abortion pill usa legal uk
abortion pill online
buy accutane uk
accutane acne
go buy accutane 10mg uk
Amitriptyline and Tinnitus
amitriptyline for nerve pain
nguoiviendong.net buy antidepressants
CHƯƠNG HAI
KHUYNH HƯỚNG LÌA XA ĐỨC CHÚA TRỜI
Vì tất cả chúng ta đều từng làm nô lệ cho tội, nên chúng ta đã sẵn tin rằng những điều tội lỗi thuộc về Sa-tan. Nhưng chúng ta có tin rằng những điều của thế gian cũng thuộc về Sa-tan y như tội lỗi không? Tôi thiết tưởng nhiều người trong chúng ta vẫn còn phân vân về điều này. Tuy nhiên, Kinh Thánh khẳng định cách rõ ràng: “Cả thế gian đều nằm trong kẻ ác” (1 Gi. 5:19). Nói chung, Sa-tan biết rõ rằng tìm cách gài bẫy các Cơ Đốc nhân chân chính bằng những điều hoàn toàn tội lỗi chỉ là tốn công vô ích. Họ thường cảm thấy nguy hiểm và trốn khỏi hắn. Cho nên thay vào đó, hắn mưu mô thiết lập một hệ thống đầy sức cám dỗ, một mạng lưới được đan dệt vô cùng tinh xảo để gài bẫy những người ngây thơ trong trắng nhất. Chúng ta chạy trốn khỏi dục vọng tội lỗi với một lý trí sáng suốt, nhưng khi chạm đến những điều có vẻ vô hại như khoa học, nghệ thuật và giáo dục, chúng ta lại mất hẳn cảm nhận về thực chất và rơi vào bẫy cám dỗ của hắn như một con mồi!
Tuy nhiên, lời tuyên án của Chúa chúng ta rõ ràng ngụ ý rằng mọi sự tạo nên “thế gian” đều ở ngoài mục đích của Đức Chúa Trời. Lời Ngài: “Hiện nay có sự phán xét thế gian này”, rõ ràng ngụ ý về sự định tội tất cả những gì tạo nên kosmos, và nếu thế gian không có một sự sai trật tận gốc rễ thì Chúa đã không bao giờ nói ra lời này. Hơn nữa, khi Chúa Jesus nói tiếp: “Bây giờ, kẻ cai trị của thế gian này bị quăng ra”, Ngài không chỉ nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết giữa Sa-tan và trật tự thế gian mà còn nhấn mạnh rằng sự định tội thế gian liên hệ đến sự định tội Sa-tan. Chúng ta có công nhận rằng ngày nay Sa-tan là vua chúa của giáo dục, khoa học, văn hóa, nghệ thuật, và những điều này cùng với hắn đều bị định tội rồi không? Chúng ta có công nhận rằng Sa-tan là ông chủ thật của tất cả những điều hiệp lại tạo nên hệ thống thế gian này không?
Khi nghe ai đề cập đến một nơi khiêu vũ hay một hộp đêm, phản ứng của Cơ Đốc nhân chúng ta theo bản năng là không tán thành. Đối với chúng ta, đó là những điều hết sức “thế gian”. Tuy nhiên, ở một thái cực khác, khi thảo luận về y khoa hay dịch vụ xã hội, có thể chúng ta lại không có phản ứng nào cả. Những điều này khiến chúng ta ngầm tán thành, và có lẽ còn được chúng ta nhiệt thành ủng hộ. Giữa hai thái cực này có vô số điều có ảnh hưởng xấu tốt khác nhau rất nhiều. Có lẽ không ai trong chúng ta đồng ý với nhau về việc nên vẽ một lằn ranh giới chính xác ở đâu giữa hai thái cực này. Tuy nhiên, chúng ta hãy đối diện với sự thật rằng Đức Chúa Trời đã tuyên bố sự phán xét, không phải trên những điều nào đó được lựa lọc ra từ thế gian này, nhưng trên tất cả những điều ấy, mà không thiên vị gì cả.
Hãy thử nghiệm chính mình. Nếu anh em mạo hiểm vào một trong những lãnh vực được tán đồng này, và rồi có người kêu lên: “Anh đã chạm đến thế gian trong lãnh vực này rồi”, thì anh em có rúng động không? Có lẽ hoàn toàn không. Cần phải có một người mà anh em kính trọng đến nói cách thẳng thắn và quả quyết: “Anh ơi, anh đã liên hệ với Sa-tan ở đó rồi!”, khi ấy anh em mới thấy mình rất ngần ngại. Không phải như vậy sao? Anh em cảm thấy thế nào nếu có ai nói với anh em: “Anh đã đụng đến ngành giáo dục rồi”, “Anh đã đụng đến y khoa rồi”, hay “Anh đã đụng đến thương mại rồi”? Anh em có phản ứng với mức độ thận trọng như khi người ấy nói: “Anh đã đụng đến Ma quỉ rồi” không? Nếu chúng ta thật sự tin rằng bất cứ khi nào mình đụng đến những gì tạo nên thế gian là chúng ta đụng đến kẻ cai trị của thế gian này, thì khi ấy sự nghiêm trọng ghê gớm của việc liên hệ đến bất cứ phương diện nào của thế gian không thể không gây tác động mạnh mẽ đến chúng ta được. “Cả thế gian đều nằm trong kẻ ác”, không phải một phần thế gian, mà là cả thế gian. Dầu là chỉ trong giây phút, chúng ta đừng bao giờ suy nghĩ rằng Sa-tan chống đối Đức Chúa Trời chỉ bằng tội lỗi và những gì thuộc nhục dục trong lòng người; hắn chống đối Ngài bằng mỗi một điều thuộc thế gian. Thật thế, tôi đồng ý với anh em rằng theo một ý nghĩa, những gì thuộc về thế gian đều là vật chất, không có sự sống, tự trong chúng không có năng lực gì làm hại chúng ta; tuy nhiên, ngay cả điều đó cũng gợi ý rằng chúng chống lại mục đích của Đức Chúa Trời, cũng như tất cả những gì trong thế gian đều thật sự không hề chạm đến sự sống thần thượng.
Nhóm chữ “tùy theo loại” liên tục được nhắc lại trong Sáng Thế Ký chương 1 tượng trưng cho luật sinh sản, là luật chi phối toàn bộ lãnh vực sinh học thiên nhiên. Tuy nhiên, nó không chi phối lãnh vực của Linh. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, cha mẹ loài người có thể sinh con cái là loài người; nhưng có một điều chắc chắn là các Cơ Đốc nhân không thể sinh ra Cơ Đốc nhân! Thậm chí khi cả cha lẫn mẹ đều là Cơ Đốc nhân, con cái họ sinh ra cũng không tự động là Cơ Đốc nhân được, không, dầu thế hệ đầu tiên cũng không. Mỗi một lần đều cần Đức Chúa Trời hành động cách tươi mới.
Nguyên tắc này cũng áp dụng đúng như vậy một cách rộng rãi hơn cho những sự việc của nhân loại. Tất cả những gì thuộc về bản chất con người sẽ tiếp tục diễn tiến cách tự phát; tất cả những gì thuộc về Đức Chúa Trời chỉ tiếp tục khi Đức Chúa Trời tiếp tục hành động. Thế gian bao hàm tất cả những gì có thể tiếp diễn tách rời khỏi hoạt động thần thượng, tức là những gì có thể tự nó tiếp diễn, không cần Đức Chúa Trời hành động cụ thể để duy trì sự tươi mới của nó. Thế gian và tất cả những gì thuộc về thế gian làm điều này cách tự nhiên vì đó là bản chất của nó, và khi làm như vậy, nó chuyển động theo một hướng trái ngược với ý muốn của Đức Chúa Trời. Bây giờ chúng tôi sẽ tìm cách minh họa lời tuyên bố này cả bằng Kinh Thánh lẫn kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân.
Trước hết, chúng ta hãy xem lãnh vực khoa học chính trị. Lịch sử Cựu Ước của Israel cho chúng ta ví dụ về một dân tộc có đặc quyền cao cả và chính phủ của họ. Chúng ta được biết dân Israel muốn được giống như các dân tộc quanh mình, cho nên họ hướng lòng về một vị vua. Chúng ta tạm thời nên gác lại việc họ chọn lựa Sau-lơ và tiến đến chỗ mà trong thời điểm của Đức Chúa Trời, cuối cùng Ngài đã ban cho họ một vị vua do Ngài chọn lựa, là người thiết lập vương quốc theo sự chỉ dẫn của Ngài.
Bây giờ ngay cả khi điều này rõ ràng là hành động của Đức Chúa Trời, thì khuynh hướng tự nhiên của vương quốc “cũng giống như các dân tộc” tỏ ra là lìa bỏ Đức Chúa Trời. Vì vương quốc là một điều thuộc thế gian, đang khi hòa hợp với mọi điều thuộc thế gian, nó có khuynh hướng xung đột với mục đích thần thượng. Trên thế giới này, bất cứ nơi nào chính phủ của một dân tộc được phó mặc để tự ra sao thì ra, thì họ sẽ đi theo hướng tự nhiên của mình, càng ngày càng xa cách Đức Chúa Trời. Điều gì đúng với nền chính trị của các quốc gia thế tục thì điều đó chắc chắn cũng phát triển tương tự như vậy ngay cả đối với Israel là quốc gia vốn đã được chọn lựa cách thần thượng. Bất cứ khi nào Đức Chúa Trời ngưng hành động cách cụ thể cho họ, vương quốc Israel trôi giạt vào tình trạng liên kết giữa hình tượng và chính trị. Đúng là đã có những cuộc khôi phục, nhưng mỗi một sự khôi phục ấy đều được đánh dấu bởi một sự can thiệp thần thượng rõ rệt, nếu không có những sự can thiệp ấy, thì luôn luôn có một khuynh hướng đi xuống.
Chúng ta sẽ không lấy gì làm ngạc nhiên khi điều này cũng đúng trong lãnh vực thương mại. Tôi không thể nghĩ ra có một lãnh vực nào khác cám dỗ người ta giao dịch dối trá và bại hoại nhiều cho bằng lãnh vực này. Chúng ta đều biết ít nhiều về điều này. Tất cả chúng ta đều biết thật khó giữ mình ngay thẳng và quản lý việc làm ăn một cách chân thật trong thế giới thương mại đầy cạnh tranh. Nhiều người sẽ nói không thể có điều đó, và chắc chắn để sống như vậy, một người đòi hỏi phải có đời sống giao phó cho Đức Chúa Trời một cách khác thường.
Chúng ta nhớ lại Chúa Jesus đã mô tả về hai con người trái ngược nhau, một người được cả thế gian và mất sự sống mình, còn người kia là một thương gia, đi bán tất cả những gì mình có để mua một viên ngọc vô giá. Chúa Jesus ví sánh người thứ hai với vương quốc của các từng trời (Mat. 16:26; 13:45, 46). Linh của Đức Chúa Trời chẳng phải là không thường xuyên cảm động người ta trong lãnh vực thương mại để họ hành động giống như vậy. Không ít hãng thương mại nổi tiếng giao tiền lời của mình cho những mục tiêu thần thượng trong việc truyền bá Phúc âm và theo nhiều cách khác nữa.
Tôi suy nghĩ đến một hãng buôn nọ, ngay từ bước đầu đã do một thương gia kính sợ Đức Chúa Trời tạo dựng. Bây giờ kính sợ Đức Chúa Trời là một phẩm chất chỉ có thể tồn tại nếu được cõi thiên thượng hỗ trợ, còn sự nhạy bén về kinh doanh và tổ chức có hiệu quả mà nó đã tạo nên có thể tự tồn tại mãi. Trong thế hệ đầu tiên của lịch sử hãng buôn này, chúng ta thấy người thành lập đã đem đến sự sống thần thượng đủ để gìn giữ ngay cả một công ty thế gian được an toàn dưới uy quyền của Đức Chúa Trời. Nhưng đến thế hệ thứ hai thì sự kiểm chế không còn nữa, đúng như điều người ta nghĩ, hãng buôn ấy tự động bị hút vào hệ thống thế gian. Sự kính sợ Đức Chúa Trời đã khô cạn đi, nhưng hãng buôn ấy vẫn phát đạt.
Bây giờ giả sử chúng ta lấy một vấn đề trong sạch như nông nghiệp chẳng hạn. Ở đây, dầu được viết ra trong một thế giới cổ sơ của nghề chăn nuôi và trồng trọt, sách Sáng Thế Ký đã muốn nói với chúng ta một điều gì đó. Sau khi A-đam sa ngã, Đức Chúa Trời buộc phải nói với ông rằng: “Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có thổ sản sanh ra mà ăn. Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn cho đến ngày ngươi trở về đất”. Không ai có thể nói rằng tại vườn Ê-đen, là nơi cây sự sống phát triển, chăn nuôi và trồng trọt là sai quấy cả. Đó là điều Đức Chúa Trời đã chỉ định. Nhưng ngay khi không còn ở dưới tay Đức Chúa Trời, điều ấy bị thoái hóa. Con người bị định tội và bị phó vào vòng lao khổ và thất vọng bất tận, yếu tố lầm lạc đã in vết trên bông trái lao khổ của con người. Sự giải cứu Nô-ê là chuyển động khôi phục lớn lao của Đức Chúa Trời, trong đó trái đất được ban cho một sự khởi đầu tươi mới. Nhưng thật nhanh chóng, thật bi thảm, loài người lại như “ngựa quen đường cũ!” “Nô-ê khởi cày đất và trồng nho; ông uống rượu say, rồi lõa thể ở giữa trại mình”. Dĩ nhiên nông nghiệp tự nó không có gì là tội lỗi, nhưng ở đây, khuynh hướng của nó vẫn là lìa xa Đức Chúa Trời. Chỉ cần để nó đi theo khuynh hướng tự nhiên thì nó sẽ tìm cách chọn một con đường hoàn toàn nghịch lại với Ngài. Chúng ta có biết ít nhiều về điều này trong những thảm họa vật lý như vậy hiện nay, chẳng hạn như sự khô kiệt của các đại lục không?
Nhưng Hội thánh, là ruộng của Đức Chúa Trời, thì khác biệt biết bao! Nhờ ân điển của Đức Chúa Trời và Linh cư ngụ bên trong, Hội thánh sở hữu một năng lực sự sống cố hữu, có thể giữ Hội thánh không ngớt chuyển động theo hướng của Đức Chúa Trời, hoặc có thể nhắc nhở Hội thánh hướng về Đức Chúa Trời khi đi lạc, nếu Hội thánh đáp ứng với năng lực của sự sống ấy.
Khi chúng ta quay sang giáo dục, cả Kinh Thánh và kinh nghiệm đều có một điều gì đó để nói với chúng ta. Theo lối tỉ dụ, chúng ta có thể nói rằng khi bỏ Sau-lơ và chọn Đa-vít, Đức Chúa Trời đã bỏ qua một con người nổi bật ở cái đầu của mình (vì Sau-lơ cao hơn những người đồng trang lứa một cái đầu) để yêu thích một người theo lòng Ngài! Nhưng nghiêm trọng hơn nữa, những người như Giô-sép, Môi-se và Đa-ni-ên, là những người mà sự khôn ngoan của họ được Đức Chúa Trời dùng trước mắt mọi người, mỗi người đều nhận sự hiểu biết mình cần từ Đức Chúa Trời cách trực tiếp. Họ không cho sự giáo dục thế tục mà mình đã hấp thụ là đáng kể. Sứ đồ Phao-lô rõ ràng đã đặt học vấn uyên bác của mình trong số “mọi sự” mà ông xem là lỗ vì sự nhận biết Christ Jesus, Chúa của ông là quí tột bậc (Phil. 3:8). Ông phân biệt rõ ràng giữa sự khôn ngoan của thế gian và sự khôn ngoan đến từ Đức Chúa Trời (1 Côr. 1:21, 30).
Nhưng kinh nghiệm chứng tỏ bản tính thế gian của học vấn uyên thâm ấy. Hầu hết các trường đại học Tây phương thời xưa đều do các Cơ Đốc nhân sáng lập với ao ước cung ứng cho dân mình một nền giáo dục chịu ảnh hưởng Cơ Đốc. Khi các nhà sáng lập còn sống, các trường ấy mang sắc thái [Cơ Đốc] cao, vì những người này đem giá trị thuộc linh đích thực vào đó. Tuy nhiên, khi họ qua đời, sự kiểm chế thuộc linh cũng qua đi, và nền giáo dục lìa bỏ Đức Chúa Trời chắc chắn không sao tránh khỏi bị cuốn theo dòng đời của chủ nghĩa vật chất. Trong một vài trường hợp, có thể mất một thời gian dài điều đó mới xảy ra, vì truyền thống tôn giáo khó có thể tàn úa; nhưng khuynh hướng của nó luôn luôn là một điều hiển nhiên, và trong hầu hết mọi trường hợp, đến bấy giờ giáo dục đã đạt được đích điểm của mình. Khi những điều vật chất ở dưới sự kiểm chế thuộc linh, chúng hoàn thành vai trò phụ thuộc đúng đắn của mình. Thoát khỏi sự kiểm chế ấy, chúng sẽ nhanh chóng bày tỏ quyền lực ẩn đằng sau. Luật của bản chất những điều vật chất ấy tự khẳng định mình, và tính chất thế gian của chúng được minh chứng bằng con đường chúng chọn.
Sự lan tràn hoạt động truyền giáo trong thời đại hiện tại cho chúng ta một cơ hội để thử nghiệm nguyên tắc này trong các cơ sở tôn giáo của thời đại chúng ta và trên đất nước của mình. Cách đây hơn một thế kỷ, Hội thánh bắt đầu thành lập các trường học và bệnh viện tại Trung Quốc với sắc thái thuộc linh rõ rệt và với mục tiêu truyền giáo. Vào những ngày đầu tiên ấy, người ta không cho những tòa nhà là quan trọng bao nhiêu, trong khi họ nhấn mạnh rất nhiều đến vai trò công bố Phúc âm của những cơ sở này. Mười hay mười lăm năm về trước, anh em có thể đến tại cùng một địa điểm và ở nhiều chỗ, anh em thấy có những cơ sở lớn hơn và đẹp hơn nhiều trên chính những địa điểm ấy, nhưng so với những năm đầu tiên, số người trở lại với Chúa ít hơn rất nhiều. Và gần đây, nhiều trường trong số những trường [trung] và đại học tuyệt đẹp ấy đã trở thành những trung tâm thuần túy về giáo dục, hoàn toàn thiếu động cơ truyền giáo thật, đồng thời ở một mức độ hầu như cũng tương tự như vậy, nhiều bệnh viện hiện đang tồn tại, chỉ còn là những nơi chữa bệnh thuộc thể, không còn là những nơi chữa bệnh thuộc linh nữa. Do bước đi gần gũi với Đức Chúa Trời, những người khởi xướng các nơi này đã giữ các cơ sở ấy vững chắc cho mục đích của Ngài. Nhưng khi họ qua đời, các cơ sở ấy tự nó đã nhanh chóng bị thu hút theo những tiêu chuẩn và mục tiêu thế gian, và như vậy, chúng tự xếp mình vào loại “những sự thuộc về thế gian”. Chúng ta không nên ngạc nhiên gì về điều này.
Trong những chương đầu của sách Công vụ các Sứ đồ chúng ta đọc thấy thế nào một việc bất ngờ đã xảy ra, đưa Hội thánh đến chỗ lập công tác cứu trợ cho những thánh đồ nghèo hơn. Việc thành lập dịch vụ xã hội khẩn cấp ấy rõ ràng được Đức Chúa Trời chúc phước, nhưng điều đó có bản chất tạm thời. Anh em có kêu lên: “Nếu công tác ấy tiếp tục thì tốt đẹp biết bao!” không? Chỉ có người không biết Đức Chúa Trời mới nói như vậy. Nếu những biện pháp cứu trợ ấy kéo dài, chắc chắn chúng sẽ xoay theo chiều hướng của thế gian một khi ảnh hưởng thuộc linh hành động lúc bắt đầu bị mất đi. Đó là điều không thể tránh được.
Vì có một sự khác biệt giữa một mặt là sự xây dựng Hội thánh của Đức Chúa Trời với mặt khác là những hoạt động phụ có giá trị mang tính cách xã hội và từ thiện thỉnh thoảng được Hội thánh thực hiện do đức tin và khải tượng của các thành viên trong Hội thánh. Vì tất cả những công tác xã hội và từ thiện ấy đều bắt nguồn từ khải tượng thuộc linh, nên đều sở hữu một năng lực tồn tại độc lập mà Hội thánh của Đức Chúa Trời không có. Chúng là những công việc mà đức tin của con cái Đức Chúa Trời có thể khởi xướng và đi tiên phong, nhưng một khi phương cách đã được bày tỏ và tiêu chuẩn chuyên nghiệp đã được thiết lập, người thế gian có thể duy trì hay bắt chước chúng theo lối thật xa rời với đức tin ấy.
Tôi xin nhắc lại, Hội thánh của Đức Chúa Trời không bao giờ ngưng lệ thuộc sự sống của Đức Chúa Trời để được duy trì. Hãy tưởng tượng một Hội thánh sống động tại một thành phố hôm nay với sự tương giao, cầu nguyện và làm chứng cho Phúc âm, với nhiều tư gia và trung tâm của những hoạt động thuộc linh. Vài năm sau, chúng ta thấy gì? Nếu dân của Đức Chúa Trời vẫn theo Ngài trong đức tin và sự vâng phục, nơi đó có thể đầy dẫy sự sống, ánh sáng của Chúa và quyền năng của Lời Ngài hơn bao giờ hết; nhưng nếu họ không trung tín với Ngài và lìa bỏ khải tượng của Đấng Christ, nơi ấy có thể trở nên nơi rao giảng thuyết vô thần mạnh mẽ không kém. Lúc đó, Hội thánh ấy sẽ không tồn tại nữa. Vì nhờ Đức Chúa Trời không ngớt truyền sự sống tươi mới mà Hội thánh mới có thể tồn tại được; thiếu điều ấy, Hội thánh không thể sống còn, dầu chỉ một ngày.
Nhưng giả sử bên cạnh Hội thánh có một trường học, bệnh viện, nhà in hay một cơ sở tôn giáo nào khác, phát xuất từ đức tin của chính các thành viên trong Hội thánh ấy. Nếu sau đó, nhu cầu cần có sự phục vụ ấy kéo dài thêm mười năm nữa, và không một cơ sở tư nhân hay nhà nước nào đáp ứng được, có lẽ công tác ấy sẽ tiếp tục hoạt động, hiệu quả không giảm sút và tiêu chuẩn phục vụ vẫn đáng ca ngợi. Vì có kỹ năng quản trị bình thường, một trường đại học hay một bệnh viện có thể tiếp tục cách hiệu quả với một mức độ thuần túy tổ chức mà không cần sự tuôn đổ sự sống thần thượng tươi mới gì cả. Khải tượng có lẽ đã ra đi, nhưng cơ sở vẫn tiến hành không biết đến bao giờ. Nó trở thành một điều thuộc thế gian y như tất cả những gì có thể tồn tại mà xa rời khỏi sự sống của Đức Chúa Trời. Tất cả những điều ấy bao hàm trong câu nói của Chúa: “Hiện nay có sự phán xét thế gian này”.
Giả sử tôi hỏi anh em: “Anh em tham gia công tác nào?” Anh em đáp: “Công tác y khoa”. Anh em nói điều đó mà không có một sự nhận thức đặc biệt nào khác hơn là sự tự hào về bản chất hay thương xót của tiếng gọi [mà anh em đã bước theo], và không cảm thấy tình trạng nguy hiểm mà mình có thể lâm vào. Nhưng nếu tôi nói với anh em rằng y khoa cũng là một đơn vị trong hệ thống do Sa-tan kiểm chế thì thế nào? Là Cơ Đốc nhân, nếu tin cậy tôi, anh em sẽ giật mình ngay, và thậm chí phản ứng của anh em có thể là phân vân không biết mình có nên bỏ nghề ấy không. Không, cứ tiếp tục làm bác sĩ đi! Nhưng hãy bước đi cách thận trọng vì anh em đang ở trên lãnh thổ do kẻ thù của Đức Chúa Trời cai trị, nếu không canh chừng, anh em có thể rơi vào những mưu kế của nó như một con mồi, giống bao nhiêu người khác.
Hoặc giả sử anh em ở trong ngành kỹ nghệ, nông nghiệp, in ấn. Hãy cẩn thận, vì đây cũng là những điều thuộc thế gian, y như khi anh em điều hành một trung tâm giải trí hay một ổ tội ác. Nếu không bước đi cách thận trọng, anh em sẽ mắc bẫy Sa-tan ở nơi này hay nơi khác và đánh mất sự tự do của một người con của Đức Chúa Trời.
Anh em hỏi: Vậy thì chúng ta có cần phải được giải cứu khỏi lưới bẫy của hắn không? Nhiều người nghĩ rằng thoát khỏi thế gian là vấn đề dâng mình, vấn đề cống hiến chính mình một cách tươi mới và hết lòng cho những điều thuộc về Đức Chúa Trời. Không phải như vậy, đây là vấn đề cứu rỗi. Bởi bản chất của mình, tất cả chúng ta đều mắc vào hệ thống ấy của Sa-tan, mà ngoài sự thương xót của Đức Chúa Trời chúng ta không thể nào thoát khỏi. Mọi sự tận hiến của chúng ta đều bất năng không thể giải cứu mình; chúng ta chỉ tùy thuộc vào sự thương xót và công tác cứu chuộc của Chúa để được cứu khỏi hệ thống ấy. Ngài thừa sức làm điều đó, và phương tiện Ngài dùng để cứu chúng ta sẽ là chủ đề của chương tiếp theo. Đức Chúa Trời có thể đặt chúng ta trên một vầng đá và giữ chân chúng ta khỏi trợt ngã. Với sự giúp đỡ của Ngài, chúng ta có thể hướng việc kinh doanh hay nghề nghiệp của mình đến chỗ phục vụ ý muốn Ngài hễ khi nào Ngài còn muốn dùng chúng.
Nhưng tôi xin nhắc lại rằng khuynh hướng tự nhiên của tất cả “những điều ở trong thế gian” là hướng về Sa-tan và lìa xa Đức Chúa Trời. Một số điều trong những điều ấy có thể bắt đầu tiến hành bởi những con người của Linh, với mục tiêu hướng về Đức Chúa Trời, nhưng ngay khi sự kiểm chế của sự sống thần thượng bị cất đi, chúng tự động quay lại và đi hướng khác. Vì vậy, không lạ gì khi mắt của Sa-tan luôn luôn hướng về chung cuộc của thế giới với triển vọng vào thời điểm ấy, mọi sự của thế gian sẽ trở lại với hắn. Thậm chí hiện nay, và mãi mãi, chúng đang chuyển động theo hướng của hắn, và vào thời cuối cùng, hắn mong rằng mọi sự sẽ đạt đến mục tiêu của chúng. Khi chúng ta đụng đến bất cứ đơn vị nào trong hệ thống của hắn, tư tưởng này khiến chúng ta dừng lại, e rằng vì thiếu thận trọng, chúng ta sẽ góp phần xây dựng vương quốc của hắn.
CHƯƠNG BA
MỘT THẾ GIỚI Ở DƯỚI NƯỚC
“Hãy đi khắp thế gian, giảng Phúc âm cho cả cõi thọ tạo. Ai tin và chịu báp-têm thì được cứu rỗi, ai không tin sẽ bị định tội” (Mác 16:15, 16).
Đối với nhiều người trong chúng ta, hình thức của câu thứ hai làm cho chúng ta ngạc nhiên. Chúa Jesus không nói ai tin và được cứu sẽ chịu báp-têm. Không, Ngài đặt câu này theo một thứ tự ngược lại. Ngài nói rằng ai tin và chịu báp-têm, sẽ được cứu. Chúng ta làm một điều chỉ có hại cho mình khi thay đổi điều Chúa phán thành ra điều Ngài không phán. Mọi điều Ngài phán đều quan trọng, và Ngài có ý bày tỏ điều gì đó qua từng từ ngữ Ngài dùng. Nhưng nếu như vậy, thì sự thật phải là chỉ bởi đức tin nơi Ngài và chịu báp-têm chúng ta mới được cứu. Một số người sẽ bối rối về điều này. Họ sẽ chống đối: Anh muốn nói gì? Nhưng xin đừng bối rối và đừng đổ lỗi cho tôi! Tôi không nói điều đó, Chúa của tôi nói như vậy. Ngài là Đấng đã lập trật tự này: đức tin, kế đến là báp-têm, rồi sự cứu rỗi. Chúng ta không nên đảo thành: đức tin, sự cứu rỗi, báp-têm, cho dầu chúng ta có thích như vậy đến đâu đi nữa. Những gì Chúa phán phải đứng vững, và phần chúng ta chỉ là lưu ý và làm theo.
(Tôi không xin lỗi vì đã lấy những lời này trong Mác 16:16 là lời thật sự của Chúa Jesus, mặc dầu tôi biết rằng có những nhà phê bình sẽ đặt nghi vấn về những lời ấy. Có một lần tại một làng quê, tôi tình cờ gặp một người thợ may tên Chen. Anh cầm lấy một quyển Phúc âm theo Mác, và khi anh đọc đến phân đoạn này, là phân đoạn các nhà phê bình đều khẳng định không thuộc về sách Phúc âm ấy, anh tin nhận và tin cậy Chúa. Không có một Cơ Đốc nhân nào khác tại nơi ấy nên không ai làm báp-têm cho anh. Anh nên làm gì? Kế đến anh đọc câu 20. Chính Đức Chúa Trời khẳng định lời này với anh, như vậy là đủ. Vì vậy, trong sự đơn sơ của mình, anh quyết định thử nghiệm một trong những lời hứa trong câu 18. Theo lời ấy, anh đến thăm một vài người hàng xóm đang đau yếu. Sau khi cầu nguyện, anh đặt tay lên người họ trong danh Chúa Jesus, rồi anh ra về. Sau này, anh nói với tôi rằng họ đều được bình phục, và không có một trường hợp ngoại lệ nào. Điều này làm anh vui thỏa. Với đức tin được củng cố, anh bình tịnh tiếp tục làm công việc thợ may. Khi tôi lại tình cờ gặp anh, với công việc ấy, anh đang trung tín làm chứng về Chúa của mình. Nếu anh có thể nhận lấy lời Đức Chúa Trời cách hết lòng, sao tôi lại không làm như vậy?)
Cho nên tôi xin lặp lại: “Ai tin và chịu báp-têm thì được cứu”. Bây giờ có thể anh em kêu lên: “Anh có ý nói rằng anh tin sự tái sinh do báp-têm ư? Không, thật sự là tôi không tin như vậy! Chúa không nói rằng: “Hãy tin và chịu báp-têm thì ngươi sẽ được tái sinh”, và vì Ngài không nói như vậy, tôi không cần phải tin điều đó. Lời Ngài là: “Ai tin và chịu báp-têm thì sẽ được cứu rỗi”. Vì vậy, điều tôi thật tin là sự cứu rỗi bởi báp-têm.
Do đó, một câu hỏi tự nhiên được đặt ra: Câu này có ý nói gì? Và khi Lu-ca thuật lại rằng, để đáp ứng lời Phi-e-rơ khuyên: “Hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi cong quẹo này”, thì những người nhận lời đó đều chịu báp-têm, vậy, câu ấy có ý nghĩa gì?
Để trả lời cho câu hỏi này, trước hết, chúng ta phải tự hỏi mình có ý nói gì khi sử dụng từ ngữ “cứu”? Tôi e rằng chúng ta có một suy nghĩ rất sai lầm về sự cứu rỗi. Tất cả hầu hết những gì chúng ta biết về sự cứu rỗi là chúng ta được cứu khỏi địa ngục và vào thiên đàng; hay một ý nghĩa khác, chúng ta được cứu khỏi tội lỗi để từ đó sống một cuộc đời thánh khiết. Nhưng chúng ta sai lầm rồi. Theo Kinh thánh, chúng ta tìm thấy rằng sự cứu rỗi sâu xa hơn điều đó. Vì sự cứu rỗi không liên quan nhiều như vậy đến tội lỗi và địa ngục, hay sự thánh khiết và thiên đàng, nhưng với một điều gì đó khác hơn.
Chúng ta biết rằng mỗi ân tứ tốt lành Đức Chúa Trời trao tặng chúng ta đều được ban cho để đương đầu và chống lại một điều gian ác trái nghịch. Ngài ban cho chúng ta sự công chính vì có sự định tội. Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời vì có sự chết. Ngài ban sự tha thứ vì có tội lỗi. Ngài đem sự cứu rỗi đến cho chúng ta vì điều gì? Sự xưng công chính có liên quan đến sự định tội, trời có liên quan đến địa ngục, sự tha thứ có liên quan đến tội lỗi. Như vậy sự cứu rỗi liên quan đến điều gì? Chúng ta sẽ thấy sự cứu rỗi liên quan đến kosmos, là thế gian.
Sa-tan là kẻ thù cá nhân của Đấng Christ. Hắn hành động qua xác thịt con người để tạo ra mẫu hình của những sự việc trên đất trong đó tất cả chúng ta đều bị vướng mắc vào; không một người nào trong chúng ta được miễn trừ. Toàn bộ khuôn khổ của cả vũ trụ này nghịch lại với Đức Chúa Cha cách kỳ lạ. Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều biết ba thế lực tối tăm này, đó là thế gian, xác thịt và ma quỉ, đứng chống nghịch với ba thân vị thần thượng. Xác thịt nghịch lại với Thánh Linh là Đấng An Ủi, chính Sa-tan nghịch lại với Christ Jesus là Chúa, và thế gian nghịch lại với Cha là Đấng Tạo Hóa.
Điều chúng tôi đang nói đến, là kosmos, luôn luôn chống đối với Đức Chúa Trời là Cha và Đấng Sáng Tạo. Kế hoạch đời đời của Ngài trong cõi sáng tạo được ngụ ý qua những lời này: “Điều đó rất tốt lành”. Lâu nay Ngài vẫn không ngừng hành động theo kế hoạch ấy. Từ trước khi tạo lập thế giới, Ngài đã định trong lòng sẽ có một trật tự mà con người sẽ là đỉnh cao nhất của trật tự ấy và trật tự ấy sẽ tự do bày tỏ đặc tính của Con Ngài. Nhưng Sa-tan đã xen vào. Sử dụng trái đất này làm bàn đạp và con người làm công cụ, hắn chiếm đoạt cõi sáng tạo của Đức Chúa Trời, để thay vào đó tạo nên một điều gì tập trung vào chính hắn và phản chiếu hình ảnh của hắn. Như vậy, hệ thống xa lạ gồm các sự vật này là sự thách thức trực tiếp đối với kế hoạch thần thượng.
Do đó, ngày nay, chúng ta đang đối diện với hai thế giới, hai lãnh vực uy quyền, có những đặc tính hoàn toàn khác nhau và chống đối nhau. Ngày nay, đối với tôi không chỉ là vấn đề thiên đàng hay địa ngục tương lai, mà là vấn đề hai thế giới ngày nay, và tôi thuộc về trật tự bao gồm những điều có Đấng Christ là Chúa tối cao, hay thuộc về trật tự đối nghịch gồm những điều có Sa-tan là đầu não đang tồn tại của trật tự ấy.
Như vậy, sự cứu rỗi không phải là vấn đề được tha thứ tội lỗi và tránh khỏi địa ngục, liên quan nhiều đến cá nhân. Trái lại, sự cứu rỗi cần phải được nhìn thấy trong mối liên hệ đến một hệ thống mà chúng ta từ đó bước ra. Khi được cứu, tôi hoàn toàn lìa khỏi một thế giới và bước vào một thế giới khác. Bây giờ tôi được cứu ra khỏi toàn bộ lãnh vực có tổ chức mà Sa-tan đã thiết lập để thách thức mục đích của Đức Chúa Trời.
Lãnh vực ấy, tức là kosmos bao-gồm-tất-cả ấy, có nhiều khía cạnh kỳ lạ. Dĩ nhiên trước hết tội có chỗ đứng ở đó, và dục vọng thế gian nữa; nhưng các tiêu chuẩn con người và những phương pháp làm việc đáng quí trọng của chúng ta cũng chiếm một phần không kém trong ấy. Tâm trí con người, văn hóa và triết học của nó đều bao hàm trong đó, cùng với tất cả những gì tốt nhất của các hệ tư tưởng chính trị và xã hội của nhân loại. Bên cạnh những điều này chắc chắn chúng ta cũng đặt các tôn giáo thế gian vào, và trong số đó có cả Cơ Đốc giáo thế gian và “Hội-thánh thế gian” của nó. Bất cứ nơi nào quyền lực của con người thiên nhiên thống trị, ở đó anh em có yếu tố của hệ thống ấy, là hệ thống ở dưới sự khích động trực tiếp của Sa-tan.
Nếu đó là thế gian, thì sự cứu rỗi là gì? Sự cứu rỗi có nghĩa là tôi thoát khỏi nơi đó. Tôi ra khỏi đó, tôi lìa khỏi kosmos bao-gồm-tất-cả ấy. Tôi không còn thuộc về khuôn khổ của Sa-tan về các sự việc. Tôi đặt lòng mình nơi lòng Đức Chúa Trời đặt để. Tôi lấy mục đích đời đời của Ngài trong Đấng Christ làm mục đích của mình, tôi bước vào đó và được giải cứu khỏi điều này.
Ai tin và chịu báp-têm thì được cứu rỗi. Chúa Jesus đã đơn giản nói lên điều Ngài muốn nói. Tôi thực hiện bước đức tin ấy: Tôi tin và chịu báp-têm, và tôi thành ra một người được cứu. Đó là sự cứu rỗi. Cho nên đừng bao giờ xem báp-têm là việc nhỏ. Những điều lớn lao bao hàm ở đó. Đó là vấn đề hai thế giới chống đối nhau dữ dội và việc chúng ta chuyển dời từ thế giới này sang thế giới kia.
Trong Kinh thánh có một phân đoạn khác đem báp-têm và sự cứu rỗi lại gần nhau để minh họa chủ đề này. Tôi muốn nói đến chương 3 của Thư Phi-e-rơ thứ nhất. Trong phân đoạn này vị sứ đồ cho chúng ta biết thế nào “Đức Chúa Trời chịu đựng lâu dài trong những ngày của Nô-ê, khi chiếc tàu đang được chuẩn bị, trong đó chỉ có ít người là tám hồn được cứu rỗi qua nước” (c. 20). Ông nói nước ấy là hình ảnh tượng trưng hay điều tương đương, hoặc (như lề của bản Kinh thánh Revise Ver sion tiếng Anh có ghi) là biểu tượng tương đương của một điều khác. “Nước ấy là biểu tượng tương ứng chỉ về báp-têm hiện nay cứu rỗi anh em”. Như vậy, ông lý luận rằng báp-têm hiện nay cứu chúng ta. Rõ ràng Phi-e-rơ tin vào sự cứu rỗi nhờ báp-têm cách vững chắc như ông tin Nô-ê được cứu qua nước. Xin hãy nhớ rằng, tôi không đang nói đến sự tái sinh, và tôi cũng không đang nói về sự giải cứu khỏi địa ngục hay khỏi tội lỗi. Xin hãy hiểu rõ rằng chúng tôi đang nói về sự cứu rỗi. Đây không chỉ là vấn đề từ ngữ, nhưng liên quan đến sự việc chúng ta được tách rời khỏi hệ thống thế gian ngày nay một cách cơ bản.
Để hiểu rõ hơn điều Phi-e-rơ muốn nói, chúng ta nên trở lại xuất xứ của những điều ông nói trong các chương từ sáu đến tám của Sáng Thế Ký. Hình ảnh này đầy sự dạy dỗ. Vào thời Nô-ê, chúng ta thấy cả một thế giới bại hoại. Vốn được Đức Chúa Trời tạo dựng, trái đất đã trở nên bại hoại do hành vi của con người thời đó khi họ tự đặt mình dưới quyền Sa-tan. Một khi đã được đưa vào, tội lỗi phát triển và hoành hành, cho đến khi Thánh Linh của Đức Chúa Trời kêu lên: “Thôi đủ rồi!” Mọi sự đã đến một giai đoạn “vô phương cứu chữa”; chúng chỉ còn cần bị phán xét và cất bỏ đi.
Vì vậy, Đức Chúa Trời ra lệnh cho Nô-ê đóng một chiếc tàu, đem gia đình ông và các tạo vật vào đó, rồi cơn nước lụt đến. Lúc đó, họ được “nhấc lên khỏi mặt đất”, lên trên những dòng nước bao phủ “tất cả những ngọn núi cao ở dưới gầm trời”. Mọi vật sống, cả người và thú, đều bị hủy diệt, chỉ có những ai trong chiếc tàu cỡi trên những dòng nước mới được cứu. Điều quan trọng ở đây không những là họ thoát chết chìm. Đó không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng đối với chúng ta ấy là họ là những con người duy nhất ra khỏi hệ thống bại hoại bao gồm các sự vật ấy, ra khỏi thế gian dưới nước. Sự sống của bản thân là kết quả đương nhiên của việc ra khỏi, sự diệt vong bản thân là hậu quả không thể tránh khỏi do ở lại trong đó, nhưng sự cứu rỗi là chính sự kiện ra khỏi, chứ không phải là hiệu quả của nó. Xin hãy lưu ý sự khác biệt này vì đây là điều quan trọng. Sự cứu rỗi chủ yếu là sự thoát ra khỏi trật tự thuộc về Sa-tan bị định phải hủy diệt, một sự thoát ra khỏi ngay ngày hôm nay.
Ngợi khen Đức Chúa Trời, họ đã ra khỏi! Bằng cách nào? Bằng cách qua nước. Vì vậy, nói theo biểu tượng, ngày nay khi các tín đồ chịu báp-têm, họ đi qua nước, y như Nô-ê ở trong tàu đã vượt qua các dòng nước lụt. Trong phân đoạn này, qua nước có nghĩa là họ thoát khỏi thế gian, họ ra khỏi hệ thống gồm nhiều điều, cùng với bá chủ của chúng, đang ở dưới án phạt thần thượng. Tôi xin đặc biệt nói điều này với những người chịu báp-têm hôm nay1. Xin nhớ rằng anh em không phải là người duy nhất ở trong nước. Khi anh em bước xuống nước, cả thế gian cùng xuống với anh em. Khi anh em lên khỏi nước, anh em đi lên trong Đấng Christ, trong chiếc tàu cỡi trên sóng, nhưng thế gian của anh em ở lại phía sau. Đối với anh em, thế gian bị chìm rồi, bị chết đuối như thế gian của Nô-ê, bị giết chết trong sự chết của Đấng Christ và không bao giờ hồi sinh. Bởi báp-têm, anh em tuyên bố điều này: “Chúa ôi, con bỏ thế gian của con lại phía sau. Thập tự giá của Ngài đã phân rẽ con với nó mãi mãi!”
Vì vậy, nói theo nghĩa bóng, khi anh em đi qua các dòng nước báp-têm, mọi sự thuộc về hệ thống cũ bao gồm nhiều điều ấy đều bị cắt đứt bởi những dòng nước và không bao giờ trở lại. Chỉ một mình anh em lên khỏi nước. Đối với anh em đó là con đường dẫn vào một thế giới khác, một thế giới là nơi anh em tìm được chim bồ câu và những chiếc lá ô-liu xanh tươi. Anh em ra khỏi thế giới ở dưới sự phán xét, vào trong một thế giới được đánh dấu bởi sự tươi mới của sự sống thần thượng.
Tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa rằng anh em không phải là người duy nhất đi xuống nước; thế gian của anh em cùng đi xuống với anh em và nó ở lại đó. Từ quan điểm trong hoàn cảnh mới của mình, anh em sẽ khám phá thấy rằng nước luôn luôn bao phủ thế giới mà trước đó anh em vốn thuộc về nó. Chính nước lụt cứu Nô-ê và gia đình ông là nước lụt nhận chìm thế gian mà họ đã sống trong đó. Cho nên về một mặt, chính nước đặt anh em và tôi trên nền tảng cứu rỗi trong Đấng Christ, mặt khác nước chôn vùi toàn bộ hệ thống bao gồm mọi điều của Sa-tan. Không những quá khứ của anh em với tư cách là con của A-đam kết liễu trong báp-têm của anh em mà thế gian của anh em cũng kết thúc tại đó. Trong cả hai trường hợp, đó là sự chết và chôn mà không điều gì sống lại cả. Đó là kết thúc mọi sự.
Điều này có nghĩa là anh em không thể đem bất cứ điều gì từ thế giới trước đây vào trong thế giới mới. Những gì thuộc về lãnh vực bao gồm mọi điều trước đây trong A-đam cứ ở lại [trong nước] và đừng bao giờ gợi lại. Có lẽ trước đây anh em là một nhân viên trong một cửa tiệm, hay một người giúp việc trong nhà. Hay có lẽ anh em là chủ, là người quản lý, hay giám đốc của một công ty. Ngày nay, có lẽ anh em vẫn là chủ hay vẫn là người giúp việc, nhưng anh em sẽ thấy rằng khi đến với những điều thần thượng, khi đến với Hội-thánh của Đức Chúa Trời và sự hầu việc Ngài, tại đó không có nô lệ hay tự do, cũng không có giám đốc hay nhân viên. Lại nữa, anh em có thể là người Do Thái hay người Ngoại Bang, hay thuộc về một trăm lẻ một điều có tiếng tăm hay tai tiếng trong A-đam. Khi anh em vượt qua dòng nước này, cả hệ thống bao gồm mọi điều ấy sẽ ra đi, không bao giờ trở lại. Thay vào đó, anh em thấy chính mình trong Đấng Christ, là nơi không có người Do Thái hay Hi-lạp, mọi rợ hay Sy-the hay bất cứ điều gì khác, nhưng là một người mới. Anh em đã bước vào một trật tự bao gồm những điều mang đặc tính của cây ô-liu và lá ô-liu, bí quyết của những điều này là sự sống thần thượng. Nhóm chữ: “bởi sự sống lại của Jesus Christ” tô màu cả tương lai (1 Phi. 3:21). Nhóm chữ này ngụ ý anh em đã đi vào một điều gì đó hoàn toàn mới mà Đức Chúa Trời đang tạo dựng. Theo các nhà phê bình (Thánh Kinh Phù Dẫn Phân Tích của Robert Young), chính địa danh A-ra-rát có nghĩa là “Đất Thánh”. Có thể đúng như vậy, chúng ta ngợi khen Đức Chúa Trời vì chiếc tàu nằm trên trái đất được đổi mới ấy đầy dẫy những tạo vật tượng trưng cho cõi sáng tạo mới. Từ sự chết của Đấng Christ, Đức Chúa Trời đã tạo nên toàn cõi sáng tạo mới, và trong sự liên hiệp với Đấng Christ phục sinh, Ngài đang đưa con người vào đó. Trong Đấng Christ, anh em và tôi đang ở đó!
Bây giờ anh em hỏi tôi nếu chúng ta không chịu báp-têm thì có sao không. Câu trả lời duy nhất của tôi là chính Chúa đã truyền dạy điều đó (Mat. 28:19). Đó là một bước mà chính Ngài không để người ta thuyết phục Ngài đừng chịu báp-têm (Mat. 3:13-15). Phi-e-rơ mô tả báp-têm là sự kêu gọi, lời chứng của lương tâm tốt đối với Đức Chúa Trời (c. 21). Lời chứng là một sự tuyên bố. Cho nên qua hành động này, anh em nói lên một điều gì đó, anh em tuyên bố chỗ đứng của mình, có lẽ không do lời nói, nhưng chắc chắn bởi việc làm của anh em. Vượt qua dòng nước, anh em công bố với cả vũ trụ rằng anh em đã bỏ lại thế gian phía sau và bước vào một điều gì đó tuyệt đối mới. Đó là sự cứu rỗi. Anh em công khai đứng ở chỗ mà Đức Chúa Trời đã đặt anh em trong Đấng Christ.
Điều này giúp giải thích lý do tại sao chúng ta tìm thấy có những phân đoạn trong Kinh thánh nói về sự cứu rỗi rất khó giải thích nếu chúng ta chỉ liên hệ sự cứu rỗi với địa ngục hay tội lỗi. Chẳng hạn như điều này soi sáng cho những lời rõ ràng là khó hiểu mà Phao-lô và Si-la đã nói với người cai ngục tại Phi-líp. Ông ấy hỏi: “Tôi phải làm gì để được cứu rỗi?” Anh em sẽ trả lời như thế nào? Nếu là một nhà truyền giảng Phúc âm vững vàng của thời nay, anh em sẽ nói một cách chắc chắn: “Hãy tin Chúa Jesus Christ thì anh sẽ được cứu”. Nhưng thật ra Phao-lô đã nói thêm: “Anh và cả nhà anh”. Tôi có thể nghe anh em kêu lên: Ông thật sự có ý nói rằng nếu tôi tin Chúa Jesus, cả tôi lẫn gia đình tôi đều sẽ được cứu không? Một lần nữa chúng ta phải cẩn thận. Phao-lô không nói: Hãy tin Chúa Jesus thì anh và cả nhà anh đều sẽ có sự sống đời đời. Ông nói: “Hãy tin Chúa Jesus Christ, thì anh và cả nhà anh đều sẽ được cứu rỗi”. Hãy nhớ rằng Phao-lô đang nói đến một hệ thống gồm nhiều điều, và nói đến việc người cai tù từ chối và thoát ra khỏi hệ thống ấy. Với tư cách là đầu của gia đình, khi ông tuyên bố rằng từ ngày ấy trở đi, ông và nhà ông sẽ hầu việc Chúa, và khi lời tuyên bố ấy được mọi người biết, ngay cả những người qua đường sẽ chỉ vào cửa nhà ông và nói: “Họ là người theo Đấng Christ”.
Đó là ý nghĩa của sự cứu rỗi. Anh em tuyên bố rằng mình thuộc về một hệ thống khác bao gồm nhiều điều. Người ta chỉ vào anh em và nói: “Vâng, đúng rồi, đó là một gia đình Cơ Đốc; họ thuộc về Chúa!” Đó là sự cứu rỗi mà Chúa ao ước cho anh em, là sự cứu rỗi do làm chứng công khai, anh em tuyên bố trước mặt Đức Chúa Trời: “Thế giới của con đã ra đi; con bước vào một thế giới khác”. Nguyện Chúa ban cho chúng ta sự cứu rỗi ấy, để chính chúng ta được hoàn toàn nhổ bật rễ ra khỏi hệ thống cũ bao gồm nhiều điều, bị định phải hủy diệt, và được trồng cách vững chắc trong hệ thống mới, thần thượng.
Ngợi khen Đức Chúa Trời, vì có một phương diện tích cực vinh hiển cho mọi điều này. Phi-e-rơ nói tiếp rằng chúng ta được cứu “bởi sự sống lại của Jesus Christ, là Đấng đã lên trời, nay ngự bên hữu Đức Chúa Trời, các thiên sứ, các quyền bính, các năng lực đều thuận phục Ngài” (c. 22). Đức Chúa Trời đã đặt Con Ngài ở vị trí tối cao, trên cả mọi sự, và làm cho mọi uy quyền đầu phục Ngài. Đức Chúa Trời có thể làm điều này là Đấng thừa sức đem tôi, tức thân và hồn tôi vào trong lãnh vực ấy.
Như vậy, tóm lại, ở đây chúng ta có hai thế giới. Một mặt là thế giới trong A-đam, bị Sa-tan cầm giữ trong cảnh nô lệ; mặt khác, có cõi sáng tạo mới trong Đấng Christ, là lãnh vực hoạt động của Thánh Linh Đức Chúa Trời. Làm thế nào anh em và tôi ra khỏi một lãnh vực, là A-đam, để vào trong lãnh vực kia, là Đấng Christ? Nếu anh em không biết chắc phải trả lời câu hỏi ấy như thế nào, tôi xin hỏi anh em một câu khác. Trước hết làm thế nào anh em vào trong A-đam? Vì hễ biết lối vào thì chúng ta cũng sẽ biết lối ra. Anh em đã vào trong lãnh vực của A-đam bằng cách được sinh ra trong dòng giống của A-đam. Như vậy, làm thế nào anh em ra khỏi đó? Rõ ràng là bởi sự chết. Và tiếp theo, làm thế nào để anh em vào trong lãnh vực của Đấng Christ? Câu trả lời cũng giống như vậy: bằng cách được sinh ra. Cách bước vào gia đình của Đức Chúa Trời là bởi sự tân sinh dẫn đến hi vọng sống, nhờ sự phục sinh của Jesus Christ từ những người chết (1 Phi. 1:3). Sau khi được hiệp một với Ngài bởi hình trạng của sự chết Ngài, anh em được liên kết với Ngài bởi hình trạng của sự phục sinh Ngài (La. 6:5). Sự chết đã chấm dứt mối quan hệ của anh em với thế giới cũ, và sự phục sinh đem anh em đến tiếp xúc cách sống động với thế giới mới này.
Cuối cùng, điều gì xảy ra giữa thế giới này và thế giới kia? Tảng đá để anh em đặt chân giữa hai thế giới này là gì? Không phải là sự chôn sao? “Vậy, chúng ta đã nhờ báp-têm mà được đồng chôn với Ngài trong sự chết” (La. 6:4). Theo một quan điểm, có một kết thúc tàn nhẫn trong những từ ngữ “được đồng chôn với Ngài trong sự chết”. Quá khứ của tôi trong A-đam đã chấm dứt trong sự chết của Đấng Christ, cho nên khi tôi bước đi từ sự chôn ấy, tôi có thể nói mình là một con người “đã chấm dứt”. Nhưng tôi có thể nói nhiều hơn, vì ngợi khen Đức Chúa Trời, có một phương diện khác không kém phần đúng đắn. Vì “Đấng Christ đã được sống lại từ trong những người chết”, khi tôi ra khỏi nước và bước đi, tôi có thể bước đi “trong sự sống mới” (6:4).
Kết quả hai mặt của Thập Tự Giá cũng được ngụ ý trong những từ ngữ đi trước La Mã 6:3. “Anh em há không biết rằng tất cả chúng ta là những người đã chịu báp-têm trong Christ Jesus, đều đã chịu báp-têm trong sự chết của Ngài sao?” Ở đây chỉ trong một câu ngụ ý hai phương diện của báp-têm. Đó là báp-têm vào trong hai điều. Trước hết, chúng ta là những người tin đã được “báp-têm vào trong sự chết của Ngài”. Đó là một sự thật lớn lao, nhưng có phải tất cả chỉ có vậy? Hoàn toàn không phải như vậy, vì trong phần thứ hai, chính câu ấy nói rằng chúng ta đã “chịu báp-têm vào trong Christ Jesus”. Một báp-têm vào trong sự chết của Đấng Christ chấm dứt mối quan hệ của tôi với thế giới này, nhưng một báp-têm vào trong Christ Jesus là một Thân vị sống, là Đầu của một dòng giống mới, mở ra cho tôi một thế giới với những sự vật hoàn toàn mới. Khi đi vào trong nước, tôi đơn giản làm cho mọi sự thành tựu, công khai khẳng định rằng “sự phán xét thế gian này” trở nên thực hữu đối với tôi kể từ ngày Con Loài Người “bị treo lên” kéo tôi đến với chính Ngài.
Thật là một Phúc âm kỳ diệu để rao giảng cho toàn cõi thọ tạo!
1 Bài giảng này được chia sẻ nhân buổi báp-têm tại Luân Đôn vào tháng Năm, 1939.