How to Take Amoxicillin
  amoxicillin over the counter 
sunilrav.com buy amoxicillin australia
               Kinh văn: Hêbơrơ 8:5; Thi thiên 19:13
Trong  công việc thuộc linh, điều tối quan trọng là biết “kiểu mẫu…trên núi”  [Hêb. 8:5]. Có nhiều điều quan trọng trong công việc thuộc linh; thiếu  hụt bất cứ một trong những điều nầy đều làm cho công việc chúng ta mất  sự hữu dụng thuộc linh và làm cho Đức Chúa Trời không hài lòng. Nhưng  giữa vòng nhiều  điều nầy, điều rất quan trọng là “kiểu mẫu…trên núi”.  Kiểu mẫu trên núi là kế hoạch của Đức Chúa Trời. Nếu không có sự am hiểu  kế hoạch Đức Chúa Trời, không thể có công tác của Đức Chúa Trời.
-
Sách Hêbơrơ bảo rằng đền tạm được làm theo kiểu mẫu của Đức Chúa  Trời. Trước khi Môise có thể làm đền tạm, ông đã ở trên núi trải 40 ngày  và 40 đêm đến nỗi Đức Chúa Trời có thể bày tỏ cho ông kiểu mẫu của đền  tạm trên trời. Từ nơi thánh đến bàn thờ, bao gồm mọi lớp bong che trên  đền tạm, đã có một kiểu mẫu xác định cho vật liệu và màu sắc được dùng  đến. Không có gì được dành cho ý kiến tuỳ tiện của cá nhân. Mọi sự được  ghi rõ cách xác định. Kinh thánh giải thích chúng cách rõ ràng theo cách  sáng tỏ. Mọi sự liên quan bàn thờ, thùng rửa, cái bàn, chơn đèn, bàn  thờ xông hương, cái hòm, và phần còn lại của các chi tiết trong đền tạm,  bao gồm các loại kim khí hay gỗ được dùng đến, kích thước và màu sắc  của chúng, đều đã được giải thích rõ ràng theo kiểu mẫu định trước của  Đức Chúa Trời. Đã không có một chi tiết nào theo chủ tâm của Môise.-
-
Y như việc Ngài đã xây đền tạm, Đức Chúa Trời cũng có một kế hoạch  định trước liên quan công việc hiện tại xây dựng hội thánh. Mọi sự hoặc  lớn hay nhỏ đều phải được làm trong đường lối xác định. Môise đã không  mang trách nhiệm phác họa kiểu mẫu đền tạm. Ông chỉ có trách nhiệm xây  dựng theo kiểu mẫu đã bày tỏ cho ông trên núi. Vinh quang công tác viên  của Christ không tuỳ thuộc trên việc hoặc anh ta có thể làm gì cho Đức  Chúa Trời dựa vào các ý tưởng do sáng kiến của anh, nhưng hoặc anh có  khả năng thi hành ý muốn được khải thị của Đức Chúa Trời hay không. Am  hiểu kế hoạch do Đức Chúa Trời định trước là vinh quang của công tác  viên Đức Chúa Trời.
Khi tôi  bắt đầu công tác, một giáo sĩ Tây  phương [ hiện giờ là 1932, đã qua đi rồi] đã bảo cùng tôi rằng tuyệt  đối không cho phép có sự tự do. Khi Môise xây dựng đền tạm, ông đã không  có sự tự do quyết định hoặc một con ốc nên bằng vàng hay bằng bạc; mọi  sự phải được thực hiện theo các chỉ thị của Đức Chúa Trời.
-
Đức Chúa Trời đã gọi Môise là người nhu mì hơn hết trên trái đất. Nhu mì  nghĩa là “mềm dễ uốn và đầu hàng”. Bất cứ điều gì Đức Chúa Trời muốn  Môise làm, ông đã làm. Bất luận Đức Chúa Trời muốn Môise dùng vật liệu  và màu sắc nào, bất cứ kiểu mẫu và kích thước nào, mọi sự đã được làm  theo các chỉ thị của Đức Chúa Trời. Ông đã hành động trong mọi sự việc  theo chi dẫn của Đức Chúa Trời và không bao giờ theo chủ tâm riêng của  ông. Đây là sự nhu mì.
Tại đây có đôi điều ban cho ta sự hiểu  biết thuộc linh sâu sắc cách lớn lao. Ta có thể thấy địa vị của một đầy  tớ liên quan công việc của Chúa. Mọi sự liên quan đền tạm đều đã được  Đức Chúa Trời quyết định. Ngài đã không để cho Môi se quyết định một  điều nào. Ngài đã không cho Môise cơ hội đóng góp một ý tưởng nào. Đức  Chúa Trời đã không chỉ nói với Môise về đồ án tổng quát để xây dựng đền  tạm , Ngài cũng nói với ông về các chi tiết. Không chỉ kiểu mẫu, vật  liệu và màu sắc theo các chỉ dẫn của Đức Chúa Trời, nhưng kích thước của  mọi chi tiết cũng đều do Ngài quyết định. Chỉ làm bằng các vật liệu do  Đức Chúa Trời chọn lựa thì không đầy đủ; cũng phải có lịnh truyền xác  định về cách sử dụng vật liệu. Thí dụ, các tấm màn không chỉ được làm  bằng vải gai mịn mà thôi, nhưng bằng vải gai mịn xe lại. Kinh thánh bảo  thêm cho chúng ta rằng chơn đèn không chỉ làm bằng vàng ròng, nhưng là  khối vàng ròng đánh giác. Đức Chúa Trời đã không dành một chỗ nào cho  Môise đề nghị một ý tưởng. Đức Chúa Trời đã biết những gì Ngài muốn cho  chính Ngài; Ngài đã không cần con người bảo cho Ngài những ước muốn của  Ngài là gì.
-
Phước hạnh lớn nhất của công tác viên của  Christ là có khả năng tiếp thu các chỉ thị của Đức Chúa Trời trên núi và  biết được công việc Đức Chúa Trời đã giao phó cho anh ta với kiểu mẫu  quyết định trước của nó. Trong mọi điều ta thấy ngày nay, chủng ta có  thể nói rằng các đầy tớ của Christ có đến trước mặt Đức Chúa Trời để cầu  xin Ngài phân công cho họ công việc họ nên làm chăng? Họ có đến trước  mặt Đức Chúa Trời và xin Ngài chỉ  đạo họ về thì giờ và đường lối công  việc họ chăng? Có đúng chăng khi ta thấy nhiều buổi nhóm, các sự thảo  luận, các việc lập kế hoạch, các sự cân nhắc kỹ lưỡng và quyết định ?  Nhiều người cho rằng Đức Chúa Trời đã không có một sự sắp xếp chi tiết  về công việc của họ và rằng nhiều sự việc là trách nhiệm của họ.Họ đã  không thấy rằng trong công việc của Đức Chúa Trời họ chỉ là đầy tớ và  chỉ nên làm những gì họ được bảo. “Hễ Người bảo gì hãy làm theo” [Giăng  2:5]. Trong Thân Thể của Christ, ta chỉ là các chi thể; ta phải tuyệt  đối ở dưới sự kiểm soát của Đầu. “Bám chặt với Đầu”[ Côl. 2:19]. Những  người nầy cho rằng Đức Chúa Trời sẽ dùng sự sống thiên nhiên và khả năng  thiên nhiên của họ để làm nên những gì đang thiếu hụt trong kế hoạch  của Đức Chúa Trời. Ta không đang nói điều nầy vì mục đích chỉ trích.  Đúng ra, ta khao khát rằng các con cái Đức Chúa Trời thấy rằng trong  công việc của Đức Chúa Trời , Christ là ông Chủ tuyệt đối. Mọi sự về  công tác trước hết phải được tiếp nhận như một lệnh truyền từ Ngài trước  khi điều đó có thể được thực hiện. Sự biểu lộ khả năng của một công  nhân của Christ và sự chứng tỏ sự hữu dụng thuộc linh cách dồi dào chỉ  có thể xảy ra khi một người chú ý lắng nghe kế hoạch của Đức Chúa Trời ,  và theo đó mà thi hành. Các công việc khác có thể thịnh vượng và có vẻ  lớn lao trong con mắt của loài người, nhưng chúng không có quyền năng  hay sự hữu dụng thiết thực.
-
Thi thiên 19:13 chép, “ xin giữ  tôi tớ Chúa khỏi các tội lỗi tự phụ [ táo bạo, cố ý , tự tin]; nguyện  các tội ấy không thống trị trên tôi; khi ấy tôi sẽ không chỗ chê trách  được và làm sạch các vi phạm lớn lao”. Các tội lỗi của chúng ta đối với  Đức Chúa Trời có hai loại: một là nổi loạn và loại kia là tự phụ. Khi  Đức Chúa Trời bảo anh em làm điều gì, và trái ngược với các ước muốn của  Ngài, anh em không vâng lời nhưng làm điều Ngài không mong muốn, đó là  tội nổi loạn. Tất cả chúng ta đều biết đây là một tội lỗi và không sẵn  sàng nổ lực chấm dứt nó. Không ai trong chúng ta muốn vi phạm tội lỗi  nầy. Nhưng , anh chị em ơi, kinh thánh không  chỉ bảo rằng nổi loạn là  tội lỗi, nhưng tự phụ và tính hấp tấp cũng là các tội lỗi.  Khi ta bắt  đầu một công việc mà Đức Chúa Trời đã không chỉ thị cho ta làm, ta đang  phạm tội tự phụ. Nổi loạn là khước từ làm những gì Đức Chúa Trời đã  truyền lịnh, còn tự phụ là đang làm những gì Đức Chúa Trời đã không  truyền lịnh. Hành động bên ngoài Đức Chúa Trời là tội tự phụ. Ngài phán,  “ngươi chớ phạm tội tà dâm [ngoại tình]. Ngươi chớ trộm cướp” [Xuất  20:14-15]. Nếu một người vi phạm các điều nầy, đó là tội lội. Chúng ta  đều biết điều nầy. Nhưng trong những điều mà Ngài đã không truyền lịnh,  ta cho rằng ta có thể hành động cách cẩu thả, không nhận thức rằng đây  cũng là tội lỗi. Nếu ta bắt đầu một điều gì mà Ngài đã không truyền  lịnh, thậm chí là điều rất tốt, đó cũng là tội. Khi Ngài đã không ban  cho ta mạng lịnh, thậm chí hoạt động cho Đức Chúa Trời cũng là một tội  lỗi. Lời cầu nguyện trong Thi thiên 19 là tốt đẹp thực sự. Tác giả Thi  thiên cầu xin Đức Chúa Trời giữ gìn ông khỏi các tội tự phụ.
--
Đức Chúa Trời biết những gì Ngài mong muốn. Mọi điều mà Ngài mong  muốn từ ta đều đã được khải thị hoặc qua kinh thánh hay qua Đức Thánh  Linh. Vì vậy, bất cứ điều gì Ngài đã không phán thì đơn giản là công  việc Ngài không mong muốn. Trong công việc thuộc linh không phải là sự  việc khối lượng, nhưng sự việc đo lường theo tiêu chuẩn có hữu dụng với  Đức Chúa Trời và cân xứng khát vọng Ngài hay không. Nhiệm vụ rất quan  trọng cho một công tác viên của Christ là đích xác biết những gì Đức  Chúa Trời muốn anh ta làm và thì giờ cùng phương pháp mà anh ta nên dùng  để thực hiện điều đó. Một công tác viên của Christ không cần suy nghĩ  những gì anh ta phải làm, cũng không có chỗ cho những lời như vầy, “tôi  tưởng rằng  điều nầy sẽ làm Chúa hài lòng”. Điều lạ lùng trong Tân ước  là một người có thể biết ý muốn Đức Chúa Trời. Một công nhân của Christ  có thể tiếp nhận , bên trong anh ta, sự khải thị của Đức Thánh Linh và  biết sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời nơi anh cách rõ ràng. Sự hiểu biết nầy  là thiết thực. Đây không phải là ý tưởng của anh, hay sự khuyến khích  và chỉ thị từ kẻ khác.Cũng không phải là sự dạy dỗ của kinh thánh theo  văn tự. Đúng ra, đây là cái nhìn sáng tỏ  về mệnh lệnh của Đức Chúa Trời  trong linh anh, trong phần sâu thẳm nhất của bản thể anh. Ngày nay, số  lượng những người hiểu các sự khải thị thuộc linh đã giảm sút. Có ít  người có thể nói, “tôi đã thấy rõ ràng”. Do đó, “công việc của Đức Chúa  Trời” không còn là công việc mà Đức Chúa Trời mong muốn hoàn thành. Đúng  ra, nó trở nên đôi điều mà con người coi là tốt và thuộc linh, mà con  người  nhiệt thành nổ lực và kể là có ích lợi. Nó trở nên đôi điều thay  thế công việc của Đức Chúa Trời.
-
Những gì ta thấy ngày nay  là càng có thêm các người tình nguyện hơn những người được kêu gọi.  Nhiều người chỉ có thể nói, “tôi đã đến”, nhưng không phải “ tôi đã  thấy”. Vì vậy, ta thấy rằng công việc Đức Chúa Trời bị sự chết thuộc  linh che phủ. Có nhiều công việc mà Đức Chúa Trời đã không yêu cầu nhưng  đã xoay chuyển vì cớ con người đã đề xuất sự nhiệt tình vì Đức Chúa  Trời. Dưới sự giả định rằng Đức Chúa Trời cần các công việc nầy, họ tiến  lên thi hành chúng và gọi chúng là công việc của Đức Chúa Trời.Thực  vậy, trong loại công việc nầy phần từ Đức Chúa Trời và của  Đức Chúa  Trời thì hầu như không.
Ấy là Đức Chúa Trời , không phải chúng  ta, Đấng quyết định rằng công tác thuộc linh nào là cần thiết. Điều   cao nhất ta có thể làm là bày tỏ khát vọng của Ngài. Thực vậy, mọi công  việc mà có giá trị thuộc linh đều được đề khởi từ lòng Đức Chúa Trời.  Chúng ta chỉ là những người, bởi sự khải thị của Đức Thánh Linh ở bên  trong mình, được ban cấp sự hiểu biết để làm việc. Hiện tại, bất kể dáng  vẻ bên ngoài của chúng, có hai loại công việc, sự ủy nhiệm và các kết  quả. Một do Đức Chúa Trời đề xuất và cái kia do con người. Trong điều  thứ nhất, Đức Chúa Trời muốn như vậy; trong điều sau, con người nghĩ  rằng đây là những gì Đức Chúa Trời muốn. Anh em yêu dấu của tôi, anh em  đang làm loại công việc nào?
-
Điều rất đáng tiếc là các công  tác viên của Christ hoặc không chú ý tội lỗi tự phụ hay không hiểu thấu  suốt tội lỗi tự phụ. Trước mặt Đức Chúa Trời họ đã không được Đức Thánh  Linh đưa đến điểm nơi đó họ xét đoán chính mình cách thông suốt và nhận  thức rằng chỉ Đức Chúa Trời là Chúa và họ hoàn toàn không có sự trì  hoản nào để đề nghị một ý tưởng nào. Ta cần sự quở trách của Đức Thánh  Linh đến nỗi ta nhận thức tội lỗi là gì, tự phụ là gì, và chúng đáng ghê  tởm là dường nào. Ta phải biết rằng nó không chỉ là một tội lỗi làm cho  ta bỏ qua mệnh lệnh của Ngài, nhưng nó cũng là tội lỗi khi ta làm những  gì Ngài không ra lệnh. Nhiều người thường nói,”tại sao tôi không có thể  làm điều nầy , vì Đức Chúa Trời đã không cấm nó mà?” Thay vì, ta nên  nói,” làm sao tôi có thể làm điều nầy, vì Đức Chúa Trời đã không truyền  lịnh mà?”. Bất cứ người nào mà không sâu nhiệm và thuộc linh trong Chúa  đều cho rằng ta có thể làm bất cứ điều gì kinh thánh không cấm đoán.  Nhưng những ai sâu nhiệm hơn và thuộc linh hơn nữa đều biết rằng nếu họ  làm nhiều điều mà kinh thánh không cấm cản, nhưng làm những điều Đức  Chúa Trời cũng đã không truyền lịnh, họ đang vi phạm tội tự phụ. Anh chị  em ơi, tôi có một sự nhận thức sâu xa  rằng, nếu cuối cùng Đức Chúa  Trời đem ta đến giai đoạn sâu nhiệm hơn, anh em sẽ không chỉ nhận thức  rằng anh em phải không nổi loạn nghịch Ngài, và rằng anh em kiềm chế  khỏi những điều mà Ngài đã cấm,nhưng anh em cũng phải ngừng làm những  điều mà Ngài hoặc đã không truyền lịnh hay không cấm. Nếu bởi ý muốn  riêng của anh em, anh em có thể kiềm chế không làm những điều mà Đức  Chúa Trời không ra lệnh, anh em sẽ là người trưởng thành , một người mà  Đức Chúa Trời có thể dùng. Người trưởng thành không hành động nếu Đức  Chúa Trời không ra lệnh; anh không phạm các tội tự phụ. Nếu Đức Chúa  Trời đã không truyền lịnh anh; anh sẽ chỉ yên lặng và yên tỉnh. Đức Chúa  Trời sẽ chỉ dùng loại người nầy.
-
Trong công việc của Đức  Chúa Trời ngày nay, ta thấy rằng hầu như con người luôn luôn hành động  theo khát vọng riêng của họ. Nếu một người không hỏi tra về ý muốn của  Đức Chúa Trời, thì giờ của Đức Chúa Trời và đường lối của Đức Chúa Trời  là gì, khi ấy, thậm chí nếu công việc của anh có là công việc tốt nhất,  nó chỉ được thực hiện theo sự nhiệt thành của sự sống hồn anh mà thôi.  Nhiều con cái của Đức Chúa Trời không nhận thức rằng xác thịt không chỉ  là chống nghịch Đức Chúa Trời, nhưng nó cũng cố gắng giúp đỡ Đức Chúa  Trời. Họ không nhận thấy rằng thậm chí sự sống thiên nhiên, thuộc hồn  của ta có vài phẩm chất xứng đáng. Họ không nhận thức rằng sự sống thuộc  hồn của họ đã đề xuất sự nhiệt thành của họ vì Đức Chúa Trời. Do đó, sự  sống thuộc hồn sẽ suy nghĩ các đường lối làm cho hôi thánh của Đức Chúa  Trời thịnh vuợng, tính toán các đường lối mở rộng vương quốc của Đức  Chúa Trời, hay nổ lực trong nhiều đường lối để cứu các tôi nhân. Động cơ  và chủ tâm của họ thì tốt, nhưng họ không nhận thức rằng sự sống thiên  nhiên đang điều khiển họ, làm cho họ nhiệt thành, tính toán, lập kế  hoạch, điều dụng và gắng sức.Họ không nhận thức tình trạng chỉ được ở  dưới mạng lịnh của Đức Chúa Trời mà thôi. Họ giả định rằng đang khi đó  là “công tác của Đức Chúa Trời “, khi ấy là công việc tốt nhất. Họ không  nhận thức rằng Đức Chúa Trời không vui lòng nơi bất cứ điều gì  xuất  phát từ sự sống thiên nhiên, bất kể động cơ nó tốt như thế nào, mục tiêu  nó cao quí bao nhiêu, kết quả của nó gây ấn tượng đến đâu. Đức Chúa  Trời không lấy làm hài lòng vì cớ nó không bắt nguồn từ ý muốn của Ngài,  và vì vậy, nó không thích ứng cho sự sử dụng của Ngài. Họ cũng không  nhận thức rằng Đức Chúa Trời không cung cấp quyền năng Ngài cho bất cứ  công tác nào mà không xuất phát từ ý muốn của Ngài. Ngược lại , họ cho  rằng, lòng nhiệt thành, âm điệu, tình cảm,, sức mạnh và nước mắt của họ  cho công tác đều là kết quả của quyền năng làm củng cố của Đức Chúa  Trời. Họ ít nhận thức rằng vào những dịp như vậy họ thực sự rút lấy năng  lực từ sự sống thiên nhiên của họ để cung cấp cho công việc của sự sống  thiên nhiên của họ.
-
Nguyên do của sự tự phụ là gì? Điều  nầy không gì khác hơn là sự biểu lộ của sự sống thiên nhiên. Dầu nhiều  người tiến tới khi Đức Chúa Trời ban ra các mệnh lệnh, họ không thành  thật vui thích ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong lòng mình, họ vẫn thích  các ý tuởng của họ. Vì vậy, khi Đức Chúa Trời yên lặng và không phát  ngôn, họ tiến lên  hành động cách tự phụ táo bạo. Nếu ta không xét đoán  xác thịt và vác lấy thập tự giá để xử lý bản ngã mình, ta có thể miễn  cưởng vâng lời khi Đức Chúa Trời ban ra mệnh lệnh; nhưng, khi Đức Chúa  Trời không ban ra mệnh lệnh, ta sẽ hành động cách không thể tránh được  theo các ý tưởng của chúng ta.
Đối với công tác của Đức Chúa  Trời, tự phụ không nhất thiết có nghĩa người đó có chủ tâm sai trật.  Trước khi ta được Đức Chúa Trời bắt lấy, sự sống bản ngã ta không vui  thích hầu việc Đức Chúa Trời. Nhưng sau khi ta được Đức Chúa Trời bắt  lấy, ta khao khát hầu việc Đức Chúa Trời. Đây là giây phút rất nguy  hiểm.Trong quá khú ta đã tuyệt đối không hầu việc Đức Chúa Trời; bây  giờ, ta định ý hầu việc Đức Chúa Trời và muốn hầu việc theo đường lối  riêng của ta. Đức Chúa Trời đòi hỏi rằng ta không hầu việc Ngài suông;  nhưng ta hầu việc Ngài theo đường lối Ngài vui thích. Ta tạo nên lỗi lầm  khi nghĩ rằng mọi sự đòi hỏi của Ngài là các sự hầu việc của ta và rằng  đường lối hầu việc có thể đuợc giao cho ta sắp xếp. Ta không nhận thức  rằng bất cứ phụng sự nào không được thực hiện theo mệnh lệnh của Đức  Chúa Trời và sẽ không được Ngài chấp nhận. Không chỉ công tác ta được  Đức Chúa Trời ấn định, nhưng các sự việc liên quan tiến trình, phương  pháp và thì giờ của công tác đều cũng do Ngài chỉ định.
-
Bất  luận động cơ có tốt đến đâu, nó không thể thay thế ý muốn Đức Chúa  Trời. Bất luận công việc có mang lại thành công đến đâu, nó thấp kém đối  với niềm vui thích của Đức Chúa Trời. Nhiều công việc đã được làm “để  đáp ứng nhu cầu của tình thế”, “để giúp đỡ các tín đồ trong đời sống  thuộc linh của họ”, và “để cứu các hồn tội nhân”; chúng không được làm  vì mục đích vâng phục mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. Ta không thể nói rằng  không có kết quả xác định từ loại công việc nầy, nhưng loại công tác  viên và công tác nầy không thích hợp cho sự sử dụng của Đức Chúa Trời.  Ta không nên quan tâm về nhu cầu bề ngoài của các tội nhân và tín đồ,  nhưng quan tâm nhu cầu của Đức Chúa Trời vào thì giờ nầy. Tại đây chúng  ta vì nhu cầu của Đức Chúa Trời, không vì nhu cầu của tội nhân hay nhu  cầu của các thánh đồ. Ta là các đầy tớ của Đức Chúa Trời. Dầu ĐứcChúa  Trời đã giao thác trách nhiệm về công tác cho chúng ta, Ngài đã dành cho  chính Ngài quyền bính truyền lịnh các công nhân. Dầu Đức Thánh Linh kêu  gọi Phaolô và Banaba làm việc, họ đã không có thể đi Asi theo ước mong  của họ. Quyền bính quản lý chuyển động của các công tác viên đời đời nằm  trong tay Đức Thánh Linh. Không phải Asi không có nhu cầu, nhưng vào  lúc đó Đức Chúa Trời đã không có nhu cầu cho Asi. Sách Sứ Đồ bày tỏ theo  một đường lối diệu kỳ rằng Đức Thánh Linh ban cho ta quyền năng để làm  việc và rằng Đức Thánh Linh cũng truyền lịnh đường hướng công việc của  chúng ta. Cung cấp nhu cầu của Đức Chúa Trời vào lúc nầy là trách nhiệm  công tác của chúng ta.
-
Kinh thánh bày tỏ rằng Đức Chúa Trời  đã không đặt công việc Ngài vào tay chúng ta. Đức Chúa Trời chỉ có các  tôi tớ, không có các người quản lý. Ta không được Đức Chúa Trời thuê  mướn; ta đã được Ngài tậu mua. Ngài đòi hỏi rằng ta làm các tôi tớ của  Ngài. Chữ tôi tớ theo tiếng Hi lạp là nô lệ. Nô lệ không phải là người  được thuê mướn; anh ta đã được mua bằng tiền. Người làm thuê mướn sẽ hầu  việc chủ mình nếu tâm tính của chủ tốt đẹp, nếu không tốt, anh ta có  thể từ chức. Đây là những gì một vài người ám chỉ đến như là “ở lại nếu  thỏa thuận và lìa bỏ nếu bất hòa”. Nhưng nếu ta là nô lệ, ta phải hầu  việc. thậm chí nếu ta không thích điều đó, ta vẫn phải hầu việc. Ta là  nô lệ của Đức Chúa Trời, không phải công tác viên của Ngài,và càng không  phải là quản lý của Ngài. Vì vậy, ta không thể làm bất cứ điều gì theo  niềm ước mong của ta. Đức Chúa Trời đã không giao phó các sự việc cho ta  đến nỗi ta có thể  đề nghị các ý tưởng theo những gì ta nhận thấy là  tốt hay xấu. Đức Chúa Trời không làm việc theo lối nầy. Về mọi sự, Đức  Chúa Trời có mệnh lệnh xác định cho ta bước theo. Nếu ta không tiếp nhận  được lịnh truyền từ Ngài ngưng hoạt động cách tự phụ, Ngài không thể  chấp nhận chúng ta và không thể dùng chúng ta; kết quả, công việc của  chúng ta chắc chắn sẽ bị thiêu đốt.
Kinh thánh bày tỏ rằng Đức  Chúa Trời không chỉ biểu lộ công việc Ngài trong các việc lớn lao, Ngài  cũng biểu lộ nó trong các việc nhỏ. Vì lý do nầy, ta nên để cho Ngài  không chỉ chiếm hữu chỗ thứ nhất nhưng cũng chiếm chỗ cuối cùng. Ta nên  tôn trọng Ngài, không chỉ như Chúa của những việc lớn, nhưng cũng như  Chúa của các việc nhỏ. Ngài xuyên qua mọi sự và dẫy đầy mọi sự. Nếu ta  đã làm đôi điều không theo đúng ý muốn Đức Chúa Trời, ta vẫn có thể tiếp  nhận lời khen ngợi từ loài người và vẫn coi rằng ta đã làm một công  việc tuyệt vời, nhưng Đức Chúa Trời không có ích lợi nào về chúng ta.
-
Kinh thánh bày tỏ nhiều gương mẫu. Lêviký 10:1-2 nói, “hai con trai  Arôn, Na đáp và Abihu, mỗi người đều cầm lư hương mình, để lửa vào, bỏ  hương lên và dâng một thứ lửa lạ trướcmặt Đức Giêhôva; ấy là điều Ngài  không phán dặn họ. Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Giêhôva lòe ra nuốt  tiêu họ, và họ chết trước mặt Đức Giêhôva”. Các điều lệ về các của lễ  qui định rằng mỗi lần đốt hương, một người phải dùng lửa trên bàn thờ để  nhúm lửa cho hương. Lỗi lầm của Nađáp và Abihu là sư kiện họ đã dùng  loại lửa khác để đốt hương , thay vì dùng lửa từ trên bàn thờ. Kết quả  có sự chết trước mặt Đức Chúa Trời.
Bàn thờ là tiêu biểu của  thập tự giá. Hương là phụng sự của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời.  Lòng nhiệt thành trong phụng sự của chúng ta phải xuất phát từ bàn thờ  của thập tự giá. Những ai không theo các điều lệ về các của lễ đều phải  chết. Thập tự giá là gì? Đó là chỗ ta phải đặt bản ngã vào chỗ chết và  để cho Chúa sống. “ Tôi đã bị đóng đinh với Christ; không còn là tôi  sống nữa, nhưng là Christ sống trong tôi” [Galati 2:20]. Sự khôn ngoan  của bản ngã, ý kiến của bản ngã, khả năng, lòng nhiệt thành, sự trông  chờ, và các niềm ước vọng của bản ngã và của sự sống thiên nhiên tất cả  đều được xử lý trong câu nầy. Sau khi trải qua sự xử lý của thập tự giá,  ta xứng đáng bước đến hầu việc Đức Chúa Trời.
-
Ta không  biết lòng nhiệt thành của con người là lửa lạ nhiều đến dừơng nào! Nó đã  không trải qua sự xử lý của thập tự giá và không được cắt đứt khỏi khát  vọng và sự thông minh của con người. Lòng nhiệt thành của họ hoàn toàn  theo khát vọng của xác thịt, và con người  giả định rằng nếu anh ta làm  điều nầy hay điều đó, công việc thịnh vượng, khi ấy Đức Chúa Trời phải  được hài lòng. Thực vậy lòng nhiệt thành có thể là một hình thức nhiệt  thành, nhưng nó không xuất phát từ Đức Chúa Trời. Có thể lửa là lửa chân  thật, tuy nhiên nó không phải là lửa từ trên bàn thờ. Đúng ra, đó là  lửa lạ. Bất cứ điều gì không xuất phát từ bàn thờ của sự đóng đinh và sự  từ bỏ bản ngã đều hoàn toàn là lửa lạ. Lửa lạ không gì khác hơn là lửa  của bản ngã, lửa xuất phát từ sự sống thuộc hồn. Đây là lửa của sự sống  xác thịt và thiên nhiên. Đó không gì khác hơn là sự sống thiên nhiên xen  vào các sự vụ của Đức Chúa Trời. Dầu sự việc từ Đức Chúa Trời, sự sống  thiên nhiên đề nghị điều đó nên được làm như thế nào. Bản ngã cố nài đưa  ra lời đề nghị, phương pháp, và sự khôn ngoan trong các sự vụ của Đức  Chúa Trời. Thậm chí lửa lạ là lửa, Đức Chúa Trời không chấp nhận mùi  thơm từ sự phụng sự của chúng ta. Ngược lại, chúng ta sẽ chết trước mặt  Ngài.
Nađáp và Abihu là hai con của Arôn. Arôn là thầy thượng  tế do Đức Chúa Trời chọn lựa. Những gì hai người nầy làm không phải là  nổi loạn và chống nghịch Đức Chúa Trời. Họ đã đốt hương hầu việc Đức  Chúa Trời và làm vui lòng Ngài. Nhưng họ đã làm đôi điều mà Đức Chúa  Trời đã không truyền lịnh, đôi điều mà Đức Chúa Trời không ấn định; vì  vậy, họ nhận lãnh sự xét đoán của Đức Chúa Trời. Các con Arôn giả định  rằng vì Đức Chúa Trời đã không cấm sử dụng lửa khác đốt hương, nên chắc  chắn lửa lạ đều đúng. Họ không nhận thức rằng, trong sự việc hầu việc  Đức Chúa Trời, ta không nên làm điều gì mà Đức Chúa Trời đã không truyền  lịnh cách đặc biệt. Họ đã không nhận thức Đức Chúa Trời nghiêm khắc là  dường nào. Trong công việc của ĐứcChúa Trời, bất cứ điều gì Ngài đã  không ra lịnh, Ngài cấm đoán.  Nếu loài ngừời làm điều đó, họ vi phạm  lỗi lầm và tội lỗi. Vì cớ hai người nầy đã phạm một tội tự phụ như vậy,  Đức Chúa Trời đã giết họ. Dầu họ là các con Arôn và là thầy tế lễ hầu  hạ, chầu chực Đức Chúa Trời, Ngài đã không thể tha thứ họ.
-
Những gì họ đã làm không phải là lừa đảo, phạm luật, tà dâm hay trộm  cướp, như trường hợp của các con Hêli  Họ đã không nổi loạn chống một  mệnh lệnh hiển nhiên nào từ Đức Chúa Trời với chủ tâm vi phạm những gì  Đức Chúa Trời đã cấm. Họ có chủ tâm định ý hầu việc Đức Chúa Trời và làm  Ngài vui lòng. Họ định ý chuẩn bị cách cá nhân hai lư hương và dùng lửa  họ mang đến để đốt hương, giả định rằng họ sẽ chiếm được sự quí mến của  Đức Chúa Trời theo đường lối nầy. Họ đã ít nhận thức rằng, thậm chí dầu  chủ tâm của họ là tốt, họ đã theo ý tưởng riêng của mình khi đến trước  mặt Đức Chúa Trời để hầu việc Ngài. Họ đã làm những điều Đức Chúa Trời  không ra lịnh. Họ ít biết rằng làm điều gì vượt quá ý muốn của Đức Chúa  Trời là tội lỗi và xúc phạm Đức Chúa Trời.Trong mọi sự việc liên quan  phụng sự của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời không coi điều gì đó là tốt  suông vì cớ chủ tâm của ta là tốt. Chủ tâm của ta có thể là tốt, nhưng  nếu ta hành động cách tự phụ, Đức Chúa Trời sẽ hình phạt chúng ta vì tội  lỗi tự phụ. Chúng ta có thể không thấy nhiều về tính nghiêm khắc trong  sự xử lý của Đức Chúa Trời có với chúng ta trong công tác của ta ngày  nay. Nhưng nhiều công việc xuất phát từ lửa lạ sẽ bị thiêu hủy trước tòa  án của Đấng Christ. Nguyện Đức Chúa Trời mở mắt ta nhận biết tội lỗi là  gì. Không chỉ tà dâm, trộm cướp, lừa dối, tống tiền và nhơ bẩn là các  tội lỗi, thậm chí “ làm công việc của Đức Chúa Trời”, “rao giảng cứu hồn  người”, “giúp đỡ người khác”, “ dẫn dắt người khác”, cũng là các tội  lỗi nếu chúng không được làm theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. Đức Chúa  Trời sẽ xét đoán các tội lỗi nầy y như Ngài sẽ xét đoán các tội lỗi bất  nghĩa và nhơ bẩn. Bất cứ điều gì anh em làm cách xa mệnh lệnh của Đức  Chúa Trời đều là phụng sự từ lửa lạ.
-
Văn kiện trong 1 Sa  13:8-14 liên quan việc Saulơ dâng của lễ thiêu nên là sự cảnh cáo lớn  cho ta. Đã có ba lý do tại sao Saulơ dâng của lễ. Thứ nhất, ông ta  đã  thấy dân chúng tản lạc lìa khỏi ông.Thứ hai, Samuên đã không đến vào thì  giờ đã định. Thứ ba, kẻ thù của ông là quân Philitin đóng trại tại  Míchma và tràn xuống Ghinh ganh chiến đấu với ông. Vì vậy, Saulơ tự mình  dâng của lễ thiêu. Saulơ đã không phạm tội tà dâm, trộm cướp hay tống  tiền. Ông đã chỉ dâng của lễ cho Giêhôva. Trong lòng mình ông  sợ Đức  Chúa Trời sẽ không hài lòng nếu ông đã không dâng lời van xin cầu khẩn.  Nên ông đã suy nghĩ nếu ông dâng nhiều lời van xin hơn, chắc chắn Đức  Chúa Trời sẽ chấp nhận ông. Ông giả định rằng nếu ông đã có thể phụng sự  Đức Giêhôva thêm một ít , ông sẽ có thể giải cứu dân tộc khỏi tay kẻ  thù. Ông đã không nhận thức rằng trường hợp là như vậy. Samuên nói cùng  Saulơ “ngươi thật có làm ngu dại: không vâng theo mạng lịnh của Giêhôva  Đức Chúa Trời ngươi đã truyền cho. Ví bằng có vâng theo, thì Đức Giêhôva  ắt đã lập nước ngươi vững đời đời trong Itxraên; nhưng bây giờ nước  ngươi sẽ không bền lâu. Đức Giêhôva đã chọn lấy cho mình một người theo  lòng Ngài, đặt người ấy làm trưởng của dân ngài, bởi vì ngươi không gĩư  theo mạng lịnh của ĐứcGiêhôva” [1 Sa 13:13-14].
-“ Thì tôi [  Saulơ] nói rằng” - chớ không phải là mạng lịnh ĐứcChúa Trời [ câu 12].  Đức Chúa Trời muốn ta hầu việc Ngài theo các chỉ thị của Ngài. Ngài  không muốn ta làm việc theo “tôi nghĩ” và “tôi giả định”. Mọi sự được  làm theo những gì một người nghĩ hay giả định thì hoàn toàn bị Đức Chúa  Trời từ bỏ. Những gì Đức Chúa Trời muốn là :con người nên theo khát vọng  của lòng Ngài. Những gì Đức Chúa Trời nhấn mạnh không phải là những gì  ta đã làm, nhưng những gì ta đã thuận phục Ngài. Vâng lời tốt hơn dâng  của lễ thiêu , và sự nghe theo tốt hơn mỡ chiên đực.
Thường  thường ta giống như Saulơ. Ta vội vã lao vào các sự việc. Ta tin rằng  Đức Chúa Tròi sẽ không muốn chậm trễ; nên ta không chờ đợi thì giờ của  Đức Chúa Trời. Ta chỉ thấy nhu cầu của mình và nhu cầu của các hòan  cảnh; ta quên chờ đợi thì giờ của Đức Chúa Trời và vội vã xông vào các  sự việc mà Đức Chúa Trời đã không ra lệnh cho ta làm.
--Anh em  ơi, Saulơ đã mất ngai vàng của ông vì cớ ông quá nhiệt thành, quá vội  vã van xin, và quá sốt sắng dâng tế lễ. Nhưng các lý do cho việc làm nầy  hợp lý biết bao! Song Đức Chúa Trời phán, “Ta tìm kiếm một người vừa  lòng Ta và xức dầu người đó làm vua”. Đức Chúa Trời không muốn một người  có thể chờ đợi cách nghèo nàn hay có thể lao tác trong nhiều công việc.  Đức Chúa Trời không muốn dân ngoại hạng hay dân có kết quả , là người  có thể cứu và tiếp nhận nhiều người. Thực ra , Ngài muốn một số người   vừa lòng Ngài. Nếu với ta, chắc chắn ta sẽ thích người như Saulơ vì cớ  ông là người ngoại hạng. Khi Saulơ đã được xức dầu làm vua và đứng giữa  dân chúng, “người cao hơn cả chúng từ vai trở lên” [1 Sa 10:23]. Ta chỉ  chăm lo về dáng vẻ của con người, còn Đức Chúa Trời không muốn con người  có gương mặt hấp dẫn, nhưng muốn người kiếm cách vừa lòng Ngài. Nguyện  mục tiêu của ta đừng bao giờ là các sự trình diễn làm hài lòng người  khác và chính mình, nhưng nên là đụng chạm lòng Đức Chúa Trời và làm vui  lòng Ngài. Đức Chúa Trời chỉ sử dụng loại người nầy. Đức Chúa Trời đang  tìm kiếm chính loại người nầy.
--Ta hãy tiếp tục đọc 2 Sa.  6:1-4 và 6:6 b-7, “Đavít nhóm hiệp hết thảy mọi người kén chọn của  Itxraên, số chừng ba vạn người. Đoạn người chổi dậy , có dân chúng đồng  theo, đi từ Balê ở xứ Giuđa đặng thỉnh hòm của Đức Chúa Trời lên; trước  hòm ấy dân cầu khẩn danh Chúa , tức là chánh danh Đức Giêhôva vạn quân,  vẫn ngự giữa chêrubin tại trên hòm ấy.Chúng để hòm của Đức Chúa Trời  trên một cái xe mới, rồi đem đi khỏi nhà Aminađáp, ở tại trên gò nổng;  Uxa và Ahigiô …dẫn cái xe mới đó. Uxa đi gần bên hòm của Đức Chúa Trời,  còn Ahigiô đi trước hòm. Uxa giơ tay lên nắm hòm của Đức Chúa Trời; bởi  vì những con bò vấp ngã. Cơn thạnh nộ của Đức Giêhôva bèn nổi phừng cùng  Uxa, Đức Chúa Trời đã hành hại [đánh] người vì cớ lầm lỗi người và  người chết tại đó, gần bên hòm Đức Chúa Trời”. Khi nhiều người đến điểm  nầy, họ hỏi, “Lý do cho điều nầy là gì?”Uxa đưa tay ra hòm và nắm lấy  nó. Điều nầy nên là uy tín của ông chớ. Ông đã không làm điều gì  xấu.”Nhưng lập tức Đức Chúa Trời đã đánh ông. Ta phải biết rằng một  nguyên tắc trong cựu ước là vinh quang của Đức Chúa Trời tuỳ thuộc trên  cái hòm. Nếu cái hòm, vinh quang Đức Chúa Trời, nghiêng ngã, và anh em  bước ra nâng đở nó, há điều nầy không là điều rất tốt sao? Nhưng Đức  Chúa Trời muốn con người vâng theo các chỉ thị của Ngài hơn là Ngài muốn  anh ta giúp đỡ trong công việc Ngài. Đức Chúa Trời không cần con người  nâng đỡ vinh quang Ngài. Nếu con người đụng chạm cái hòm, Đức Chúa Trời  sẽ giết anh ta. Vấn đề không phải là tính cách nghiêm trọng của việc cái  hòm đổ, nhưng hoặc Đức Chúa Trời có truyền lịnh anh làm điều gì đó liên  hệ việc cái hòm đổ xuống hay không. Anh em có thể nghĩ khi mọi sự bình  an và không có rối loạn, tự nhiên anh em không đụng chạm cái hòm vì sợ   nguy hiểm cho mạng sống anh em. Tuy nhiên, khi cái hòm ở vào thời điểm  khủng hoảng có thể ngã nghiêng, anh em giả định rằng anh em có trách  nhiệm đụng chạm và nâng đỡ nó, kẻo nó đổ xuống. Anh em cho rằng anh em  có  đường lối chiếu theo các nhu cầu của các tình thế và vì vậy, sẽ  không chết. Nhưng với Đức Chúa Trời, có một luật áp dụng cho tất cả;  không có chỗ cho sự thay đổi theo các tình cảnh. Bất cứ ai làm bất cứ  điều gì mà không có mệnh lệnh Đức Chúa Trời sẽ chuốc lấy sự chết vật lý  hay sự chết thuộc linh.
-
Đức Chúa Trời không hỏi hoặc ta đã  làm công việc tốt hay xấu. Ngài cũng không yêu cầu hoặc anh em có đang  giúp đỡ Ngài không. Ngài nói rằng bàn tay con người không nên đụng chạm  cái hòm. Vì vậy , bất cứ ai đụng chạm nó, chắc chắn sẽ chết. Đức Chúa  Trời thà để cho cái hòm rơi tan ra từng mảnh hơn là để cho con người  giúp đỡ Ngài mà không có lệnh truyền của Ngài. Ta rất thường nhận ra các  nhu cầu khác nhau, và bắt đầu giúp đỡ Đức Chúa Trời. Ta đừng bao giờ  làm điều Uxa đã làm; bàn tay ta đừng bao giờ vươn ra. Ta đừng bao giờ  bước tới để chỉ giúp đỡ vì cớ các tình cảnh gật đầu ra hiệu cho sự giúp  đỡ của ta. Điều duy nhất ta nên chú ý đến là mệnh lệnh của Đức Chúa  Trời. Những ai muốn tuân theo các nhu cầu của các tình cảnh vì mục đích  giải cứu một tình thế trong tình trạng khẩn cấp , không chờ đợi mệnh  lệnh của Đức Chúa Trời, sẽ không bao giờ làm hài lòng Đức Chúa Trời  trong công việc của Ngài. Công việc có thể tạm thời bị bỏ lại, bên ngoài  như có vẻ lỗi lầm, nhưng tối thượng quyền của Đức Chúa Trời không thể  bị loại ra một giây phút nào, và xác thịt con người không thể được thả  lỏng và bất cứ lúc nào. Đức Chúa Trời không cần xác thịt nâng đỡ và giúp  đỡ công tác Ngài. Thực ra, Ngài phải xét đoán mọi hoạt động của xác  thịt.
Nhiều người muốn làm những điều mà Đức Chúa Trời đã  không ban cho họ; họ thèm muốn nhiều điều. Họ cố nài làm hài lòng Đức  Chúa Trời theo các ý tưởng riêng của họ. Ngược lại, những gì ĐứcChúa  Trời đã không truyền lịnh họ làm, họ làm hết sức mạnh mình. Họ ít biết  rằng khi làm vậy, họ không làm vui lòng Đức Chúa Trời, và họ cũng vi  phạm một tội lỗi trước mắt Đức Chúa Trời. Khi ta còn là người vô tín,  tất cả chúng ta cư xử trong cuộc sống mình theo sự khôn ngoan riêng và  đã làm mọi sự mà vốn chống nghịch bản chất Đức Chúa Trời. Một khi ta đã  được cứu, ta nghĩ rằng mình có thể dùng sự khôn ngoan của mình để hầu  việc và giúp đỡ Đức Chúa Trời theo nhận thức của ta cho điều gì là tốt.  Ta ít nhận thấy rằng, y như đó là tội lỗi chống đối ĐứcChúa Trời bằng  khôn ngoan của mình khi ta còn là người vô tín, nó cũng là tội khi giúp  đỡ Đức Chúa Trời với khôn ngoan của ta sau khi ta đã được cứu. Đức Chúa  Trời không cần sự khôn ngoan của ta giúp đỡ Ngài. Đức Chúa Trời không  hài lòng khi con người dùng khôn ngoan của anh ta chống đối Ngài; Ngài  cũng không hài lòng khi con người dùng khôn ngoan mình giúp đỡ Ngài. Đức  Chúa Trời không cần con người giúp đỡ công tác Ngài. Ta phải tiếp lấy  nguyên tắc của thập tự giá và loại trừ mọi hoạt động của sự sống bản  ngã. Ta phải sẵn sàng giết chết xác thịt và sẵn sàng từ bỏ các ý tưởng  riêng của mình. bất cứ khi nào ta giả định rằng nhờ làm điều nầy điều  kia, ta sẽ làm thịnh vượng công việc của Đức Chúa Trời, thì ta đang  chứng tỏ cho mọi người rằng ta không bao giờ từ bỏ bản ngã và chưa bao  giờ biết thập tự gia là gì. Con người phải được đem đến địa vị không ra  gì trước khi Đức Chúa Trời có thể dùng anh ta.
-
Ước mong ta  không hành động cách tư phụ đến nỗi ta tàn phá công việc Đức Chúa Trời.  Chúng ta chỉ nên chú ý mệnh lệnh của Đức Chúa Trời và không làm điều gì  khác.Thậm chí nếu công việc sụp đỗ trước mắt ta, ta khôngcần chú ý sự  sụp đỗ; thà ta khăng khăng trong các sự vụ của mình và duy trì địa vị ta  trước mặt Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ không bắt ta chịu trách nhiệm  cho những gì Ngài không ra lệnh. Dầu mọi sự có thể sụp đổ xung quanh  ta, Đức Chúa Trời vẫn không khiển trách ta.
Thực vậy, mọi hành  động tự phụ dấy lên từ sự kiện sự khôn ngoan của con người đã chưa vượt  qua sự xử lý của thập tự giá. Ngày nay Đức Chúa Trời đòi hỏi rằng ta  nên nắm lấy sự việc nầy: bất cứ điều gì Đức Chúa Trời  chỉ thị, ta nên  làm; bất cứ điều gì Đức Chúa Trời không chỉ đạo, ta không nên làm. Ta  nên giữ chặt địa vị mình và không nên vượt quá các bổn phận của mình xỏ  xen vào các sự vụ của người khác.
Có lẽ một số người suy nghĩ  cách nầy là quá hẹp hòi, nếu một người tiếp lấy đường lối nầy , công  việc anh sẽ trở nên quá yên tỉnh và thông thường. Tuy nhiên, “ ngày đó”  sẽ bày tỏ hoặc điều nầy là đường lối đúng hay không. Khi đó anh em sẽ  biết hoặc công việc nào ở ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời là tốt hay đáng  trọng hay không.Tôi xin nói cách thẳng thừng như sau: nếu đường lối tự  bổ nhiệm không vào khuôn phép đã được áp dụng trong công việc thuê người  của ta, xác định ta sẽ bị án tù treo. Nếu ta ở trong quân đội, chắc  chắn ta sẽ bị truy tố ra toà án quân sự Thật may mắn là ta có sự che phủ  của huyết Chúa và đã được dung thứ khỏi sự xử lý nghiêm khắc của Chúa.  Nhưng tại tòa xét đóan [của Christ] loại công việc nầy sẽ được bày tỏ ra  là lý do để bị trách mắng.
-
Xin đọc 2 Sử 26:16-21, trong đó  một vị vua muốn làm một số điều theo chủ tâm riêng của ông. Mệnh lệnh  của Đức Chúa Trời nói rằng chỉ các con trai Arôn có thể thi hành phụng  sự và chức tế lễ thánh; chỉ họ mới được phép bước vào đền thờ để xông  hương. Ngoài giai cấp dân nầy, không ai khác có thể thi hành công việc  nầy. Nhưng Ôxia đã cố đòi làm công việc nầy. Ông đã vào đền thờ và tự  mình xông hương. Kết quả, Đức Chúa Trời đã phạt ông, và lập tức bệnh  phong đã nổi lên trên trán ông. Bản báo cáo nầy cho ta lời cảnh cáo lớn  lao. Ta đừng bao giờ làm điều gì theo đề xuất riêng của mình mà Đức Chúa  Trời đã không truyền lịnh, kẻo ta bị Đức Chúa Trời hình phạt. Nói cách  thuộc linh, bệnh phong là tình trạng nhơ nhớp và tội lỗi. Tất cả những  ai hành động cách tự phụ không có mệnh lệnh của Đức Chúa Trời đều là nhơ  bẩn và ô tội trước mặt Đức Chúa Trời. Trong công việc của Đức Chúa  Trời, không có chỗ cho sự nhiệt thành thiên nhiên. Con người không thể  áp dụng sự nhiệt thành thiên nhiên trong công việc của Đức Chúa Trời.  Bước vào đền thờ và đốt hương là tốt, nhưng vì cớ Ôxia đã làm đôi điều  mà Đức Chúa Trời đã không ra lịnh , điều đó trở nên một tội lỗi bị hình  phạt. Hậu quả của việc tham dự cách thất thường trong công việc của Đức  Chúa Trời là cả cuộc đời bị bệnh phong.
Phaolô là vị sứ đồ có  sự sống thuộc linh rất sâu nhiệm. Trong thư thứ hai gởi cho anh em  Côrinhtô ông nói, “song chúng tôi chẳng muốn khoe khoang quá mực, chỉ  theo mực của giới hạn mà Đức Chúa Trời đã phân chia cho chúng tôi làm  mực, để cũng đạt [ với tới] nơi anh em …mong rằng khi đức tin anh em  thêm lên, thì công việc của chúng tôi cũng sẽ càng được mở mang hơn giữa  anh em, theo như giới hạn của chúng tôi được rộng rãi càng thêm”  [10:13,15b]. Dầu là thông thường, lời nầy, đã được nói ra từ [người có]  nhiều sự kinh nghiệm. Phaolô nói rằng ông sẽ không với tới một chỗ vượt  quá những gì Đức Chúa Trời đo lường cho ông. Ông nhận biết rằng trách  nhiệm ông chỉ là  đi trong những chỗ mà Đức Chúa Trời muốn ông chịu  trách nhiệm. Ông đã không muốn đi đến bất cứ chỗ nào mà Đức Chúa Trời đã  không yêu cầu ông chịu trách nhiệm. Ngày nay nếu mọi công tác viên sống  theo đường lối nầy, làm sao còn có thể có vô số sự chia rẽ và phe đảng  trong hội thánh! Mọi công tác viên có một công tác đặc biệt mà Đức Chúa  Trời đã đo lường cho anh ta. Mọi tín đồ có một lối đi mà trên đó Đức  Chúa Trời muốn anh bước đi. Nếu anh em đang đứng trong địa vị đúng của  anh em, làm việc trong phụngsự đúng của anh em, và bước đi trên lối đi  đúng đắn, đó là vinh quang cao nhất.
-
Ta làm việc, không vì  cớ ta kể rằng công việc là tốt hay rằng nó có thể cứu và giúp đỡ kẻ  khác. Đúng ra, ta đánh giá công việc mình bằng cách suy nghĩ hoặc địa vị  ta có là điều do Đức Chúa Trời ấn định hay không. Một cột trụ lớn trong  ngôi nhà là thiết yếu, nhưng con ốc nhỏ bằng sắt cũng cần thiết.Trong  hội thánh, nếu mỗi người đều là nhà giảng phục hưng, nhà giảng phúc âm,  nhà lãnh đạo lớn lao, thì làm sao hội thánh có thế đứng lành mạnh? Đường  lối ta phải tiếp lấy là con đường hẹp theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Ta  không lập kế hoạch hoàn thành các điều lớn. Ta chỉ ở trong địa vị do  ĐứcChúa Trời xếp đặt. Nếu Đức Chúa Trời muốn tôi chỉ hoạt động cách yên  tỉnh về các việc nhỏ mọn, tôi vui lòng làm như vậy. Đức Chúa Trời không  cần dùng những ai có khả năng lớn; Ngài dùng những ai mà để cho Ngài  dùng họ. Ước mong ta sẵn lòng ở trong địa vị Đức Chúa Trời ấn định cho  ta và đứng trong nơi Ngài muốn ta đứng. Mọi khát vọng về sự thay đổi, hi  vọng cao, và tham vọng lớn đều là thế tục, thuộc hồn và thuộc xác thịt.  Ta phải bảo vệ chính mình chống lại mọi đều nầy.
Phaolô nói,  “tôi muốn làm xong cuộc chạy của tôi” [Sứ 20:24]. Cuộc chạy đua nầy là  gì? Trước đây mấy tháng, tôi có đọc tiểu sử bà Penn-Lewis. [chương 1 của  quyển tiểu sử nầy do bà viết. Bà đã qua đi trước khi toàn bộ quyển sách  được hoàn thành.] Bà viết những lời sau đây,
“Có  một “cuộc chạy” đã được chuẩn bị  cho mọi tín đồ ngay  vào lúc anh ta  được tái  sinh  vì mục đích đem sự sống mới mà anh ta vừa tiếp nhận đến  chỗ  trưởng thành đầy trọn, và  vì  mục đích làm cho cuộc đời anh hữu  dụng đối với Đức Chúa Trời đến cực điểm. Trách nhiệm của mỗi tín đồ là  tìm thấy “cuộc chạy đua nầy” và bước đi trong đó. Người khác không thể  quyết định và nói cuộc chạy đua nầy là gì. Chỉ Đức Chúa Trời biết và chỉ  Đức Chúa Trời có thể làm cho ngườ  đó biết; chỉ Ngài có thể hướng dẫn  các tín đồ vào trong cuộc chạy đua nầy. Ngày nay [tình hình] thì cũng  như thời xưa khi Ngài đã hướng dẫn Giêrêmi và các tiên tri khác,   Phaolô, Philip và các sứ đồ khác”.
Điều rất vinh diệu trong đời  sống một người là anh ta có thể làm những điều mà Đức Chúa Trời muốn anh  ta làm trên chính lập trường mà Đức Chúa Trời đã đặt cho anh. Đối với  mọi tín đồ, có một lối đường do Đức Chúa Trời tiền định cho anh ta bước  đi trên ấy.
-
Đức Chúa Trời chỉ dùng những người do ngài chọn  lựa để làm công việc của Ngài. Ngài không muốn những ai [ghi danh] gia  nhập và tình nguyện làm công tác Ngài. Những ai được Đức Chúa Trời chọn  lựa tuyệt đối không có sự tự do. Nếu họ nổ lực sống tự do và đi theo  đường riêng; họ sẽ chỉ vấp ngã và đau khổ nhiều hơn nữa. Nếu Đức Chúa  Trời không bao giờ dùng chúng ta, đó là kết cuộc của sự việc. Nhưng nếu  Ngài dùng, thậm chí nếu anh em muốn chạy trốn, anh em sẽ không thành  công. Anh em có thể chạy trốn đến Tarêsi, nhưng một cơn gió sẽ lật nhào  anh em xuống biển và con cá lớn sẽ đưa anh em trở về [ Giô na 1-2]. Anh  em có thể chạy trốn, nhưng anh em sẽ không bao giờ thoát thân. Từ ban  đầu đến cuối cùng, các công tác viên của Đức Chúa Trời không có sự tự  do. Ngày nay nhiều tín đồ làm việc cách nhiệt thành, nhưng  rất ít có  người làm những gì Đức Chúa Trời đo lường cho họ và tiếp lấy con đường  mà Đức Chúa Trời ấn định cho họ.
Khi Môise dẫn dắt dân Itxraên  trải qua đồng vắng, Đức Chúa Trời đã chỉ thị rằng vào ngày sabát không  nên làm công việc nào. Nhưng vài người đã tường trình cho Môi se rằng họ  tìm thấy một người lượm củi bên ngoài trại quân vào ngày sabát. Môise  đã không đưa ra sự quyết định nào của riêng ông liên quan người nầy.  Dường như ông nói, “Đức Chúa Trời đã không tuyên bố điều gì và tôi không  biết làm sao xử sự việc nầy. Hãy để tôi cầu hỏi Đức Giêhôva”. Sau đó  ông dã đi cầu hỏi Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời đã bảo ông ném đá chết  người quá phạm ngày sabát. Nên họ đã ném đá anh ta chết [ Dân  15:32-36]. Môise đã chờ đợi Đức Chúa Trời chỉ thị ông về những gì phải  làm trước khi ông dám làm bất cứ điều gì.
-
Nếu chúng ta  không sẵn sàng chờ đợi ít lâu, công việc của Đức Chúa Trời sẽ chịu đựng  sự thiệt hại lớn lao! Tâm tính chúng ta vội vã biết bao. Ta luôn luôn  nghĩ rằng ĐứcChúa Trời quá chậm chạp. Ta không có thể kiên nhẫn theo sau  Đức Chúa Trời từng bước một. Ta vội vã làm bất cứ điều gì mình nhận  biết là tốt. Bất cứ khi nào ta khám phá có một sự thiếu hụt, ta lập tức  nổ lực bổ sung liền.Ta giả định rằng nếu ta chờ đợi mọi sự, ta sẽ không  đủ khả năng làm bất cứ điều gì trong cả cuộc đời mình. Ta quên rằng các  công tác viên mà được ban phước là những người có thể chờ đợi trước mặt  Đức Chúa Trời và vâng theo các sự chỉ dẫn của Ngài.
Ngày nay  chúng ta mang trách nhiệm nặng nề; ta phải sáng tỏ như thuỷ tinh về các  chỉ thị của Đức Chúa Trời trước khi ta khởi sự làm việc. Mệnh lệnh của  Đức Chúa Trời là biểu hiện khát vọng của Đức Chúa Trời. Nếu ta muốn làm  chiếc bình hữu dụng trong tay Ngài, ta phải cảm thấy bảo đảm về mệnh  lệnh của Đức Chúa Trời trước khi hành động. Nếu ta làm bất cứ điều gì  Đức Chúa Trời không ra lệnh, ta không thể làm vui lòng Ngài. Khi một  công việc nào đó được đặt trước mặt ta, trước hết ta phải hỏi : điều nầy  có đi cùng khát vọng của Đức Chúa Trời không? Nó có thể chiếm lấy tấm  lòng Đức Chúa Trời không? Ước ao chúng ta tìm cách để chỉ được tương hợp  với khát vọng của Đức Chúa Trời. Chính mình ta nên tham dự  vào một  công việc thuộc linh vì cớ ta tìm kiếm khát vọng của Đức Chúa Trời,  không vì cớ đó là một công việc tốt hay vì cớ tính thế đang cần ta giúp  đỡ. Nếu ta khao khát được hữu dụng trong tay Đức Chúa Trời, ta phải bước  đi theo ý muốn Đức Chúa Trời.
--
Kiểu mẫu trên núi không  được thay đổi theo ý muốn; ta phải hoạt động theo kiểu mẫu đó. Ta có  đang nói rằng đây là công việc của ta và rằng ta không cần bước đi bởi ý  muốn của Đức Chúa Trời chăng? Hay ta sắp nói rằng đây là công việc của  Đức Chúa Trời và ta sẽ bước đi bởi ý muốn của Ngài? Mọi sự đã được cân  nhắc, ta không thể trừ ra than van rằng  công việc của Đức Chúa Trời đã  bị đổ nát trong tay loài người.
Tôi sẽ thẳng thắn nói rằng nếu  sự khôn ngoan của ta đã chưa bao giờ trải qua sự xét đoán và các tư  tưởng của ta đã không được đặt vào chỗ chết, ta không thể làm việc.  Nguyện Đức Chúa Trời đem ta vào giai đoạn nơi đó không có bản ngã, đến  nỗi ta sẽ không có tư tưởng nào về chính mình, nhưng sẽ chỉ có ý muốn  của Đức Chúa Trời. Mỗi lần ta làm việc; trước hết ta phải biết đây có  phải là ý muốn của Đức Chúa Trời hay không. Nếu ta biết chắc chắn rằng  đây là  ý muốn của Đức Chúa Trời, khi ấy ta sẽ được khuyến khích tiến  lên theo đúng kiểu mẫu Ngài đã bày tỏ cho ta.WN.