- Đức Jehovah Vạn Quân—Sa-mu-ên-
Với cái tuổi U 70, sau khi lập vua Sau- lơ yên vị tôi đã về lại quê hương (home town) của mình là Ra-ma Tha-im Xô-phim, nằm trong lãnh địa của chi phái Ép-ra-im. Sau khi đã viết xong sách Các Quan xét, 21 chương và tôi khởi sự thảo ra thiên hồi ức nầy trước khi tôi sẽ ra đi đoàn tụ với tổ tông trong Lạc viên (Sáng 25: 7-8).
Giô-suê 21:20-22 nói về bốn cái thành trong chi phái Ép-ra-im cấp cho phân nửa chi tộc Kê-hát của bố tôi. Đó là 4 thành: Si-chem, Ghê-xe, Kíp-sa-im và Bết-hô-rôn.Tôi thật sự không biết tại sao lại còn có thành Ra-ma nầy cho dân kê hat chúng tôi thường trú. Nhà A-rôn, cũng thuộc chi Kê -hát thì cư trú trong các thành được ban cấp ở Giu đa, tổ tông bố tôi thì ở xứ Ép-ra-im. Bề ngoài tôi có quê quán ở Ép-ra-im, nhưng thân phận là dân Kê-hát, là người Lê-vi.
Tên tôi là “Sa-mu-ên” có nghĩa là “được Đức Chúa Trời nghe”. Tôi hổ thẹn vì bố tôi là Ên-ca-na (Đức Chúa Trời đang chiếm hữu), là con cháu của loạn thần tặc tử Cô-rê, đã bị Chúa hình phạt cho đất nuốt sống (Dân 16). Nhưng con cái Cô-rê còn sống sót, và sinh ra bố tôi (Dân. 26: 10-11).
Tôi xin giải thích cho các bạn, nếu không các bạn khó mà thông suốt tổ tông của tôi. Vì từ cụ Cô-rê (Đầu Hói) đến tôi có chừng hơn 400 năm thời ám thế của các Quan xét ( xem 1 Sử 6:22-27). Có ba vị có tên là Ên-ca-na mà Ên- ca- na thứ ba là bố đẻ của tôi. Ên-ca-na, bố tôi là con của cụ Giê-hô-ram (1 Sa.1:1, 1 Sử. 6:27).
Xin nhắc lại, cụ Lê-vi sinh ba người con trai, là ba chi tộc dân Lê- vi phụng sự trong nhà Chúa là Ghẹt-sôn, Kê- hát và Mê-ra-ri. Cụ Kê-hát sinh ra 4 trai là Am-ram và Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên. Dít-sê-ha và A-mi-na-đáp là một người (Xuất 6:18,21).
Bố tôi thuộc về dân Lê vi, ông là người dòng dõi của chi tộc Kê hát trong chi phái Lê-vi. Cô rê là anh em chú bác ruột của A-rôn và Môi se, nhưng A-rôn thuộc về nhà thầy tế lễ, cha truyền con nối, còn cụ nhà tôi là Cô rê được đặc trách chỉ huy chuyển vận cái hòm thánh và vài ba vật thánh khác như bàn thờ xông hương, chân đèn bảy ngọn, bàn bánh trần thiết…. bằng đôi vai của mình. Nhà A-rôn làm thầy tế lễ, còn 3 chi nữa của dòng Kê hát, mà Cô -rê là một, chỉ là người Lê vi có thể phục vụ trong đền tạm hay, đền thờ, nhưng không được làm thầy tế lễ. Nhưng tôi được làm thầy tế lễ, vì mẹ tôi dâng đời sống tôi làm người Na-xi-rê (Dân 6). Bà có hứa với Chúa, con “phú dâng nó trọn đời cho Đức Giê-hô-va, và dao cạo sẽ chẳng đưa ngang qua đầu nó” (1 Sa. 1:11). Chức tế lễ của người Na xi rê không được cha truyền con nối
Cha tôi cưới mẹ tôi là An-ne (Ân Huệ). Nhưng mẹ tôi son sẻ nhiều năm, nên cha tôi buộc phải cưới một người thiếp nữa là Phê-ni-na (San Hô). Kế mẫu của tôi sinh ra ba bốn con trai gái, trong khi mẹ tôi vẫn tiếp tục son sẻ, và bị kế mẫu lên mặt hà khắc, bắt bớ. Kế mẫu phát biểu, “cây độc không trái, gái độc không con”. Cha tôi nhu nhược, sợ người vợ thứ, nên chỉ an ủi mẹ tôi những lời an ủi suông mà thôi.
Mỗi năm cha mẹ, kế mẫu và các em tôi lên Si-lô 3 lần trong các kỳ lễ Vượt qua, Ngũ tuần và Lều tạm, rồi ở lại Si-lô 7 ngày trong ba kỳ lễ đó như mọi người dân khác trên cả nước (1 Sa. 1:3).
Trong một dịp tham dự 7 ngày hội đồng thánh khiết như vậy tại Si-lô. Hôm đó, trong khi mọi người ăn uống vui vẻ, mẹ tôi không ăn, một mình lên quỳ trước cửa, trước bức màn vào đền tạm cả giờ đồng hồ. Bà dốc đổ hồn mình ra trước mặt Chúa, khẩn cầu Chúa ban cho bà một trai, thì bà sẽ phú dâng làm người Na-xi- rê hầu việc Chúa trọn đời. Cụ thượng tế Hê-li đã chúc phúc cho bà, sau đó bà vui vẻ vì tin lời cụ. Cụ chúc phước “hãy đi bình yên, nguyện Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên nhậm lời nàng đã cầu xin cùng Ngài! Nàng thưa rằng: Nguyện con đòi ông được ơn trước mắt ông! Đoạn, người nữ lui ra, ăn, và nét mặt nàng chẳng còn ra ưu sầu nữa”.
Có nhiều lời đàm tiếu về vai trò của cụ Hê li và hành vi xấu xa của hai phó tế, là hai con trai ông, nhưng là tôi tớ mà Chúa đang nắm giữ sử dụng, nên Chúa vẫn tôn trọng lời chúc phước của cụ trên đời sống của mẹ tôi.
Khoảng 10 tháng sau, tôi đã ra đời. Mẹ tôi đặt tên cho tôi là Sa-mu-ên. Sau khi tôi ra đời, mẹ tôi quá xúc động về ơn thương xót của Chúa, nên bà xuất khẩu thành thi ra một bài gần như là thi thiên. Khi tôi đủ tuổi hiểu biết, bà đã đọc thuộc lòng lại cho tôi nghe, và tôi ghi chép trong phần đầu của sách 1 Sa-mu-ên của tôi. Trong đó có một câu đặc biệt, “Kẻ vốn no nê phải làm mướn đặng kiếm ăn, Và người xưa đói đã được no nê. Người đàn bà vốn son sẻ, sanh sản bảy lần, Còn người có nhiều con, ra yếu mỏn”.
Cụ Hê li lại chúc phước cho mẹ tôi lần thứ hai, và lời đó thành sự thật, “Hê-li chúc phước cho Ên-ca-na và vợ người, rằng: Cầu xin Đức Giê-hô-va ban cho ngươi những con cái bởi người nữ nầy, để đổi lấy đứa mà nàng đã cầu nơi Đức Giê-hô-va! Vợ chồng bèn trở về nhà mình. Đức Giê-hô-va đoái xem An-ne: nàng thọ thai và sanh ba con trai và hai con gái, còn gã trai trẻ Sa-mu-ên khôn lớn trước mặt Đức Giê-hô-va”. Mẹ tôi dám dâng cho Chúa con yêu quý, hiếm muộn là tôi, nên Chúa bù đắp cho bà năm con trai gái khác. Ngợi khen Chúa.
Trong bài thơ nầy, đối thủ của mẹ tôi là kế mẫu của tôi. Kế mẫu tiêu biểu cho loại người thù nghịch, kẻ xấc xược, người dõng sĩ, là kẻ ác, là người chống Đức Chúa Trời. Sau khi mẹ tôi qua đời lâu rồi và khi đã trưởng thành, tôi suy nghiệm ra rằng dường như mẹ tôi được cảm thúc của Đức Thánh Linh nói lên rằng kế mẫu tôi có cuộc sống như muông sói cắn xé anh em mình, dường như loại người như kế mẫu của tôi không phải là con cái chân thật của Chúa. Vì chiên có bao giờ cắn xé chiên cùng bầy, chỉ chó sói mà thôi, phải không các bạn?
Tôi bị sốc mạnh với những lời nói nầy của thân mẫu tôi khi tôi suy gẫm vào tuổi trưởng thành: “Vừa khi dứt sữa, nàng bèn dẫn nó theo mình đến đền của Đức Giê-hô-va tại Si-lô, cùng đem theo ba con bò đực, một ê-pha bột mì, và một bầu rượu. Đứa trẻ hãy còn nhỏ lắm. Họ giết con bò đực, rồi dẫn đứa trẻ đến Hê-li. Nàng bèn nói cùng người rằng: Xin lỗi, chúa! Xưa có người đàn bà đứng tại đây, gần bên ông, đặng cầu khẩn Đức Giê-hô-va; tôi chỉ sanh mạng ông mà thề rằng tôi là người đó. Ấy vì đứa trẻ nầy mà tôi cầu nguyện. Đức Giê-hô-va đã nhậm lời tôi đã cầu xin cùng Ngài. Vì vậy, tôi cũng dâng nó cho Đức Giê-hô-va; tôi cho Đức Giê-hô-va mượn nó trọn đời nó. Đoạn mẹ con đều thờ lạy tại đó trước mặt Đức Giê-hô-va” (1 Sa. 1:24-28).
Đây là một câu Kinh bị dịch sai rất nhiều trong tiếng Việt. “And also I have lent him to Jehovah: all the days that he lives, he is lent to Jehovah”. Bản TKTC dịch chính xác, “Vì vậy, tôi cũng đã cho Đức GIA-VÊ mượn nó, hễ khi nào nó còn sống, thì nó được cho Đức GIA-VÊ mượn".
Tôi nhớ đến Y-sác là con độc sanh, con thừa tự của cụ tổ Áp-ra-ham, Y-sác đã được bú vú mẹ hả hê, mãi 2 năm mới bỏ bú mẹ và chịu dứt sữa. Còn với tôi, là con cầu tự, thì mẹ tôi đã tự chủ động cai sữa tôi khi thôi nôi, mà lúc ấy tôi còn ham thích bú sữa lắm.
Lời mẹ tôi nói với thượng tế Hê li, tôi vẫn còn nhớ rành mạch, “tôi cũng đã cho Đức GIA-VÊ mượn nó, hễ khi nào nó còn sống, thì nó được cho Đức GIA-VÊ mượn’. Con đầu lòng phải dâng cho Chúa là đúng, nhưng tại sao bà nói thêm câu: “tôi cho Đức Giê-hô-va mượn nó trọn đời nó”? Chúa thiếu thốn điều gì mà bà phải cho Ngài vay mượn? Bà ăn nói lộng ngôn sao? Mãi sau khi hai con trai cụ Hê-li, hai vị phó tế, tử trận trong một ngày tang thương của xứ thánh, tôi mới hiểu ra ý nghĩa câu nói nầy của mẹ tôi.
Bà lên đền tạm hàng năm nên ý thức rõ rằng quân số người hầu việc Chúa tại Si-lô, cách chân chính, thánh khiết, công nghĩa rất hiếm. Quân số của Chúa thiếu hụt trầm trọng, nên bà muốn tôi được bổ sung vào lực lượng người hầu việc Chúa qua cánh cửa bên hông—con đường Na-xi-rê. Từ đó tôi nhận được sự khải thị sáng tỏ của Chúa về phương danh của Ngài là Jehovah Sabaoth—Đức Jehovah vạn quân, mà tôi đã ghi ra ở đầu tác phẩm của tôi. (1 Sa mu ên 1: 3). Danh Jehovah vạn quân được biết đến trong dân Israel kể từ thời đó. Và tôi là một chiến sĩ tư tế trong cơ binh của Ngài.
Tôi xin nhắc lại, khi vừa thôi nôi, mẹ tôi đã đem tôi lên đền thánh và sống ở đó, được các thầy tế lễ nuôi dưỡng. Khi tôi được 10 tuổi, có một ngày trọng đại đã xảy ra, khi hòm giao ước lọt vào tay quân Phi-li-tin, hai vị phó tế tử trận trên chiến trường và cụ cố đạo của tôi, thượng tế Hê-li cũng từ trần trong cùng một ngày. Chiều hôm đó, vợ của một phó tế cũng qua đời sau khi chuyển dạ sinh con trai, được đặt tên là Y-ca-bốt. Ngày đoạn trường đó hằn sâu trong tâm khảm của tôi khiến tôi trằn trọc nhiều đêm khi suy nghĩ về tiền đồ của dân tộc mình.
Hai mươi năm sau 1 Sa 7:2-17), tôi được 30 tuổi, là tuổi tôi chính thức được công nhận một thầy tế lễ được phép phục sự Chúa. Tuyển dân đã thương nhớ hòm giao ước, đó là lúc tôi bước ra hiện trường nhà Chúa cách công khai, vì đoàn tư tế chính quy tại Si-lô nhu nhược thuộc linh, không đủ khả năng lãnh đạo dân tộc. Mấy năm qua Chúa ban cho tôi nhiều lời khải thị, nên dần dần dân Chúa từ Đan cho đến Bê-e sê-ba nhìn nhận tôi là tiên tri phát ngôn thay cho Chúa, và thầy tế lễ ban Na-xi- rê, làm thầy tế lễ tạm ứng, có thể bổ túc công việc dâng tế lễ cho đoàn tư tế tại Si-lô. Tôi không được phép làm thầy tế của Chúa trong đền thánh Si-lô, chỉ thỉnh thoảng dâng tế lễ ở những nơi cách xa đền thánh Si-lô, cặp theo chức vụ quan xét của tôi mà thôi..
Vào năm tôi 30 tuổi, tôi hiệu triệu dân chúng nhóm họp tại Mích ba, ăn năn xưng tội mình, tôi dâng sinh tế ngoài trời cầu thay cho họ. Quân Phi-li-tin ghét khi dân Chúa tập trung liên kết lại, nên chúng xông đánh, mong phá tan sự đoàn kết của nhà Chúa. Tôi cầu nguyện và Chúa làm sấm sét nổ xuống trên chúng, khiến chúng vừa bị chết, bị thương tích và sợ hãi thua chạy. Dân Chúa thừa thắng xông lên đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Sự kiện đó được ghi nhớ bởi khối đá mà tôi đặt tên là Ê-bên Ê-xe. Ngày đó là ngày chức vụ quan xét của tôi được toàn dân nhìn nhận. Tôi chủ yếu thi hành chức vụ quan xét, tuần tra các thành phố như Bê-tên, Ghinh-ganh, Mích-ba, Ra ma , và nói ra cho dân chúng biết ý muốn cập nhật của Chúa qua chức vụ tiên tri, như xức dầu Sau-lơ lên ngôi vua, và xức dầu cho Đa-vít làm vua dự bị..
Suốt 40 năm chức vụ quan xét cặp theo chức tiên tri, tôi đi tuần hành các thành phố và giải quyết rất nhiền nan đề tố tụng giữa dân Chúa và chế ngự dân Phi-li-tin suốt cuộc đời của mình bằng lời cầu nguyện thâu đêm, chớ không do trận đánh nào cả. Khi tôi đến Bết-lê-hem xức dầu cho Đa-vít, thì các trưởng lão thành ấy run lập cập khi thấy tôi đến (1 Sa. 16:1). Họ run sợ vinh quang của Chúa tỏa sáng trong tôi, chớ tôi có đáng gì để họ sợ chứ?
Tôi hầu việc Chúa như vậy trong 40 năm, đến năm 70 tuổi, Chúa bảo tôi lập Sau-lơ lên làm vua, thay thế cho chức vụ quan xét. Tôi hưu trí và trở về Ra ma, và viết ra hồi ức nầy.
--Ưu điểm: được sống gần gũi đền thánh 30 năm nên tôi có cơ hội học chữ viết, và thường xuyên đọc sách Ngũ kinh Môi se và sách Giô suê., hơn rất nhiều người khác.
Tôi phải thành thật nói rằng tôi không ăn hối lội, không lợi dụng ai về tiền bạc, không bắt bò lừa của ai hay hiếp đáp người nào, hay cắn xé bắt cứ ai trong dân của Chúa {1 Sa. 12:2-4)
--Đương nhiên tôi không có quyền lập hai con trai của tôi làm thầy tế lễ, nhưng tôi đã sai lầm là lập hai con mình làm quan xét. Vì tôi không hiểu rằng vì hai đứa con nầy không có chức vụ cầu nguyện và tiếp nhận được lời khải thị của Chúa như tôi được, nênchúng mãi mãi không bao giở có thể làm quan xét, làm mục tử trên dân Chúa nổi.-
-
Tâm Sự Của Tiên Tri Sa-mu-ên—
-
Tôi sinh ra trong thời nhiễu loạn,
Hội mạc Chúa hoang loạn điêu tàn,
Cụ Hê li đôi mắt đã làng,
Đoàn tư tế buông lung sa bại,
Sinh tế Chúa bất kỉnh chộp lấy,
Phạm gian dâm với nữ thánh đồ,
Chúa tuyên án giết kẻ ô dơ,
Thao túng hội mạc vì tư lợi,
Chúa sẽ đưa người được chọn tới,
Đem vương quốc hiển lộ trên đời,
Thánh dân sẽ thỏa mãn nghỉ ngơi.
--Sa-mu-ên March, 16-2021
-
Tôi là Barzillai cũng có vài lời nhận xét như sau:
-
Lời Sa-mu-ên còn ứng nghiệm
Khải thị trong đời nầy thật hiếm,
Lời sấm ngôn nào thấy giảng rao,
Giáo lí, văn tự quá dồi dào,
Trong nhà Chúa thật là hoang loạn,
Đoàn tư tế lạm dụng quyền hạn,
Ăn trên, ngồi trước cả thánh dân,
Đặt quy luật thay thế kinh văn,
Sửa đường lối Chúa trong hội thánh,
Kìa Chúa đến thật là đáng kính,
Phạt bọn người say rượu hôm nay,
Đã u mê tàn phá nhà Ngài,
Bạn ơi, hãy bình tâm tỉnh thức,
Chúa sẽ đến trong ngày gần nhứt,
Hãy đứng dậy mừng chào đón Ngài
Và tham dự nước Chúa nay mai.