"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:7529755
Đang truy cập:98

NẾP SỐNG HỘI THÁNH CƠ ĐỐC BÌNH THƯỜNG - CHƯƠNG 3

usa buy abortion pill

medical abortion go abortion pill over the counter uk

purchase abortion pill online

abortion pill online usa

abortion manila

abortion manila dollarbillcopying.com abortion pill online philippines

nifedipine grossesse

nifedipine topique msbicoe.com nifedipine grossesse

fluoxetine

fluoxetine

abortion clinics in florence al

abortion clinics in florence al click

CHƯƠNG BA

 

 

CÁC SỨ ĐỒ CHỈ ĐỊNH CÁC TRƯỞNG LÃO

 

 

“Trưởng lão” là một chức vụ có nguồn gốc Cựu Ước. Chúng

ta thấy Cựu Ước nói đến các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên và cũng

nói đến các trưởng lão của những thành phố khác nhau. Trong

các sách Phúc-âm chúng ta lại gặp từ ngữ này, nhưng vẫn

trong mối liên hệ với người Y-sơ-ra-ên. Thậm chí các trưởng

lão được đề cập trong phần đầu của sách Công-vụ vẫn còn theo

phẩm chức của Cựu Ước (4:5, 8, 23; 6:12).

Các trưởng lão bắt đầu được bổ nhiệm trong Hội Thánh khi

nào? Công-vụ 11:30 nói về sự liên hệ của họ với hội thánh tại

Giê-ru-sa-lem, và đó là lần đầu tiên các trưởng lão được đề cập

trong mối quan hệ với một hội thánh nào đó; nhưng mặc dầu sự

hiện hữu của họ được đề cập, nguồn gốc của họ lại không được

nhắc đến. Mãi đến Công-vụ 14:23, khi đọc thấy Phao-lô và

Ba-na-ba trở về từ cuộc hành trình truyền giáo lần đầu, chúng

ta mới nhận thấy các trưởng lão là ai, cách họ được chỉ định và

được ai chỉ định. “Khi hai người đã tuyển lập trưởng lão trong

mỗi hội thánh, cầu nguyện và kiêng ăn xong, thì giao thác họ

cho Chúa” (c. 23).

 

 

SỰ BỔ NHIỆM

Chúng ta đã thấy rằng chính các sứ đồ không thể ở lại với

các tín đồ mới để chăn dắt họ và gánh trách nhiệm công tác ở

địa phương. Như vậy, những người mới hoán cải được chăm sóc

như thế nào và công tác được tiến hành ra sao? Các sứ đồ đã

không xin gửi người từ An-ti-ốt đến để chăn bầy, và không một

sứ đồ nào giữa vòng họ ở lại để mang gánh nặng của các hội

thánh địa phương. Những gì họ làm đơn giản là “khi hai người

đã tuyển lập trưởng lão trong mỗi hội thánh, cầu nguyện và

kiêng ăn xong, thì giao thác họ cho Chúa mà họ đã tin” (c. 23).

Trong chuyến đi ra các sứ đồ thành lập hội thánh tại nơi nào,

thì trong chuyến trở về họ chỉ định các trưởng lão tại nơi đó.

Họ không chờ đợi cho đến khi đạt đến một tiêu chuẩn nào đó

rồi mới chỉ định các trưởng lão trong một hội thánh, nhưng

“trong mỗi hội thánh” họ lựa chọn vài thành viên trưởng thành

hơn để chăm lo cho những người cùng là tín đồ với họ.

Phương thức hoạt động của sứ đồ thật đơn giản. Các sứ đồ

đến thăm một nơi, thành lập hội thánh, lìa khỏi hội thánh ấy

ít lâu, rồi trở lại để củng cố. Những diễn biến xảy ra khi họ

vắng mặt là điều tự nhiên thôi. Khi các sứ đồ lìa khỏi, một số

người tự xưng là tín đồ cũng lìa khỏi. Những người khác tiếp

tục tham dự các buổi nhóm, chứng tỏ họ thật sự thuộc về Chúa,

nhưng không có tiến bộ đáng kể. Những người khác nữa thiết

tha theo đuổi sự hiểu biết về Chúa và tỏ ra thực sự quan tâm

đến lợi ích của Ngài. Những người có sự sống thuộc linh nhiều

hơn những anh em khác sẽ tự phát đứng ra chịu trách nhiệm

thay cho những anh em yếu đuối hơn của mình. Vì họ đã tỏ ra

mình là các trưởng lão nên các sứ đồ chỉ định họ giữ chức vụ

trưởng lão, và công việc của họ là chăn dắt và hướng dẫn các

tín đồ khác, coi sóc họ và điều khiển các công việc hội thánh.

Các sứ đồ không định cư tại một nơi nào và không đảm

nhiệm hội thánh địa phương, nhưng tại mỗi hội thánh họ đã

thành lập, họ chọn lựa giữa vòng các tín đồ địa phương những

người trung tín có thể gánh vác trách nhiệm. Khi đã chọn các

trưởng lão tại mỗi hội thánh trong sự cầu nguyện và kiêng ăn,

họ giao thác những người ấy cho Chúa, y như chính họ đã được

các tiên tri và giáo sư giao thác cho Chúa trong sự cầu nguyện

và kiêng ăn khi họ được sai đi trong chức vụ sứ đồ. Muốn việc

phó thác các trưởng lão cho Chúa có giá trị thuộc linh chứ

không chỉ là nghi thức thì các sứ đồ phải có sự hiểu biết sống

động về Chúa. Một người rất dễ bị các nan đề và nhu cầu của

hoàn cảnh cuốn hút đến nỗi ôm đồm trách nhiệm theo bản

năng, mặc dầu thừa nhận sự thật là Chúa chịu trách nhiệm về

chính Hội Thánh của Ngài. Muốn bàn giao sự quản trị hội

thánh ngay từ đầu thì chúng ta cần biết Đấng Christ là Đầu

của Hội Thánh Ngài không chỉ theo tri thức suông. Chỉ do hoàn 

toàn không tin cậy chính mình nhưng tin cậy Đức Chúa Trời

cách sống động mà các sứ đồ ban đầu có thể phó thác công việc

của hội thánh địa phương vào tay của những người địa phương

mới biết Chúa. Tất cả những người tham gia vào công tác sứ đồ

và tìm cách theo gương các sứ đồ đầu tiên trong việc giao thác

các hội thánh cho các trưởng lão địa phương quản lý đều phải

được trang bị về mặt thuộc linh cho công việc này; vì nếu các sự

việc ra khỏi tay con người và không được phó thác vào bàn tay

thần thượng trong đức tin, thì hậu quả sẽ thật tai hại. Ôi,

chúng ta cần có đức tin sống động và sự hiểu biết sống động về

Đức Chúa Trời hằng sống biết bao!

Lời Đức Chúa Trời bày tỏ rõ ràng rằng việc coi sóc một hội

thánh không phải là công tác của các sứ đồ, mà là công tác của

các trưởng lão. Mặc dầu Phao-lô ở tại Cô-rin-tô trên một năm,

tại Rô-ma hai năm và tại Ê-phê-sô ba năm, nhưng ông không

đảm nhiệm công tác của hội thánh địa phương tại bất cứ nơi

nào trong những nơi này. Trong Kinh Thánh, chúng ta đọc

thấy các trưởng lão của Ê-phê-sô, nhưng không bao giờ thấy

các sứ đồ của Ê-phê-sô. Chúng ta không thấy đề cập đến các sứ

đồ của Phi-líp, nhưng chúng ta thấy có nhắc đến các giám mục

của Phi-líp. Các sứ đồ chịu trách nhiệm về chức vụ đặc biệt của

họ, nhưng không đảm nhiệm các hội thánh là bông trái của

chức vụ họ. Mọi bông trái ra từ công tác của các sứ đồ phải

được trao cho các trưởng lão tại địa phương chăm sóc.

Trong kế hoạch của Đức Chúa Trời, việc xây dựng các hội

thánh địa phương đã được dự liệu, và trong kế hoạch ấy những

người chăn có một vị trí, nhưng Ngài không bao giờ có ý tưởng

là các sứ đồ phải đảm nhiệm vai trò người chăn. Ngài định

rằng các sứ đồ phải chịu trách nhiệm về công tác tại những nơi

khác nhau, trong khi các trưởng lão mang trách nhiệm tại một

nơi. Đặc tính của một sứ đồ là ra đi; đặc tính của một trưởng

lão là ở lại. Các trưởng lão không nhất thiết phải từ bỏ nghề

nghiệp bình thường của mình và chỉ tận hiến cho các nhiệm vụ

liên quan đến hội thánh. Họ chỉ là người địa phương, có nghề

nghiệp bình thường, và đồng thời gánh những trách nhiệm đặc

biệt trong hội thánh. Nếu công việc địa phương gia tăng, họ có

thể hoàn toàn dâng mình cho công tác thuộc linh, nhưng đặc 

tính của một trưởng lão không phải là một “công tác viên

Cơ-đốc trọn thì giờ”. Chỉ với tư cách là một anh em địa phương,

người ấy mang trách nhiệm tại hội thánh địa phương. Địa

phương quyết định ranh giới của hội thánh, do đó tại bất cứ nơi

nào các trưởng lão cũng được lựa chọn từ những tín đồ trưởng

thành hơn, chứ không được chuyển đến từ những nơi khác. Nhờ

đó, tính chất địa phương của các hội thánh Đức Chúa Trời được

gìn giữ, và kết quả là sự quản trị độc lập và sự hiệp nhất thuộc

linh của họ cũng được gìn giữ.

Theo quan niệm thông thường, người ta có thể nghĩ rằng

cần phải trải qua một khoảng thời gian đáng kể từ lúc thành

lập hội thánh đến lúc chỉ định các trưởng lão, nhưng quan niệm

đó không phù hợp với khuôn mẫu của Đức Chúa Trời. Chuyến

đi truyền giáo đầu tiên của các sứ đồ kéo dài không quá hai

năm, trong thời gian ấy các sứ đồ rao giảng phúc-âm, dẫn dắt

tội nhân đến với Chúa, thành lập các hội thánh và chỉ định các

trưởng lão tại nơi nào hội thánh được thành lập.  Tại nơi nào

cũng vậy, các trưởng lão được lựa chọn trong chuyến các sứ đồ

trở về, chứ không phải trong chuyến thăm viếng lần đầu; tuy

nhiên, thời gian ở giữa hai lần thăm viếng không khi nào kéo

dài, nhiều nhất là khoảng vài tháng. Trong chuyến trở lại, việc

các sứ đồ nhận thấy một số nơi tiến bộ hơn những nơi khác là

điều tự nhiên thôi, nhưng họ không lý luận rằng vì tình trạng

thấp kém của một hội thánh nào đó, nên như một trường hợp

ngoại lệ, họ sẽ không chỉ định trưởng lão nào cả. Trái lại, họ

chỉ định các trưởng lão tại mỗi hội thánh. Có lẽ một số người

hỏi: “Nếu tất cả các thành viên của một hội thánh đều ở trong

tình trạng thuộc linh thấp kém, làm thế nào có thể chỉ định

các trưởng lão giữa vòng họ được? Chỉ cần xem xét ngụ ý của từ

ngữ “trưởng lão” thì nan đề của nhiều người sẽ được giải quyết.

Sự kiện có trưởng lão hàm ý có người kém trưởng thành hơn.

Từ ngữ “trưởng lão” mang tính chất tương đối, chứ không tuyệt

đối. Giữa nhóm người bảy mươi chín tuổi, thì người tám mươi

tuổi được kể là lớn hơn; nhưng chỉ cần một đứa bé tám tuổi làm

“trưởng lão” ở giữa nhóm trẻ bảy tuổi. Thậm chí giữa vòng

những người chưa trưởng thành thuộc linh chắc chắn phải có

những người trưởng thành hơn và có khả năng thuộc linh hơn 

so với những người kia, đó là tất cả điều kiện cần có để làm

trưởng lão.

Một hội thánh có thể kém xa tình trạng lý tưởng, nhưng

chúng ta không thể vì vậy mà phủ nhận địa vị của hội thánh.

Trách nhiệm của chúng ta là cung ứng cho hội thánh và tìm

cách đem hội thánh đạt đến gần tình trạng lý tưởng hơn. Tương

tự như vậy, thậm chí những người tương đối tiến bộ tại một địa

phương có thể chưa đạt đến tình trạng lý tưởng của một trưởng

lão, nhưng chúng ta không thể vì lý do đó mà phủ nhận vị trí

làm trưởng lão của họ. So với các trưởng lão ở những nơi khác,

có thể họ dường như rất non nớt, nhưng nếu họ trưởng thành

hơn những tín đồ khác tại cùng địa phương, thì trong hội thánh

của họ, họ các trưởng lão. Chúng ta phải nhớ rằng chức vụ

của một trưởng lão theo Kinh Thánh giới hạn tại một địa

phương. Làm một trưởng lão tại Nam Kinh không khiến anh em

đủ điều kiện làm trưởng lão tại Thượng Hải; tuy nhiên, dầu tình

trạng thuộc linh của người ấy chưa được như ý, miễn là người ấy

tiến bộ hơn những người cùng là tín đồ trong cùng hội thánh,

thì người ấy đủ điều kiện làm trưởng lão tại đó. Anh em chỉ có

thể có các trưởng lão mẫu mực ở nơi có một hội thánh mẫu mực.

Nơi nào hội thánh chưa trưởng thành, các trưởng lão sẽ tự

nhiên chưa trưởng thành; nơi nào hội thánh trưởng thành, các

trưởng lão cũng sẽ trưởng thành. Các trưởng lão gương mẫu

trong 1 Ti-mô-thê chương 3 và Tít chương 1 được tìm thấy trong

những hội thánh gương mẫu.

Việc chỉ định các anh em tương đối thuộc linh làm trưởng lão

tuy đi ngược lại với quan niệm thời nay nhưng là nguyên tắc

được đưa ra trong Lời Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, mặc dầu thừa

nhận nguyên tắc này, nhưng chúng ta không được tìm cách áp

dụng cách luật pháp cứng nhắc. Làm như vậy sẽ đem đến sự

chết. Chúng ta không được áp đặt điều gì, nhưng phải liên tục

mở ra đối với sự dẫn dắt của Linh. Ngài sẽ cho chúng ta biết

thời điểm đúng đắn để chỉ định các trưởng lão tại một hội

thánh. Nếu không có sự dẫn dắt của Thánh Linh và hoàn cảnh

không cho phép chỉ định ngay các trưởng lão vào chuyến thăm

viếng thứ hai của các sứ đồ, thì một người như Tít có thể ở lại để

lo việc chỉ định trưởng lão về sau. Đó là đề tài đầu tiên được bàn 

đến trong sách Tít, và là đề tài quan trọng nhất. Phao-lô dặn

bảo Tít lập các trưởng lão tại mỗi thành tại Cơ-rết (Tít 1:5).

Khi chỉ định các trưởng lão, các sứ đồ không theo sở thích cá

nhân; họ chỉ lập những người Đức Chúa Trời đã lựa chọn rồi. Đó

là vì sao Phao-lô có thể nói với các trưởng lão tại Ê-phê-sô rằng:

“Thánh Linh đã lập anh em làm giám mục” (Công 20:28). Các sứ

đồ không khởi xướng việc này. Họ chỉ lập làm trưởng lão những

người mà Thánh Linh đã lập làm người coi sóc trong hội thánh

rồi. Trong tổ chức do loài người lập ra, một người có quyền giữ

một chức vụ hành chánh nhờ được bổ nhiệm cho chức vụ ấy;

nhưng trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời thì không phải như

vậy. Mọi sự đều dựa trên nền tảng thuộc linh, chỉ sự chỉ định

thần thượng mới làm cho một người đủ điều kiện nhận chức vụ

hành chánh. Nếu Thánh Linh không lập người ta làm giám mục,

thì sự chỉ định của sứ đồ không có hiệu quả gì cả. Trong Hội

Thánh của Đức Chúa Trời, mọi sự đều ở dưới quyền tể trị của

Linh, và con người bị loại trừ. Trưởng lão không phải là những

người nghĩ mình có khả năng điều khiển công việc hội thánh,

hay là những người mà các sứ đồ nghĩ là thích hợp, nhưng là

những người mà Thánh Linh đã lập làm giám mục trong Hội

Thánh. Những người mà Linh chọn lựa làm người chăn bầy thì

cũng được ban cho ân điển và ân tứ để họ đủ điều kiện cho sự

lãnh đạo thuộc linh. Chính sự kêu gọi thuộc linh và sự trang bị

thuộc linh đã làm cho họ trở nên trưởng lão, chứ không phải sự

chỉ định chính thức. Theo ý nghĩa thuộc linh, họ đã là trưởng lão

trước khi chính thức giữ địa vị ấy, và vì họ thật sự các trưởng

lão nên họ được công khai chỉ định làm trưởng lão. Trong Hội

Thánh ban đầu, trước hết Thánh Linh cho biết những người được

Ngài chọn làm trưởng lão; kế đến các sứ đồ xác quyết sự lựa chọn

ấy bằng cách chỉ định họ vào chức vụ.

 

 

CÁC SỨ ĐỒ VÀ CÁC TRƯỞNG LÃO

Các trưởng lão là những người tại địa phương được chỉ định

coi sóc các công việc trong hội thánh địa phương. Lãnh vực của

chức vụ họ giới hạn trong một địa phương. Một trưởng lão tại

Ê-phê-sô không phải là trưởng lão tại Sy-miệc-nơ, và trưởng

lão tại Sy-miệc-nơ không phải trưởng lão tại Ê-phê-sô. Trong 

Kinh Thánh không có các sứ đồ địa phương, cũng không có các

trưởng lão ngoài địa phương; mọi trưởng lão đều thuộc về địa

phương, và mọi sứ đồ đều ở ngoài địa phương. Không nơi nào

trong Lời Đức Chúa Trời nói về việc sứ đồ quản lý công việc

của hội thánh địa phương, và không nơi nào nói về việc trưởng

lão quản lý những công việc của vài hội thánh địa phương. Các

sứ đồ là những người cung ứng cho tất cả các hội thánh, nhưng

họ không điều khiển hội thánh nào cả. Các trưởng lão được

giới hạn trong một hội thánh, và họ điều khiển công việc tại

nơi ấy. Nhiệm vụ của các sứ đồ là thành lập các hội thánh. Khi

một hội thánh được thành lập, mọi trách nhiệm được giao cho

các trưởng lão tại địa phương, và từ ngày ấy các sứ đồ không

kiểm soát công việc của hội thánh. Mọi sự quản lý đều ở trong

tay các trưởng lão, và nếu họ nghĩ tốt nhất là phải khước từ

một sứ đồ nào đó vào hội thánh của họ thì họ có thể quyết định

như vậy. Nếu trường hợp như vậy xảy ra, vị sứ đồ ấy sẽ không

có quyền buộc hội thánh tiếp nhận mình, vì mọi uy quyền địa

phương đều được chuyển từ tay sứ đồ vào tay các trưởng lão.

Phao-lô đã xử lý người tín đồ ngoại tình tại Cô-rin-tô như

thế nào? Không phải ông chỉ thông báo cho hội thánh biết ông

đã dứt thông công người ấy. Cùng lắm là ông chỉ có thể bày tỏ

cho các thành viên của hội thánh ấy thấy tính nghiêm trọng

của tình hình và khuyên họ hãy dứt bỏ người gian ác ấy khỏi

giữa vòng họ (1 Côr. 5:13). Nếu hội thánh đúng đắn về mặt

thuộc linh, họ sẽ chú ý đến Phao-lô, nhưng nếu họ không nghe

những lời khuyên của ông, dầu họ sai về mặt thuộc linh, nhưng

không sai về mặt pháp lý. Nếu họ khinh thường lời khuyên của

ông, Phao-lô chỉ có thể đem uy quyền thuộc linh của mình để

đối phó với tình hình. Trong danh Chúa Giê-su ông có thể “phó

người như thế cho Sa-tan để hủy diệt xác thịt” (c. 5). Ông

không có uy quyền chính thức để kỷ luật người ấy, nhưng có uy

quyền thuộc linh để xử lý trường hợp này. Ông có “cái roi”

thuộc linh của mình.

Công việc của hội thánh địa phương hoàn toàn độc lập với

các sứ đồ. Một khi các trưởng lão đã được chỉ định, trách nhiệm

điều khiển mọi việc chuyển qua tay họ, và từ đó về sau, dầu sứ

đồ vẫn có thể hướng dẫn và thuyết phục, nhưng không bao giờ 

được xen vào. Tuy nhiên, điều này không ngăn trở Phao-lô nói

cách đầy uy quyền với người Cô-rin-tô. Ngay cả một người đọc

lướt qua cũng nhận thấy trong cả hai Thư tín, lời ông đầy uy

quyền dường nào. Đưa ra phán quyết khi có những vấn đề về

giáo lý và đạo đức thì thuộc phạm vi của ông, và khi làm như

vậy ông nói rất mạnh; nhưng việc thực hiện những phán quyết

ấy thì nằm ngoài phạm vi của ông và hoàn toàn là vấn đề

thuộc hội thánh địa phương.

Một sứ đồ có thể xử lý sự rối loạn của một hội thánh khi hội

thánh ấy yêu cầu ông khuyên lơn và chỉ dẫn, như trường hợp

của Phao-lô và hội thánh tại Cô-rin-tô. Vì họ hỏi ý kiến ông

nên ông có thể nói với họ: “Còn các việc khác, lúc tôi đến sẽ

sắp đặt” (1 Côr. 11:34). Nhưng điểm cần lưu ý ở đây là các việc

khác mà Phao-lô định giải quyết khi đến Cô-rin-tô sẽ được giải

quyết theo cùng một cách ông đã giải quyết những việc trong

thư của mình, những việc ấy đã được xử lý theo giáo lý. Khi ông

đến, ông sẽ chỉ dẫn họ về những việc còn lại theo cách ông đã

chỉ dẫn họ về một số vấn đề khác; nhưng chính người

Cô-rin-tô, chứ không phải Phao-lô, là người sẽ phải đối phó với

tình hình.

Phi-e-rơ và Giăng là các sứ đồ, vậy làm thế nào họ lại là các

trưởng lão tại Giê-ru-sa-lem? (1 Phi 5:1; 2 Giăng 1; 3 Giăng 1).

Họ vừa là trưởng lão vừa là sứ đồ vì không những họ chịu trách

nhiệm về công tác tại những nơi khác nhau, mà họ cũng chịu

trách nhiệm về hội thánh tại nơi họ ở. Khi ra đi, họ cung ứng

với tư cách là sứ đồ, gánh vác trách nhiệm về công tác tại

những nơi khác. Khi trở về nhà, họ thực hiện nhiệm vụ của

trưởng lão, gánh vác trách nhiệm của hội thánh địa phương.

(Chỉ những sứ đồ không ra đi nhiều mới có thể làm trưởng lão

của hội thánh tại nơi mình ở). Khi Phi-e-rơ và Giăng đi khỏi

hội thánh mình, họ là sứ đồ; khi trở về, họ là các trưởng lão.

Họ là trưởng lão tại Giê-ru-sa-lem không phải vì họ là sứ đồ;

họ là trưởng lão hoàn toàn vì họ là những người tại địa phương

trưởng thành hơn các anh em khác về mặt thuộc linh.

Trong Kinh Thánh không có trường hợp một sứ đồ đi thăm

viếng rồi định cư làm trưởng lão tại một hội thánh mình đến

thăm; nhưng nếu hoàn cảnh cho phép ông ở nhà thường xuyên 

thì ông có thể làm trưởng lão tại chính địa phương của mình vì

ông là một anh em địa phương. Muốn giữ gìn tính chất địa

phương của các hội thánh Đức Chúa Trời, thì tính chất ngoài

địa phương của các sứ đồ cũng phải được giữ gìn.

Phao-lô được sai đi từ An-ti-ốt, và ông thành lập hội thánh tại

Ê-phê-sô. Chúng ta biết ông không giữ chức vụ trưởng lão tại bất

cứ hội thánh nào, nhưng ông có thể làm trưởng lão tại An-ti-ốt,

chứ không tại Ê-phê-sô. Ông trải qua ba năm tại Ê-phê-sô,

nhưng ông công tác tại đó với tư cách là một sứ đồ, chứ không

phải một trưởng lão; tức là ông không giữ trách nhiệm và thi

hành uy quyền trong những vấn đề thuộc địa phương, nhưng chỉ

dâng mình cho chức vụ sứ đồ. Chúng ta phải nhớ kỹ rằng không

có trưởng lão trong Hội Thánh hoàn vũ và không có sứ đồ trong

hội thánh địa phương.

 

 

TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TRƯỞNG LÃO

Phục vụ Chúa theo khả năng của mình và trong phạm vi của

mình là trách nhiệm của mỗi người được cứu. Đức Chúa Trời

không chỉ định các trưởng lão làm việc thay cho anh em mình.

Sau khi được chỉ định làm trưởng lão, thì cũng như trước đây,

bổn phận và đặc quyền của anh em vẫn là phục vụ Chúa. Các

trưởng lão cũng được gọi là giám mục (Công 20:28; Tít 1:5, 7).

Từ ngữ “trưởng lão” liên quan đến con người của họ; từ ngữ

“giám mục” liên quan đến công tác của họ. Giám mục nghĩa là

người coi sóc, người coi sóc không phải là người làm việc thế

cho người khác, mà là người giám sát người khác làm việc. Đức

Chúa Trời dự định rằng mỗi Cơ-đốc-nhân cần phải là một

“công tác viên Cơ-đốc” và Ngài chỉ định một số người coi sóc để

công việc được tiến hành có hiệu quả. Ngài không bao giờ có ý

tưởng là đa số tín đồ nên hoàn toàn chuyên chú vào công việc

thế tục và để việc hội thánh cho một nhóm chuyên gia thuộc

linh. Có nhấn mạnh điểm này đến bao nhiêu cũng không đủ.

Các trưởng lão không phải là một nhóm người ký hợp đồng để

làm công việc hội thánh thay cho các thành viên của hội

thánh; họ chỉ là những người coi sóc công việc. Công việc của 

không làm việc thay cho người ta, nhưng chỉ hướng dẫn người

ta làm việc.

Trách nhiệm của trưởng lão liên quan đến những vấn đề thế

tục và thuộc linh. Họ được chỉ định để “dẫn dắt”, cũng để

“hướng dẫn” và “chăn dắt”. “Hãy coi các trưởng lão khéo lãnh

đạo là đáng được tôn trọng bội phần, nhứt là những người chịu

lao khổ trong việc truyền đạo” (1 Tim. 5:17). “Hãy chăn bầy của

Đức Chúa Trời ở giữa anh em, theo ý Đức Chúa Trời mà coi sóc,

chẳng phải bởi ép buộc, bèn là bởi tình nguyện; cũng chẳng

phải vì lợi đê hèn, bèn là vì sẵn lòng; cũng chẳng phải là chủ

trị cơ nghiệp đã chia cho anh em, bèn để làm gương mẫu cho

bầy” (1 Phi 5:2-3).

Lời Đức Chúa Trời dùng từ ngữ “dẫn dắt” trong mối quan hệ

với các trách nhiệm của một trưởng lão. Sắp đặt việc quản trị

hội thánh, quản lý công việc hằng ngày và coi sóc những điều

vật chất đều ở dưới sự điều khiển của họ. Nhưng chúng ta phải

nhớ rằng một hội thánh phù hợp với Kinh Thánh không bao

hàm một nhóm anh em năng động và một nhóm thụ động,

nhóm năng động điều khiển nhóm thụ động, nhóm thụ động

chỉ đầu phục sự điều khiển của họ, hoặc nhóm năng động mang

trọn gánh nặng trong khi nhóm thụ động ngồi thoải mái hưởng

thụ lợi ích do công lao của nhóm năng động. “Các chi thể phải

đồng lo tưởng đến nhau” là mục đích của Đức Chúa Trời dành

cho Hội Thánh Ngài (1 Côr. 12:25). Hội thánh nào theo lòng

Đức Chúa Trời cũng có dấu ấn “lẫn nhau” trong trọn nếp sống

và mọi hoạt động. Hỗ tương là đặc tính nổi bật của hội thánh.

Nếu các trưởng lão quên điều đó, thì việc dẫn dắt hội thánh

chẳng bao lâu sẽ bị đổi thành việc chủ trị hội thánh. Thậm chí

đang khi điều khiển những công việc hội thánh, các trưởng lão

phải nhớ rằng họ chỉ cùng là thành viên với các tín đồ khác;

một mình Đấng Christ là Đầu. Họ không được chỉ định để làm

chủ các anh em mình, nhưng để làm gương. Gương mẫu là gì?

Nghĩa là làm gương để những người khác noi theo. Vì họ là

gương mẫu cho anh em, nên rõ ràng Đức Chúa Trời không có ý

định họ làm mọi công việc và các anh em không làm gì cả,

cũng không phải các anh em làm việc trong khi họ chỉ đứng ra

lệnh. Các trưởng lão làm gương cho các anh em ngụ ý các anh 

em làm việc và các trưởng lão cũng làm việc. Điều này cũng

ngụ ý các trưởng lão làm việc cách siêng năng và cẩn trọng đặc

biệt, để các anh em có gương tốt noi theo. Họ là những người

coi sóc, chứ không phải là chủ của các anh em, đứng tách rời và

ra lệnh; họ thật có hướng dẫn công tác, nhưng họ hướng dẫn

bằng cách làm gương hơn là bằng cách ra lệnh. Đó là quan

niệm của Kinh Thánh về sự dẫn dắt của các trưởng lão.

Nhưng trách nhiệm của họ không chỉ liên quan đến phương

diện vật chất của công việc hội thánh. Nếu Đức Chúa Trời đã

trang bị cho họ những ân tứ thuộc linh, thì họ cũng cần phải

gánh vác trách nhiệm thuộc linh. Phao-lô viết cho Ti-mô-thê:

“Hãy coi các trưởng lão khéo lãnh đạo là đáng được tôn trọng

bội phần, nhứt là những người chịu lao khổ trong việc truyền

đạo và dạy dỗ” (1 Tim. 5:17). Trách nhiệm của mọi trưởng lão

là điều khiển công việc của hội thánh, nhưng những người có

các ân tứ đặc biệt (chẳng hạn như nói tiên tri hay dạy dỗ) được

tự do sử dụng những ân tứ ấy để gây dựng hội thánh về mặt

thuộc linh. Phao-lô viết cho Tít rằng một trưởng lão cần phải

“có thể đem đạo thuần chánh mà vừa khuyên dạy người ta, vừa

thuyết phục kẻ chống trả” (Tít 1:9). Sự rao giảng và dạy dỗ

trong hội thánh địa phương không phải là công việc của các sứ

đồ mà là công việc của các anh em địa phương ở trong chức vụ

cung ứng, đặc biệt nếu họ là các trưởng lão. Như chúng ta đã

thấy, việc quản trị hội thánh là vấn đề trách nhiệm tại địa

phương; việc dạy dỗ và rao giảng cũng vậy.

Về phương diện thuộc linh của công tác, các trưởng lão giúp

xây dựng hội thánh không những bằng cách dạy dỗ và rao

giảng, mà còn bằng công tác chăn bầy. Chăn bầy đặc biệt là

công tác của các trưởng lão. Phao-lô nói với các trưởng lão tại

Ê-phê-sô rằng: “Anh em hãy giữ lấy mình và luôn cả bầy mà

Thánh Linh đã lập anh em làm giám mục, để chăn hội thánh

của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằng chính huyết Ngài”

(Công 20:28). Theo cùng một chiều hướng Phi-e-rơ đã viết cho

các trưởng lão giữa vòng các thánh đồ tản trú: “Hãy chăn bầy

của Đức Chúa Trời ở giữa anh em” (1 Phi 5:2). Quan niệm ngày

nay về các mục sư hoàn toàn không có trong ý nghĩ của Đức

Chúa Trời. Ý tưởng của Đức Chúa Trời là những người được lựa 

chọn từ giữa vòng các anh em địa phương cần phải chăn bầy,

chứ không phải những người đến từ những nơi khác nên rao

giảng phúc-âm, thành lập hội thánh và định cư để chăm sóc

các hội thánh. Hiểu rõ các trách nhiệm riêng biệt của sứ đồ và

trưởng lão sẽ giải quyết nhiều nỗi khó khăn tồn tại trong hội

thánh ngày nay.

 

 

NHIỀU TRƯỞNG LÃO

Chúng ta đã thấy công tác dẫn dắt, dạy dỗ và chăn bầy là

nhiệm vụ đặc biệt của các trưởng lão. Không nơi nào nhiệm vụ

này được trao cho chỉ một người. Có các mục sư (người chăn)

trong hội thánh là phù hợp với Kinh Thánh, nhưng hệ thống

mục sư ngày nay thì hoàn toàn không phù hợp với Kinh Thánh;

đó là phát minh của con người.

Trong Kinh Thánh chúng ta thấy rằng trong một hội thánh

địa phương luôn luôn có nhiều hơn một trưởng lão hay giám

mục. Ý muốn của Đức Chúa Trời không phải là chọn ra một tín

đồ giữa vòng mọi người khác để giữ một địa vị đặc biệt nổi bật,

trong khi những người khác vâng phục ý muốn của người ấy

cách thụ động. Nếu việc quản lý cả hội thánh chỉ dựa trên một

người, người ấy dễ trở nên tự phụ, tự cao quá mức và dễ áp chế

những anh em khác (3 Giăng). Đức Chúa Trời đã chỉ định một

vài trưởng lão cùng chia sẻ công tác của hội thánh, để không cá

nhân nào có thể chuyên quyền, xem hội thánh là tài sản riêng

của mình và để lại dấu ấn của cá nhân mình trên toàn bộ sinh

hoạt và công tác của hội thánh. Đặt trách nhiệm vào tay vài

anh em, thay vì vào tay một cá nhân, chính là phương cách Đức

Chúa Trời bảo vệ hội thánh khỏi những điều ác gây ra do sự

thống trị của một cá tính mạnh mẽ. Đức Chúa Trời đã định

rằng vài anh em cần phải đoàn kết gánh vác trách nhiệm

trong hội thánh, để khi điều khiển công việc của hội thánh, họ

tùy thuộc vào nhau và thuận phục lẫn nhau. Qua đó, trên thực

tế, họ sẽ khám phá ra ý nghĩa của việc vác thập tự giá, và họ

sẽ có cơ hội bày tỏ lẽ thật về Thân Thể Đấng Christ cách thực

tế. Khi họ tôn trọng và tin cậy lẫn nhau trong sự dẫn dắt của

Linh, không người nào chiếm lấy chỗ của Đầu, nhưng mỗi 

người xem những người khác là chi thể như mình, thì yếu tố hỗ

tương, là đặc tính nổi bật của hội thánh, sẽ được gìn giữ.

 

Watchman Nee


 

 

 

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2