"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:7529703
Đang truy cập:45

Ý MUỐN CỦA TÍN ĐỒ 1, 2

buy amitriptyline online

amitriptyline 50mg classic-color.com amitriptyline 10mg

clarinex

clarinex sebtiz13.fr

bentelan e tachipirina

bentelan

 CHƯƠNG I

 

Ý muốn là cơ quan để con người đưa ra các quyết định. Sự sẵn lòng hay không sẵn lòng; việc muốn hay không muốn và việc quyết định hay không quyết định của chúng ta đều là các chức năng của ý muốn. Ý muốn là “ bánh lái” của con người. Như một con thuyền quay theo bánh lái, một người cũng chuyển động theo ý muốn của mình.

Ý muốn của con người có thể được gọi là bản ngã đích thực của người ấy, chính người ấy, vì ý muốn đại diện cho con người. Mọi hành động của ý muốn thật ra đều là hành động của “ người” này. Khi chúng ta nói: “ Tôi sẵn lòng”, thật ra chúng ta có ý nói rằng ý muốn của chúng ta sẵn lòng. Khi chúng ta nói: “Tôi muốn điều này” hoặc “ Tôi quyết định làm điều này”, điều đó nghĩa là ý muốn chúng ta muốn điều đó hoặc ý muốn chúng ta quyết định như vậy. Chức năng của ý muốn là biểu hiện ý định của toàn bản thể. Tình cảm chỉ là điều chúng ta cảm thấy, tâm trí chỉ là điều chúng ta suy nghĩ, nhưng ý muốn là điều chúng ta muốn. Ý muốn là phần quan trọng nhất của cả bản thể chúng ta. Ý muốn của con người thì sâu hơn tình cảm và tâm trí. Vì vậy, khi một tín đồ theo đuổi nếp sống thuộc linh, người ấy phải chú ý đến ý muốn.

Nhiều người bị làm cho hiểu sai rằng “ nếp sống Cơ Đốc” chỉ là vấn đề tình cảm và chủ đích duy nhất của nó là làm cho tình cảm con người dễ chịu và hạnh phúc. Cũng có những người nghĩ rằng “ nếp sống Cơ Đốc” phải phù hợp với lý lẽ (tâm trí) và không nên quá thiên về tình cảm. Chỉ có tôn giáo hợp lý mới đáng tin đối với họ. Họ không biết rằng nếp sống Cơ Đốc đích thực sẽ không chỉ vì tình cảm hay tâm trí, mà còn để con người có được sự sống trong linh và đem ý muốn con người vào trong sự thuận phục ý muốn Đức Chúa trời. Nếu mọi kinh nghiệm của chúng ta đều không đem chúng ta đến chỗ sẵn lòng tiếp nhận mọi ý muốn của Đức Chúa Trời thì chúng quá nông cạn. Nếu sự sống thuộc linh của các tín đồ không tìm được nhiều sự biểu hiện trong ý muốn, thì nó có ích gì? Trong trường hợp đó, ý muốn là điều đại diện cho bản ngã, vẫn y như cũ.

Con đường cứu rỗi thật sự là cứu ý muốn con người. Bất cứ điều gì không đủ sâu để cứu ý muốn con người thì đều hư không. Mọi cảm xúc kỳ diệu và ý tưởng sáng tỏ đều chỉ là bên ngoài. Một người có thể có được sự vui mừng, dễ chịu và bình an bởi tin Đức Chúa Trời. Người ấy cũng có thể hiểu được các huyền nhiệm của Đức Chúa Trời và có tri thức cao trọng, kỳ diệu. Nhưng người ấy vẫn không có mối liên hiệp sâu nhất với Đức Chúa Trời. Ngoài mối liên hiệp của ý muốn với Đức Chúa Trời, không có mối liên hiệp nào khác trong thế giới này. Vì vậy, sau khi một tín đồ có được sự sống, ngoài trực giác ra, người ấy còn phải chú ý đến ý muốn của mình.

Ý MUỐN TỰ DO

Trong việc nói về con người và ý muốn con người, chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ là con người chúng ta có một ý muốn tự do. Điều này nghĩa là con người có quyền tự trị, con người có một ý muốn độc lập. Bất cứ  điều gì người ấy không chấp thuận đều không thể ép buộc người ấy, và bất cứ điều gì người ấy chống đối cũng không thể áp đặt trên người ấy. Có một ý muốn tự do nghĩa là  con người có ý kiến riêng của mình. Con người không phải là một cỗ máy để người khác điều khiển. Mọi hành động của một người đều do chính người ấy kiểm soát. Bên trong con người có một ý muốn. Ý muốn này kiểm soát những điều bên trong và bên ngoài. Con người không giống như một cỗ máy bị kiểm soát bởi bất cứ quyền lực nào bên ngoài. Bên trong con người có các nguyên tắc cai trị quyết định cách cư xử của con người cho chính người ấy.

Đây là tình trạng lúc Đức Chúa Trời sáng tạo con người. Đức Chúa Trời sáng tạo một con người chứ không phải một cổ máy. Đức Chúa trời nói với con người: “Ngươi có thể tự do ăn mọi loại cây trong vườn, nhưng về cây biết điều thiện và ác thì đừng ăn đến; vì trong ngày ngươi ăn nó, ngươi chắc sẽ chết”. (Sáng 2:16 -17). Trọng các câu này, chúng ta chỉ có thể thấy lệnh truyền của Đức Chúa Trời với sự thuyết phục và ngăn cấm, nhưng không ép buộc. Nếu Adam sẵn lòng vâng phục và không ăn, thì đó là do chính Adam muốn vậy. Khi Adam bất phục và ăn,  Đức Chúa Trời không có cách nào ngăn ông lại. Đây là ý muốn tự do. Đức Chúa Trời đặt trách nhiệm ăn hay không ăn trên con người và để cho con người lựa chọn theo ý muốn tự do của mình. Đức Chúa Trời không sáng tạo một Adam không thể phạm tội lỗi, không thể bất phục, hoặc không thể trộm cắp. Điều này sẽ biến con người thành cỗ máy. Đức Chúa Trời có thể khuyên răn, ngăn cấm và truyền lệnh nhưng trách nhiệm vâng phục ở trên con người. Vì tình yêu,  Đức Chúa Trời không thể không truyền lệnh trước. Nhưng vì sự công nghĩa của Ngài, Đức Chúa Trời sẽ không ép con người làm bất cứ điều gì mà người ấy không sẵn lòng làm. Nếu con người muốn vâng phục Đức Chúa Trời, đó phải là chính người ấy sẵn lòng; Đức Chúa Trời không ép buộc người ấy. Đức Chúa Trời có thể dùng nhiều cách để khiến con người sẵn lòng, nhưng nếu con người không bằng lòng, Đức Chúa Trời sẽ không làm bất cứ điều gì để ép người ấy.

Đây là một nguyên tắc rất quan trọng. Như chúng ta sẽ thấy sau này, công tác của Đức Chúa Trời không bao giờ đi ngược lại với nguyên tắc này, nhưng công tác của các ác linh thì nghịch lại với nguyên tắc này. Vì vậy, chúng ta có thể phân biệt điều gì thuộc về Đức Chúa trời và điều gì không thuộc về Ngài.

SỰ SA NGÃ VÀ SỰ CỨU RỖI

Con người sa ngã. Sự sa ngã này gây tổn hại nặng nề cho ý muốn tự do của con người. Trong vũ trụ, vào ngày đó, có thể nói rằng có hai ý muốn lớn chống đối nhau. Về một mặt, có ý muốn thánh khiết, tốt lành của Đức Chúa Trời; mặt khác có ý muốn dơ bẩn, phản loạn của Satan. Giữa hai ý muốn này, có ý muốn tự trị, độc lập, tự do của con người. Khi con người nghe lời ma quỷ và bất phục Đức Chúa Trời, dường như con người đang đáp lại với ý muốn của Đức Chúa Trời bằng một tiếng “không” đời đời và đáp lại với ý muốn của ma quỷ bằng một tiếng “vâng” đời đời. Ý muốn con người đã trở thành nô lệ của ma quỷ sau sự sa ngã vì người ấy đã vận dụng ý muốn của mình để chọn ý muốn của ma quỹ. Mọi hoạt động của người ấy đều thuận phục ý muốn của ma quỷ. Chừng nào con người còn chưa phá đổ sự đầu hàng khởi đầu này, thì ý muốn người ấy vẫn còn bị ma quỷ cột trói.

Trong sự sa ngã của con người, vị trí và tình trạng của con người hoàn toàn trở nên thuộc xác thịt. Xác thịt này hư hoại đến cực điểm. Do đó, ý muốn con người, giống như các quan năng khác, bị kiểm soát bởi xác thịt. Do trong tình trạng tối tăm này, không điều gì ra từ ý muốn con người có thể làm vui lòng Đức Chúa Trời. Cho dù con người muốn tìm kiếm Đức Chúa Trời đi nữa thì hoạt động của người ấy vẫn ở trong lĩnh cực của xác thịt; chúng không có giá trị thuộc linh. Khi ở trong tình trạng này, con người có thể phục vụ Đức Chúa Trời  theo nhiều cách theo ý riêng của mình, nhưng mọi điều này chỉ là các phương cách thờ phượng “ tự áp đặt” (Col.2:23) và là điều không thể chấp nhận đối với Đức Chúa Trời .

Nếu một người không tiếp nhận sự sống mới của Đức Chúa Trời và phục vụ Đức Chúa Trời  trong sự sống mới này thì bất kể người ấy phục vụ như thế nào, các hoạt động của người ấy đều ra từ xác thịt. Cho dù người ấy có ý định công tác cho Đức Chúa Trời  và chịu khổ vì Đức Chúa Trời  đi nữa thì điều đó cũng hoàn toàn vô ích. Nếu con người không được cứu thì ý muốn của con người có thể ao ước những điều cao trọng; nó có thể hướng về điều thiện và hướng về Đức Chúa Trời, nhưng điều đó vẫn vô dụng vì trong con mắt Đức Chúa Trời, vấn đề không phải là ý muốn sa ngã muốn công tác cho Ngài ra sao, mà vấn đề là Ngài muốn cho con người công tác cho Ngài như thế nào. Con người có thể khởi xướng và chuẩn bị nhiều công tác tốt lành; người ấy có thể nghĩ rằng đó là phục vụ Đức Chúa Trời, nhưng nếu công tác không được khởi xướng và thực hiện bởi Đức Chúa Trời thì con người chỉ đang thờ phượng ý muốn riêng của mình mà thôi!.

Vấn đề cứu rỗi cũng giống như vậy. Khi ở trong xác thịt, dù con người có muốn được cứu và có sự sống đời đời đi nữa thì điều này vẫn không thể làm vui lòng Đức Chúa Trời. “Hễ bao nhiêu người tiếp nhận Ngài, Ngài ban cho họ quyền bính trở nên con cái Đức Chúa Trời … người mà được sinh ra bởi huyết hoặc bởi ý muốn xác thịt, hay bởi ý muốn con người, nhưng bởi Đức Chúa Trời” (John 1:12-13). Dù muốn được cứu, con người cũng không thể tự làm cho mình được cứu. Ý tưởng muốn được cứu phải đến từ Đức Chúa Trời . Các tín đồ nghĩ rằng không có gì tốt cho bằng một người cố gằng để được cứu, tìm kiếm con đường sự sống, và làm một môn đồ tốt của Đấng Christ. Nhưng Đức Chúa Trời bảo chúng ta rằng trong vấn đề tái sanh và trong mọi điều liên hệ hến Đức Chúa Trời, ý muốn của con người là vô dụng.

 Có nhiều con cái Đức Chúa Trời không hiểu tại sao trong John chương 1, Đức Chúa Trời  nói rằng ý muốn của con người là vô dụng, nhưng trong Khải Thị Ngài lại nói : “Ai muốn hãy nhận lấy nước sự sống cách miễn phí” (22:17). Dường như trong trường hợp sau, ý muốn của con người hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự cứu rỗi của người ấy. Hơn nữa, trong John 5 Chúa Jesus nói về lý do tại sao người Do Thái không được cứu. Đó là vì “các ngươi không muốn đến với Ta để các ngươi có thể có sự sống” ( c.40). Ở đây, một lần nữa ý muốn con người lại chịu trách nhiệm cho sự diệt vong của người ấy. Kinh thánh có mâu thuẫn trong vấn đề này không? Chủ đích của các sự phát ngôn khác nhau này là gì? Nếu hiểu ý nghĩa của các câu này chúng ta sẽ hiểu điều Đức Chúa Trời đòi hỏi nơi chúng ta trong nếp sống Cơ Đốc của mình.

Ý muốn của Đức Chúa Trời  là “không muốn ai bị diệt vong mà muốn mọi người tiến đến sự ăn năn” (2 Pet.3:9) vì Ngài “ muốn mọi người được cứu và đạt đến sự tri thức đầy đủ về lẽ thật” (1 Tim.2:4). Vì vậy, vấn đề này không liên hệ đến việc Đức Chúa Trời  đưa ra quyết định ai sẽ được cứu và ai sẽ hư mất; vấn đề đó đã xong rồi. Bây giờ vấn đề là các tội lỗi nhân nắm giữ loại thái độ gì đối với ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu một người vốn là tôn giáo hoặc không thuộc thế giới, hoặc nếu người ấy cố gắng trở nên một Cơ Đốc nhân qua truyền thống, môi trường hoặc gia đình mình, người ấy sẽ thấy rằng mình cũng cách xa sự sống của Đức Chúa Trời như mọi tội lỗi nhân khác. Nếu người ấy kiên quyết, quyết tâm và chọn lựa trở nên một Cơ Đốc nhân dựa trên một sự phấn khích bất chợt hay một cảm thúc xúc động nào đó, thì các nỗ lực của người ấy vẫn vô ích. Vấn đề chính yếu là con người đối xử với ý muốn của Đức Chúa Trời như thế nào. Đức Chúa Trời yêu con người nhưng con người có sẵn lòng để được yêu hay không? Đấng Christ muốn con người đến với Ngài, nhưng con người có sẵn lòng đến không? Thánh linh muốn ban sự sống cho con người, nhưng con người có muốn có sự sống  và sống không? Ý muốn con người hữu dụng trong ý muốn  của Đức Chúa Trời. Nhưng câu hỏi đặt ra là ý muốn con người đối xử với ý muốn của Đức Chúa Trời như thế nào?

Chúng ta có nhìn thấy sự khác biệt ở đây không? Nếu một người khởi xướng việc theo đuổi sự cứu rỗi, người ấy vẫn sẽ hư mất. Nhiều người cuồng tín trong thế giới thuộc về loại này. Nếu dựa trên việc nghe phúc âm, mọi người  sẵn lòng tiếp nhận điều Đức Chúa Trời  muốn ban cho mình, người ấy sẽ được cứu. Một cách là con người tự xem mình là nguồn khởi xướng; còn cách kia là đặt chính mình trong vị trí tiếp nhận. Một là con người khởi xướng; hai là Đức Chúa Trời  khởi xướng và con người chấp nhận ý muốn của Ngài. Vì vậy, hai điều này không mâu thuẫn nhau. Đúng hơn, chúng dạy chúng ta một bài học rất quan trọng. John 1 nói về việc con người sẵn lòng. John 5 và Khải Thị 22 nói về việc con người chấp nhận ý muốn của Đức Chúa Trời. Do đó, chúng ta nhìn thấy các sự diễn đạt như “ không muốn” (John 5:40) và “ muốn” ( Khải 22:17). Đây không phải là vấn đề chủ đích mà là vấn đề chủ đích đến từ đâu.

Đức Chúa Trời  hướng dẫn chúng ta rằng trong một điều vĩ đại và kỳ diệu như sự cứu rỗi, nếu ra từ bản ngã, điều đó vẫn không làm vui lòng Đức Chúa Trời và sẽ bị từ chối. Nếu muốn tiến tới trong nếp sống thuộc linh, chúng ta phải hiểu mọi nguyên tắc Đức Chúa Trời dùng để đối xử với chúng ta vào lúc chúng ta được cứu vì các nguyên tắc ban đầu này chỉ ra cho chúng ta các nguyên tắc để chúng ta sống trong nếp sống thuộc linh của mình trong tương lai. Một trong những nguyên tắc lớn nhất là ý định của xác thịt chúng ta không có giá trị gì trước mặt Đức Chúa Trời. Bất cứ điều gì ra từ chính chúng ta, tức là ra từ sáng tạo cũ của chúng ta, đều không thể chấp nhập được đối với Đức Chúa Trời. Cho dù chúng ta theo đuổi một điều gì đó kỳ diệu và quan trọng như sự cứu rỗi đi nữa, điều đó vẫn sẽ bị Đức Chúa Trời từ chối. Chúng ta phải ghi nhớ mọi lúc rằng Đức Chúa Trời không quan tâm đến sự khác biệt giữa những điều tốt, xấu, lớn, nhỏ; Đức Chúa Trời chỉ hỏi những điều này ra từ đâu và chúng có được  chính Ngài khởi xướng và thực hiện không. Không phải chúng ta được cứu vì chúng ta muốn được cứu, nhưng vì Đức Chúa Trời muốn như vậy. Do đó, trong toàn bộ đời sống của mình, chúng ta phải thấy rằng mọi hoạt động, thậm chí những hoạt động kỳ diệu nhất, đều hoàn toàn vô dụng nếu công tác không được thực hiện bởi Đức Chúa Trời qua chúng ta. Nếu chúng ta không học được các nguyên tắc cho cách sống của chúng ta ngay từ bước đầu tiên của sự cứu rỗi, thì về sau chúng ta sẽ có các sự thất bại bất tận.

Đối với tình trạng của con người, khi một người còn là tội lỗi nhân thì ý muốn người ấy phản loạn đối với Đức Chúa Trời. Vì vậy, ngoài việc ban cho người sự sống mới (mà chúng ta đã bàn đến trước đó), Đức Chúa Trời phải đem con người trở lại với chính Ngài. Giống như ý muốn con người là thể yếu của chính người ấy thì ý muốn của Đức Chúa Trời cũng là chính Đức Chúa Trời, sự sống thật của Đức Chúa Trời. Vì vậy, nói rằng Đức Chúa Trời muốn đem con người trở lại với chính Ngài cũng giống như nói rằng Đức Chúa Trời muốn đem ý muốn của con người trở lại với ý muốn của chính Ngài. Đây là nhiều tín đồ phải nỗ lực làm trong toàn bộ đời sống mình. Thậm chí ngay ở bước đầu tiên của sự cứu rỗi, Đức Chúa Trời  cũng đang công tác theo chiều hướng này, Vì vậy, khi Đức Chúa Trời, qua Thánh Linh, khiến một người được thuyết phục về tội lỗi, Ngài khiến người ấy nhận thức rằng mình không có gì để nói. Cho dù Đức Chúa Trời  kết án người ấy và đưa người ấy đến hồ lửa, người ấy vẫn không thể nói gì. Khi Đức Chúa Trời  khải thị ý muốn của Ngài trên thập tự giá của Chúa Jesus cho con người, qua phúc âm, Ngài khiến cho con người sẵn lòng và toàn tâm nói: “Tôi sẵn lòng chấp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời”. Bước khởi đầu trong sự cứu rỗi của con người là cứu ý muốn người ấy. Việc một tội lỗi nhân tin và tiếp nhận không gì khác hơn là người ấy “muốn nhận lấy nước sự sống”, dẫn đến sự cứu rỗi. Sự chống đối và kháng cự của một tội lỗi nhân không gì khác hơn là “không sẵn lòng đến với (Ngài) để (người ấy) có thể có sự sống”, dẫn đến sự diệt vong. Trận chiến giữa sự cứu rỗi và diệt vong của con người diễn ra trong ý muốn. Sự sa ngã của con người từ ban đầu là do sự phản loạn của ý muốn người ấy nghịch lại với ý muốn của Đức Chúa Trời. Cho nên, sự cứu rỗi của con người chỉ là ý muốn người ấy một lần nữa thuận phục ý muốn của Đức Chúa Trời.

Mặc dù ý muốn của một người không hoàn toàn ở trong mối liên hiệp với Đức Chúa Trời sau khi người ấy được cứu, nhưng ý muốn sa ngã của người ấy đã phần nào được nâng lên khi người ấy từ chối Satan, bản ngã và thế giới lúc người ấy tiếp nhận Chúa Jesus. Hơn nữa, ý muốn người ấy được đổi mới qua việc tin vào lời Chúa và qua việc tiếp nhận Linh của Đức Chúa Trời. sau khi một người được tái sanh, người ấy nhận được linh mới, một lòng mới và một sự sống mới. Vì vậy, bây giờ ý muốn có một ông chủ mới và được kiểm soát và chỉ đạo bởi ông chủ này. Nếu ý muốn thuận phục, nó trở nên một phần của sự sống mới này; nếu chống đối, nó trở nên kẻ thù đáng gờm cho sự sống mới này.

Ý muốn được đổi mới thì quan trọng hơn bất kỳ phần nào khác của hồn con người. Các ý tưởng có thể sai trật, các cảm giác có thể sai trật, nhưng ý muốn không bao giờ được sai trật. Bất cứ điều gì khác sai trật cũng đều không nghiêm trọng bằng việc ý muốn sai trật, vì ý muốn là bản ngã của con người cũng như quan năng thúc đẩy toàn bộ con người. Một khi nó trở nên sai trật, chủ đích của Đức Chúa Trời sẽ bị ngăn trở lập tức.

 

BẮT PHỤC Ý MUỐN CỦA TÍN ĐỒ

Vậy thì sự cứu rỗi là gì? Sự cứu rỗi không gì khác hơn là Đức Chúa Trời  cứu con người ra khỏi chính mình và vào trong Đức Chúa Trời. Sự cứu rỗi có các phương diện kết liễu và kết hiệp. Nó kết liễu bản ngã và kết hiệp Đức Chúa Trời với con người. Bất cứ phương cách cứu rỗi nào không có mục đích cứu con người khỏi chính mình và vào trong mối liên hiệp với Đức Chúa Trời thì đều không chân thật. Nếu một phương pháp cứu rỗi không thể cứu con người ra khỏi chính mình và vào trong mối liên hiệp với Đức Chúa Trời thì đó chỉ là những lời trống rỗng. Nếp sống thuộc linh thật sự là được cắt đứt khỏi những điều thuộc xác thịt và bước vào trong những điều thần thượng. Mọi sự thuộc về tạo vật phải ra đi; các tạo vật chỉ nên vui hưởng mọi điều mà Đấng Sáng Tạo trong chính Ngài. Tạo vật phải trở nên không là gì cả trước khi sự cứu rỗi thật có thể được biểu lộ. Sự vĩ đại đích thực không tùy thuộc vào việc chúng ta có nhiều bao nhiêu: điều đó tùy thuộc vào việc chúng ta đánh mất nhiều bao nhiêu. Sự sống đích thực chỉ có thể được nhìn thấy trong việc một người đánh mất bản ngã của mình. Nếu tâm tính, sự sống và các hoạt động thiên nhiên của tạo vật không hoàn toàn được loại trừ, thì sẽ không có chỗ cho sự sống của Đức Chúa Trời được biểu lộ. “ Bản ngã” của chúng ta thường là kẻ thù của sự sống Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta không đánh mất các ý định và kinh nghiệm vì chính mình, nếp sống thuộc linh của chúng ta sẽ chịu tổn thất lớn.

Bản ngã là gì? Đây là một trong những câu hỏi khó trả lời nhất. Mặc dù chúng ta không thể trả lời câu hỏi này chính xác một trăm phần trăm,  nhưng cũng phần nào chính xác khi nói rằng “ bản ngã” là “ ý muốn riêng”. Thể yếu của bản ngã con người chính là ý muốn của người ấy, vì ý muốn biểu lộ con người thật sự là thế nào, người ấy thật sự muốn gì và người ấy sẵn lòng làm gì. Ngoại trừ công tác được thực hiện trong con người bởi ân điển, mọi điều con người có, bất kể người ấy là tội lỗi nhân hay thánh đồ, đều hoàn toàn nghịch lại với Đức Chúa Trời. Tâm tính của con người được sáng tạo luôn luôn là thiên nhiên, và không  bao giờ thuộc cùng một loại với sự sống của Đức Chúa Trời.

Sự cứu rỗi không gì khác hơn là cứu con người ra khỏi ý muốn xác thịt, thiên nhiên, thọ tạo, động vật và ích kỷ. Chúng ta phải chú ý đến điểm này. Ngoài việc Đức Chúa Trời  ban cho chúng ta một sự sống mới, thì sự xoay lại với  Đức Chúa Trời của ý muốn chúng ta là công tác cứu rỗi lớn nhất. Đức Chúa Trời  ban cho chúng ta sự sống mới vì chủ đích là xoay ý muốn chúng ta trở lại với Ngài. Phúc âm là để dẫn dắt chúng ta đạt đến một mối liên hiệp với Đức Chúa Trời trong ý muốn. Nếu không, phúc âm vẫn chưa hoàn thành sứ mệnh của nó. Đức Chúa Trời không có ý định chỉ cứu tình cảm hoặc tâm trí của chúng ta; Ngài dự định cứu ý muốn chúng ta vì một khi ý muốn được cứu, phần còn lại sẽ được bao gồm trong đó. Đến một mức độ nào đó, con người có thể liên hiệp với Đức Chúa Trời trong tâm trí. Người ấy cũng có thể chia sẻ cùng một tình cảm với Đức Chúa Trời trong nhiều điều. Nhưng mối liên hiệp quan trọng nhất và trọn vẹn nhất với Đức Chúa Trời nằm trong mối liên hiệp của ý muốn con người với ý muốn Đức Chúa Trời. Mối liên hiệp của ý muốn này bao gồm mọi mối liên hiệp khác của con người và Đức Chúa Trời. Nếu tâm trí hay tình cảm con người liên hiệp với Đức Chúa Trời, còn ý muốn thì không, thì mối liên hiệp này vẫn thiếu hụt. Vì cả bản thể chúng ta chuyển động theo ý muốn, nên ý muốn chúng ta rõ ràng là phần quyền lực nhất trong bản thể chúng ta. Dù linh có thể cao quý đến đâu đi nữa nó vẫn phục dưới sự cai trị của ý muốn. (Chúng ta sẽ xem xét điều này sau). Tâm linh không đủ để đại diện cho cả bản thể, vì linh là phần mà con người có sự tương giao với Đức Chúa Trời. Thân thể cũng không đủ để đại diện cho cả bản thể, vì đó là phần mà con người tiếp xúc với thế giới. Nhưng ý muốn đại diện cho thái độ, ý kiến và tình trạng của chính bản ngã con người; vì vậy, nó có quyền lực và khả năng để đại diện cho cả bản thể. Nếu ý muốn không được liên kết với Đức Chúa Trời hoàn toàn, các mối liên hiệp khác đều là nông cạn và trống rỗng. Nếu ý muốn cai trị toàn bản thể chúng ta ở trong mối liên hiệp trọn vẹn với Đức Chúa Trời, thì toàn bản thể chúng ta sẽ hoàn toàn thuận phục dưới bàn tay của Đức Chúa Trời.

Có hai mối liên hiệp giữa Đức Chúa Trời và con người: một là mối liên hiệp trong sự sống, hai là mối liên hiệp trong ý muốn. Mối liên hiêp với Đức Chúa Trời trong sự sống là qua việc tiếp nhận chính sự sống của Đức Chúa Trời vào lúc tái sanh. Giống như Đức Chúa Trời sống bởi Thánh Linh thì từ giờ trở đi chúng ta cũng phải sống bởi Thánh Linh. Đây là mối liên hiệp trong sự sống. Điều này nghĩa là Đức Chúa Trời và chúng ta chỉ có một sự sống. Điều này là bên trong. Tuy nhiên, ý muốn biểu hiện sự sống duy nhất này. Đây là lý do tại sao vẫn cần có mối liên hiệp của ý muốn bên ngoài. Mối liên hiệp của ý muốn chúng ta với Đức Chúa Trời nghĩa là Đức Chúa Trời và chúng ta chỉ có một ý muốn. Hai mối liên hiệp này liên quan và lệ thuộc nhau cách hỗ tương. Vào lúc này, chúng ta chỉ nói về mối liên hiệp của ý muốn vì mối liên hiệp kia không nằm trong phạm vi hiện tại của chúng ta. Mối liên hiệp của sự sống mới là tự phát vì sự sống mới là sự sống của Đức Chúa Trời . Tuy nhiên, mối liên hiệp của ý muốn có nhiều khó khăn hơn vì ý muốn thuộc về chúng ta.

Như chúng ta đã đề cập đến trước đây, Đức Chúa Trời  muốn chúng ta loại bỏ sự sống của hồn, không phải chức năng của hồn. Do đó, sau khi chúng ta liên hiệp với Đức Chúa Trời trong sự sống, Đức Chúa Trời muốn đổi mới hồn chúng ta (tâm trí, tình cảm và ý muốn) để đem hồn chúng ta vào trong sự hiệp nhất với sự sống mới của chúng ta, cũng như vào trong sự hiệp nhất với ý muốn của Ngài. Vì ý muốn của chúng ta là phần quan trọng nhất, nên sau sự tái sanh, Đức Chúa Trời  hàng ngày tìm kiếm mối liên hiệp của ý muốn chúng ta với ý muốn của Ngài. Nếu ý muốn của chúng ta không hoàn toàn làm một với Đức Chúa Trời, điều đó nghĩa là sự cứu rỗi chưa được hoàn thành đầy đủ, vì chính con người của chúng ta vẫn chưa hòa hợp với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời  không chỉ muốn chúng ta có sự sống của Ngài mà còn muốn chính chúng ta ở trong mối liên hiệp với Ngài. Ý muốn tuyệt đối thuộc về chúng ta. Nếu không có mối liên hiệp trong ý muốn, chính chúng ta vẫn chưa liên hiệp với Đức Chúa Trời.

Nếu nghiên cứu Kinh Thánh cách cẩn thận, chúng ta sẽ thấy rằng trong tất cả các tội lỗi, có một nguyên tắc chung – sự phản loạn. Adam đem chúng ta đến sự diệt vong qua tội lỗi này, trong khi Đấng Christ đem chúng ta đến với sự cứu rỗi qua sự vâng phục. Ban đầu chúng ta là con cái của sự phản loạn; bây giờ, Đức Chúa Trời muốn chúng ta là con cái của sự vâng phục. Phản loạn là bước theo ý muốn của chúng ta, trong khi thuận phục là bước theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Toàn bộ chủ đích sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời là khiến chúng ta từ bỏ ý muốn của mình và ở trong mối liên hiệp với ý muốn của Ngài. Ngày nay, các tín đồ thường phạm một sai lầm lớn trong vấn đề này. Họ nghĩ rằng nếp sống thuộc linh là sự vui mừng trong cảm xúc và tri thức trong tâm trí. Họ nỗ lực theo đuổi mọi loại cảm xúc và tri thức Kinh Thánh, nghĩ rằng đây là những điều tốt nhất. Trong thời gian đó, họ thật sự làm nhiều công tác kỳ diệu, vĩ đại và quan trọng theo cảm xúc và ý tường của mình, nghĩ rằng những điều này chắc hằn làm Đức Chúa Trời rất vui lòng. Họ không biết rằng các sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời không liên quan đến việc con người cảm thấy thế nào hoặc suy nghĩ điều gì; Ngài muốn ý muốn con người liên hiệp với Ngài. Ngài ao ước nhìn thấy một tín đồ hết lòng tìm kiếm điều Ngài muốn và sẵn lòng vâng phục mọi điều Ngài nói. Nếu người ấy không thuận phục Đức Chúa Trời  cách vô điều kiện và sẵn lòng chấp nhận ý muốn trọn vẹn của Đức Chúa Trời, thì cái gọi là nếp sống thuộc linh của người ấy rất nông cạn, bất kể nó khiến người ấy cảm thấy mình thánh khiết và vui mừng ra sao và bất kể người ấy nhận được điều gì. Mọi khải tượng, những chiêm bao lạ, các tiếng mới, lời tiên tri, sự nhiệt thành, công tác, các hoạt động và lao tác đều là bên ngoài. Nếu trong ý muốn của mình, một tín đồ không quyết tâm đi trọn đường để hoàn tất con đường của Đức Chúa Trời thì bất kể người ấy làm gì cũng vô dụng.

Nếu ý muốn chúng ta ở trong mối liên hiệp với Đức Chúa Trời, lập tức chúng ta sẽ ngừng các hoạt động ra từ bản ngã. Điều này nghĩa là không còn bất cứ hành động độc lập nào. Chúng ta chết đối với chính mình, nhưng sống đối với Đức Chúa Trời. Điều này không có nghĩa là chúng ta có thể hành động vì Đức Chúa Trời theo sự bốc đồng hay phương pháp của mình. Điều này nghĩa là chúng ta chuyển động theo sự chuyển động của Đức Chúa Trời và cắt đứt khỏi mọi hoạt động của bản ngã. Nói cách khác, loại liên hiệp này là sự thay đổi về việc ai là trung tâm, ai là người khởi xướng. Trong quá khứ, mọi công tác của chúng ta đều tập trung vào bản ngã, và mọi hoạt động của chúng ta đều được  bản ngã khởi xướng. Bây giờ, mọi sự đều dẫn đến Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không muốn chất vấn bản chất của các vấn đề mà chúng ta khởi xướng; Ngài chỉ hỏi ai khởi xướng điều đó. Bất cứ điều gì không được giải cứu khỏi bản ngã, bất kể nó tốt đến đâu đi nữa thì đều bị Đức Chúa Trời phớt lờ.

BÀN TAY CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Mặc dù con cái Đức Chúa Trời được cứu nhưng họ chưa hoàn toàn vâng phục ý muốn của Đức Chúa Trời. Kết quả là Đức Chúa Trời phải dùng nhiều phương cách để dẫn dắt các tín đồ vào trong sự thuận phục đầy đủ. Đức Chúa Trời cảm động các tín đồ bằng Linh Ngài và khuấy động họ bằng tình yêu Ngài hầu cho họ thuận phục ý muốn của Ngài và không yêu, theo đuổi hay làm bất cứ điều gì ngoài Ngài. Thật đáng tiếc nếu việc Đức Chúa Trời cảm động và khuấy động không sản sinh ra các kết quả mong muốn trong các tín đồ. Khi đó, Đức Chúa Trời phải vươn tay Ngài ra để đem các tín đồ đến chỗ Ngài muốn. Bàn tay Ngài chính yếu được biểu lộ trong các hoàn cảnh. Đức Chúa Trời đặt bàn tay Ngài cách nặng nề trên các tín đồ để chà nát, phá vỡ và cột trói hầu cho ý muốn của họ không còn có thể cứng cỏi trước mặt Ngài nữa.

Chừng nào tín đồ còn chưa liên hiệp sâu xa với Chúa, Đức Chúa Trời còn chưa thỏa mãn. Chủ đích sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời là có các tín đồ được cứu trong mối liên hiệp trọn vẹn với ý muốn Ngài. Đức Chúa Trời đem chúng ta đến điểm này, Ngài phải sử dụng môi trường; Ngài khiến chúng ta đương đầu với nhiều sự ngăn trở. Ngài khiến chúng ta đương đầu với nhiều sự ngăn trở. Ngài khiến chúng ta tan nát cõi lòng, đau khổ và ưu phiền. Ngài khiến nhiều thập tự giá thực tiễn đến trên chúng ta. Qua những điều này, Ngài khiến chúng ta cúi xuồng trong sự thuận phục. Ý muốn chúng ta rất mạnh mẽ, và nếu nó không được Đức Chúa Trời đánh theo nhiều cách, nó sẽ không thuận phục Ngài. Nếu chúng ta sẵn lòng phục dưới bàn tay đại năng của Đức Chúa Trời và chấp nhận sự kỷ luật của Ngài, ý muốn chiếm giữ đời sống của chúng ta sẽ kinh nghiệm công tác cắt xén hết lần này đến lần khác và sẽ được giao nộp cho sự chết hết lần này đến lần khác. Nếu chúng ta kháng cự Đức Chúa Trời các nỗi khổ năng nề hơn sẽ đến trên chúng ta và bắt phục chúng ta.

Đức Chúa Trời muốn tước bỏ mọi sự của chúng ta. Sau khi các tín đồ thật sự được tái sanh, tất cả họ đều có một ý tưởng – thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Một số người công khai đưa ra loại lời hứa này và một số thì âm thầm giữ ý định này. Đức Chúa Trời sẽ chứng thực xem lời hứa (hay ý định) đó có chân thật không. Ngài khiến các tín đồ trải qua một sự tước bỏ mà họ không thích. Ngài khiến họ đánh mất những điều vật chất, sức khỏe, danh tiếng, địa vị và sự hữu dụng. Cuối cùng, Ngài khiến họ đánh mất sự vui mừng và nhiệt thành trong cảm xúc, cũng như sự hiện diện và cảm thông của Ngài. Ngài sẽ đem các tín đồ đến chỗ họ có thể hy sinh mọi điều khác hơn ý muốn của Đức Chúa Trời. Ngài muốn họ nhận thức rằng hễ một điều gì đó là theo ý muốn của Ngài thì họ phải tiếp nhận điều đò, cho dù họ có thể chịu khổ về mặt vật lý hay trong các cảm xúc của họ. Nếu Đức Chúa Trời vui thích  trong việc làm khổ họ, tước bỏ mọi sự từ họ, lấy đi “ sự hữu dụng thuộc linh” của họ, hay khiến họ trở nên khô hạn, tối tăm và cô độc, thì họ phải sẵn lòng chấp nhận điều đó. Đức Chúa Trời muốn các tín đồ nhận thức rằng Ngài đã cứu họ, không phải vì chủ đích để họ vui hưởng, mà vì ý muốn của Ngài. Vì vậy, dù thu đoạt hay mất mát, vui mừng hay khô hạn, cảm thấy Đức Chúa Trời hiện diện hay từ bỏ mình, các tín đồ vẫn phải luôn luôn quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu ý muốn của Đức Chúa Trời là từ bỏ chúng ta, chúng ta có vui lòng chịu như vậy hay không? Khi một tội nhân mới tin Chúa thì mục đích của người ấy là thiên đàng. Điều này cũng được. Sau khi được dạy dỗ trong Đức Chúa Trời, người ấy đi đến chỗ nhận thức rằng chính vì ý muốn của Đức Chúa Trời mà người ấy tin vào Đức Chúa Trời. Cho dù kết quả của việc tin Đức Chúa Trời là đi vào địa ngục, người ấy vẫn tin. Sau khi tín đồ được dạy dỗ cách thấu đáo, người ấy sẽ không còn quan tâm đến sự thu đoạt hay mất mát của riêng mình nữa. Nếu có thể tôn vinh Đức Chúa Trời bằng cách đi đến địa ngục, người ấy sẵn lòng làm như vậy. Tất nhiên đây chỉ là thí dụ. Nhưng các tín đồ phải thấy rằng việc họ tin Chúa, đang khi sống trên đất, không phải vì chính họ mà vì ý muốn của Đức Chúa Trời. Sự vui mừng lớn nhất, đặc ân lớn nhất và vinh hiển lớn nhất của họ là từ chối ý muốn hư hoại, thiên nhiên và xác thịt của mình và liên hiệp với ý muốn của Đức Chúa Trời để hoàn thành niềm ao ước của lòng Đức Chúa Trời. Sự thu đoạt và mất mát, vinh hiển và hổ thẹn, cay đắng và vui mừng, của tạo vật đều không đáng để xem xét. Nếu Đấng Chí Cao có thể được thỏa mãn, thì kẻ thấp hèn có trở nên như thế nào cũng không đáng bận tâm. Đây là con đường duy nhất để một tín đồ đánh mất chính mình trong Đức Chúa Trời!

MỘT NỖ LỰC HAI BƯỚC

Có một nỗ lực hai bước trong mối liên hiệp của ý muốn với Đức Chúa Trời. Bước một là Đức Chúa Trời bắt phục các hoạt động của ý muốn chúng ta; bước hai là Đức Chúa Trời bắt phục sự sống của ý muốn chúng ta. Thông thường, ý muốn của chúng ta sẽ được Đức Chúa Trời bắt phục chỉ trong một số vấn đề cụ thể. Trong các vấn đề này, chúng ta nghĩ rằng mình hoàn toàn thuận phục Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, vẫn có một khuynh hướng kín giấu để ý muốn chúng ta trở nên năng động một khi có cơ hội. Đức Chúa Trời không chỉ muốn ý muốn chúng ta được Ngài giới hạn trong phương diện các hoạt động của nó. Ngài còn muốn khuynh hướng của ý muốn chúng ta hoàn toàn bị phá vỡ, đập tan, và hủy diệt như thể chính bản chất của nó được thay đổi vậy. Nói cho đúng, một ý muốn thuận phục và một ý muốn hòa hợp thì khác nhau. Sự thuận phục chỉ ở trong phương diện các hoạt động, nhưng sự hòa hợp ở trong phương diện sự sống, bản chất và khuynh hướng. Một đầy tớ hoàn thành mọi mệnh lệnh của chủ thì có một ý muốn thuận phục. Ý muốn của một con người con cảm thông thân mật với tấm lòng của cha mẹ mình là hòa hợp với ý muốn của người cha vì người con không chỉ làm những việc mình phải làm mà còn vui thích trong việc làm điều đó.Ý muốn thuận phục chỉ dừng các hoạt động riêng của nó lại, còn ý muốn hòa hợp là làm một với Đức Chúa Trời và có cùng một tấm lòng với Đức Chúa Trời. Ý muốn ở trong sự hòa hợp trọn vẹn với Đức Chúa Trời là ý muốn mà trong đó toàn bộ tấm lòng của người đó đều đặt trong ý muốn của Đức Chúa Trời. Chỉ những ai hòa hợp với Đức Chúa Trời mới có thể thật sự hiểu được tấm lòng của Đức Chúa Trời. Nếu một tín đồ không đạt đến chỗ ý muốn của người ấy và ý muốn của Đức Chúa Trời ở trong sự hòa hợp trọn vẹn thì người ấy chưa kinh nghiệm điểm cao nhất trong nếp sống thuộc linh. Thuận phục Đức Chúa Trời thì tốt, nhưng khi ân điển hoàn toàn đắc thắng tâm tính thiên nhiên, tín đồ sẽ ở trong sự hòa hợp trọn vẹn với Đức Chúa Trời. Thực ra, mối liên hiệp của ý muốn là điểm cao nhất trong kinh nghiệm sự sống của tín đồ.

Nhiều người nghĩ rằng họ đã hoàn toàn đánh mất ý muốn của mình. Họ không biết rằng thật ra họ còn cách điều đó rất xa. Trong mọi sự thử nghiệm và cám dỗ, họ chỉ nhìn thấy ý muốn thuận phục chứ chưa nhìn thấy ý muốn hòa hợp. Ý muốn thuận phục là ý muốn không có sự kháng cự, chứ không phải là ý muốn không muốn có bản ngã. Ai không muốn thu đoạt một điều gì đó cho chính mình, bảo tồn một điều gì đó cho chính mình? Ai không muốn có vàng, bạc, sự tôn trọng, tự do, hạnh phúc, tiện lợi, địa vị cao và một chút gì đó? Một người nghĩ rằng lòng mình không quan tâm đến những điều này. Nhưng đang khi còn có những điều đó, họ không nhận thức được mình bị chúng cột trói biết bao. Chỉ khi sắp đánh mất chúng, người ấy mới nhận thức mình không sẵn lòng lìa khỏi chúng biết bao. Đôi khi, ý muốn thuận phục hoàn toàn tương thích với ý muốn của Đức Chúa Trời. Nhưng vào những lúc khác, một người cảm thấy rằng trong sự sống của ý muốn mình, người ấy đang âm thầm tranh đấu với ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu không nhờ công tác của ân điển Đức Chúa Trời, thì thật khó để đắc thắng.

Do đó, ý muốn thuận phục vẫn chưa hoàn hảo. Mặc dù ý muốn đã được phá vỡ và không còn có sức lực kháng cự Đức Chúa Trời, nhưng nó vẫn chưa đạt đến mức độ làm một với Đức Chúa Trời. Chúng ta thừa nhận rằng việc đạt đến mức độ không thể kháng cự đã là một sự thương xót lớn của Đức Chúa Trời rồi. Nói chung, ý muốn thuận phục là đã chết rồi. Tuy nhiên, nói cho đúng, nó vẫn có một dòng sự sống chưa được phá vỡ bên trong. Vẫn có loại xu hướng kín giấu bên trong, ao ước trìu mến con đường trước kia. Do đó, dường như chúng ta nhanh chóng, vui sướng và chuyên cần hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời trong một số vấn đề này hơn là những vấn đề kia. Trong cả hai trường hợp, chúng ta đều đang hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng có một sự khác biệt về mức độ và ưa thích riêng. Nếu sự sống bản ngã thật sự hoàn toàn được đặt vào chỗ chết, tín đồ sẽ thấy rằng người ấy giữ cùng một thái độ trong vấn đề liên quan đến việc hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời. Sự khác biệt về việc nhanh chậm, cay đắng, vui mừng cũng như sự khác biệt về nỗ lực mà chúng ta đặt vào, chỉ tỏ rằng ý muốn của chúng ta chưa hòa hợp với Đức Chúa Trời.

Hai tình trạng của ý muốn có thể được minh họa bởi các gương mẫu về vợ Lót, việc dân Israel ra khỏi Ai Cập, và tiên tri Balaam. Trong kinh nghiệm của vợ Lót về việc ra khỏi Sodom, sự xuất hành của dân Israel từ Ai Cập, và việc Balaam chúc phước dân Israel, tất cả đều thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Tất cả họ đều được Đức Chúa Trời bắt phục và không hành động theo ý muốn riêng của mình. Nhưng xu hướng bên trong họ không là một với Đức Chúa Trời. Vì vậy, kết quả đều là thất bại. Ngay cả khi hướng bước đi của chúng ta đúng đắn, tấm lòng chúng ta cũng thường không hòa hợp với Đức Chúa Trời cách kín giấu, do đó, chúng ta trở nên sa ngã.

CON ĐƯỜNG ĐẠT ĐẾN ĐÍCH

Đức Chúa trời sẽ không bao giờ chịu khuất phục chúng ta. Ngài không vui với bất cứ điều gì khác hơn ý muốn của Ngài và sự thuận phục của chúng ta đối với Ngài. Những điều đẹp hơn, tốt hơn, lớn hơn và quan trọng hơn đều không thể thay thế ý muốn Đức Chúa Trời. Điều Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành là ý muốn của Ngài. Nếu Ngài không hoàn thành ý muốn của chính Ngài thì thật khó mà hi vọng chúng ta sẽ hoàn thành được. Trong con mắt Đức Chúa Trời, mọi điều tốt nhất đều hư hoại ngay khi chúng còn chứa đựng yếu tố của bản ngã con người. Nhiều điều kỳ diệu và ích lợi nếu chúng được thực hiện theo sự dẫn dắt của Thánh Linh Đức Chúa Trời. Nhưng nếu chúng được thực hiện bởi chính con người, thì giá trị của chúng trước mặt Đức Chúa Trời hoàn toàn khác. Do đó, vấn đề không phải là khuynh hướng của con người hay bản chất của sự việc; vấn đề là ý muốn của Đức Chúa Trời là gì. Đây là điểm đầu tiên phải ghi nhớ.

Bây giờ chúng ta cần hỏi làm sao ý muốn con người có thể hòa hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời. Làm sao con người có thể được giải cứu khỏi việc có ý muốn riêng làm trung tâm của mình để có ý muốn của Đức Chúa Trời làm trung tâm? Chìa khóa cho toàn bộ vấn đề là sự sống của hồn. Mức độ chúng ta được cắt khỏi sự kiểm soát của sự sống hồn là mức độ liên hiệp giữa Đức Chúa Trời và chúng ta vì không điều gì ngăn trở mới liên hiệp của chúng ta với Đức Chúa Trời ngoài sự sống của hồn. Chúng ta tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời đến mức đánh mất sự sống hồn và ý muốn của chúng ta nhận lấy Đức Chúa trời làm trung tâm. Đây là vì sự sống mới tự nhiên hướng về Đức Chúa Trời và chỉ bị sự sống hồn đàn áp. Con đường đạt đến đích là giao nộp sự sống của hồn cho sự chết.

Nếu không có Đức Chúa Trời, con người hư mất. Nếu không có Đức Chúa Trời, mọi sự đều hư không. Mọi sự ngoài Đức Chúa Trời đều thuộc xác thịt (bản ngã). Vì vậy, ngoài Đức Chúa Trời, bất cứ điều gì được thực hiện bởi nỗ lực của con người và theo ý tưởng riêng của con người đều bị kết án. Một tín đồ phải phủ nhận mọi sức lực và ao ước riêng của mình. Người ấy không nên quan tâm đến chính mình trong bất cứ điều gì và không làm bất cứ điều gì bằng bản ngã của mình. Người ấy phải hoàn toàn tin cậy Đức Chúa Trời trong mọi sự và tiến lên từng bước một theo các phương cách của Đức Chúa Trời, chờ đợi thời điểm của Đức Chúa Trời và theo sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời. Người ấy sẵn lòng chấp nhận sức lực, sự khôn ngoan, sự tốt lành, công nghĩa, và công tác ra từ Đức Chúa Trời như là của chính mình. Người ấy phải xưng nhận chỉ theo cách này mới có thể có sự hòa hợp.

Đây thật sự là “con đường hẹp” nhưng không phải là con đường khó khăn. Nó hẹp vì mỗi bước đi đều được điều chỉnh bởi ý muốn của Đức Chúa Trời.  Con đường này chỉ có một nguyên tắc duy nhất,  đó là không dành bất cứ lập trường nào cho bản ngã. Cho nên đó là  con đường hẹp. Một chút lệch hướng khỏi ý muốn của Đức Chúa Trời cũng đem chúng ta xa khỏi con đường này. Tuy nhiên, đây không phải là con đường khó khăn. Khi sự sống của hồn được tiêu hủy, thì các thói quen, sở thích, ao ước và khao khát đều được phá vỡ từng điều một, rồi không còn điều gì chống đối Đức Chúa Trời nữa. Bởi đó, một người không cảm thấy đây là còn đường khó khăn. Đáng tiếc là nhiều tín đồ thậm chí chưa bước qua cửa hay bước đi trên con đường này. Cũng có một số người không kiên nhẫn và lìa khỏi con đường này trước khi đạt đến chỗ dịu ngọt. Nhưng dù thời kỳ gian khổ dài hay ngắn, có một điều chắc chắn: chỉ có con đường này là con đường sự sống. Đây là con đường của Đức Chúa Trời. Vì vậy, đó là con đường chân thật và chắc chắn. Bất cứ ai muốn có sự sống dư dật đều không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đi trên con đường này

(Trích:  Người Thuộc Linh).

CHƯƠNG HAI

SỰ THỤ ĐỘNG

VÀ MỐI NGUY HIỂM CỦA SỰ THỤ ĐỘNG

Ngày nay, các Cơ Đốc nhân thiếu hai loại tri thức. Vì sự thiếu hụt này mà rơi vào trong sự khổ sở vô tận đến nỗi không thể phục hồi. Hai loại tri thức này là: (1) điều kiện để các ác linh công tác, và (2) nguyên tắc của nếp sống thuộc linh. Vì cớ sự thiếu hiểu biết, Satan và các ác linh của hắn được trao cho lợi thế lớn nhất và hội thánh của Đức Chúa Trời kinh nghiệm nỗi khổ lớn nhất. “Dân ta bị diệt vì thiếu tri thức” (Hosea 4:6). Đây thật sự là lời được viết cho các tín đồ ngày nay. Nhiều điều con người xem là tri thức thì chỉ là quan niệm mà thôi. Do đó, chúng vô dụng. Ngoại trừ tri thức này ra, tri thức tin kính là điều không thể thiếu đối với các tín đồ. Việc thiếu tri thức tin kính sẽ dẫn đến sự tổn hại nghiêm trọng. Đáng buồn là trong một thời kỳ mà sự thiếu hiểu biết lan rộng như hiện nay, các tín đồ vẫn không hạ mình trước mặt Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật mà Đức Chúa Trời khải thị. Họ vẫn kiêu ngạo và khoe khoang về việc mình quen thuộc với Kinh Thánh và dư dật kinh nghiệm. Về một mặt, họ rơi vào trong nguy hiểm và không biết cách nào xoay trở lại; họ rơi vào trong tình trạng vô vọng và không hề có ý tưởng gì về nhu cầu được giải cứu. Mặt khác, họ khoe khoang về sự giàu có tri thức của mình. Điều này thật đáng thương biết bao!

BỊ QUỶ ÁM

Trong bốn sách Phúc Âm có nhiều sự ký thuật về việc bị quỷ ám. Vẫn còn nhiều trường hợp bị quỷ ám giữa vòng “người ngoại” ngày nay. Nếu chúng ta bảo một tín đồ rằng các Cơ Đốc nhân có thể bị quỷ (hay các ác linh) ám, người ấy sẽ rất ngạc nhiên. Một tín đồ bình thường ở Trung Hoa nghĩ rằng chỉ có người ngoại mới có thể bị quỷ ám và Cơ Đốc nhân thì không thể có cùng một kinh nghiệm. Cũng có sự hiểu lầm khi một người bị quỷ ám, người ấy sẽ giống như người điên. Nhưng Kinh Thánh nói với chúng ta rằng các quỷ không chỉ khiến người ta đột ngột ngã vào trong nước hay lửa (Matt 17:15); chúng còn khiến một người phụ nữ bị còng lưng (Luke 13:11) trong khi bà vẫn rất hòa nhã và yên lặng.

Các tín đồ nhận thức rằng có thể họ dẽ bị dụ dỗ, cám dỗ, tấn công hoặc lừa dối nhưng họ không nhận thức rằng các tín đồ cũng có thể bị quỷ nhập – quỷ ám. Khi mới tin, họ tiếp nhận nhiều sự dạy dỗ sai trật; bây giờ họ nghĩ rằng hễ một Cơ Đốc nhân có Đấng Christ, người ấy sẽ không bị quỹ ám. Họ nói như vậy vì họ nghĩ rằng một Cơ Đốc nhân không bao giờ mất trí như người ngoại. Tuy nhiên, sự dạy dỗ này không được kinh nghiệm của các thánh đồ xác nhận. Con cái Đức Chúa Trời rất không sáng tỏ rằng các ác linh có thể thay đổi diện mạo của chúng và nhập vào thân thể tín đồ. Ngày nay, thật bất ngờ là có vô số tín đồ bị quỷ ám. Sự thật không thể thay đổi là nhiều tín đồ đang bị quỷ ám

Bị quỷ ám chính xác nghĩa là gì? Sau khi một tín đồ hiểu được ý nghĩa, người ấy sẽ nhận thức rằng các Cơ Đốc nhân cũng có thể bị quỷ ám. “Bị quỷ ám” hay đơn giản là “bị ám” nghĩa là các ác linh nhập (dính chặt) vào toàn bộ hay một phần của thân thể con người. Các ác linh nhập vào lập trường mà chúng có được. Hễ chúng có được một chỗ đặt chân, dù nhỏ đến đâu, chúng cũng có thể tiếp tục công tác cho đến khi có được toàn bộ bản thể. Các tín đồ thường nghĩ rằng bị quỷ ám phải nghiêm trọng như các trường hợp được ký thuật trong các sách Phúc Âm. Họ không biết rằng đó là những trường hợp hết sức nghiêm trọng. Hơn nữa, theo các sách Phúc Âm, mức độ chịu khổ không giống nhau trong những người bị quỷ ám; các nỗi khổ của họ rất khác nhau. Hai trường hợp mà chúng ta nói đến trước đây cũng hoàn toàn khác nhau.

Các thánh đồ - những người hoàn toàn hiến dâng – có thể bị các ác linh ám theo cũng một cách như những người khác vì họ thường vô thức thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác; vì vậy họ nhường lập trường cho các ác linh nhập vào họ. Ngày nay, nhiều tín đồ bị quỷ ám, mặc dù mức độ ám có thể khác nhau. Tuy nhiên, họ không nhận thức rằng họ bị ám. Họ xem các kinh nghiệm kỳ lạ và bất thường của mình là “tự nhiên”, hoặc ra từ “bản ngã”  hoặc ra từ tội lỗi. Họ giải thích các kinh nghiệm của mình theo cách này vì các kinh nghiệm này nhìn bên ngoài không giống như đến từ các ác linh.

Có một luật trong mọi điều Đức Chúa Trời sáng tạo. Điều này nghĩa là mọi hoạt động đều theo một khuôn mẫu nhất định. Cũng có một khuôn mẫu trong công tác của các ác linh. Mỗi nguyên nhân đều có một kết quả. Nếu bất cứ ai thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác (dù người này chủ định thỏa đáp điều kiện đó, như các phù thủy, đồng bóng, những người thực hành cầu cơ, hoặc vô tình thỏa đáp điều kiện, như các Cơ Đốc nhân chẳng hạn), chúng nhất định sẽ công tác trên người này. Chúng ta phải nhận thức rằng có một luật cho mọi hoạt động của các ác linh. Hễ một người thỏa đáp điều kiện mà luật đó đòi hỏi, người ấy sẽ lập tức kinh nghiệm các hoạt động của các ác linh. Đây là luật nhân quả. Lửa thì đốt cháy, nước nhấn chìm người ta; đây là các luật. Không ai đặt mình vào trong lửa và không bị phỏng, và không ai đặt mình vào trong nước mà không bị chìm. Đối với công tác của các ác linh cũng vậy. Hễ một người thỏa đáp điều kiện mà luật đó đòi hỏi, người ấy sẽ lập tức kinh nghiệm các hoạt động của các ác linh. Đây là luật nhân quả. Lửa thì đốt đáy, nước nhấn chìm người ta; đây là các luật. Không ai đặt mình vào trong lửa mà không bị phỏng, và không ai đặt mình vào trong nước mà không bị chìm. Đối với công tác của các ác linh cũng vậy. Hễ một người thỏa đáp điều kiện mà các ác linh cần để nhập vào, chúng sẽ nhập vào người ấy. Một khi có nguyên nhân, chắc chắn sẽ có kết quả. Việc anh em có phải là Cơ Đốc nhân hay không cũng không ảnh hưởng gì; nếu anh em thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác, chúng sẽ công tác. Các ác linh sẽ nhập vào tất cả ai thỏa đáp điều kiện để chúng công tác. Do đó, một Cơ Đốc nhân không được miễn trừ khỏi mối nguy hiểm này chỉ vì người ấy là Cơ Đốc nhân. Một Cơ Đốc nhân không thể tự đặt mình vào trong lửa để bị phỏng hay vào trong nước để bị chìm rồi nói rằng mình sẽ không bị thương tổn hay chết vì mình là Cơ Đốc nhân. Tương tự, người ấy không thể thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác rồi nói rằng mình sẽ không bị quỷ ám vì mình là Cơ Đốc nhân. Lửa đốt mọi người tự đặt mình vào trong đó; nước nhấn chìm mọi người tự đặt mình vào trong đó. Cũng vậy, các ác linh sẽ nhập vào mọi người nhường lập trường cho chúng bất kể người ấy có phải là Cơ Đốc nhân hay không

Vì lý do này, nếu một tín đồ tạo cơ hội cho các ác linh công tác, chúng chắc chắn sẽ không từ bỏ; đúng đơn, chúng sẽ nắm lấy cơ hội để nhập vào tín đồ

Điều kiện để các ác linh nhập vào con người là gì? Con người phải làm gì trước khi người ấy bị các ác linh ám? Người ấy phải đáp ứng điều kiện gì trước khi các ác linh công tác? Đây là câu hỏi trọng yếu nhất. Kinh Thánh gọi điều kiện này là “chỗ” (Eph 4:27).  “Vị trí” hay “chỗ” này là một chỗ trống trong con người dành cho các ác linh. Chỗ này là nền tảng mà các ác linh có được trong con người. Các ác linh nhập vào con người theo chỗ mà chúng được nhường cho. Số lượng vị trí mà chúng được nhường cho là mức độ chúng nhập vào con người. Dù vị trí này là do một người ngoại hay một Cơ Đốc nhân nhường cho thì các quỷ cũng nhập vào người đó như vậy. Bất cứ điều gì trong con người cho phép các ác linh có một chỗ để tấn công, một cơ đốc để xâm lấn, một nền tảng để đứng, đều có thể được gọi là “một chỗ”. Nếu một người nhường chỗ cho các ác linh, người ấy không thể không bị chúng ám. Vì có nguyên nhân nên chắc chắn phải có kết quả. Nếu một tín đồ nhường chỗ cho các ác linh, nhưng cứ dựa trên quan niệm là mình sẽ không bị quỷ ám vì mình là Cơ Đốc nhân thì người ấy đã bị các ác linh lừa dối quá mức rồi

Tóm lại, chỗ mà các tín đồ nhường cho ma quỷ là tội lỗi. Tội lỗi bao gồm mọi chỗ. Khi các tín đồ khoan nhượng cho tội lỗi, họ đang khoan nhượng cho các ác linh đằng sau tội lỗi. Bất kỳ loại tội lỗi nào cũng đều nhường chỗ cho các ác linh. Tuy nhiên, tội lỗi có thể được chia thành hai loại: loại chủ động và loại thụ động. Tội lỗi chủ động là tội lỗi mà con người phạm, như phạm điều ác bằng tay, xem những điều đồi trụy bằng mắt, nghe những tiếng phóng túng bằng tai, hoặc nói những lời mạo phạm ra miệng. Mọi điều này có thể tạo cơ hội cho các ác linh nhập vào tay, mắt, tai và miệng. Có một sự mời gọi các ác linh đến và cư trú trong bất cứ phần nào của thân thể con người phạm tội lỗi. Chúng ta phải chú ý đến ba vấn đề trong việc xác định xem tội lỗi chủ động phát triển mối liên hệ với các ác linh ra sao: (1) một số tội lỗi không dẫn đến việc bị các ác linh ám, (2) các tội lỗi khác kêu gọi các ác linh ám và (3) các tội lỗi khác nữa gây ra bởi việc bị các ác linh ám. Nếu một tín đồ bị các ác linh ám do phạm tội lỗi, người ấy phải từ bỏ tội lỗi đó cách cụ thể. Sau khi giành lại lập trường đó, người ấy sẽ được giải cứu. Nếu không, người ấy sẽ thấy lập trường mà người ấy nhường cho các ác linh dần dần gia tăng và không ngừng lại cho đến khi toàn bản thể người ấy bị ám. Nhiều tín đồ vẫn không được giải cứu khỏi sự quấy nhiễu của tội lỗi lỗi, mặc dù họ chấp thuận sự kiện họ được đóng đinh với Đấng Christ, vì nguồn của sự yếu đuối trong họ không chỉ là “xác thịt”, mà thân thể họ còn bị các ác linh siêu nhiên ám.

Phương diện cung cấp cơ hội cho các ác linh công tác qua tội lỗi chủ động này thì tương đối dễ hiểu hơn. Hầu hết các tín đồ đều tin như vậy. Chúng ta sẽ không nói thêm về điều này vì nó nằm ngoài phạm vi của chủ đề đang bàn. Bây giờ chúng ta sẽ chú ý đến phương diện thứ hai của tội lỗi – nhường chỗ cho các ác linh bởi sự thụ động. Đây là phương diện ít được các tín đồ ngày này hiểu nhất; hầu hết các tín đồ đều lầm lạc trong phương diện này. Hơn nữa, loại tội lỗi này ở trong lĩnh vực của ý muốn. Vì vậy, chúng ta sẽ nói về nó cách chi tiết.

Có một sự khác biệt giữa tội lỗi chủ động và tội lỗi thụ động. Một người thường xem tội lỗi chủ động là tội lỗi còn tội lỗi thụ động không phải là tội lỗi. Ngoài việc gọi các hành động bất nghĩa khác nhau mà con người tự mình phạm phải là tội lỗi, Kinh Thánh còn nói: “Vì vậy, kẻ biết làm điều thiện mà không làm là có tội lỗi” (James 4:17). Kinh Thánh không chỉ xem điều con người làm là tội lỗi; Kinh thánh cũng xem điều con người không làm là tội lỗi. Tội lỗi là chỗ mà các ác linh nhập vào. (Từ giờ trở đi chúng ta sẽ gọi đó là quỷ ám). Vì vậy, ngoài tội lỗi vi phạm cách chủ động, là điều nhường lập trường cho quỷ ám, còn có tội lỗi thụ động là không làm một điều gì đó, cũng nhường lập trường cho quỷ ám.

Tội lỗi thụ động nhường lập trường cho các ác linh qua sự thụ động trong các tín đồ. Trong con mắt Đức Chúa Trời, cả việc từ bỏ quyền sử dụng bất kỳ phần nào trong bản thể chúng ta lẫn việc sử dụng nó cách sai trật đều là tội lỗi. Đức Chúa Trời phú cho chúng ta nhiều quan năng khác nhau. Chúng không ở đó để chúng ta sử dụng cách sai trật hoặc bỏ mặc, không dùng đến. Khi một tín đồ không sử dụng bất kỳ phần nào trong các quan năng của mình, để cho nó rơi vào trong sự thụ động, thì một con đường được mở ra để các ác linh sử dụng quan năng thay cho tín đồ. Điều này sẽ nhường chỗ cho quỷ ám. Mặc dù mọi tín đồ đều thừa nhận rằng tội lỗi là điều kiện cho quỷ ám, nhưng họ không nhận thức rằng sự thụ động cũng là một loại tội lỗi và cũng là điều kiện cho quỷ ám. Một khi có chỗ được nhường, một người không thể không bị quỷ ám; một khi bị ám, người ấy không thể không chịu khổ.

SỰ THỤ ĐỘNG

Lý do “người ngoại” và các tín đồ xác thịt bị quỷ ám chính yếu là do tội lỗi. Nhưng lý do một số tín đồ đã dâng mình bị quỷ ám có thể được nêu ra trong một từ, “thụ động”. Ý nghĩa của sự thụ động là ý muốn không còn chủ động cai trị và chỉ đạo linh, hồn, thân thể hoặc bất cứ phần nào của con người nữa, cho nên người ấy không sử dụng ý muốn của mình để lựa chọn và quyết định mọi sự liên hệ đến mình. Thụ động là điều trái ngược với chủ động. Có hai phương diện thụ động của các tín đồ: (1) mất kiểm soát – điều này nghĩa là một người không còn có thể kiểm soát toàn bản thể hoặc một phần nào đó của mình; (2) mất tự do – điều này nghĩa là một người không thể đưa ra các quyết định ăn khớp với ý muốn của Đức Chúa Trời. Một tín đồ trở nên thụ động nghĩa là người ấy không sử dụng các quan năng khác nhau của mình và để cho các quan năng của mình rơi vào trong tình trạng thụ động. Mặc dù có miệng nhưng người ấy không nói, đúng hơn người ấy muốn Thánh Linh phát ngôn qua miệng của mình. Mặc dù có tay, nhưng người ấy không sử dụng, đúng hơn người ấy muốn Đức Chúa Trời sử dụng tay của mình. Người ấy không sẵn lòng chuyển động bất cứ phần nào của bản thể mình, người ấy muốn Đức Chúa Trời chuyển động chúng. Người ấy nghĩ rằng mình hoàn toàn dâng mình cho Đức Chúa Trời và không còn sử dụng bất cứ phần nào của bản thể mình nữa. Theo cách này người ấy rơi vào trong sự thụ động và để cho các ác linh lừa dối mình và chúng nhập vào trong các chi thể thụ động của thân thể người ấy.

Nhiều tín đồ chấp nhận điều chúng ta nói trong chương trước về mối liên hiệp với ý muốn Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, người ấy bị làm cho hiểu sai rằng một mối liên hiệp như vậy với Đức Chúa Trời, mội sự lĩnh hội niềm ao ước của lòng Ngài như vậy và một sự phủ nhận ý định riêng của mình như vậy đòi hỏi họ phải thuận phục Đức Chúa Trời cách thụ động. Họ nghĩ rằng ý muốn của mình phải bị vô hiệu hóa và họ phải trở nên giống như người máy. Họ cho rằng ý nghĩa của sự thuận phục Đức Chúa Trời là không sử dụng ý muốn của mình nữa và không sử dụng bất cứ phần nào khác của thân thể mình qua ý muốn nữa. Một người như vậy không còn (1) lựa chọn, (2) quyết định và (3) sử dụng ý muốn của mình để hành động. Nhìn bên ngoài, dường như có sự biểu lộ của một chiến thắng lớn vì người ấy từng rất bướng bỉnh trong ý muốn của mình nhưng đột nhiên người ấy trở nên rất thuận phục và yếu như nước vậy. Người ấy không có ý kiến trong bất cứ điều gì và hoàn toàn thuận phục trong việc bước theo các mạng lệnh. Người ấy không sử dụng tâm trí hoặc ý muốn của mình, và người ấy không vận dụng sự biện biệt của lương tâm mình. Đúng hơn, người ấy đơn giản trở nên một người hoàn toàn vâng phục – mỗi khi Đức Chúa Trời chuyển động, người ấy chuyển động. Nhưng điều này là một sự khuyến khích cho quỷ ám.

Vì tín đồ dâng mình cho Đức Chúa Trời theo cách này nên tự nhiên người ấy rơi vào trong tình trạng thụ động. Người ấy không hề chuyển động gì cả. Suốt cả ngày người ấy yên lặng chờ đợi tác động bên ngoài để chuyển động người ấy. Khi có một tác động bên ngoài như vậy, người ấy chuyển động. Nếu không, người ấy cứ yên lặng. Khi tình trạng này tiếp tục trong một thời gian dài, người ấy nhận thấy mình không thể hành động vào lúc cần phải hành động vì không có sự tác động bắt buộc bên ngoài. Thậm chí có thể người ấy muốn chuyển động nhưng vì thiếu sự thúc ép bên ngoài, nên người ấy không thể chuyển động. Khi điều này kéo dài, tín đồ nhận thấy nếu không có sự tác động bên ngoài, mình không thể chuyển động dù chỉ một bước. Ngay cả khi ý muốn muốn chuyển động, dường như nó bị một điều gì đó đàn áp. (Dường như người ấy có một loại xiềng xích bao quanh mình, ngăn không cho người ấy chuyển động như ý muốn). Người ấy phải chờ có một sự tác động bên ngoài thúc giục rồi mới chuyển động. Trong hoàn cảnh này tín đồ nghĩ rằng mình rất thuận phục Đức Chúa Trời vì mình không có bất kỳ sự chủ động nào. Nhưng cho dù ao ước chuyển động, người ấy cũng không thể làm được.

SỰ THIẾU HIỂU BIẾT CỦA TÍN ĐỒ

Khi một tín đồ rơi sâu vào trong sự thụ động, người ấy có thể nghĩ rằng mình thuận phục Đức Chúa Trời. Nhưng người ấy không nhận thức rằng các ác linh đang sử dụng tình trạng thụ động của người ấy để hoàn tất sự lừa dối của chúng. Tín đồ nghĩ rằng mình phải rất thụ động trước khi có thể thật sự thuận phục Đức Chúa Trời và trước khi có thể thật sự ở trong mối liên hiệp với Đức Chúa Trời trong ý muốn. Người ấy không nhận thức rằng Đức Chúa Trời không hề sử dụng sự thụ động của người ấy. Chính quyền lực của sự tối tăm sử dụng sự thụ động của người ấy. Hơn nữa, Đức Chúa Trời đòi hỏi tín đồ vận dụng ý muốn của mình để chủ động công tác với Ngài. Đây là điều Kinh Thánh nhắc đi nhắc lại: “Nếu ai kiên quyết làm theo ý muốn Ngài thì sẽ biết…” (John 7:17), và “Hãy xin bất cứ điều gì các ngươi muốn, điều đó sẽ được thực hiện cho các ngươi” (15:7). Đức Chúa Trời không tiêu hủy ý muốn của chúng ta.

Con người có ý muốn tự do. Đức Chúa Trời không bao giờ xâm phạm và thay đổi điều này. Ngài muốn con người chủ động công tác với Ngài. Mặc dù Ngài muốn chúng ta thuận phục Ngài nhưng Ngài không tiêu hủy nhân cách của chúng ta. (Chú thích của tác giả: trong sách này, “nhân cách” chỉ về “thân vị con người”, chứ không phải về “tính cách con người”. Các độc giả phải lưu ý). Ngài muốn chúng ta tự đề xuất và lựa chọn điều Ngài muốn chúng ta chọn. Ngài không chọn thay cho chúng ta, để cho ý muốn chúng ta sa vào trong tình trạng chết chóc. Ngài đòi hỏi sự hợp tác chủ động từ chúng ta. Đức Chúa Trời vui thích nhìn thấy con người đạt đến mức độ cao nhất của một tạo vật, đó là sự tự do hoàn toàn của ý muốn. Trong sự sáng tạo, Đức Chúa Trời đã thiết lập ý muốn tự do của con người. Trong sự cứu chuộc, Đức Chúa Trời đã giành lại ý muốn tự do cho con người. Vào lúc sáng tạo, Đức Chúa Trời không muốn con người vâng phục Ngài cách máy móc. Vì vậy, sau sự cứu chuộc Ngài nhất định không muốn con người bước theo sự chỉ đạo của Ngài giống như một cái máy. Thật ra, Đức Chúa Trời quá vĩ đại đến nỗi Ngài không đòi hỏi con người trở nên gỗ đá để thuận phục Ngài. Phương cách của Ngài là dựa trên công tác của Linh Ngài trong chúng ta, Linh khiến chúng ta vâng phục Ngài cách sẵn lòng. Nhưng Ngài sẽ không bao giờ đưa ra bất kỳ quyết định nào thay cho chúng ta. Sự khác biệt ở đây thật sự là không thể lường được.

Nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời và Satan trong con người thì giống nhau. Khi Đức Chúa Trời sáng tạo con người, Ngài muốn con người có ý muốn tự do. Đây là lý do tại sao Ngài ban cho con người ý muốn tự do. Ngài muốn con người có quyền lựa chọn và phân biệt mọi điều liện hệ đến mình. Mặc dù Đức Chúa Trời là Chúa của vũ trụ nhưng Ngài vui thích trong việc chịu giới hạn và không xâm phạm ý muốn tự do của con người. Ngài không muốn ép buộc con người trung thành đối với ngài. Tương tự nếu không có sự đồng ý của con người (cách vô thức hay có ý thức), Satan không thể chiếm hữu bất cứ phần nào của con người. Cả Đức Chúa Trời lẫn ma quỷ đều cần sự cho phép của ý muốn con người trước khi có thể công tác trong con người. Giống như khi con người “muốn” một điều tốt lành, Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành điều đó cho người ấy, thì cũng vậy, nếu con người “muốn” một điều ác, các ác linh sẽ hoàn thành điều đó cho người ấy. Đây là điều chúng ta nhìn thấy trong vườn Eden.

Trước khi con người được tái sanh, ý muốn của người ấy là nô lệ cho Satan và không thể tự do. Nhưng với một tín đồ được tái sanh và chiến thắng, ý muốn người ấy được trả tự do, người ấy có thể chọn lựa mọi điều thuộc về Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, Satan sẽ không bỏ cuộc trên các tín đồ mới được tái sanh này. Hắn sẽ âm mưu giành lấy họ. Hắn biết hắn không thể có được sự cho phép rõ ràng để các ác linh bước vào và cai trị họ. Vì vậy, hắn sử dụng sự lừa dối để có được sự cho phép cần thiết. Chúng ta phải lưu ý rằng Satan phải có được sự cho phép của tín đồ. Tuy nhiên một tín đồ chắc chắn sẽ không cho phép hắn. Đây là lý do tại sao hắn chỉ có thể lấy trộm sự cho phép này qua thủ đoạn lừa dối. Các ác linh sẽ không bước vào trong một người khi chưa có được sự cho phép của ý muốn con người. Thậm chí mức độ chúng bước vào cũng được quyết định bởi ý muốn con người.

Các ác linh biết một tín đồ có hoàn toàn thuận phục Đức Chúa Trời và sẵn lòng trả giá để bước theo Ngài đến cuối cùng hay không. Do đó, hắn lừa dối tín đồ bằng cách giả mạo chính Đức Chúa Trời, giả mạo tiếng của Đức Chúa Trời, công tác của Đức Chúa Trời và sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Giữa vòng các tín đồ là những người có sự tiếp xúc với lĩnh vực thuộc linh, có nhiều người cho rằng một số điều nào đó đến từ Đức Chúa Trời chỉ vì các kinh nghiệm siêu nhiên họ nhận được trong cảm xúc. Cho nên họ chấp nhận nhiều sự giả mạo của các ác linh và tự đặt mình vào trong mối nguy hiểm. Theo cách này, các tín đồ bị lừa dối và xem sự giả mạo của các ác linh là thật, để cho các ác linh tiếp tục công tác trên họ. Ban đầu, họ chỉ bị lừa dối. Nhưng sau khi ưng thuận, họ thụ động để cho các ác linh công tác! Theo cách này các ác linh có được sự tán thành của ý muốn và lừa dối họ thêm nữa, đến mức mà một số phần của bản thể con người họ bị các ác linh ám. Thụ động là bước đầu tiên dẫn đến quỷ ám.

Nếu một tín đồ ý thức về điều kiện để các ác linh công tác và ý thức về nguyên tắc của nếp sống thuộc linh, người ấy sẽ không rơi vào trong loại hiểm họa này. Tuy nhiên, nếu tín đồ không biết rằng sự thụ động cung cấp sự thuận tiện cho các ác linh và không biết rằng nếp sống thuộc linh đòi hỏi một ý muốn năng động để công tác với Đức Chúa Trời, người ấy có thể để cho ý muốn của mình trở nên thụ động. Chúng ta phải đặc biệt lưu ý rằng Đức Chúa Trời không bao giờ thay thế ý muốn con người bằng ý muốn của Ngài. Con người phải chịu trách nhiệm về điều mình làm. Đức Chúa Trời sẽ không đưa ra bất cứ đề xuất nào thay cho người ấy.

Thật ra, nếu sự năng động của các ác linh không hiện diện trong một người thụ động thì sự thụ động của người ấy chỉ dẫn đến sự lười biếng và ù lì. Trong các trường hợp “ù lì” bình thường (tức là khi không có sự năng động của các ác linh), một người ù lì có thể trở nên năng động lại vào bất cứ lúc nào. Nhưng khi người ấy rơi vào trong sự thụ động và bị quỷ ám, người ấy không thể trở nên năng động một lần nữa cho dù người ấy muốn, tức là ngay cả khi ý muốn người ấy muốn.

Ở đây, chúng ta có thể nhìn thấy sự khác biệt giữa công tác của Đức Chúa Trời và công tác của Satan trên con người. Đức Chúa Trời muốn con người hoàn toàn dâng mình cho Ngài, Ngài muốn con người vận dụng mọi quan năng của toàn bộ bản thể người ấy để hợp tác với Thánh linh của Ngài. Satan muốn ý muốn con người hoàn toàn thụ động, hắn muốn con người dừng mọi hoạt động và để cho các ác linh của hắn hành động thay cho người ấy. Đức Chúa Trời muốn con người chủ động, có ý thức và sẵn lòng lựa chọn và hành động theo ý muốn của Ngài để linh hồn và thân thể con người hoàn toàn tự do. Satan muốn con người trở thành tù nhân và nô lệ thụ động của hắn. Đức Chúa Trời muốn con người độc lập, tự do và làm chủ chính mình một cách có ý thức. Satan muốn con người làm con rối, cỗ máy và công nhân của hắn. Đức Chúa Trời không bao giờ yêu cầu con người dừng các hoạt động của mình lại trước khi Ngài công tác. Trái lại, Satan muốn con người hoàn toàn thụ động và dừng mọi hoạt động lại. Đức Chúa Trời muốn con người công tác với Ngài cách có ý thức. Satan muốn con người thụ động để hắn có thể ép con người vâng phục hắn. Đức Chúa Trời chỉ đòi hỏi con người dừng hoạt động tội lỗi lỗi của mình lại, dù nó ra từ bản chất hay sự sống của người ấy, vì chỉ theo cách này con người mới có thể công tác với Thánh Linh. Nhưng Satan muốn con người dừng mọi hoạt động của mình lại, thậm chí chức năng của hồn, vì hắn muốn hành động thay con người. Hắn muốn con người chỉ là cỗ máy vô thức, không tự mình gánh trách nhiệm gì cả.

Đáng tiếc là các tín đồ không hiểu nguyên tắc của Đức Chúa Trời ở trong con người và công tác qua con người. Họ nghĩ rằng Đức Chúa Trời muốn họ trở nên chết chóc như gỗ đá và được Ngài điều khiển. Họ không nhận thức rằng khi Đức Chúa Trời sáng tạo con người, Ngài ban cho con người ý muốn tự do. Đúng là Ngài không muốn ý muốn con người đòi hỏi hoặc làm bất cứ điều gì ngoài Ngài. Nhưng Ngài cũng không muốn con người không có ý muốn và vâng phục Ngài như một cỗ máy. Chỉ cần ý muốn của tín đồ chọn điều Ngài muốn là Ngài thỏa mãn. Đức Chúa Trời không đòi hỏi con người trở nên một người không có ý muốn. Có nhiều điều các tín đồ phải làm cho chính mình, Đức Chúa Trời sẽ không làm những điều đó thay họ. Ngày nay, có một sự dạy dỗ sai trật rằng một người phải giao thác mọi sự cho Đức Chúa Trời và để cho Ngài làm mọi sự cho mình. Loại dạy dỗ này cho rằng chúng ta không cần nhấc tay mình lên hay chuyển động chân mình, lời dạy dỗ đó cho rằng Đức Chúa Trời sẽ nhấc chúng lên và chuyển động chúng giùm cho chúng ta. Sự dạy dỗ đó nói rằng chúng ta phải hoàn toàn đầu phục Thánh Linh bên trong và để cho Ngài sắp xếp mọi sự cho chúng ta. Có một ít lẽ thật trong sự dạy dỗ này. Nhưng các sự lầm lạc được pha trộn trong đó có lẽ là nhiều hơn lẽ thật chứa trong đó! (chúng ta sẽ nói thêm về điều này trong chương sau).

(Người Thuộc Linh)

0000000

MỐI NGUY HIỂM KHi TÍN ĐỒ THỤ ĐỘNG

Vì các tín đồ quá thiếu hiểu biết, nên họ bị lừa dối bởi quyền lực của sự tối tăm và vô thức bị cho vào tròng bởi sự lừa dối của Satan. Họ thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác và bởi đó bị quỷ ám. Chúng ta phải lưu ý đến trật tự trong vấn đề này vì nó rất trọng yếu: (1) tín đồ trở nên thiếu hiểu biết, (2) người ấy bị lừa dối, (3) người ấy trở nên thụ động, và (4) người ấy bị quỷ ám. Sự thiếu hiểu biết của tín đồ là nguyên nhân đầu tiên cho việc bị quỷ ám. Vì sự thiếu hiểu biết của tín đồ về nguyên tắc công tác của các ác linh và yêu cầu của Thánh Linh nên Satan có thể lừa dối người ấy. Nếu tín đồ biết lẽ thật, biết cách công tác với Đức Chúa Trời và biết các quy luật của công tác Đức Chúa Trời, người ấy sẽ không chấp nhận các lời nói dối của Satan. Khi bị các ác linh lừa dối, người ấy nghĩ rằng toàn bộ bản thể mình phải trở nên thụ động để Đức Chúa Trời sống và công tác qua mình. Cho nên, người ấy chấp nhận nhiều sự biểu lộ siêu nhiên của các ác linh và xem những điều đó là từ Đức Chúa Trời. Theo cách này người ấy càng bị lừa dối hơn và các ác linh có thể nhập vào người ấy.

(1)Khi một tín đồ nhường chỗ cho các ác linh, đó là một lời mời gọi cho các ác linh nhập vào người ấy. (2) Sau khi bước vào, chắc chắn chúng sẽ tự biểu lộ qua các hoạt động của chúng. (3) Nếu tín đồ hiểu sai các hoạt động này và không biết rằng những điều đó là ra từ ma quỷ, người ấy sẽ nhường thêm chỗ cho các ác linh vì người ấy đã tin vào các lời nói dối của chúng rồi. Đây là một chu kỳ tự lặp lại hết lần này đến lần khác. Theo cách này, tín đồ ngày càng bị quỷ ám sâu hơn. Chỉ cần tín đồ rơi vào trong sự thụ động, tức là sau khi người ấy nhường chỗ cho các ác linh, thì mối nguy hiểm không thể nào nói hết được.

Khi một tín đồ rơi vào trong sự thụ động và không đưa ra một sự lựa chọn trong mọi điều thuộc về mình, người ấy sẽ thụ động thuận phục mọi điều đến trên mình từ môi trường. Người ấy sẽ nghĩ rằng Đức Chúa Trời đang đưa ra quyết định thay cho mình, trong môi trường cũng như trong những người liên hệ với mình và mình chỉ cần thuận phục cách thụ động thôi. Mọi điều xảy đến trên người ấy đều trở nên ý muốn và lệnh truyền của Đức Chúa Trời; người ấy im lặng chấp nhận chúng vì nghĩ rằng chúng là do Đức Chúa Trời ban cho. Sau một thời gian, người ấy nhận thấy rằng mình không thể đưa ra bất cứ quyết định nào về bất cứ điều gì trong đời sống mình. Người ấy không thể đưa ra quyết định về nhiều điều mình phải làm và không thể chủ động trong những vấn đề này. Người ấy sợ nói ra điều mình thích và do dự nói ra điều mình quyết định. Những người khác có thể lựa chọn, quyết định, khởi xướng và hành động; nhưng người ấy giống như rong biển trôi nổi trên mặt nước, tròng trành, phó mặc cho gió và sóng biển cuốn đi. Người ấy mong chờ ai đó đưa ra quyết định dùm mình hoặc các hoàn cảnh cung cấp cho mình một con  đường duy nhất để đi hầu cho người ấy không cần phải lựa chọn. Người ấy vui mừng để người khác ép mình làm một điều gì đó vì điều đó khiến người ấy khỏi phải lo lắng. Vì việc đưa ra lựa chọn rất khó khăn đối với người ấy nên người ấy thà bị môi trường ép buộc còn hơn tự do trong môi trường, vì điều này đòi hỏi phải có sự lựa chọn.

Sau khi trở nên thụ động như vậy, người ấy nhận thấy đưa ra một quyết định dù là nhỏ nhất đi nữa cũng là một gánh nặng. Người ấy liên tục tìm kiếm sự giúp đỡ khắp nơi và tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài để có thể đưa ra quyết định. Người ấy cảm thấy rất tiếc vì dường như mình không thể quản lý ngay cả những điều nhỏ nhặt trong nếp sống hằng ngày của mình. Người ấy gặp khó khăn trong việc hiểu điều người khác nói. Người ấy thấy khó ghi nhớ hay hồi tưởng lại bất cứ điều gì. Nếu phải đưa ra bất kỳ quyết định nào, người ấy luống cuống không biết làm gì. Người ấy sợ ý tưởng phải bàn bạc về bất cứ vấn đề gì vì ý muốn thụ động của người ấy không thể gánh một trách nhiệm nặng nề như vậy. Ý muốn người ấy quá mỏng manh đến nỗi người ấy phải tiếp nhận sự giúp đỡ từ môi trường hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ con người. Nếu có một người luôn luôn giúp đỡ, người ấy sẽ cảm thấy anh ta đã cướp mất ý muốn của mình; tuy nhiên theo một ý nghĩa người ấy cũng vui thích khi có người đưa ra mọi quyết định dùm mình! Trong khi người ấy chờ đợi sự hỗ trợ của tác động bên ngoài, thì vô số thời gian bị phung phí. Chúng ta không nói rằng một tín đồ thụ động như vậy không thích công tác. Khi chỗi dậy, người ấy muốn làm một số điều hoặc cho rằng mình có thể làm một số điều. Nhưng khi người ấy phải bắt đầu công tác, sự khấy động dừng lại và người ấy cảm thấy sức lực của mình không thể tương xứng với nhu cầu. Nhiều công tác bắt đầu tốt nhưng kết thúc trong thất bại vì cớ sự thụ động của ý muốn.

Tình trạng thụ động này thật bất tiện biết bao! Trong suốt giai đoạn này, tín đồ phải ghi nhiều chú thích để nhắc nhở mình về nhiều điều. Người ấy phải nói lớn tiếng để giúp đỡ mình trong các ý tưởng và sử dụng hàng trăm “cái nạng” mà người ấy phát minh ra để hỗ trợ người ấy suốt cả ngày. Cuối cùng, người ấy nhận thấy các cảm xúc của mình dần dần trở nên tê liệt và người ấy vô thức hình thành nhiều ao ước và sở thích kỳ lạ. Khi nói với người khác, người ấy không dám nhìn vào mắt họ. Người ấy khom người khi bước đi. Người ấy hoặc là quá bận tâm đến các nhu cầu của thân thể mình hoặc đàn áp các nhu cầu của thân thể mình cách quá đáng. Khi làm bất cứ điều gì, người ấy cố gắng từ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyền sử dụng tâm trí, ý muốn, lập luận và khả năng suy tưởng của mình.

Trong sự thiếu hiểu biết, tín đồ thất bại trong việc nhận thức rằng các dấu hiệu bệnh tật này đến từ sự thụ động và việc bị quỷ ám. Người ấy nghĩ rằng đó là do sự yếu đuối tự nhiên của mình. Tín đồ tự an ủi mình bằng cách nghĩ rằng có các triệu chứng này là do người ấy không có nhiều “ân tứ” như người khác, vì “sự thông minh” của người ấy khác với người khác hoặc vì “khả năng thiên nhiên” của người ấy kém hơn người khác. Người ấy không cảm thấy lo sợ khi mình trở nên như vậy. Người ấy không nhận thức rằng các triệu chứng này là các lời nói dối của ác linh, chủ đích là để lừa dối người ấy hơn nữa. Người ấy không dám công tác và không dám gánh vác bất cứ điều gì vì cho rằng mình có một sự dị ứng đối với công tác, bị yếu đuối về tinh thần, không có tài hùng biện và chậm suy nghĩ. Người ấy nghĩ rằng có lẽ mình đã làm việc quá sức trong quá khứ nên không đủ sức khỏe vật lý. Người ấy không bao giờ hỏi tại sao các tín đồ khác không như vậy. Tại sao những người thua kém mình về mặt ân tứ lại không như vậy? Tại sao trong quá khứ mình không như vậy? Người ấy nghĩ rằng những điều này là bẩm sinh, tự nhiên và thuộc về tâm tính, chứ không nhận thức rằng đó là công tác của các ác linh. Sự ngu dại này khiến cho các ác linh có được thêm lập trường và khiến các tín đồ chịu nhiều nỗi khổ hơn.

Các quyền bính của sự tối tăm biết tình trạng hiện tại của tín đồ. Chúng tạo ra nhiều khó khăn trong môi trường của tín đồ để quấy rầy người ấy dai dẳng. Một khi ý muốn của tín đồ trở nên thụ động và không thể công tác, các ác linh sẽ đặt người ấy vào trong một vị trí mà người ấy buộc phải sử dụng ý muốn của mình, để làm người ấy chán nản và khiến người ấy trở thành trò cười trước mặt người khác. Vào lúc này, tín đồ như con chim trong lồng, và các ác linh giống như những đứa trẻ hư hỏng, cứ chọc phá người ấy tùy thích. Chúng luôn luôn khấy động bão tố và quấy rầy tín đồ bằng nhiều điều. Tín đồ không có khả năng phản kháng và kháng cự chúng. Môi trường của người ấy trở nên tệ hơn và nếp sống người ấy trở nên vô nghĩa hơn. Mặc dù tín đồ có quyền bính để xử lý mọi sự nhưng người ấy giữ im lặng. Theo cách này, các quyền bính của sự tối tăm dần dần có được lợi thế và khiến tín đồ xoay từ tình trạng thiếu hiểu biết, bị lừa dối và thụ động đến tình trạng bị quỷ ám, bởi đó chịu thống khổ trong tay của ma quỷ. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là con cái Đức Chúa Trời vẫn không hề hay biết rằng các tình trạng này không thể đến từ Đức Chúa Trời. Thay vì vậy, họ chấp nhận chúng cách thụ động.

Khi một tín đồ thụ động tới mức này, người ấy vô thức nương dựa vào các ác linh để giúp đỡ mình. Chúng ta đã thấy thể nào tín đồ không thể có sức lực (trong chính mình) để đưa ra các quyết định và người ấy phải nương dựa vào các tác động bên ngoài để hỗ trợ mình. Nhiều lần, vì sự thống khổ bởi các ác linh gây ra (mà không nhận thức rằng sự thống khổ đó là từ các ác linh), một tín đồ mong chờ những tác động bên ngoài đã giúp đỡ mình từ trước đến nay sẽ lại đến viện trợ cho người ấy. Đây là lý do tại sao các ác linh muốn một tín đồ trở nên thụ động. Mọi quan năng không được dùng đến của tín đồ đều rơi vào tay ác linh . Nếu tín đồ cố gắng sử dụng các quan năng của mình trong tình trạng này, điều đó sẽ chỉ tạo cơ hội cho các ác linh biểu hiện chính chúng qua người ấy. Các ác linh rất vui sướng đưa ra các đề xuất cho người ấy. Vì con người tìm kiếm sự giúp đỡ từ chúng nên chúng sẽ không từ chối lời thỉnh cầu đó. Chúng sẽ thường xuyên tiêm các ý tưởng đã định trước vào trong tâm trí tín đồ, cho người ấy mọi loại khải tượng, chiêm bao, tiếng nói, ánh sáng, lửa và Kinh Thánh ra từ văn tự. Qua những điều này, chúng đưa ra các ý kiến và quyết định thay cho tín đồ. Tín đồ không nhận thức được tình trạng thật, người ấy xem những điều này thật sự là các sự khải thị của Đức Chúa Trời và phù hợp với ý muốn Đức Chúa Trời . Hơn nữa, những điều này không đòi hỏi người ấy đưa ra bất kỳ quyết định khó nhọc nào hay vận dụng bất kỳ quyết tâm nào. Kết quả là người ấy bước theo đó cách mù quáng. Các ác linh vui mừng giúp đỡ con người không suy nghĩ hoặc sử dụng ý muốn của mình nhưng bước đi cách ngu dại theo sự khải thị bên ngoài. Cho nên, chúng rất thường xuyên ban tặng tín đồ những điều lạ lùng

Đáng tiếc là trong sự thiếu hiểu biết về nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời, một tín đồ có thể bị lừa dối để nghĩ rằng người ấy thật sự đang thuận phục. Đức Chúa Trời, một tín đồ có thể bị lừa dối để nghĩ rằng ấy thật sự đang thuận phục Đức Chúa Trời. Nhiều lần như vậy, người ấy có thể (1) tin các ác linh, (2) nương dựa vào chúng, (3) vâng phục chúng, (4) dâng mình cho chúng, (5) nghe theo chúng, (6) cầu nguyện với chúng, (7) bị chúng dẫn dắt và hướng dẫn, (8) chấp nhận sứ điệp của chúng, (9) chấp nhận Kinh Thánh mà chúng đưa cho, (10) cùng công tác với chúng, (11) công tác vì chúng, (12) hỗ trợ chúng trong việc hoàn thành công tác và các niềm ao ước của lòng chúng, trong khi vẫn nghĩ rằng mình đang xoay qua Đức Chúa Trời và vì Đức Chúa Trời. Một điều phải lưu ý: “hễ anh em dâng mình làm nô lệ để vâng phục ai thì làm nô lệ của kẻ mình vâng phục” (Roma 6:16). Trên danh nghĩa, chúng ta có thể dâng mình cho Đức Chúa Trời, nhưng nếu trong thực tế, chúng ta dâng mình cho các ác linh, chắc chắn chúng ta sẽ trở nên nô lệ của chúng. Dù chúng ta bị lừa dối, nhưng rõ ràng chúng ta đã dâng mình cho một thần giả dối. Vì vậy, chúng ta không có cách nào trốn tránh trách nhiệm. Tín đồ phải biết rằng nếu mình không thông công với Đức Chúa Trời theo tình trạng tương giao, nhưng lại thông công theo tình trạng quỷ ám, thì lời cầu nguyện của người ấy sẽ là lời cầu nguyện cho các ác linh, sự dâng mình của người ấy sẽ là sự dâng mình cho các ác linh và sự tin cậy của người ấy sẽ là tin cậy các ác linh. Trong lòng, người ấy nghĩ rằng mình đang thông công với Đức Chúa Trời và điều người ấy có được là đến từ Đức Chúa Trời, nhưng thực tế, người ấy đang thông công với các ác linh và chấp nhận “món quà” của chúng.

Chúng ta phải nhận thức các bước của diễn trình này. Vì các tín đồ tìm kiếm sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong cảm xúc và trong các kinh nghiệm khác (như chúng ta đã đề cập đến trong các phần Ba và Bảy) nên các ác linh lừa dối người ấy và cho người ấy điều giả mạo. Vì thiểu hiểu biết, người ấy mù quáng chấp nhận điều đó, nghĩ rằng đó là từ Đức Chúa Trời. Cho nên, người ấy tự đem mình vào trong sự thụ động. Khi tín đồ rơi vào trong sự thụ động, người ấy nghĩ rằng mình không cần chuyển động và Đức Chúa Trời sẽ chuyển động cho người ấy. Bởi vậy, người ấy không chuyển động. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời sẽ không chuyển động người ấy vì Ngài muốn người ấy chủ động hợp tác với Ngài. Đức Chúa Trời không muốn con người trở nên một cái máy vô cảm. Vì tín đồ thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác nên chúng dọn đến trên người ấy. Khi con người không chuyển động và Đức Chúa Trời không chuyển động, các ác linh sẽ dọn đến. Tín đồ phải biết rằng sau khi người ấy đã hiểu rõ ý muốn của Đức Chúa Trời trong trực giác của linh, thì toàn bản thể người ấy phải chỗi dậy để thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời cách chủ động, người ấy không được thụ động. Sau khi tín đồ bị quỷ ám, người ấy có thể thiếu hiểu biết về tình trạng thật của mình và xem mình là rất thuộc linh, có nhiều kinh nghiệm kỳ hiệu. Nhưng những ai được huấn luyện trong Chúa và sở hữu sự biện biệt thuộc linh đều biết rằng dù loại tín đồ này kinh nghiệm những điều kỳ diệu, nhưng người ấy có “nhân cách kép”. Nhân cách kép chính là dấu hiệu rõ ràng của việc bị quỷ ám.

NHÂN CÁCH KÉP

Nhân cách kép nghĩa là có hai nhân cách hoặc hai ông chủ bên trong một người. Điều này khác với người mới và người cũ mà chúng ta thường nói đến. Trong một người bị quỷ ám nghiêm trọng, chúng ta có thể thấy rõ đặc điểm của một “nhân cách kép”. Khi một người bị ám đến cực điểm, những người khác sẽ cảm thức rằng có một bộ não khác đang kiểm soát người ấy. Người ấy sẽ làm những  điều trái với bản chất của mình. Thân thể người ấy dường như bị một tác động bên ngoài chiếm hữu. Các dây thần kinh và cơ bắp của người ấy sẽ căng ra, co lại và run rẩy không theo chủ ý của người ấy. Miệng người ấy nói những lời mà người ấy không biết hoặc vừa mới biết, và giọng nói người ấy dường như thuộc về một người khác. Chúng ta có thể quan sát thấy được sự biểu lộ của ma quỷ đến và bước vào trong những người ngoại bị quỷ ám. Trước khi ma quỷ “đến”, người ấy yên lặng và bình thường, nhưng khi ma quỷ “đến”, người ấy lập tức thay đổi dáng điệu bình thường và hành động như một người điên. Từ điểm này, chúng ta có thể thấy một điều: khi một người bị quỷ ám, người ấy có một nhân cách kép. Ngoài thân vị của chính mình, còn có một người khác bên trong người ấy, sử dụng các quan năng khác nhau của hồn và thân thể. Khi các quỷ được biểu lộ, chúng hầu như tiếp quản mọi sự; mọi hoạt động đều thuộc về chúng và nhân cách riêng của người đó cũng không hoạt động nữa. Cho nên, sau khi các quỷ lìa khỏi, nhiều người không biết mình đã làm gì, nói gì hay biểu hiện gì khi có các quỷ ở đó. Lý do cho điều này là nhân cách của các quỷ hành động; nhân cách của chính người đó không tác nhiệm. Kết quả là nhân cách con người không biết hoặc hoàn toàn thiếu hiểu biết về những điều diễn ra trước đó

Tuy nhiên, “sự biểu lộ” của các quỷ đôi khi rất tao nhã. Các quỷ cũng thường khiến một người phát ngôn và hành động giống như một con người bình thường. Thật ra, nhân cách của các quỷ đang vận hành; nhân cách của con người đã ngừng hoạt động rồi. Trong loại biểu lộ này, chúng ta thường bị làm cho hiểu sai rằng đây là công tác của con người; chúng ta khó nhận thức được rằng đây là hoạt động của các quỷ. Chỉ khi nào các quỷ cư xử bất thường chúng ta mới có thể khám phá ra nhân cách kép trong một người

Khi các tín đồ bị quỷ ám, cũng có một nhân cách kép. Vì các mức độ bị ám khác nhau nên sự biểu lộ của nhân cách kép cũng khác nhau. Điều lạ lùng là ác ác linh kiểm soát mọi phần trong bản thể của những người bị lừa dối cách nghiêm trọng. Chúng khiến các tín đồ run rẩy, nóng lòng sốt ruột, và cho họ loại cảm giác kỳ lạ, quăng họ xuống đất, khiến họ nói những thứ tiếng lạ và đặt giọng nói chưa ai từng nghe vào trong tai họ và đặt khải tượng chưa ai từng nhìn thấy vào mắt họ. Đồng thời, các tín đồ này vẫn có thể rất bình an trong linh và có sự tương giao với Đức Chúa Trời. Họ không biện biệt được và cho rằng vì họ có sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời nên các sự biểu lộ này chắc hẳn là ra từ Thánh Linh.

Họ không biết rằng: (1) Thánh Linh không bao giờ tiếp quản bất cứ phần nào của thân thể con người và dùng nó cho chính Ngài. Khi Paul nhìn thấy khải tượng, ông vẫn có thể kiểm soát chính mình và vẫn tự phát ngôn (Công 9:5). Khi Peter nhìn thấy khải tượng, tâm trí ông cũng sáng tỏ và ông có thể tự kiểm soát mình (10:9-17). Ngay cả khi John nhìn thấy khải tượng, ông cũng có thể kiểm soát chính mình. Đây là lý do tại sao ông có thể viết sách Khải Thị. Ban đầu, ông ngã xuống đất vì ông không thể chịu nổi ánh sáng của vinh hiển Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, sau khi Chúa làm vững mạnh ông, ông đã chỗi dậy. Ông có thể nhớ những gì ông nhìn thấy. Điều này không giống như nhiều người ngày nay cứ khẳng định là mình đã bị Thánh Linh đánh ngã xuống đất mà không biết họ đang làm gì và họ đã kinh nghiệm được điều gì khi bị ngã xuống.

(2) Tín đồ có Thánh Linh cư trú trong linh mình, nhưng đồng thời thân thể người ấy vẫn bị các ác linh ám. Vì vậy, người ấy kinh nghiệm một nhân cách kép. Trong linh mình, người ấy có sự tương giao với Đức Chúa Trời, nhưng các ác linh biểu lộ các công tác của chúng trong thân thể người ấy. Tín đồ đừng nghĩ rằng bất cứ điều gì đó ra từ Đức Chúa Trời chỉ vì mình đã có sự tương giao với Đức Chúa Trời trong linh. Người ấy phải nhận thức rằng vì đã được tái sanh, nên sự sống mới của người ấy luôn luôn có sự tương giao với Đức Chúa Trời. Có một điều chắc chắn: một nếp sống thật sự đầy dẫy Thánh Linh sẽ không bao giờ kinh nghiệm một nhân cách kép. Nhân cách kép chỉ tỏ rằng một người đang bị quỷ ám.

Với những ai ít bị lừa dối hơn thì nhân cách kép không rõ ràng như những người được đề cập ở trên. Đôi khi, một tín đồ có thể nhận thấy như có ai đó ở bên cạnh và bên ngoài mình đang nắm giữ các quan năng của mình. Nhiều ý tưởng không ra từ người ấy có thể ập đến dồn dập. Ý muốn người ấy dường như bị đồ đẫn, tê liệt, và không thể quyết định, lựa chọn hay quyết tâm. Khả năng suy tưởng và trí nhớ của người ấy dường như bị ai đó khóa chặt. Người ấy không thể ghi nhớ hay suy nghĩ về bất cứ điều gì. Lập luận của người ấy có phần bị lạnh cứng và người ấy không biết cách suy nghĩ hợp lý. Nhiều lời nói, hành vi và thái độ bất ngờ phát sinh ra mà ý muốn người ấy không hề cho phép và người ấy cũng nhận thấy mình không thể kiểm soát được ý muốn của mình. Đây là sự biểu lộ kín giấu của nhân cách kép.

Ý nghĩa của nhân cách kép là sự hiện hữu của hai thực thể độc lập, con người và nhân cách. Điều đó nghĩa là không cần vận dụng ý muốn để quyết định điều gì, hồn và thân thể, phần nào hoặc toàn bộ, cũng có thể bất ngờ tự chuyển động. Điều này nghĩa là bên ngoài ý muốn con người còn có một ý muốn khác, trực tiếp cai trị hồn và thân thể con người. Một tín đồ bị quỷ ám là người có ý muốn của các ác linh trong mình thêm vào ý muốn của mình. Một tín đồ bị quỷ ám là người có ý muốn của mình bị đàn áp và ý muốn của các ác linh cai trị trên người đó. Đây là nhân cách kép.

Khi một tín đồ có nhân cách kép, thì có hai loại quyền năng trong thân thể người ấy. Đôi khi Thánh Linh ban quyền năng của Ngài từ người bên trong của tín đồ, và đôi khi các ác linh điều khiển cho quyền năng của chúng đến từ người bên ngoài của tín đồ. Đôi khi Thánh Linh biểu hiện ân điển, sự chúc phước và ánh sáng của Ngài và đôi khi, các ác linh cũng phô bày công tác của chúng từ tín đồ là điều giả mạo công tác của Đức Chúa Trời. Chúng sẽ khiến người ấy nhìn thấy các khải tượng, cười cách hoang dại, ca hát lớn tiếng, khóc lóc buồn rầu hoặc cảm thấy một loại hạnh phúc đến lặng người dâng tràn khắp thân thể người ấy. Ngày nay có vô số công nhân có nhân cách kép này! Nhưng ít ai có thể biện biệt được các linh! Satan sẽ dùng loại người này để hoàn thành công tác của hắn. Vì nhiều điều họ làm là thuộc linh và của Đức Chúa Trời nên sau đó, các tín đồ sẽ bàn bạc rằng có điều ra từ Đức Chúa Trời giữa vòng những điều này và nói: “Chẳng phải những điều này rất tốt sao?” Các tín đồ quên rằng đây là công tác pha trộn của các ác linh.

Satan luôn luôn làm một công tác pha trộn. Nguyên tắc cho mọi công tác của hắn là gieo cỏ lùng giữa vòng lúa mì. Hắn không chỉ rao giảng các lời nói dối; hắn cũng rao giảng lẽ thật. Hắn dùng các lẽ thật để loan báo các lời nói dối. Hơn nữa, hắn sẵn lòng rao giảng các lẽ thật nhiều hơn các lời nói dối để âm mưu của hắn không bị vạch trần. Sau khi có được lập trường, hắn sẽ đảo ngược tỷ lệ ban đầu! Chúng ta có thể nhìn thấy sự pha trộn này trong nhiều buổi nhóm. Các tín đồ phải học cách biện biệt và chứng thực mọi điều này; nếu không, họ sẽ bị các công nhân có nhân cách kép tiêm nhiễm. Họ cũng sẽ rơi vào trong sự thụ động và bị quỷ ám.

(Nguồn: Người Thuộc Linh)

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2