân thể để nó có thể hoàn toàn vâng phục và chờ đợi ý muốn của Đức Chúa Trời mà không kháng cự. “Nhưng tôi đánh (khắc khổ) thân thể mình và bắt nó là nô lệ” (1 Cor 9:27). Khi ý muốn của tín đồ đạt đến tình trạng hoàn toàn tự kiểm soát, người ấy sẽ không bị ngăn trở bởi bất cứ phần nào của bản thể mình. Một khi nhận biết ý muốn của Đức Chúa Trời, người ấy có thể liên tục đáp lại. Cả Thánh Linh và linh con người đều cần một ý muốn tự trị như vậy để thực hiện sự khải thị của Đức Chúa Trời. Do đó, về một mặt, chúng ta phải làm một với Đức Chúa Trời; mặt khác, chúng ta phải khắc khổ toàn bản thể mình để nó vâng phục chúng ta cách hoàn toàn. Điều nay rất quan trọng đối với nếp sống thuộc linh của chúng ta.

Watchman Nee (Người huộc linh)

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2