"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:7694485
Đang truy cập:249

Chương 7

 


SỰ HIỆN HỮU CỦA MA QUỶ CHỨNG MINH SỰ HIỆN HỮU CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Tôi đã gặp nhiều người tin rằng ma quỷ hiện hữu. Họ tin việc ngồi đồng, bói toán, nhưng không tin vào Đức Chúa Trời chân thật. Nếu có ma quỷ trên thế giới, chắc chắn phải có Đức Chúa Trời vì ma quỷ là các ngụy thần. Trong thế giới, phải có điều thật trước khi có thể có điều giả tạo. Tại Bắc Kinh, có một cửa tiệm tên là “Hoàng Mặt Rỗ” vì người chủ có mặt bị rỗ. Các vật liệu bằng thép ở đó cực tốt và việc kinh doanh trôi chảy. Không lâu sau đó, những nhà kinh doanh khác bắt đầu bắt chước mở những cửa tiệm có tên gọi: “Hoàng Mặt Rỗ gốc” “Hoàng Mặt Rỗ đích thực” “Hoàn Mặt Rỗ” “Hoành Mặt Rỗ” “Hoàng Mặt Rỗ gốc đích thực” “Hoàng Mặt Rỗ gốc gốc”, v.v… Chỉ có một Hoàng Mặt Rỗ chân thật; những cái khác đều là giả mạo. Điều đó cũng đúng với Đức Chúa Trời. Chỉ có một Đức Chúa Trời chân thật; còn lại là hàng triệu ngụy thần.

Lâm Chấn Cừ đã từng bị quỷ nhập

Khi còn tuổi thiếu niên, ông đã đến chùa để “mượn sự sống” cho những thanh niên ốm đau trong gia đình để họ có thể sống thêm một số năm nữa. Vì lí do này, ông có hai con quỷ làm bạn. Mỗi tối, hai con quỷ này thăm ông. Chỉ có ông Lâm mới thấy được chúng; người khác thậm chí không thể nghe giọng nói của chúng. Điều đó dường như là một kinh nghiệm vô hại. Một ngày nọ, ông Lâm mất việc và không thể tìm được việc làm. Một con quỷ đề nghị: “Sao ngươi không làm nghề thuốc?”

“Tôi chưa bao giờ học y”, ông Lâm nói. “Làm sao tôi có thể làm nghề thuốc được?”

“Đừng lo”, con quỷ cam đoan. “Chỉ làm những gì ta bảo và nói những gì ta nói”.

Đang khó khăn và không có sự giúp đỡ nào cả, ông Lâm làm một bảng hiệu bác sĩ. Khi bệnh nhân đến, ông không bắt mạch cũng không hỏi về tình trạng bệnh; ông chỉ nói những gì quỷ bảo. Lời nói của ông rất hiệu quả và đúng. Ông nói đúng căn bệnh mà bệnh nhân đang mắc phải, nó bắt đầu khi nào và các triệu chứng ra sao. v.v… Quỷ cũng cho ông biết nên kê loại thuốc gì. Những loại thuốc này thường là sự pha chế kì lạ, chẳng hạn như một ly đất lấy từ gạch của một căn nhà nào đó, cỏ dại mọc trên đất gần một bức tường kia, và trộn chúng với những côn trùng như bò cạp, v.v… Nhưng bệnh nhân lại được khỏe sau khi uống thứ thuốc lạ đó. Do đó, ông Lâm trở nên rất nổi tiếng.

Hai con quỷ ấy cộng tác để lừa dối những người ngây thơ. Một con quỷ làm cho một số người ngã bệnh, trong khi con quỷ kia lại khởi xướng việc chữa bệnh. Sau đó, ông Lâm cũng có thể tiên đoán những sự kiện, và gọi người chết từ Âm phủ về để nói chuyện với người thân của họ. Khi ông đến bàn thờ, quỷ nhập vào, giả mạo tiếng nói của người chết; và để gia tăng sự tín nhiệm, quỷ sẽ thêm những lời mà người mẹ thường dùng để nói, chẳng hạn như đề cập đến cái áo bà mặc khi chết, tên yêu dấu bà đã dùng để gọi con bà, v.v… Thật ra, đó không phải là giọng nói của người mẹ thật mà là quỷ giả mạo người chết. Sau đó, ông tiếp tục mô tả tình trạng ở âm phủ và nói nhiều điều dối trá vì dù sao những người sống cũng không biết bất cứ điều gì về âm phủ! Do đó, càng nhiều người mê tín bị lừa để đóng góp tiền của. Nếu ai đó yêu cầu ông đuổi quỷ thì quỷ sẽ nhập vào ông và làm nhiều hành động kì lạ, chạy vòng quanh nhà, bắt chước những điệu nhảy theo nghi lễ với những câu thần chú để đuổi quỷ. (Thật ra, đó là những con quỷ nhỏ tạo cơ hội cho những con quỷ lớn). Ông Lâm có thể vẽ những vòng tròn bằng lưỡi và nhả ra những cốc máu; và khi quỷ xuất ra, lưỡi của ông vẫn trở lại tình trạng bình thường. Nhiều người tin ông Lâm. Chẳng bao lâu, ông làm hai hình tượng của hai con quỷ bằng đất sét. Nhưng sau khi bị quỷ nhập, thân thể ông hoàn toàn kiệt sức. Trong khi bị quỷ nhập, ông mất ý thức và không biết điều gì đang xảy ra. Ông nói điều quỷ nói và nhảy khi quỷ nhảy. Lúc đầu, bọn quỷ còn hỏi ý kiến ông trước khi nhập vào; nhưng về sau, thậm chí chúng không hỏi nữa, Đôi lúc khi ông đang ăn, quỷ nhập vào thân thể ông, nhảy dữ dội trong vài giờ rồi bỏ đi. Mặc dù ông Lâm trở nên rất giàu có, nhưng thân thể và tâm trí lại có tình trạng khổ sở. Ngay cả khi không muốn, ông cũng không có sự chọn lựa.

Một ngày nọ, ông không còn chịu nỗi nữa. Ộng chạy đến nhà vợ tại Tất Sơn. Vì ông không còn gần quỷ nữa nên chúng không thể đến. Ngay vào lúc đó, có một Cơ Đốc nhân đang rao giảng phúc âm tại Tất Sơn. Ông Lâm đến nghe. Thấy ông lắng nghe rất chăm chú, người giảng đến gần ông và nói: “Tôi thấy rằng anh đặc biệt cần Jesus”.

Ông nhanh chóng trả lời: “Vâng, tôi thật sự cần Jesus.”

Người giảng lập tức giải thích cho ông về sự dạy dỗ của Chúa và rồi tặng ông cuốn Phúc Âm Giăng. Ông Lâm đề cập đến việc đã tiếp xúc với quỷ và thể nào ông đã chạy trốn đến Tất Sơn. Người giảng khuyên ông trở về Phúc Châu và đem Chúa Jesus đến để xử lý hai con quỷ đó, nếu không, mối liên hệ với chúng vẫn chưa kết thúc, và một ngày kia, chúng sẽ tìm thấy ông.

Ngày hôm sau, ông Lâm trở về nhà. Tối lại, như mong chờ, hai bạn quỷ trở lại. Ông Lâm nhanh chóng lấy cuốn Phúc Âm Giăng và đọc. Khi ông đang đọc, bọn quỷ do dự và không đến nhanh như trước. Ông Lâm rất lo lắng, sợ rằng bọn quỷ sẽ nhảy vào và ông lại mất ý thức. Trong nỗi tuyệt vọng đó, ông la lên: “Ô Chúa Jesus! Xin giúp con”. Thật lạ lùng, khi ông kêu danh Chúa Jesus, bọn quỷ lui lại. Ông kêu lần nữa, và bọn quỷ lui lại. Khi ông ngưng kêu, bọn quỷ tiến lên. Điều đó tiếp tục hơn chục lần, và bọn quỷ không thể đến gần thân thể ông. Ông Lâm mệt nhừ. Thật may, trời rạng sáng, và khi gà gáy, bọn quỷ bỏ đi. Việc ông kêu Chúa suốt đêm làm cho hàng xóm mất ngủ. Ông Lâm vội vàng trở lại Tất Sơn và kể lại câu chuyện cho người giảng. Người giảng bảo ông: “Anh vẫn phải quay lại phá bỏ tất cả những bùa chú thì chúng sẽ không trở lại với anh nữa”.

Ngày hôm sau, ông Lâm vội vàng trở lại Phúc Châu. Tay trái ông cầm cuốn Phúc Âm Giăng, còn tay phải ông đập nát hai bức tượng quỷ bằng đất sét. Ông xé tất cả bùa chú bằng giấy màu vàng. Từ đó trở đi, bọn quỷ không dám trở lại. Vì đã tin Chúa, ông Lâm bắt đầu rao giảng phúc âm trong làng rằng: “Nhiều người nói Jesus không phải là Chúa phục sinh. Nhưng tôi không đồng ý. Cho dù bị các ông chặt ra từng mảnh, tôi vẫn không thể phủ nhận rằng Jesus là Chúa phục sinh; vì khi tôi kêu danh Jesus, bọn quỷ thối lui”.

Lời làm chứng của cá nhân tôi về việc đuổi quỷ--

Tôi có một người bạn tốt tên là Trịnh Đại Cường. Chúng tôi là bạn cùng lớp ở trung học và cũng ở đại học khi cúng tôi học ở Đức. Bạn tôi trở về nước sau khi lấy bằng kĩ sư. Anh nói rằng cuộc sống thật trống trải vì thế anh theo đạo Phật. Không lâu sau, anh trở thành người ăn chay rất nghiêm khắc và tuân theo việc ăn chay 19 năm. Mỗi ngày, anh suy niệm và tụng kinh. Anh rất sùng đạo và sốt sắng, thậm chí hơn cả thầy tu giữ luật Phật giáo. Đến một lúc, anh xem dầu và muối là không có lợi cho linh; vì thế, anh kiêng muối trong 10 tháng, và kiêng dầu trong 12 tháng. Không những anh kiêng mở động vật mà còn tránh ô nhiễm bởi dầu thực vật. Anh tiếp tục làm như vậy để bằng với Phật.

Nhưng vào ngày 31 tháng Ba, 1944, bạn đồng nghiệp của anh là La Thiếu Hiệp vội vàng chạy đến tôi và nói: “Đại Cường đang hấp hối vỉ bệnh. Anh ấy không ăn, không uống đã 14 ngày, chân tay đã lạnh; có máu trong đàm nhưng không còn sức để khạc ra. Giọng nói đã yếu và tâm trí thì lộn xộn. Tôi đến theo sự chỉ dẫn của anh ấy để mua nhang, nến, giấy mã (để đốt như lễ vật dâng cho người chết), đồ tang, để tiễn anh ấy đến nơi an nghỉ cuối cùng”.

Nghe tin đó, tôi không biết làm gì. Anh ấy ở cách xa tôi ba, bốn dậm. Trời thì tối và việc đi lại không thuận tiện. Tôi không thể làm gì ngoài cầu nguyện cho anh suốt đêm. Sáng hôm sau, các anh em Lưu Nhuận Hoàn, Ngô Mông Hà và tôi đến thăm anh. Khi chúng tôi đến, Đại Cường đã như chết; mặt thì đen chàm, xương gầy như khúc củi, miệng bị méo qua bên trái và không thể ngậm lại được. Anh đang lẩm bẩm kêu tên của ông tổ Lữ và Quan Âm. Khi thấy chúng tôi, anh nói: “Ông tổ Lữ nói: Muốn… trở thành Phật… phải chịu khổ…. Tôi… đã… phạm tội… Chịu khổ…. là cần thiết… Ma quỷ… bao vây… tôi… kết án… tôi”.

Chúng tôi khuyên anh ăn uống nhưng anh nói: “Nếu ông tồ Lữ… muốn tôi ăn… thì tôi ăn. Nếu ông tổ Lữ… muốn tôi… uống… thì tôi… uống”.

Sau đó, chúng tôi thấy rằng nguồn gốc bệnh của anh có liên quan đến ma quỷ. Mỗi lần Trịnh đốt nhang và tụng kinh, anh có thể thấy hai con quỷ đang đùa giỡn, một con ốm có đầu nhọn, và một con lùn có đầu bự. Chúng cầm cái tẩu thuốc cổ và đội mũ chỏm nhỏ trên đầu. Chúng nhảy xung quanh và rất quậy phá. Một ngày kia, khi anh suy ngẫm, thình lình anh bị xuất thần, bước đi trên không, nhìn thấy núi và sông, các loài hoa cỏ đẹp lì lạ. Ngay khi thấy hết cảnh đẹp, bất ngờ anh bị rơi xuống đất, và kể từ đó anh gặp rắc rối về tâm thần, bị rơi vào tình trạng mất trí, trần truồng, mất tự chủ. Trong hơn hai tuần, anh nói những lời của quỷ, lăn và nhảy điên cồng, không ăn hay uống gì cả. Rồi anh được đưa vào bệnh viện trong mười ngày, nhưng các bác sĩ không thể làm gì cả. Biết tình hình đó, tôi nghĩ trong lòng rằng: “Cách duy nhất là đem vấn đề này đến buổi nhóm cầu nguyện”.

Vào thời điểm đó, tầng trệt nhà tôi là nơi nhóm lại. Vì thế tôi đánh liều đưa bạn về nhà. Tình cờ, Anh Từ Trọng Khiết, một người giảng nổi tiếng có ân tứ đuổi quỷ đang ở trong thành phố tại Trùng Khánh. Tối hôm đó, ba chúng tôi với anh Lưu Nhuận Hoàn lấy đức tin cầu nguyện cho anh dựa trên ba điểm: 1/ Trịnh là người chân thành tìm kiếm lẽ thật nhưng không thể tìm được đường lối đúng đắn; anh đã tranh luận với chúng tôi hơn ba năm nhưng vẫn chưa tin vì vẫn không thể hiểu được; 2/ Anh là người cư xử trong sự kính sợ Đức Chúa Trời, cố gắng đắc thắng bản ngã và tội, và rất hối hận mỗi khi phạm tội; 3/ Chúa Jesus là Đức Chúa Trời công chính; Ngài  sẽ không khiến một người như vậy chết và đi địa ngục. Ngài là Đấng quyền năng, yêu thương, và chắc chắn sẽ cứu anh. Do đó, trong lời cầu nguyện, chúng tôi cầu xin bốn điều: 1/ Chúng tôi xin Đức Chúa Trời xem xét lòng anh để thấy rằng không phải anh từ chối Đức Chúa Trời nhưng là anh không biết Ngài. Chúng tôi xin Đức Chúa Trời bay tỏ chính Ngài cho anh theo sự công chính của Ngài và chứng tỏ cho bạn chúng tôi thấy rằng Ngài là Đức Chúa Trời chân thật; 2/ Chúng tôi cầu xin Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài cho anh qua giấc mơ hay khải tượng; vì tình trạng tâm trí của anh lúc đó thật vô vọng nếu thuyết phục anh theo lí lẽ; 3/ Chúng tôi cầu xin Chúa đuổi quỷ ra khỏi thân thể anh; 4/ Chúng tôi công bố sự đắc thắng của Chúa trên sự chết và âm phủ, và tin rằng bạn chúng tôi sẽ không chết trong tay của ma quỷ! Ba chúng tôi cầu nguyện như vậy trong nửa giờ, và đến 10 giờ chúng tôi đi ngủ.

Nửa đêm, Đại Cường la lên với tôi: “Lão Thương ơi, Dậy đi! Tôi đã tin Chúa Jesus rồi!”

Vào lúc đó, tôi để ý thấy giọng nói của anh, nước da và tình trạng tâm trí đã tốt hơn rất nhiều. Anh kể rằng anh có một giấc mơ. Trong giấc mơ, anh rơi xuống một đại dương mênh mông và chìm sâu trong sợ hãi. Điều duy nhất cứu anh khỏi chìm là cái phao quanh cổ. Vùng vẫy trong vô vọng, và chờ đợi thuyền tới cứu, cuối cùng anh muốn buông xuôi và nghĩ đến cái chết để kết thúc sự đau đớn của mình. Khi anh sắp để mình chìm xuống nước thì bỗng nhiên nhìn thấy Cứu Chúa Jesus xuất hiện trên không trung! Mặt Ngài giống như sự chói sáng của mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết. Ngài rất hiền lành, vui vẻ, trìu mến, và một giọng nói phán với anh: “Con có muốn Ta cứu con không?”

Lúc đó, anh la lên: “Ô Chúa! Con muốn Ngài cứu con!”

Rồi anh thấy Chúa Jesus đưa tay phải của Ngài ra kéo dây thừng, và anh nhảy nhanh ra khỏi nước. Rồi một quả cầu lửa từ trời xuống và vào trong lòng anh. Cuối cùng, anh tỉnh giấc. Từ lúc đó trở đi, anh thấy lòng mình rất vui, tâm trí trở lại bình thường. Sau ba ngày, sức khỏe anh được hồi phục và anh có thể tham gia nhóm họp. Sau bảy ngày, anh đến nhà hàng và ăn rất nhiều! Từ đó trở đi, một người ăn chay mười chín năm trước đây đã trở thành người không từ chối thịt hay cá! Ma quỷ hoàn toàn bị đánh bại. Có quá nhiều sự kiện như vậy để kể. Sự hiện hữu của ma quỷ chỉ chứng minh rằng có Đức Chúa Trời.

 

Ma quỷ là ngụy thần—

Tại Đông Quan, Yên Thái, Sơn Đông, Trung Quốc  có một người tên là Hứa Thanh Vũ, tin Chúa Jesus. Trước khi tin Chúa, ông là phù thủy. Hồn ông có thể rởi khỏi thân thể và đi xa hàng trăm dặm để chữa bệnh. Một lần nọ, có một người đến từ Đại Tân Điếm, Bồng Lai, cách Yên Thái khoảng 180 dặm, để xin ông chữa bệnh. Thế rồi ông ngồi xuống suy niệm, và hồn ông đi đến Bồng Lai để điều tra. Trước hết, ông gặp thần của thành Bồng Lai (ngụy thần), thần này sai một quỷ nhỏ đi cùng ông để gặp thủ lĩnh của vùng Đại Tân Điếm. Ở đó ông đến nhà của người bệnh và gặp thần cửa (uế linh), và thần bếp để hỏi tại sao người ấy bệnh. Thần bếp giải thích rằng vì người đó không đốt nhanh hay cúng, nên chúng tôi làm cho anh bệnh. Hồn của ông Hứa trở lại và giải thích. Người này nhanh chóng làm theo như vậy và như mong đợi, anh được khỏe.

Ông Hứa có khả năng như vậy vì điều đó đến từ một con quỷ lớn ở Đông Quan, Yên Thái. Con quỷ này là bạn của ông, và một lần nọ, nó dẫn ông lên không trung để thấy các đền thờ trên trời. Có nhiều đền thờ của tất cả các tôn giáo trên đất, nữ tu viện, nam tu viện, và thậm chí các hội thánh Hồng Vạn Tự, v.v… Ông cũng thấy các viên chức theo mỗi cấp bậc trong từng giai cấp; và cuối cùng ông thấy Ngọc Hoàng Đại Đế (chúa quỷ). Sau khi thấy tất cả những điều này, ông Hứa càng được thuyết phục hơn.

Một ngày nọ, em của ông là Hứa Thanh Tuyền khích lệ ông tin Jesus. Ông vặn lại: “Em nói rằng Đấng em tin là Đức Chúa Trời chân thật. Nhưng anh nói đấng anh tin là Đức Chúa Trời chân thật. Trước hết, em tin vào Jesus của em nhưng em nghèo túng. Anh tin Phật và giàu có. Thứ hai, anh đã một lần đi lên trời và xem thấy nhà và vua trên trời”.

Em của ông nhắc ông: “Anh đã thấy mọi loại chùa và tu viện trên trời nhưng anh có thấy nhà thờ nào ở đó không? Hãy đi hỏi Jesus ở cấp nào trong các cấp bậc đó”.

Ông Hứa nhớ lại đúng là ông không thấy bất cứ nhà thờ nào ở trên trời. Nghĩ lại thấy có rất nhiều người tin Jesus, nhưng tại sao không có nhà thờ nào? Ngày hôm sau. Ông hỏi con quỷ lớn ở Đông Quan (biên giới phía Đông) tại sao không có nhà thờ nào trên trời, và Jesus ở cấp nào trong các cấp bậc. Con quỷ lớn rất giận dữ và bối rối; nó lên án ông kịch liệt, cấm ông không được nhắc đến đạo của Jesus một lần nào nữa.

Ông Hứa mời thầy phù thủy của Tây Quan (biên giới phía Tây) đến để hỏi cùng câu hỏi đó; nhưng lại gặp sự khiển trách như vậy. Từ đó trở đi, ông Hứa bắt đầu nghi ngờ về những điều ông tin. Một ngày nọ, ông đi với em mình đến nghe phúc âm, và không lâu sau đó, ông tiếp nhận Jesus là Đức Chúa Trời và Cứu Chúa chân thật. Mấy con quỷ đến và trả thù ông. Một số con xuất hiện trong hình dạng gớm ghiếc để dọa ông, một số khác dùng sự cám dỗ để quấy rầy ông. Ông Hứa chỉ phớt lờ, và sau vài tháng, chúng không quấy rối ông nữa. Các tà thần sợ Đức Chúa Trời chân thật. Chỉ có Jesus là Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống. 

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2