buy amoxicillin liquid
buy amoxicillin
buy naltrexone canada
buy naltrexone
naltrexone reviews for weight loss
naltrexone
oral reviews
CHƯƠNG 2
MỐI NGUY HIỂM KHI TÍN ĐỒ THỤ ĐỘNG
Vì các tín đồ quá thiếu hiểu biết, nên họ bị lừa dối bởi quyền lực của sự tối tăm và vô thức bị cho vào tròng bởi sự lừa dối của Satan. Họ thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác và bởi đó bị quỷ ám. Chúng ta phải lưu ý đến trật tự trong vấn đề này vì nó rất trọng yếu: (1) tín đồ trở nên thiếu hiểu biết, (2) người ấy bị lừa dối, (3) người ấy trở nên thụ động, và (4) người ấy bị quỷ ám. Sự thiếu hiểu biết của tín đồ là nguyên nhân đầu tiên cho việc bị quỷ ám. Vì sự thiếu hiểu biết của tín đồ về nguyên tắc công tác của các ác linh và yêu cầu của Thánh Linh nên Satan có thể lừa dối người ấy. Nếu tín đồ biết lẽ thật, biết cách công tác với Đức Chúa Trời và biết các quy luật của công tác Đức Chúa Trời, người ấy sẽ không chấp nhận các lời nói dối của Satan. Khi bị các ác linh lừa dối, người ấy nghĩ rằng toàn bộ bản thể mình phải trở nên thụ động để Đức Chúa Trời sống và công tác qua mình. Cho nên, người ấy chấp nhận nhiều sự biểu lộ siêu nhiên của các ác linh và xem những điều đó là từ Đức Chúa Trời. Theo cách này người ấy càng bị lừa dối hơn và các ác linh có thể nhập vào người ấy.
(1)Khi một tín đồ nhường chỗ cho các ác linh, đó là một lời mời gọi cho các ác linh nhập vào người ấy. (2) Sau khi bước vào, chắc chắn chúng sẽ tự biểu lộ qua các hoạt động của chúng. (3) Nếu tín đồ hiểu sai các hoạt động này và không biết rằng những điều đó là ra từ ma quỷ, người ấy sẽ nhường thêm chỗ cho các ác linh vì người ấy đã tin vào các lời nói dối của chúng rồi. Đây là một chu kỳ tự lặp lại hết lần này đến lần khác. Theo cách này, tín đồ ngày càng bị quỷ ám sâu hơn. Chỉ cần tín đồ rơi vào trong sự thụ động, tức là sau khi người ấy nhường chỗ cho các ác linh, thì mối nguy hiểm không thể nào nói hết được.
Khi một tín đồ rơi vào trong sự thụ động và không đưa ra một sự lựa chọn trong mọi điều thuộc về mình, người ấy sẽ thụ động thuận phục mọi điều đến trên mình từ môi trường. Người ấy sẽ nghĩ rằng Đức Chúa Trời đang đưa ra quyết định thay cho mình, trong môi trường cũng như trong những người liên hệ với mình và mình chỉ cần thuận phục cách thụ động thôi. Mọi điều xảy đến trên người ấy đều trở nên ý muốn và lệnh truyền của Đức Chúa Trời; người ấy im lặng chấp nhận chúng vì nghĩ rằng chúng là do Đức Chúa Trời ban cho. Sau một thời gian, người ấy nhận thấy rằng mình không thể đưa ra bất cứ quyết định nào về bất cứ điều gì trong đời sống mình. Người ấy không thể đưa ra quyết định về nhiều điều mình phải làm và không thể chủ động trong những vấn đề này. Người ấy sợ nói ra điều mình thích và do dự nói ra điều mình quyết định. Những người khác có thể lựa chọn, quyết định, khởi xướng và hành động; nhưng người ấy giống như rong biển trôi nổi trên mặt nước, tròng trành, phó mặc cho gió và sóng biển cuốn đi. Người ấy mong chờ ai đó đưa ra quyết định dùm mình hoặc các hoàn cảnh cung cấp cho mình một con đường duy nhất để đi hầu cho người ấy không cần phải lựa chọn. Người ấy vui mừng để người khác ép mình làm một điều gì đó vì điều đó khiến người ấy khỏi phải lo lắng. Vì việc đưa ra lựa chọn rất khó khăn đối với người ấy nên người ấy thà bị môi trường ép buộc còn hơn tự do trong môi trường, vì điều này đòi hỏi phải có sự lựa chọn.
Sau khi trở nên thụ động như vậy, người ấy nhận thấy đưa ra một quyết định dù là nhỏ nhất đi nữa cũng là một gánh nặng. Người ấy liên tục tìm kiếm sự giúp đỡ khắp nơi và tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài để có thể đưa ra quyết định. Người ấy cảm thấy rất tiếc vì dường như mình không thể quản lý ngay cả những điều nhỏ nhặt trong nếp sống hằng ngày của mình. Người ấy gặp khó khăn trong việc hiểu điều người khác nói. Người ấy thấy khó ghi nhớ hay hồi tưởng lại bất cứ điều gì. Nếu phải đưa ra bất kỳ quyết định nào, người ấy luống cuống không biết làm gì. Người ấy sợ ý tưởng phải bàn bạc về bất cứ vấn đề gì vì ý muốn thụ động của người ấy không thể gánh một trách nhiệm nặng nề như vậy. Ý muốn người ấy quá mỏng manh đến nỗi người ấy phải tiếp nhận sự giúp đỡ từ môi trường hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ con người. Nếu có một người luôn luôn giúp đỡ, người ấy sẽ cảm thấy anh ta đã cướp mất ý muốn của mình; tuy nhiên theo một ý nghĩa người ấy cũng vui thích khi có người đưa ra mọi quyết định dùm mình! Trong khi người ấy chờ đợi sự hỗ trợ của tác động bên ngoài, thì vô số thời gian bị phung phí. Chúng ta không nói rằng một tín đồ thụ động như vậy không thích công tác. Khi chỗi dậy, người ấy muốn làm một số điều hoặc cho rằng mình có thể làm một số điều. Nhưng khi người ấy phải bắt đầu công tác, sự khấy động dừng lại và người ấy cảm thấy sức lực của mình không thể tương xứng với nhu cầu. Nhiều công tác bắt đầu tốt nhưng kết thúc trong thất bại vì cớ sự thụ động của ý muốn.
Tình trạng thụ động này thật bất tiện biết bao! Trong suốt giai đoạn này, tín đồ phải ghi nhiều chú thích để nhắc nhở mình về nhiều điều. Người ấy phải nói lớn tiếng để giúp đỡ mình trong các ý tưởng và sử dụng hàng trăm “cái nạng” mà người ấy phát minh ra để hỗ trợ người ấy suốt cả ngày. Cuối cùng, người ấy nhận thấy các cảm xúc của mình dần dần trở nên tê liệt và người ấy vô thức hình thành nhiều ao ước và sở thích kỳ lạ. Khi nói với người khác, người ấy không dám nhìn vào mắt họ. Người ấy khom người khi bước đi. Người ấy hoặc là quá bận tâm đến các nhu cầu của thân thể mình hoặc đàn áp các nhu cầu của thân thể mình cách quá đáng. Khi làm bất cứ điều gì, người ấy cố gắng từ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyền sử dụng tâm trí, ý muốn, lập luận và khả năng suy tưởng của mình.
Trong sự thiếu hiểu biết, tín đồ thất bại trong việc nhận thức rằng các dấu hiệu bệnh tật này đến từ sự thụ động và việc bị quỷ ám. Người ấy nghĩ rằng đó là do sự yếu đuối tự nhiên của mình. Tín đồ tự an ủi mình bằng cách nghĩ rằng có các triệu chứng này là do người ấy không có nhiều “ân tứ” như người khác, vì “sự thông minh” của người ấy khác với người khác hoặc vì “khả năng thiên nhiên” của người ấy kém hơn người khác. Người ấy không cảm thấy lo sợ khi mình trở nên như vậy. Người ấy không nhận thức rằng các triệu chứng này là các lời nói dối của ác linh, chủ đích là để lừa dối người ấy hơn nữa. Người ấy không dám công tác và không dám gánh vác bất cứ điều gì vì cho rằng mình có một sự dị ứng đối với công tác, bị yếu đuối về tinh thần, không có tài hùng biện và chậm suy nghĩ. Người ấy nghĩ rằng có lẽ mình đã làm việc quá sức trong quá khứ nên không đủ sức khỏe vật lý. Người ấy không bao giờ hỏi tại sao các tín đồ khác không như vậy. Tại sao những người thua kém mình về mặt ân tứ lại không như vậy? Tại sao trong quá khứ mình không như vậy? Người ấy nghĩ rằng những điều này là bẩm sinh, tự nhiên và thuộc về tâm tính, chứ không nhận thức rằng đó là công tác của các ác linh. Sự ngu dại này khiến cho các ác linh có được thêm lập trường và khiến các tín đồ chịu nhiều nỗi khổ hơn.
Các quyền bính của sự tối tăm biết tình trạng hiện tại của tín đồ. Chúng tạo ra nhiều khó khăn trong môi trường của tín đồ để quấy rầy người ấy dai dẳng. Một khi ý muốn của tín đồ trở nên thụ động và không thể công tác, các ác linh sẽ đặt người ấy vào trong một vị trí mà người ấy buộc phải sử dụng ý muốn của mình, để làm người ấy chán nản và khiến người ấy trở thành trò cười trước mặt người khác. Vào lúc này, tín đồ như con chim trong lồng, và các ác linh giống như những đứa trẻ hư hỏng, cứ chọc phá người ấy tùy thích. Chúng luôn luôn khấy động bão tố và quấy rầy tín đồ bằng nhiều điều. Tín đồ không có khả năng phản kháng và kháng cự chúng. Môi trường của người ấy trở nên tệ hơn và nếp sống người ấy trở nên vô nghĩa hơn. Mặc dù tín đồ có quyền bính để xử lý mọi sự nhưng người ấy giữ im lặng. Theo cách này, các quyền bính của sự tối tăm dần dần có được lợi thế và khiến tín đồ xoay từ tình trạng thiếu hiểu biết, bị lừa dối và thụ động đến tình trạng bị quỷ ám, bởi đó chịu thống khổ trong tay của ma quỷ. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là con cái Đức Chúa Trời vẫn không hề hay biết rằng các tình trạng này không thể đến từ Đức Chúa Trời. Thay vì vậy, họ chấp nhận chúng cách thụ động.
Khi một tín đồ thụ động tới mức này, người ấy vô thức nương dựa vào các ác linh để giúp đỡ mình. Chúng ta đã thấy thể nào tín đồ không thể có sức lực (trong chính mình) để đưa ra các quyết định và người ấy phải nương dựa vào các tác động bên ngoài để hỗ trợ mình. Nhiều lần, vì sự thống khổ bởi các ác linh gây ra (mà không nhận thức rằng sự thống khổ đó là từ các ác linh), một tín đồ mong chờ những tác động bên ngoài đã giúp đỡ mình từ trước đến nay sẽ lại đến viện trợ cho người ấy. Đây là lý do tại sao các ác linh muốn một tín đồ trở nên thụ động. Mọi quan năng không được dùng đến của tín đồ đều rơi vào tay ác linh . Nếu tín đồ cố gắng sử dụng các quan năng của mình trong tình trạng này, điều đó sẽ chỉ tạo cơ hội cho các ác linh biểu hiện chính chúng qua người ấy. Các ác linh rất vui sướng đưa ra các đề xuất cho người ấy. Vì con người tìm kiếm sự giúp đỡ từ chúng nên chúng sẽ không từ chối lời thỉnh cầu đó. Chúng sẽ thường xuyên tiêm các ý tưởng đã định trước vào trong tâm trí tín đồ, cho người ấy mọi loại khải tượng, chiêm bao, tiếng nói, ánh sáng, lửa và Kinh Thánh ra từ văn tự. Qua những điều này, chúng đưa ra các ý kiến và quyết định thay cho tín đồ. Tín đồ không nhận thức được tình trạng thật, người ấy xem những điều này thật sự là các sự khải thị của Đức Chúa Trời và phù hợp với ý muốn Đức Chúa Trời . Hơn nữa, những điều này không đòi hỏi người ấy đưa ra bất kỳ quyết định khó nhọc nào hay vận dụng bất kỳ quyết tâm nào. Kết quả là người ấy bước theo đó cách mù quáng. Các ác linh vui mừng giúp đỡ con người không suy nghĩ hoặc sử dụng ý muốn của mình nhưng bước đi cách ngu dại theo sự khải thị bên ngoài. Cho nên, chúng rất thường xuyên ban tặng tín đồ những điều lạ lùng
Đáng tiếc là trong sự thiếu hiểu biết về nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời, một tín đồ có thể bị lừa dối để nghĩ rằng người ấy thật sự đang thuận phục. Đức Chúa Trời, một tín đồ có thể bị lừa dối để nghĩ rằng ấy thật sự đang thuận phục Đức Chúa Trời. Nhiều lần như vậy, người ấy có thể (1) tin các ác linh, (2) nương dựa vào chúng, (3) vâng phục chúng, (4) dâng mình cho chúng, (5) nghe theo chúng, (6) cầu nguyện với chúng, (7) bị chúng dẫn dắt và hướng dẫn, (8) chấp nhận sứ điệp của chúng, (9) chấp nhận Kinh Thánh mà chúng đưa cho, (10) cùng công tác với chúng, (11) công tác vì chúng, (12) hỗ trợ chúng trong việc hoàn thành công tác và các niềm ao ước của lòng chúng, trong khi vẫn nghĩ rằng mình đang xoay qua Đức Chúa Trời và vì Đức Chúa Trời. Một điều phải lưu ý: “hễ anh em dâng mình làm nô lệ để vâng phục ai thì làm nô lệ của kẻ mình vâng phục” (Roma 6:16). Trên danh nghĩa, chúng ta có thể dâng mình cho Đức Chúa Trời, nhưng nếu trong thực tế, chúng ta dâng mình cho các ác linh, chắc chắn chúng ta sẽ trở nên nô lệ của chúng. Dù chúng ta bị lừa dối, nhưng rõ ràng chúng ta đã dâng mình cho một thần giả dối. Vì vậy, chúng ta không có cách nào trốn tránh trách nhiệm. Tín đồ phải biết rằng nếu mình không thông công với Đức Chúa Trời theo tình trạng tương giao, nhưng lại thông công theo tình trạng quỷ ám, thì lời cầu nguyện của người ấy sẽ là lời cầu nguyện cho các ác linh, sự dâng mình của người ấy sẽ là sự dâng mình cho các ác linh và sự tin cậy của người ấy sẽ là tin cậy các ác linh. Trong lòng, người ấy nghĩ rằng mình đang thông công với Đức Chúa Trời và điều người ấy có được là đến từ Đức Chúa Trời, nhưng thực tế, người ấy đang thông công với các ác linh và chấp nhận “món quà” của chúng.
Chúng ta phải nhận thức các bước của diễn trình này. Vì các tín đồ tìm kiếm sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong cảm xúc và trong các kinh nghiệm khác (như chúng ta đã đề cập đến trong các phần Ba và Bảy) nên các ác linh lừa dối người ấy và cho người ấy điều giả mạo. Vì thiểu hiểu biết, người ấy mù quáng chấp nhận điều đó, nghĩ rằng đó là từ Đức Chúa Trời. Cho nên, người ấy tự đem mình vào trong sự thụ động. Khi tín đồ rơi vào trong sự thụ động, người ấy nghĩ rằng mình không cần chuyển động và Đức Chúa Trời sẽ chuyển động cho người ấy. Bởi vậy, người ấy không chuyển động. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời sẽ không chuyển động người ấy vì Ngài muốn người ấy chủ động hợp tác với Ngài. Đức Chúa Trời không muốn con người trở nên một cái máy vô cảm. Vì tín đồ thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác nên chúng dọn đến trên người ấy. Khi con người không chuyển động và Đức Chúa Trời không chuyển động, các ác linh sẽ dọn đến. Tín đồ phải biết rằng sau khi người ấy đã hiểu rõ ý muốn của Đức Chúa Trời trong trực giác của linh, thì toàn bản thể người ấy phải chỗi dậy để thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời cách chủ động, người ấy không được thụ động. Sau khi tín đồ bị quỷ ám, người ấy có thể thiếu hiểu biết về tình trạng thật của mình và xem mình là rất thuộc linh, có nhiều kinh nghiệm kỳ hiệu. Nhưng những ai được huấn luyện trong Chúa và sở hữu sự biện biệt thuộc linh đều biết rằng dù loại tín đồ này kinh nghiệm những điều kỳ diệu, nhưng người ấy có “nhân cách kép”. Nhân cách kép chính là dấu hiệu rõ ràng của việc bị quỷ ám.
NHÂN CÁCH KÉP
Nhân cách kép nghĩa là có hai nhân cách hoặc hai ông chủ bên trong một người. Điều này khác với người mới và người cũ mà chúng ta thường nói đến. Trong một người bị quỷ ám nghiêm trọng, chúng ta có thể thấy rõ đặc điểm của một “nhân cách kép”. Khi một người bị ám đến cực điểm, những người khác sẽ cảm thức rằng có một bộ não khác đang kiểm soát người ấy. Người ấy sẽ làm những điều trái với bản chất của mình. Thân thể người ấy dường như bị một tác động bên ngoài chiếm hữu. Các dây thần kinh và cơ bắp của người ấy sẽ căng ra, co lại và run rẩy không theo chủ ý của người ấy. Miệng người ấy nói những lời mà người ấy không biết hoặc vừa mới biết, và giọng nói người ấy dường như thuộc về một người khác. Chúng ta có thể quan sát thấy được sự biểu lộ của ma quỷ đến và bước vào trong những người ngoại bị quỷ ám. Trước khi ma quỷ “đến”, người ấy yên lặng và bình thường, nhưng khi ma quỷ “đến”, người ấy lập tức thay đổi dáng điệu bình thường và hành động như một người điên. Từ điểm này, chúng ta có thể thấy một điều: khi một người bị quỷ ám, người ấy có một nhân cách kép. Ngoài thân vị của chính mình, còn có một người khác bên trong người ấy, sử dụng các quan năng khác nhau của hồn và thân thể. Khi các quỷ được biểu lộ, chúng hầu như tiếp quản mọi sự; mọi hoạt động đều thuộc về chúng và nhân cách riêng của người đó cũng không hoạt động nữa. Cho nên, sau khi các quỷ lìa khỏi, nhiều người không biết mình đã làm gì, nói gì hay biểu hiện gì khi có các quỷ ở đó. Lý do cho điều này là nhân cách của các quỷ hành động; nhân cách của chính người đó không tác nhiệm. Kết quả là nhân cách con người không biết hoặc hoàn toàn thiếu hiểu biết về những điều diễn ra trước đó
Tuy nhiên, “sự biểu lộ” của các quỷ đôi khi rất tao nhã. Các quỷ cũng thường khiến một người phát ngôn và hành động giống như một con người bình thường. Thật ra, nhân cách của các quỷ đang vận hành; nhân cách của con người đã ngừng hoạt động rồi. Trong loại biểu lộ này, chúng ta thường bị làm cho hiểu sai rằng đây là công tác của con người; chúng ta khó nhận thức được rằng đây là hoạt động của các quỷ. Chỉ khi nào các quỷ cư xử bất thường chúng ta mới có thể khám phá ra nhân cách kép trong một người
Khi các tín đồ bị quỷ ám, cũng có một nhân cách kép. Vì các mức độ bị ám khác nhau nên sự biểu lộ của nhân cách kép cũng khác nhau. Điều lạ lùng là ác ác linh kiểm soát mọi phần trong bản thể của những người bị lừa dối cách nghiêm trọng. Chúng khiến các tín đồ run rẩy, nóng lòng sốt ruột, và cho họ loại cảm giác kỳ lạ, quăng họ xuống đất, khiến họ nói những thứ tiếng lạ và đặt giọng nói chưa ai từng nghe vào trong tai họ và đặt khải tượng chưa ai từng nhìn thấy vào mắt họ. Đồng thời, các tín đồ này vẫn có thể rất bình an trong linh và có sự tương giao với Đức Chúa Trời. Họ không biện biệt được và cho rằng vì họ có sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời nên các sự biểu lộ này chắc hẳn là ra từ Thánh Linh.
Họ không biết rằng: (1) Thánh Linh không bao giờ tiếp quản bất cứ phần nào của thân thể con người và dùng nó cho chính Ngài. Khi Paul nhìn thấy khải tượng, ông vẫn có thể kiểm soát chính mình và vẫn tự phát ngôn (Công 9:5). Khi Peter nhìn thấy khải tượng, tâm trí ông cũng sáng tỏ và ông có thể tự kiểm soát mình (10:9-17). Ngay cả khi John nhìn thấy khải tượng, ông cũng có thể kiểm soát chính mình. Đây là lý do tại sao ông có thể viết sách Khải Thị. Ban đầu, ông ngã xuống đất vì ông không thể chịu nổi ánh sáng của vinh hiển Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, sau khi Chúa làm vững mạnh ông, ông đã chỗi dậy. Ông có thể nhớ những gì ông nhìn thấy. Điều này không giống như nhiều người ngày nay cứ khẳng định là mình đã bị Thánh Linh đánh ngã xuống đất mà không biết họ đang làm gì và họ đã kinh nghiệm được điều gì khi bị ngã xuống.
(2) Tín đồ có Thánh Linh cư trú trong linh mình, nhưng đồng thời thân thể người ấy vẫn bị các ác linh ám. Vì vậy, người ấy kinh nghiệm một nhân cách kép. Trong linh mình, người ấy có sự tương giao với Đức Chúa Trời, nhưng các ác linh biểu lộ các công tác của chúng trong thân thể người ấy. Tín đồ đừng nghĩ rằng bất cứ điều gì đó ra từ Đức Chúa Trời chỉ vì mình đã có sự tương giao với Đức Chúa Trời trong linh. Người ấy phải nhận thức rằng vì đã được tái sanh, nên sự sống mới của người ấy luôn luôn có sự tương giao với Đức Chúa Trời. Có một điều chắc chắn: một nếp sống thật sự đầy dẫy Thánh Linh sẽ không bao giờ kinh nghiệm một nhân cách kép. Nhân cách kép chỉ tỏ rằng một người đang bị quỷ ám.
Với những ai ít bị lừa dối hơn thì nhân cách kép không rõ ràng như những người được đề cập ở trên. Đôi khi, một tín đồ có thể nhận thấy như có ai đó ở bên cạnh và bên ngoài mình đang nắm giữ các quan năng của mình. Nhiều ý tưởng không ra từ người ấy có thể ập đến dồn dập. Ý muốn người ấy dường như bị đồ đẫn, tê liệt, và không thể quyết định, lựa chọn hay quyết tâm. Khả năng suy tưởng và trí nhớ của người ấy dường như bị ai đó khóa chặt. Người ấy không thể ghi nhớ hay suy nghĩ về bất cứ điều gì. Lập luận của người ấy có phần bị lạnh cứng và người ấy không biết cách suy nghĩ hợp lý. Nhiều lời nói, hành vi và thái độ bất ngờ phát sinh ra mà ý muốn người ấy không hề cho phép và người ấy cũng nhận thấy mình không thể kiểm soát được ý muốn của mình. Đây là sự biểu lộ kín giấu của nhân cách kép.
Ý nghĩa của nhân cách kép là sự hiện hữu của hai thực thể độc lập, con người và nhân cách. Điều đó nghĩa là không cần vận dụng ý muốn để quyết định điều gì, hồn và thân thể, phần nào hoặc toàn bộ, cũng có thể bất ngờ tự chuyển động. Điều này nghĩa là bên ngoài ý muốn con người còn có một ý muốn khác, trực tiếp cai trị hồn và thân thể con người. Một tín đồ bị quỷ ám là người có ý muốn của các ác linh trong mình thêm vào ý muốn của mình. Một tín đồ bị quỷ ám là người có ý muốn của mình bị đàn áp và ý muốn của các ác linh cai trị trên người đó. Đây là nhân cách kép.
Khi một tín đồ có nhân cách kép, thì có hai loại quyền năng trong thân thể người ấy. Đôi khi Thánh Linh ban quyền năng của Ngài từ người bên trong của tín đồ, và đôi khi các ác linh điều khiển cho quyền năng của chúng đến từ người bên ngoài của tín đồ. Đôi khi Thánh Linh biểu hiện ân điển, sự chúc phước và ánh sáng của Ngài và đôi khi, các ác linh cũng phô bày công tác của chúng từ tín đồ là điều giả mạo công tác của Đức Chúa Trời. Chúng sẽ khiến người ấy nhìn thấy các khải tượng, cười cách hoang dại, ca hát lớn tiếng, khóc lóc buồn rầu hoặc cảm thấy một loại hạnh phúc đến lặng người dâng tràn khắp thân thể người ấy. Ngày nay có vô số công nhân có nhân cách kép này! Nhưng ít ai có thể biện biệt được các linh! Satan sẽ dùng loại người này để hoàn thành công tác của hắn. Vì nhiều điều họ làm là thuộc linh và của Đức Chúa Trời nên sau đó, các tín đồ sẽ bàn bạc rằng có điều ra từ Đức Chúa Trời giữa vòng những điều này và nói: “Chẳng phải những điều này rất tốt sao?” Các tín đồ quên rằng đây là công tác pha trộn của các ác linh.
Satan luôn luôn làm một công tác pha trộn. Nguyên tắc cho mọi công tác của hắn là gieo cỏ lùng giữa vòng lúa mì. Hắn không chỉ rao giảng các lời nói dối; hắn cũng rao giảng lẽ thật. Hắn dùng các lẽ thật để loan báo các lời nói dối. Hơn nữa, hắn sẵn lòng rao giảng các lẽ thật nhiều hơn các lời nói dối để âm mưu của hắn không bị vạch trần. Sau khi có được lập trường, hắn sẽ đảo ngược tỷ lệ ban đầu! Chúng ta có thể nhìn thấy sự pha trộn này trong nhiều buổi nhóm. Các tín đồ phải học cách biện biệt và chứng thực mọi điều này; nếu không, họ sẽ bị các công nhân có nhân cách kép tiêm nhiễm. Họ cũng sẽ rơi vào trong sự thụ động và bị quỷ ám.
(Nguồn: Người Thuộc Linh)
CHƯƠNG BA
QUAN NIỆM SAI LẦM CỦA CÁC TÍN ĐỒ
Chúng ta không nên có quan niệm sai lầm rằng các tín đồ mà bị các ác linh lừa dối thì sẽ rất ô uế, suy thoái và tội lỗi. Chúng ta cần nhận thức rằng các tín đồ này hoàn toàn dâng mình cho Đức Chúa Trời và thật sự tiến bộ hơn các tín đồ bình thường. Họ nỗ lực vâng phục Chúa và sẵn lòng trả bất kỳ giá nào để bước theo Chúa. Vì họ hoàn toàn dâng mình cho Chúa nhưng không biết cách hợp tác với Đức Chúa Trời, nên họ rơi vào trong sự thụ động. Những người không giống như vậy thì không thể trở nên thụ động. Mặc dù họ có thể cho rằng mình hoàn toàn dâng mình cho Đức Chúa Trời, nhưng cách sống của họ vẫn theo các ý tưởng và lập luận của sự sống thiên nhiên. Họ vẫn sống theo ý muốn riêng của mình. Loại tín đồ này sẽ không rơi vào trong sự thụ động; họ sẽ không bị quỷ ám. Họ có thể nhường lập trường cho các ác linh trong các vấn đề khác nhưng trong vấn đề vâng phục ý muốn của Đức Chúa Trời, họ sẽ không nhường lập trường thụ động cho các ác linh. Tuy nhiên, chỉ những ai thật sự dâng mình, bất chấp thiệt hơn, và sẵn lòng lắng nghe và vâng phục mọi lệnh truyền của Đức Chúa Trời thì mới có thể trở nên thụ động và bị ám. Loại tín đồ này có ý muốn dễ rơi vào sự thụ động. Chỉ những ai sẵn lòng hoàn toàn vâng phục mọi mạng lệnh mới có thể trở nên thụ động.
Nhiều người hỏi: “Tại sao Đức Chúa Trời không bảo vệ họ? Chẳng phải động cơ của họ rất thuần khiết sao? Chẳng lẽ Đức Chúa Trời để cho những người trung tín tìm kiếm Ngài bị các ác linh lừa dối sao?” Nhiều người cho rằng Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ con cái Ngài trong mọi hoàn cảnh. Họ không biết rằng để nhận được sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, một người phải thỏa đáp điều kiện để được Đức Chúa Trời bảo vệ. Nếu một tín đồ thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác thì Đức Chúa Trời không thể cấm chúng công tác. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời tuân thủ các qui luật. Vì một tín đồ nộp mình, vô tình hoặc cố ý, vào trong tay các ác linh, nên Đức Chúa Trời không thể ngăn trở chúng có quyền cai trị trên tín đồ. Nhiều người nghĩ rằng hễ động cơ của họ thuần khiết, họ sẽ được miễn trừ khỏi việc bị lừa dối. Họ không biết rằng người dễ bị lừa dối nhất trong thế giới chính là những người có động cơ thuần khiết. Sự thành thật không phải là điều kiện không bị lừa dối; tri thức là điều kiện. Nếu một tín đồ không quan tâm đến các sự dạy dỗ của Kinh Thánh và không thức canh cầu nguyện, và nếu người ấy nghĩ rằng chỉ cần có động cơ thuần khiết thôi là người ấy có thể không bị lừa dối, thì chắc chắn người ấy sẽ bị lừa dối. Nếu người ấy bị lừa dối và thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác, làm sao người ấy có thể mong đợi Đức Chúa Trời bảo vệ mình?
Nhiều tín đồ cho rằng họ chắc chắn sẽ không bị lừa dối vì họ thuộc về Chúa. Hoặc họ cho rằng mình sẽ không bị lừa dối vì mình đã hoàn toàn dâng mình cho chúa và có được nhiều kinh nghiệm thuộc linh. Họ không biết rằng khi một tín đồ tự cho rằng mình vững chắc thì người ấy đã bị lừa dối rồi! Nếu một tín đồ không hạ mình xuống một chút, người ấy sẽ bị lừa dối đến cực điểm: tức là người ấy sẽ bị quỷ ám và vẫn nghĩ rằng mình đầy dẫy Thánh Linh. Bị ám không phải là vấn đề sự sống và không phải là vấn đề động cơ; đó là vấn đề tri thức. Khi một tín đồ nhận được quá nhiều sự dạy dỗ duy tâm và lúc bắt đầu nếp sống Cơ Đốc của mình, thì Thánh Linh rất khó hướng dẫn người ấy bằng lẽ thật mà người ấy cần. Tín đồ cũng có thể có định kiến đối với sự giải thích Kinh Thánh, khiến cho các tín đồ khác khó truyền sự sáng mà người ấy thiếu hụt đến cho người ấy. Khi một tín đồ khoe khoang về sự an toàn đang lúc mình ở trong một tình trạng nguy hiểm như vậy, thì hoặc là người ấy cung cấp cho các ác linh một cơ hội để công tác, hoặc là người ấy để cho chúng tiếp tục công tác.
Chúng ta đã thấy sự thụ động là nguyên nhân của việc bị quỷ ám, nhưng sự thiếu hiểu biết là nguyên nhân cùa sự thụ động. Nếu một tín đồ không thiếu hiểu biết, người ấy sẽ không làm con mồi để bị quỷ ám. Thật ra “sự thụ động” đơn giản là sự vâng phục bị hiểu sai và sự dâng mình bị hiểu sai. Chúng ta cũng có thể nói rằng đó là sự vâng phục thái quá, sự dâng mình thái quá. Nếu một tín đồ có được tri thức và bởi đó nhận thức rằng các ác linh thích có và cần có sự thụ động của con người trước khi có thể công tác, người ấy sẽ không thể nào để cho chính mình rơi vào trong sự thụ động và bởi đó tạo cơ hội cho các ác linh công tác. Nếu một tín đồ biết rằng Đức Chúa Trời cần con người cùng lao tác với Ngài và Ngài không ao ước con người tự biến mình thành những cỗ máy, thì người ấy sẽ không để cho chính mình rơi vào trong sự thụ động và mong đợi Đức Chúa Trời đến chuyển động mình. Ngày nay, các tín đồ sa vào trong tình trạng này chính yếu là vì thiếu hiểu biết.
Các tín đồ có tri thức để biện biệt sự chuyển động của Đức Chúa Trời với công tác của Satan. Các tín đồ cần có tri thức để hiểu rõ nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời và điều kiện công tác của Satan. Chỉ những ai có sự tri thức này mới có thể giữ mình khỏi quyền lực của sự tối tăm. Satan dựa trên các lời nói dối để tấn công các tín đồ; vì vậy, phải có các lẽ thật để thay thế chúng. Satan muốn giữ các tín đồ trong sự tối tăm; vì vậy, sự sáng phải được chiếu sáng. Chúng ta phải nhớ kỹ nguyên tắc các ác linh công tác khác với nguyên tắc của Thánh Linh. Tuy nhiên, mỗi lúc công tác, chúng luôn luôn công tác theo nguyên tắc của chúng. Mặc dù các ác linh rất giỏi thay đổi diện mạo của chúng, nhưng nếu chúng ta nhìn vào toàn bộ công tác của chúng, chúng ta có thể nhận thấy rằng nguyên tắc bên trong luôn giống nhau. Sau khi nhận thức được sự khác biệt này, chúng ta phải kiểm tra các kinh nghiệm trong quá khứ của mình và biện biệt nguyên tắc như nền tẳng cho kinh nghiệm của chúng ta. Qua điều này, chúng ta sẽ có thể biện biệt điều gì từ thánh Linh và điều gì từ các ác linh. Bất cứ điều gì được thực hiện theo một nguyên tắc nào đó chắc chắn đều được thực hiện bởi loại linh tương ứng.
Vì các tín đồ rơi vào trong việc bị quỷ ám qua sự thiếu hiểu biết nên chúng ta cần xem xét chi tiết nhiều vấn đề mà các tín đồ rất dễ hiểu sai.
CHẾT VỚI ĐẤNG CHRIST
Sự thụ động của nhiều tín đồ là do hiểu sai lẽ thật “chết với Đấng Christ” . Vị sứ đồ nói: “Tôi đang chịu đóng đinh với Đấng Christ; và không còn tôi sống nữa mà Đấng Christ sống trong tôi; còn sự sống mà tôi hiện đang sống trong xác thịt là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời” (Gal 2:20). Dựa trên điều này, các tín đồ cho rằng nếp sống thuộc linh cao nhất là “không còn tôi sống nữa”. Họ cho rằng họ phải đánh mất nhân cách của mình, họ không còn có ý muốn và khả năng riêng nữa, và “cái tôi” của họ phải chết hoàn toàn. Bởi đó, họ trở nên một cỗ máy vâng phục Đức Chúa Trời. Họ nghĩ rằng họ không được có bất kỳ cảm xúc nào nữa, họ phải kết liễu nhân cách của mình và loại bỏ mọi ao ước, mối quan tâm và sở thích của cuộc sống. Họ trở nên như một thi thể. Do đó, không còn những “cái tôi” nữa; “thân vị” của họ đều ra đi. Họ nghĩ rằng loại điều răn này đòi hỏi họ phải xóa bỏ chính mình, hủy diệt chính mình và “tự sát” đến mức không còn có bất kỳ cảm xúc nào về chính mình hay về nhu cầu, tình trạng, cảm nhận, ao ước, môi trường, tâm trạng, sự thoải mái, nỗi buồn…v…v.. của mình nữa, hầu cho họ chỉ cảm thức sự vận hành, công tác và chuyển động của Đức Chúa Trời thôi. Họ cho rằng việc chết đối với chính mình nghĩa là không còn có sự tự ý thức nữa. Vì vậy, họ giao “sự tự ý thức” của mình cho sự chết và cố gắng chết đến mức họ không còn cảm nhận bất cứ điều gì ngoài sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Họ nhận thức rằng sự chết phải được hoàn thành. Vì vậy, mỗi lần có sự tự ý thức, họ chuyên tâm đặt chính mình vào chỗ chết. Mỗi lần cảm thức mình có một niềm ao ước, một sự thiếu hụt, một nhu cầu, một mối quan tâm hay cảm nhận họ chuyên tâm xử lý điều đó và đặt điều đó vào chỗ chết.
Họ cho rằng họ đã bị đóng đinh với Đấng Christ và “cái tôi” không còn nữa. Họ cũng cho rằng Đấng Christ đang sống trong họ và “tôi” không còn sống nữa. “Tôi chịu đóng đinh với Đấng Christ” Vì vậy, “tôi” đã chết. Họ cố gắng đem sự chết này vào trong sự thực hành bằng cách không còn có bất cứ ý tưởng hay cảm nhận nào nữa. Họ Nghĩ rằng nhân cách của họ phải không còn hiện hữu nữa, vì “Đấng Christ sống trong tôi”. Vì Đấng Christ sống trong họ nên họ nghĩ rằng họ phải tự thuận phục Ngài cách thụ động và để cho Ngài suy nghĩ và cảm nhận thay cho mình. Nhưng họ không lưu ý đến cụm từ tiếp theo của Paul: “Sự sống mà tôi hiện đang sống trong xác thịt!” Paul đã chết, nhưng Paul không chết! “Tôi” đã bị đóng đinh trên thập tự giá, nhưng “tôi” vẫn sống. Sau khi trải qua thập tự giá, Paul nói: “Tôi hiện đang sống”!
Trong Galati 2:20, có hai cái “tôi”, cái trên chết, cái dưới vẫn sống.
Thập tự giá không tiêu diệt “cái tôi”. Nó hiện hữu mãi mãi. Thậm chí sau khi lên thiên đàng, sẽ vẫn còn “cái tôi”. Sự cứu rỗi có ý nghĩa gì nếu một ai đ1o có thể thay thế “tôi” lên thiên đàng? Ý nghĩa của việc chấp nhận sự chết của Đấng Christ là chết đối với tội lỗi và giao nộp sự sống hồn chúng ta cho sự chết. Thậm chí điều tốt nhất, cao nhã nhất và tinh sạch nhất cũng phải bị giao nộp cho sự chết.
Chúng ta đã nói về điều này nhiều lần trước đây. Đức Chúa Trời muốn chúng ta từ chối tấm lòng sống bởi sự sống thiên nhiên của mình. Ngài muốn chúng ta sống bởi Ngài và hấp thụ sự sống Ngài từng hồi lúc để toàn bản thể chúng ta được cung ứng các như cầu. Ngài không có ý định tiêu diệt các chức năng khác nhau của bản thể chúng ta, và Ngài cũng không muốn toàn bản thể chúng ta rơi vào trong sự thụ động. Trái lại, nếp sống Cơ Đốc đòi hỏi chúng ta vận dụng ý muốn của mình hằng ngày, cách đơn nhất, chủ động và tin cậy để phủ nhận sự sống thiên nhiên của mình và nhờ cậy sự sống thuộc linh của Đức Chúa Trời. Giống như sự chết của thân thể con người không phải là một sự tiêu diệt hoàn toàn, sự chết trong hồ lửa không phải là một sự tiêu diệt hoàn toàn thì sự đóng đinh với Đấng Christ trong nếp sống thuộc linh cũng vậy. Thân vị con người phải hiện hữu, và đại diện cho thân vị con người – ý muốn – cũng phải hiện hữu. Chỉ có sự sống thiên nhiên mà bởi đó con người sống mới phải chết. Đây là sự dạy dỗ của Kinh Thánh.
Sau khi một tín đồ chấp nhận sự hiểu sai về việc chết với Đấng Christ và để cho mình rơi vào trong sự thụ động (1) người ấy sẽ không còn chủ động nữa, (2) Đức Chúa Trời sẽ không còn dùng người ấy nữa, vì điều này nghịch lại với nguyên tắc công tác của Ngài; và (3) các ác linh sẽ nắm lấy cơ hội để nhập vào người ấy vì tình trạng này phù hợp với điều kiện công tác của các ác linh. Vì vậy, hậu quả của sự hiểu sai về việc chết với Đấng Christ và cố gắng thực hành điều đó không gì khác hơn là bị quỷ ám và giả vờ là được Đức Chúa Trời đổ đầy. Chúng ta đã nhìn thấy các tín đồ ở nhiều nơi bị quỷ ám và có nhiều kinh nghiệm lập dị sau khi hiểu sai sự dạy dỗ của Galatia 2:20-
Sau khi tín đồ “chết” theo cách này, các ác linh khiến người ấy không còn cảm nhận gì và không hề biết đến nhu cầu có các cảm nhận của chính mình. Khi người ấy tiếp xúc với người khác, họ cảm thấy người ấy giống như một bức tượng sắt hoặc đá; người ấy dường như không hề có các cơ quan cảm nhận. Người ấy không nhận thức được các nỗi khổ của người khác và không nhận thức được mình khiến người khác chịu khổ thế nào. Người ấy không có khả năng nhận biết, phân biệt điều gì bên ngoài hoặc bên trong mình. Người ấy không hề có ý thức về thái độ, diện mạo hay hành động của mình. Người ấy không vận dụng ý muốn để suy nghĩ, suy luận, hay quyết định trước khi phát ngôn và hành động. Người ấy không biết các lời nói, ý tưởng và cảm xúc của mình từ đâu đến. Ý muốn của chính người ấy không bao giờ hành động, nhưng nhiều lời nói, ý tưởng và cảm xúc biểu hiện qua người ấy bằng cách chiếm đoạt người ấy như thể người ấy là một ống dẫn để tuôn đổ vậy. Mọi hành động và cách cư xử của người ấy đều máy móc. Người ấy không biết lý do cho những điều này. Người ấy hoang mang và hành động chỉ vì nhận được mệnh lệnh và áp bức từ một nguồn nào đó mà mình không biết. Mặc dù người ấy không có “sự tự ý thức” nhưng chỉ cần người khác đối xử tệ với mình một chút thôi, người ấy sẽ rất dễ hiểu lầm và cảm thấy tổn thương. Người ấy trải qua các ngày của mình trong tình trạng tê liệt. Người ấy tin rằng mình đã chết với Đấng Christ và thậm chí không còn cảm thức chính mình nữa. Người ấy không biết rằng “sự thiếu ý thức” vừa là điều kiện vừa là hậu quả của việc các ác linh ám người ấy. Điều này khiến cho các ác linh bám chặt, cản trở, tấn công, cưỡng bức, đưa ra các đề nghị với người ấy, suy nghĩ giùm, hỗ trợ và thúc giục người ấy tiến tới mà không có bất cứ sự giới hạn nào cả vì người ấy không có cảm nhận gì cả.
Vì vậy, chúng ta phải ghi nhớ rằng điều chúng ta thường biết đến như là “việc chết đối với bản ngã” là chết đối với sự sống, năng lực, ý kiến và hoạt động của bản ngã ngoài Đức Chúa Trời. Đó không phải là sự chết của thân vị một người. Chúng ta không triệt tiêu chính mình để thân vị chúng ta không còn hiện hữu nữa. Điều này phải được làm cho sáng tỏ. Khi chúng ta nói mình không có bản ngã, điều đó nghĩa là chúng ta không có hoạt động của bản ngã. Chúng ta không đang nói rằng sẽ không có sự hiện hữu của thân vị chúng ta nữa! Nếu một tín đồ nghĩ rằng mình phải tiêu diệt sự hiện hữu của thân vị, mình không được suy nghĩ, cảm nhận hay có ý kiến hoặc không được có bất cứ chuyển động thân thể nào, nhưng thay vì vậy phải sống nếp sống trong mơ, cả ngày lẫn đêm, không biết mình đang ở đâu, thì người ấy sẽ bị quỷ ám. Người ấy có thể nghĩ rằng đây thật sự là chết đối với bản ngã, mình thật sự là một người không có bản ngã và kinh nghiệm thuộc linh của mình cao hơn bất kỳ ai khác. Nhưng sự dâng mình của người ấy không phải là dâng mình cho Đức Chúa Trời mà là cho các ác linh.
SỰ VẬN HÀNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
“Vì đó là Đức Chúa Trời vận hành trong anh em vừa muốn vừa làm vì niềm vui thích tốt lành của Ngài” (Phil.2:13). Câu này cũng rất bị hiểu lầm. Một tín đồ có thể nghĩ rằng chỉ có Đức Chúa Trời mới là Đấng muốn và làm, Ngài đặt lòng muốn và làm trong minh và Đức Chúa Trời sẽ muốn và làm giùm cho người ấy. Điều này nghĩa là người ấy không cần muốn hay làm bất cứ điều gì; Đức Chúa Trời muốn và làm giùm cho người ấy. Người ấy là một tín đồ ngoại hạng và không cần muốn hay làm nữa; Đức Chúa Trời là Đấng muốn và làm. Người ấy chỉ là một cổ máy vô thức và không liên quan gì đến việc muốn và làm cả.
Các tín đồ này không biết rằng câu này nghĩa là Đức Chúa Trời chỉ làm trong chúng ta theo mức độ chúng ta sẵn lòng muốn và làm. Đức Chúa Trời sẽ không làm hơn điều này; Ngài sẽ chỉ làm đến điểm này. Đức Chúa Trời sẽ không muốn và làm giùm cho con người. Đúng hơn, Đức Chúa Trời sẽ chỉ làm khi con người sẵn lòng muốn và làm theo niềm vui thích tốt lành của Ngài. Việc muốn và công tác vẫn phải là của con người. Vị sứ đồ rất cẩn trọng. Đây là lý do tại sao ông nói: “Đó là Đức Chúa Trời vận hành trong anh em vừa muốn vừa làm”. Đức Chúa Trời không muốn và làm một mình, nhưng “trong anh em”; thân vị của anh em vẫn còn. Chính anh em vẫn phải muốn và làm. Muốn và công tác vẫn là việc của anh em. Mặc dù Đức Chúa Trời vận hành, nhưng Ngài không thay thế. Muốn và làm là việc của con người. Ý nghĩa về sự vận hành của Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời làm trong chúng ta, chuyển động trong chúng ta, làm mềm mại chúng ta và khích lệ chúng ta để sản sinh trong chúng ta một tấm lòng có xu hướng vâng phục ý muốn của Ngài. Ngài không muốn làm giùm chúng ta để vâng phục ý muốn của Ngài. Ngài chỉ khiến chúng ta có ý hướng về ý muốn của Ngài. Khi đó, chính chúng ta vẫn phải muốn vâng phục. Câu này dạy dỗ rằng ý muốn của con người cần sự hỗ trợ từ quyền năng của Đức Chúa Trời. Ngoài Đức Chúa Trời, bất cứ diều gì con người quyết định và làm theo ý muốn của mình điều vô dụng. Đức Chúa Trời không muốn làm giùm con người; Ngài muốn con người nương cậy quyền năng của Ngài để muốn. Không phải là Đức Chúa Trời thay thế chúng ta trong việc muốn, mà là chúng ta muốn bởi việc Ngài làm.
Tuy nhiên, một tín đồ có thể không nhận thức được diều này. Người ấy có thể nghĩ rằng vì Đức Chúa Trời đang vận hành bên trong mình nên mình không cần chuyển động. Người ấy chỉ cần thụ động để cho Đức Chúa Trời vận hành và đồng đi với Ngài bên ngoài lẫn bên trong. Vì Đức Chúa Trời vận hành để muốn nên người ấy không cần vận dụng ý muốn của mình; tất cả những gì người ấy phải làm là để cho một ý muốn khác đến trên mình và sử dụng mình. Do đó, người ấy không dám quyết định, lựa chọn hay kháng cự điều gì; đúng hơn, người ấy thụ động chờ đợi sự ngự xuống của ý muốn Đức Chúa Trời. Khi một ý muốn bên ngoài đưa ra một quyết định cho người ấy, người ấy chấp nhận điều đó. Người ấy dập tắt mọi điều ra từ ý muốn của mình. Hậu quả của hành động này là: (1) tín đồ không sử dụng ý muốn của mình; (2) Đức Chúa Trời cũng không sử dụng ý muốn của Ngài để đưa ra bất cứ đề xuất nào cho người ấy, vì Ngài muốn tín đồ chủ động cùng lao tác với Ngài; (3) các ác linh nắm lấy cơ hội để bắt giữ ý muốn thụ động của người ấy và hành động thay cho người ấy để người ấy hoặc trở nên tê liệt, không tiến bộ gì, hoặc nóng cháy bằng “lửa của các quỷ”; và (4) vào lúc này, tín đồ có thể nghĩ rằng Đức Chúa Trời đang suy nghĩ giùm cho mình. Trong thực tế, quyền bính của sự tối tăm đã trở nên chúa của người ấy.
Chúng ta phải nhìn thấy sự khác biệt giữa việc Đức Chúa Trời “muốn” thay cho chúng ta và việc chúng ta cộng tác với Đức Chúa Trời qua việc vận dụng ý muốn của mình. Nếu Đức Chúa Trời quyết định thay cho chúng ta, thì vấn đề đó sẽ tuyệt đối không có liên hệ gì với chúng ta. Mặc dù tay chúng ta có thể làm một điều gì đó, nhưng lòng chúng ta không đề xuất điều đó. Khi tỉnh táo lại, chúng ta sẽ nhận thức rằng những điều này không phải do chúng ta làm. Tuy nhiên, nếu chúng ta sử dụng ý muốn của mình để chủ động công tác với Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ thấy rằng, mặc dù một điều gì đó được thực hiện bởi việc nương cậy nơi sức lực của Đức Chúa Trời nhưng thật ra điều đó được thực hiện bởi chúng ta. Một người hoàn toan bị quỷ ám thì không ý thức về bất cứ hành động nào của mình khi các quỷ “đến”. Người ấy có thể điên cuồng trong chốc lát, nhưng sau đó người ấy hoàn toàn không biết mình làm gì. Điều này cho chúng ta biết rằng mọi điều điên cuồng đều do các quỷ thực hiện qua ý muốn của người ấy và thay cho người ấy. Khi một tín đồ bị lừa dối, người ấy có thể nghĩ rằng vào lúc đó mình đã làm mọi sự, nói mọi lời và nghĩ ra mọi ý tưởng. Nhưng ngay khi được soi sáng bởi ánh sáng của Đức Chúa Trời va bắt đầu hỏi mình có thật sự muốn làm, nói và nghĩ những điều này không, người ấy sẽ nhận thức rằng những điều này chẳng có liên quan gì với mình cả. Đúng hơn, những điều này nhập vào người ấy và tự thực hiện thay cho người ấy.
Ý muốn của Đức Chúa Trời không phải là tiêu diệt ý muốn của chúng ta. Nếu chúng ta nói:”Từ nay trở đi, tôi sẽ không có ý muốn của mình nữa. Tôi sẽ chỉ để cho ý muốn của Đức Chúa Trời được biểu lộ từ tôi”, thì không phải chúng ta dâng mình cho Đức Chúa Trời đâu; đúng hơn, chúng ta đã lập một giao ước với các ác linh vì Đức Chúa Trời không dùng ý muốn của Ngài để thay thế ý muốn của chúng ta. Thái độ đúng đắn phải là: “Tôi có ý muốn của tôi, nhưng ý muốn của tôi muốn ý muốn của Đức Chúa Trời”. Chúng ta phải đặt ý muốn của chúng ta về phía Đức Chúa Trời, không phải bởi sự lực của chúng ta, nhưng bởi sự sống của Đức Chúa Trời. Lẽ thật đích thực là sự sống mà sử dụng ý muốn của chúng ta trong quá khứ phải bị đặt vào chỗ chết. Bây giờ chúng ta sẽ sử dụng ý muốn của mình bởi sự sống của Đức Chúa Trời. Chúng ta không tiêu diệt ý muốn của mình; nó vẫn ở đó-- chỉ có sự sống thay đổi. Sự sống thiên nhiên phải chết, nhưng sự tác nhiệm của ý muốn vẫn hiện hữu. Nó được Đức Chúa Trời đổi mới và bây giờ sự sống mới của chúng ta đang sử dụng nó.
CÔNG TÁC CỦA THÁNH LINH
Có nhiều tín đồ rơi vào trong sự thụ động và bị quỉ ám vì thiếu hiểu biết về công tác của Thánh Linh. Có nhiều sự hiểu sai thường gặp như:
A. Chờ Đợi Thánh Linh
Hội thánh ngày nay thật sự rất thiếu hiểu biết về Thánh Linh trong kinh nghiệm! Ở nhiều nơi, nhiều tín đồ có ý định tốt đã nhấn mạnh các sự dạy dỗ về Thánh Linh. Trong số đó, những sự dạy dỗ thường gặp nhất là một người phải “chờ đợi sự đổ đầy của Thánh Linh”,”chờ đợi sự ngự xuống của Thánh Linh” và “chờ đợi báp têm của Thánh Linh”. Trong sự thực hành, một số người cầu nguyện suốt đêm trong nhà mình và kiêng ăn một thời gian dài, “chờ đợi để nhận được Lễ Ngũ Tuần của riêng mình”. Một số buổi nhóm biến thành “buổi nhóm chờ đợi” ngay khi bài giảng kết thúc, để những ai muốn tìm kiếm Thánh Linh có thể chờ đợi. Cho nên, nhiều người thật sự nhận được các kinh nghiệm khác thường và kinh nghiệm linh siêu nhiên ngự xuống trên họ, khiến họ có các cảm nhận kỳ diệu khác thường, nhìn thấy các khải tượng và ánh sáng lạ, nghe các tiếng nói, nói tiếng lạ, rung lắc và có các hiện tượng khác. Sau điều này, chúa Jesus trở nên quý báu hơn đối với họ và nhiều tội lỗi lỗi tỏ tường bị quăng xa. Họ trở nên vui mừng và nhiệt tình hơn, nghĩ rằng mình đã nhận được báp-têm của Thánh Linh. Những hành động này dựa trên các câu sau: “Này, Ta sai lời hứa của Cha Ta đến trên các ngươi; nhưng về phần các ngươi, hãy ở lại trong thành cho đến khi các nhươi mặc lấy quyền năng từ trên cao” (Luke 24:49). “Ngài truyền bảo họ đừng rời khỏi Jerusalem, nhưng chờ đợi lời Cha hứa” (Công.1:4).
Chúng ta phải chú ý đến một vài điểm quan trọng. Thật sự Chúa Jesus đã truyền bảo các môn đồ chờ đợi Thánh Linh đến trên họ. Tuy nhiên, sau ngày Lễ Ngũ Tuần, chúng ta không tìm thấy chỗ nào trong Công Vụ hay trong các Thư Tín, các sứ đồ truyền bảo các tín đồ “chờ đợi” để nhận được Thánh Linh. Sau Lễ Ngũ Tuần, “tiếp nhận” được dùng hay thay cho “chờ đợi” (Công 19:2).
Hơn nữa, khi các môn đồ chờ trong mười ngày, Thánh Linh không nói họ “chờ đợi” cách thụ động. Đúng hơn, họ cầu nguyện và nài xin trong sự hòa hợp. sự chờ đợi thụ động thâu đêm như hiện nay (một số người còn chờ hơn mười ngày) khác với kinh nghiệm của các môn đồ.
Hơn nữa, sau Lễ Ngũ Tuần, mỗi khi chúng ta đọc về việc các tín đồ được đầy dẫy Thánh Linh, họ đều được đầy dẫy ngay lập tức. Họ không phải chờ đợi giống như các sứ đồ ban đầu (đối chiếu Công 4:31, 9:17, 10:44).
Thánh Linh không thể được kêu cầu trực tiếp. Ngài cũng không đến qua sự nài xin của chúng ta, vì Ngài là một ân tứ (đối chiếu Luke 11:13, John 14:16). Hơn nữa, Ngài ngự xuống vào Lễ Ngũ Tuần. Trong toàn bộ Tân Ước, chua từng có ai kêu cầu Thánh Linh cách trực tiếp. Không có trường hợp nào trong Kinh Thánh mà con người trực tiếp xin sự ngự xuống và báp-têm của Thánh Linh. Thay vì vậy, Kinh Thánh nói rằng Chúa Jesus “sẽ báp-têm các ngươi trong Thánh Linh” (Matt. 3:11).
Ngoài ra, như chúng ta đã đề cập trước đó, Thánh Linh chỉ đến trên “người mới”, tức là người bên trong. Mong đợi Thánh Linh đến trên thân thể vật lý, đòi hỏi cảm xúc và ấn định một cảm nhận nào đó làm bằng chứng cho sự ngự xuống của Thánh Linh là nguồn gốc của sự lừa dối.
Vì vậy, sự thực hành “chờ đợi Thánh Linh” ngày nay không phù hợp với Kinh Thánh, vì sự thực hành này hoàn toàn thụ động. Đa phần loại chờ đợi này dều diễn ra vào ban đêm khi hân thể đã rất mệt mỏi. Hơn nữa, thường có một thời gian dài kiêng ăn và nhiều ngày chờ đợi. Tâm trí của tín đồ tự nhiên trở nên rất lộn xộn. Hơn nữa, việc cầu nguyện kéo dài, hoặc ngồi hay quỳ gối, “chờ đợi” sự ngự xuống của Thánh Linh trên thân thể, sẽ rất dễ đặt ý muốn vào tình trạng thụ động hoàn toàn. Tín đồ không kháng cự, biện biệt, hay lựa chọn bất cứ điều gì. Người ấy chỉ thụ động chờ đợi một linh đến trên mình, đánh mình ngã xuống đất, hoặc dùng lưỡi và miệng của mình để ban cho mình một cảm nhận lạ. Một sự chờ đợi như vậy cung cấp một con đường cho các ác linh đến. Chẳng lạ gì khi trong tình trạng như vậy, tín đồ nhận được các kinh nghiệm siêu nhiên. Những kinh nghiệm siêu nhiên phải chờ đợi cho đến khi con người trở nên thụ động, chúng mới có thể biểu lộ. Tuy nhiên, Thánh Linh sẽ không làm bất cứ công tác nào, vì điều đó nghịch lại với nguyên tắc công tác của Ngài. Các ác linh tận dụng cơ hội và trở nên rất năng động. Chúng thực hiện nhiều công tác giả mạo trên tín đồ. Vào lúc này, mọi lời cầu nguyện, lời hứa và đức tin dâng lên cho Thánh Linh thật ra đều là dâng lên cho các ác linh. Mặc dù dường như có một bầu không khí dễ chịu đổ đầy ngôi nhà trong loại buổi nhóm này và mọi người đều cảm thấy bình an và vui mừng, và mặc dù có thể nhiều sự hiến dâng và công tác ra từ một buổi nhóm như vậy, nhưng sự sống thiên nhiên vẫn chua được xử lý.
B. Vâng Phục Thánh Linh
Các tín đồ, theo lời trong Công Vụ 5:32: “Thánh Linh mà Đức Chúa Trời đã ban cho những người vâng phục Ngài”, nghĩ rằng họ phải “vâng phục Thánh Linh”. Vì họ không bước theo lệnh truyền trong Kinh Thánh để kiểm tra và biện biệt linh của lẽ thật với linh của sự lầm lạc, nên họ xem mọi linh đến trên họ đều là Thánh Linh. Toàn bộ bản thể họ trở nên một cỗ máy. Bất cứ điều gì limh ở trên họ hướng dẫn họ làm, họ sẽ vâng phục theo đó. Mỗi khi làm bất cứ điều gì, trước hết họ xoay qua thân thể mình để chờ đợi một mạng lệnh. Khi thời gian trôi qua, tình trạng thụ động này sẽ dần dần trở nên tệ hơn và linh ở trên họ có thể trực tiếp tiếp quản các chi thể của họ, như miệng và tay của họ. Tín đồ nghĩ rằng loại vâng phục Thánh Linh này sẽ làm vui lòng Đức Chúa Trời. Họ không nhận thức rằng câu này không bao giờ bảo chúng ta vâng phục Thánh Linh. Đúng hơn, lời đó nói rằng chúng ta phải vâng phục Đức Chúa Trời Cha qua Thánh Linh. Vị sứ đồ bảo chúng ta trong câu trước (c.29) rằng chúng ta phải “vâng phục Đức Chúa Trời”. Nếu tín đồ nhận lấy Thánh Linh làm đối tượng vâng phục của mình và quên đi Đức Chúa Trời Cha, người ấy sẽ bị dẫn dắt để đi theo một linh ở trong hoặc quanh mình và không vâng phục Cha trên trời qua Thánh Linh. Đây là khởi đầu của sự thụ động và điều này cung cấp cho các ác linh cơ hội để thực hành sự lừa dối. Khi một người đi vượt qua Kinh Thánh một chút, người ấy sẽ đối mặt với nhiều mối nguy hiểm!
C. Thánh Linh Là Ông Chủ
Chúng tôi đã nói ở một chỗ khác là Đức Chúa Trời kỷ luật linh chúng ta qua Thánh Linh và linh chúng ta cai trị thân thể, toàn bản thể chúng ta, qua hồn (tức là ý muốn). Chỉ đọc sơ qua lời này thì dường như không thấy gì quan trọng, nhưng mối quan hệ thuộc linh mà nó ngụ ý thì rất trọng yếu. Thánh Linh chỉ bày trỏ ý muốn của Ngài cho chúng ta bằng cách tác động đến trực giác của chúng ta. Khi Thánh Linh đổ đầy, Ngài chỉ đổ đầy linh chúng ta. Ngài không trực tiếp cai trị hồn hoặc thân thể chúng ta. Ngài cũng không trực tiếp đổ đầy hồn hoặc thân thể chúng ta. Điểm này phải được lưu ý kỹ. Chúng ta không thể mong Thánh Linh suy nghĩ qua tâm trí chúng ta, cảm nhận qua tình cảm chúng ta và đề xuất qua ý muốn chúng ta. Đúng hơn, Thánh Linh biểu lộ ý muốn của Ngài trong trực giác để chính tín đồ suy nghĩ, cảm nhận và đề xuất theo ý muốn của Ngài. Nhiều tín đồ cho rằng họ phải dâng tâm trí (đầu) họ cho Thánh Linh và để cho Ngài suy nghĩ từ bên trong họ. Họ không biết rằng đây là sai lầm lớn nhất. Thánh Linh không bao giờ trực tiếp thay thế con người hoặc sử dụng tâm trí con người theo cách này. Thánh Linh không bao giờ đòi hỏi con người hiến dâng cách thụ động. Ngài muốn con người công tác với Ngài. Ngài không công tác giùm con người . Tín đồ có khả năng là dật tắt sự chuyển động của Ngài. Ngài không ép buộc tín đồ làm bất cứ điều gì.
Thánh Linh cũng không trực tiếp cai trị thân thể con người. Để một người phát ngôn, chính người ấy phải dùng miệng của mình. Để một người chuyển động, chính người ấy phải nhấc chân mình lên. Để một người làm việc, chính người ấy phải sử dụng tay mình. Thánh Linh của Đức Chúa Trời không bao giờ xâm phạm sự tự do của con người. Ngoài việc công tác trong linh con người, tức là trong sự sáng tạo mới của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ không chuyển động bất cứ phần nào khác trong thân thể con người mà độc lập với ý muốn con người. Cho dù con người sẵn lòng, Ngài cũng không thay thế con người và chuyển động bất cứ phần nào của thân thể con người, vì con người có ý muốn tự do. Con người phải là chủ của chính mình; người ấy phải sử dụng thân thể của mình. Đây là luật của Đức Chúa Trời. Chính Đức Chúa Trời không vi phạm luật của Ngài.
Chúng ta thường nói rằng “Thánh Linh kiểm soát con người”. Nếu chúng ta có ý nói rằng Thánh Linh công tác bên trong chúng ta, khiến chúng ta vâng phục Đức Chúa Trời, thì sự diễn đạt này đúng. Nếu chúng ta có ý nói rằng Thánh Linh trực tiếp kiểm soát toàn bản thể chúng ta thì điều này tuyệt đối sai trật. Dựa trên điều này, chúng ta có thể phân biệt công tác của các ác linh và công tác của Thánh Linh. Thánh Linh cư trú trong linh chúng ta để bày tỏ rằng chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời; các ác linh bám chặt lấy thân thể chúng ta vì chúng có chủ đích điều khiển chúng ta như một cỗ máy. Thánh Linh đòi hỏi sự hợp tác của chúng ta, trong khi các ác linh tìm kiếm sự kiểm soát trọn vẹn và trực tiếp. Mối liên hiệp của chúng ta với Đức Chúa Trời là ở trong linh, không phải trong thân thể hay trong hồn. Nếu chúng ta sai lầm nghĩ rằng tâm trí, tình cảm, ý muốn và thân thể của chúng ta đều đều phải trực tiếp được Đức Chúa Trời “chuyển động” thì các ác linh sẽ đem vào công tác giả mao của chúng. Đúng là tín đồ không nên hành động theo ý tưởng, tình cảm ý muốn riêng của mình. Nhưng khi nhận được sự khải thị trong linh, người ấy phải sử dụng tâm trí, tình cảm và ý muốn của mình để thực hiện mạng lệnh của Thánh Linh. Việc từ bỏ hồn và thân thể mình rồi mong đợi Thánh Linh trực tiếp sử dụng chúng là bước đầu tiên dẫn đến việc bị quỷ ám.
Watchman Nee (Người thuộc Linh)
ời ấ
ooooooo
CÁCH SỐNG THUỘC LINH CỦA TÍN ĐỒ
Các tín đồ ngày nay có nhiều sự hiểu sai về cách sống thuộc linh. Bây giờ, chúng ta chỉ có thể xem xét sơ lược một vài điểm:
A. Nói chuyện
“Vì các ngươi không phải là người phát ngôn, mà Linh của Cha các ngươi là Đấng phát ngôn trong các ngươi” (Matt. 10:20). Một tín đồ có thể nghĩ rằng điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời sẽ phát ngôn thay cho người ấy, người ấy không cần phát ngôn và Đức Chúa Trời sẽ phát ngôn lời ra miệng người ấy. Một tín đồ như vậy “dâng” miệng mình cho Đức Chúa Trời. Người ấy không đưa ra bất cứ quyết định nào và mong đợi trở nên “cái loa” của Đức Chúa Trời. Môi và dây thanh quản rơi vào trong sự thụ động và người ấy để bất kỳ tác động siêu nhiêu bên ngoài nào sử dụng người ấy. Một số người giảng các sứ điệp cho Chúa nghĩ rằng họ không cần dùng tâm trí và ý muốn trong buối nhóm và họ đơn giản dâng miệng của mình cách thụ động cho Đức Chúa Trời và để cho Đức Chúa Trời phát ngôn qua miệng. Hậu quả của hành động này là: (1) chính tín đồ không phát ngôn; (2) Đức Chúa Trời cũng không phát ngôn, vì Đức Chúa Trời không xem con người là chiếc máy ghi âm; và (3) các ác linh lợi dụng sự thụ động của tín đồ để phát ngôn qua miệng người ấy. Điều này thường khiến cho tín đồ kinh nghiệm một loại quyền năng phát ngôn qua miệng mình khiến người ấy có thể nhận được “các sứ điệp từ trời”. Vì điều được phát ngôn có thể rất tốt nên tín đồ xem các lời này là từ Đức Chúa Trời.
Câu Kinh Thánh trong Matthew đơn giản chỉ về tình trạng mà trong đó một người bị bắt bớ và thử nghiệm. Lời kinh thánh không nói rằng Thánh Linh sẽ phát ngôn thay cho tín đồ. Kinh nghiệm của các sứ đồ Peter và John trước công hội về sau xác quyết cho điều này.
B. Hướng Dẫn
“Và tai ngươi sẽ nghe một lời đằng sau mình nói rằng: “con đường đây, hãy bước đi trong đó” (Isa. 30:21). Các tín đồ không nhận thức rằng câu này đặc biệt chỉ về người Israel- dân Đức Chúa Trời trong xác thịt-- trong thiên hi niên. Vào lúc đó, sẽ không có công tác giả mạo của các ác linh nữa. Các tín đồ xem loại hướng dẫn bởi một tiếng nói siêu nhiên như vậy là sự dẫn dắt cao nhất. Họ nghĩ rằng họ vượt trội hơn người khác, có sự hướng dẫn siêu nhiên mọi lúc. Họ không sử dụng lương tâm hay trực giác của mình. Họ chỉ thụ động chờ đợi một tiếng nói siêu nhiên. Họ cho rằng mình không cần suy nghĩ, xem xét, lựa chọn hay quyết định. Nhưng chỉ cần “ vâng phục” cách thụ động. Họ để cho một tiếng nói thay thế chức năng của trực giác và lương tâm. Kết quả là: (1) các tín đồ không sử dụng trực giác và lương tâm; (2) Đức Chúa Trời sẽ không truyền lệnh cho họ để khiến họ vâng phục như cái máy; và (3) các ác linh sẽ sử dụng một tiếng nói siêu nhiên để thay thế sự khải thị trong trực giác. Khi đó, các ác linh sẽ nhập vào các tín đồ.
Từ điểm này trở đi, các tín đồ không còn quan tâm đến sự thúc giục của trực giác, tiếng nói của lương tâm, điều họ hiểu và cảm thức hay điều người khác nói. Họ chỉ ngoan cố đi theo tiếng nói siêu nhiên mà không một chút suy xét. Tiêu chuẩn đạo đức của họ dần dần hạ thấp, và thậm chí họ không hề hay biết , vì họ đã để cho các ác linh thay thế lương tâm mình và họ không còn có thể biện biệt thiên ác nữa.
C. Trí Nhớ
“Nhưng Đấng An Ủi… sẽ… nhắc nhở các ngươi mọi điều mà Ta đả nói với các ngươi” (John 14:26). Tín đồ không nhận thức rằng ý nghĩa của lời này là Thánh Linh sẽ soi sáng tâm trí người ấy để khiến người ấy nhớ lời của Chúa. Người ấy cho rằng điều đó có nghĩa là mình không cần sử dụng trí nhớ của mình nữa và Đức Chúa Trời sẽ khiến người ấy nhớ mọi sự. Kết quả của điều này là tín đồ để cho trí nhớ của mình sa vào trong sự thụ động. Người ấy không còn vận dụng ý muốn của mình để sử dụng trí nhớ nửa. Các hậu quả là: (1) tín đồ không vận dụng ý muốn của mình để sử dụng trí nhớ; (2) Đức Chúa Trời cũng không sử dụng nó, vì không ai hợp tác với Ngài; và (3) các ác linh bước vào và phô bày mọi điều có lợi cho chính chúng trước mặt người ấy, để người ấy không thể từ chối chúng. Ý muốn của người ấy trở nên thụ động để không có cách nào kiểm soát trí nhớ nữa.
D. Tình Yêu
“Tình yêu của Đức Chúa Trời đã được đổ vào lòng chúng ta qua Thánh Linh” (Rô-ma 5:5). Các tín đồ hiểu sai câu này là họ không cần phải yêu thương và Thánh Linh sẽ ban cho họ tình yêu của Đức Chúa Trời. Họ xin Đức Chúa Trời yêu thương qua họ và cung ứng cho họ đầy đủ tình yêu của Ngài hầu cho họ có thể đầy dẫy tình yêu của Đức Chúa Trời. Họ không còn yêu nữa; đúng hơn, họ muốn Đức Chúa Trời làm cho họ yêu. Họ không còn sử dụng khả năng yêu thương nữa, và họ để cho chức năng yêu thương của mình rơi vào trong sự tê cóng. Kết quả là: (1) chính các tín đồ không yêu thương; (2) Đức Chúa Trời sẽ không phủ nhận con người hoặc chức năng yêu thương tự nhiên của con người; Ngài sẽ không ban cho con người tình yêu siêu nhiên; và (3) các ác linh sẽ sống thay cho con người và biểu hiện tình yêu và sự căm ghét của chúng theo ý muốn của chúng. Các ác linh được phép cho người ấy một sự thay thế về tình yêu vì người ấy quá thụ động và không sử dụng ý muốn của mình để kiểm soát chức năng yêu thương của mình. Cuối cùng, tín đồ sẽ trở nên giống như gỗ đá. Người ấy sẽ cảm thấy lạnh lẽo đối với mọi sự và không biết tình yêu là gì. Đây là lý do nhiều tín đồ quá hà khắc và không ai có thể gần họ được mặc dù họ có thể thánh khiết.
Chúa Jesus nói: ”Ngươi phải yêu Chúa Đức Chúa Trời ngươi bằng cả tấm lòng, cả hồn, cả tâm trí và cả sức lực ngươi” (Mark 12:30). Đây là tình yêu của ai? Đây là tấm lòng, hồn, tâm trí và sức lực của ai? Tất nhiên là của chúng ta. Sự sống thiên nhiên của chúng ta phải chết, nhưng mọi chức năng này của chúng ta phải còn lại.
D. Sự Khiêm Nhường
“Vì chúng tôi không dám xếp hạng hoặc sánh mình với bất cứ ai tự tiến cử mình” (2Cor. 10:12). Vì một tín đồ hiểu sai ý nghĩa của sự khiêm nhường, nên người ấy nghĩ rằng mình phải giấu mình trong mọi sự. Kết quả là sự tự trọng đúng đắn mà Đức Chúa trời cho phép không còn ở đó nữa. Đa phần sự tự hạ phẩm giá của mình chính là một hình thức khác của sự thụ động và bị ám. Kết quả là: (1) tín đồ phủ nhận chính mình; (2) Đức Chúa Trời không đổ đầy người ấy; và (3) các ác linh lợi dụng sự thụ động của người ấy để giữ người ấy trong tình trạng “khiêm nhường” này hơn nữa.
Khi một tín đồ bị ám và tự hạ nhục mình, môi trường xung quanh người ấy dường như trở nên tối tăm, tuyệt vọng và yếu đuối. Những ai tiếp xúc với người ấy đều cảm thức một loại lạnh lẽo, chán nản và buồn rầu. vào những thời khắc quan trọng, người ấy thoái lui và khiến người khác lúng túng. Công tác của Đức Chúa Trời chẳng có gì quan trọng đối với người ấy. Cả trong lời nói lẫn hành động, người ấy đặc biệt chú ý đến việc giấu đi “cái tôi” của mình. Nhưng đang khi người ấy hành động như vậy, “cái tôi” của người ấy trái lại càng bị phơi bày nhiều hơn. Hơn nữa, điều đó trở nên sự ngăn trở thật cho những ai thật sự thuộc linh. Khi các nhu cầu lớn dấy lên trong vương quốc Đức Chúa Trời, sự tự hạ phẩm giá của mình cách thái quá sẽ không cho phép người ấy nhấc một ngón tay của mình lên. Cảm thức về sự thiếu năng lực, vô vọng, bất năng, và nhạy cảm kéo dài được biểu lộ trong người ấy. Tín đồ nghĩ rằng đây là sự khiêm nhường thật, đó là không quan tâm đến chính mình. Người ấy không nhận thức rằng đây là kết quả công tác nội quan công khai của các ác linh. Sự khiêm nhường thật là ngưỡng trông Đức Chúa Trời và tiến lên phía trước.
SỰ RA LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Trong thế giới này, ngoài ý muốn của con người, còn có hai ý muốn khác hoàn toàn đối lập nhau. Đức Chúa Trời không chỉ muốn chúng ta vâng phục Ngài; Ngài còn muốn chúng ta chống cự Satan. Do đó, Đức Chúa Trời đặt hai vấn đề này lại với nhau hai lần trong Kinh Thánh. James 4:7a nói: “Vậy nên, hãy thuận phục Đức Chúa Trời”, và 4:7b nói: “Và chống lại ma quỷ”. 1 Peter 5:6-9 nói: “Vậy nên, hạ mình dưới bàn tay đại năng của Đức Chúa Trời… đối thủ của anh em là ma quỷ… Hãy chống cự hắn, vững vàng trong đức tin của anh em”. Đây là sự quân bình trong lẽ thật. Một tín đồ phải thuận phục Đức Chúa Trời trong mọi sự mình gặp phải. Người ấy phải xưng nhận rằng lệnh truyền của Đức Chúa Trời là tốt nhất cho người ấy. Mặc dù chịu khổ, người ấy sẵn lòng vâng phục vì đây là ý muốn của Đức Chúa Trời. Đây là điều chúng ta đã nói đến trong chương một. Đây là một nửa của lẽ thật. Các sứ đồ biết rằng chúng ta sẽ có nguy cơ bị thiên lệch nên họ lập tức nói rằng chúng ta phải chống lại ma quỷ sau khi thuận phục. Lý do cho điều này là ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời, còn có ý muốn của ma quỷ. Nhiều lần hắn giả mạo ý muốn của Đức Chúa Trời, nhất là trong các hoàn cảnh của chúng ta. Nếu chúng ta bị làm cho hiểu sai rằng trong trong thế giới này chỉ có ý muốn của Đức Chúa Trời thôi, thì chúng ta sẽ bị ma quỷ lừa dối và nhận lấy ý muốn của hắn làm ý muốn của Đức Chúa Trời. Do đó, Đức Chúa Trời muốn chúng ta vâng phục Ngài và đồng thời chống lại ma quỷ. Chống cự là công tác của ý muốn. Chống cự là ý muốn chống đối, không sẵn lòng, từ chối và không đồng ý. Đức Chúa Trời muốn chúng ta sử dụng ý muốn của mình. Đây là lý do tại sao Ngài nói: “Hãy chống lại”. Đức Chúa Trời sẽ không chống cự thay cho chúng ta; chính chúng ta phải chống cự. Chúng ta vẫn có một ý muốn và chúng ta vẫn phải dùng ý muốn của mình để vâng phục lời Đức Chúa Trời. Đây là sự dạy dỗ của Kinh Thánh.
Nhưng tín đồ hiểu sai và cho rằng ý muốn của Đức Chúa Trời được biểu lộ trong sự sắp xếp môi trường của Ngài. Đối với người ấy, mọi sự đến trên mình đều hoàn toàn là ý muốn của Đức Chúa Trời. Cho nên ý muốn của người ấy không cần phải sự lựa chọn, suy xét, quyết định, chống cự hay bất cứ điều gì thêm nữa. Người ấy chỉ chấp nhận mọi sự trong im lặng. Điều này nghe có vẻ tốt lành và đúng đắn. Nhưng không thể tránh khỏi có sự hiểu lầm. Đúng là chúng ta thừa nhận bàn tay của Đức Chúa Trời đằng sau mọi việc. Chúng ta cũng biết rằng mình phải hoàn toàn thuận phục dưới bàn tay của Đức Chúa Trời. Nhưng đây là vấn đề thái độ nhiều hơn là hành vi. Nếu bất cứ điều gì xảy đến với chúng ta đều là ý muốn được truyền lệnh của Đức Chúa Trời thì chúng ta có gì để nói? Đây là vấn đề thái độ. Khi chúng ta sẵn lòng vâng phục. Đức Chúa Trời, chúng ta có thể kiểm tra và hỏi thêm: Các vấn đề có phải đến từ các ác linh không? Hay chúng được Đức Chúa Trời cho phép? Nếu chúng được Đức Chúa Trời chỉ định, chúng ta không có gì để nói. Nhưng nếu không phải, chúng ta phải công tác với Đức Chúa Trời để chống lại chúng. Chúng ta không nên thuận phục mọi hoàn cảnh mà không xem xét và kiểm tra điều đó hằng ngày. Thái độ của chúng ta phải luôn như vậy, nhưng sự thực hành của chúng ta phải được thực hiện chỉ sau khi chúng ta hiểu hoàn cảnh. Nếu không, chúng ta có thể đang vâng phục ý muốn của ma quỷ.
Các tìn đồ không nên là những người không có tâm trí. Họ hoàn toàn không được thụ động và bị kiểm soát bởi hoàn cảnh. Đúng hơn, mỗi khi đương đầu với bất cứ điều gì, họ phải luôn luôn hăng hái, năng động và có ý thức kiểm tra nguồn gốc của điều đó, thử nghiệm bản chất của nó và hiểu được nội dung của nó và rồi quyết định hành động. Thuận phục Đức Chúa Trời là điều quan trọng, nhưng điều này không có nghĩa là phải thuần phục cách mù quáng. Sự kiểm tra hăng hái không có nghĩa là chúng ta có thể không vâng phục Đức Chúa Trời trong hoàn cảnh của mình. Đúng hơn, điều đó có nghĩa là chúng ta có ý định thuần phục Đức Chúa Trời, nhưng chúng ta muốn biết điều chúng ta đang thuần phục có phải là từ Đức Chúa Trời hay không. Ngày nay, hiếm có tín đồ nào thuận phục trong thái độ. Điều này nghĩa là cho dù họ biết một điều gì đó đến từ Đức Chúa Trời, nhưng cũng hiếm có ai thuần phục. Nhưng khi họ được Đức Chúa Trời phá vỡ, họ vẫn không biện biệt được một vấn đề có phải đến từ Đức Chúa Trời không; hễ một điều gì đó đến, họ chấp nhận điều đó mà không có bất cứ câu hỏi nào. Lẽ thật quân bình là thuận phục trong thái độ, nhưng đồng thời, chỉ chấp nhận một điều gì đó sau khi sáng tỏ về nguồn gốc của điều đó.
Nhiều tín đồ dâng mình hoàn toàn không hiểu được sự khác biệt. Họ chỉ thụ động thuần phục hoàn cảnh, cho rằng mọi sự đều là sắp xếp của Đức Chúa Trời. Điều này tạo cơ hội cho các ác linh lợi dụng và làm khổ họ. Các ác linh sẽ chuẩn bị các hoàn cảnh như những cái bẫy để các tín đồ hoàn thành ý muốn của chúng. Chúng có thể khuấy động bão tố và khiến tín đồ chịu khổ. Theo cách này, chúng khiến các tín đồ chịu khổ vì tội lỗi của người khác, trong khi xem đây là một gương mẫu của việc không kháng cự “kẻ ác” (Matt. 5:39). Họ không nhận thức rằng Đức Chúa Trời cũng muốn họ “đấu tranh với tội lỗi” (Heb. 12:4), để đắc thắng linh của thời đại này qua việc đắc thắng các hoàn cảnh.
Các kết quả của sự thực hành này là: (1) họ không còn sử dụng ý muốn của mình để lựa chọn và quyết định nữa; (2) Đức Chúa Trời sẽ không gây áp lực cho họ qua môi trường của họ; và (3) các ác linh sẽ lợi dụng hoàn cảnh để tiếp quản ý muốn thụ động của họ. Khi đó, các tín đồ sẽ thuận phục các ác linh và nghĩ rằng mình đang thuận phục Đức Chúa Trời.
SỰ CHỊU KHỔ VÀ SỰ YẾU ĐUỐI
Vì tín đồ hoàn toàn dâng mình nên người ấy nghĩ rằng mình phải nhận lấy con đường thập tự và chịu khổ vì Đấng Christ. Người ấy cũng nghĩ rằng sự sống thiên nhiên của mình chẳng có ích gì. Người ấy muốn nhận được quyền năng từ Đức Chúa Trời, vì vậy người ấy sẵn lòng trở nên yếu đuối, hi vọng rằng bởi làm như vậy, người ấy sẽ trở nên mạnh mẽ. Cả sự chịu khổ lẫn sự yếu đuối đều làm vui lòng Đức Chúa Trời, nhưng cả hai đều có thể trở nên nền tảng cho các ác linh công tác qua sự hiểu sai của tín đồ.
Một tín đồ có thể xem việc mình chịu khổ là sự thu đạt cao nhất. Sau sự dâng mình, người ấy có thể thụ động thuận phục mọi nỗi khổ xảy đến với người ấy, bất kể nỗi khổ đó đến bởi phương tiện gì. Người ấy tin rằng sự chịu khồ của mình là vì Chúa và sẽ có phần thưởng và sự thu đạt. Người ấy không nhận thức cách rõ ràng rằng mình phải vận dụng ý muốn để lựa chọn điều Đức Chúa Trời muốn mình chọn và chống cự mọi điều ác linh ban cho. Nếu người ấy thụ động chấp nhận mọi nỗi khổ, các ác linh sẽ có một cơ hội tốt để khiến người ấy chịu khổ trong các nỗi khổ của chúng. Thụ động chịu khổ có thể khiến các ác linh giáng các nỗi khổ xuống trên tín đồ. Sau khi các tín đồ chịu những nổi khổ và tin rằng chúng đến từ Đức Chúa Trời-tin các lời nói dối của các ác linh- người ấy trình dâng cho các ác linh một cơ hội để đặt mình dưới nỗi khổ lâu dài. Người ấy có thể không nhận thức rằng nỗi khổ của người ấy là kết quả của việc người ấy thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác và sự chịu khổ của người ấy không đến từ Đức Chúa Trời. Người ấy có thể nghĩ rằng mình đang chịu khổ vì hội thánh, lấp đầy các phần còn thiếu trong các hoạn nạn của Đấng Christ. Người ấy có thể nghĩ rằng mình là người tuận đạo, khi trong thực tế, người ấy chỉ là một nạn nhân. Người ấy hãnh diện trong việc chịu khổ, không biết rằng đây là dấu hiệu của việc bị quỉ ám!
Có một điều chúng ta phải chú ý. Các nỗi khổ đến như kết quả của việc bị quỷ ám luôn luôn vô nghĩa. Chúng tuyệt đối không sản sinh bất cứ kết quả nào và vô chủ đích. Chúng là những nỗi khổ chẳng có ý nghĩa gì cả. Hơn nữa, không có Thánh Linh làm chứng trong trực giác của chúng ta rằng những điều này đến từ Đức Chúa Trời. Các ý tưởng này chỉ đến từ tín đồ.
Nếu kiểm tra một chút, tín đồ có thể khám phá ra rằng trước khi dâng mình, người ấy không có loại kinh nghiệm này. Chỉ khi dâng mình cho Chúa và chọn chịu khổ, người ấy mới có loại kinh nghiệm này. Hơn nữa, sau khi người ấy chọn và chấp nhận mọi nỗi khổ, người ấy nghĩ rằng mọi nỗi khổ này đều từ Đức Chúa Trời. Thật ra, nếu không nói là tất cả thì phần lớn các nỗi khổ đó đều đến từ quyền lực của sự tối tăm. Vì người ấy đã nhường lập trường cho các ác linh và tin các lời nói dối của chúng nên toàn bộ nếp sống của người ấy đầy dẫy các hoạn nạn. Không có lý do gì cho những điều đó, người ấy không biết nguyên nhân của chúng và không có sự khen tặng nào đó. Nếu tín đồ biết về việc bị quỷ ám, người ấy sẽ hiểu vấn đề này giống như có nhiều tội lỗi lỗi không thể cất đi vì quỷ ám, thì cũng có nhiều hoạn nạn không rõ nguồn gốc do quỷ ám gây ra. Sau khi một tín đồ biết lẽ thật về việc bị quỷ ám, người ấy sẽ có thể cất bỏ tội lỗi và cũng cất bỏ các hoạn nạn vô nghĩa.
Về sự yếu đuối, tín đồ có thể có một sự hiểu lầm tương tự. Người ấy có thể nghĩ rằng mình phải yếu đuối trong một thời gian dài để có được quyền năng của Đức Chúa Trời. Người ấy xem xét lời của vị sứ đồ: “Khi tôi yếu đuối, là lúc tôi có quyền năng”(2 Cor. 12:10), và nghĩ rằng mình phải yếu đuối trước khi có thể mạnh mẽ. Người ấy không nhận thức rằng vị sứ đồ chưa bao giờ nói: “Tôi phải yếu đuối để tôi có thể mạnh mẽ”. Ông nghĩ chỉ nói về một trong các kinh nghiệm của mình. Ông chỉ nói rằng khi ông yếu đuối, ân điển của Đức Chúa Trời đã làm vững mạnh để ông hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời. Paul không cầu xin sự yếu đuối này. Ông thật sự yếu đuối, nhưng Đức Chúa Trời đã làm ông mạnh mẽ. Đây không phải là một sự nài khuyên các tín đồ hãy chọn sự yếu đuối; Paul không có ý định là một tín đồ mạnh mẽ phải chủ định chọn sự yếu đuối để Đức Chúa Trời làm cho người ấy trở nên mạnh mẽ. Đúng hơn, ý định của ông là hướng dẫn những tín đồ đã yếu đuối rồi để họ có thể mạnh mẽ!
Việc chủ định chọn sự yếu đuối là sai trật; nó cung cấp một cơ hội chín muồi cho các ác linh. Việc chọn sự yếu đuối và hoạn nạn đều thỏa đáp điều kiện cho các ác linh công tác vì chúng chủ định đặt ý muốn của con người về phía các ác linh. Nhiều tín đồ lúc trước thì lành mạnh. Nhưng họ chọn sự yếu đuối và nghĩ rằng bởi làm như vậy, họ sẽ mạnh mẽ trong Đức Chúa Trời. Họ ngạc nhiên khi thấy là sự yếu đuối của họ chọn trở nên càng lúc càng rõ ràng hơn theo thời gian, trong khi sức lực mà họ mong đợi không bao giờ trở thành hiện thực. Cuối cùng, họ trở nên một gánh nặng cho người khác và hoàn toàn vô dụng trong công tác của Đức Chúa Trời. Việc lựa chọn sự yếu đuối này sẽ không bao giờ đem đến sức lực của Đức Chúa Trời. Trái lại, nó cho các ác linh một cơ hội để tấn công. Nếu một tín đồ không kháng cự, chống đối và tử chối một sự yếu đuối như vậy cách xác định thì người ấy sẽ còn yếu đuối lâu dài.
ĐIỂM TRỌNG YẾU NHẤT-
Nhiều điều chúng ta bàn đến chỉ liên quan đến hành vi của những người cực đoan. Có nhiều người không có hành vi thái quá như vậy. Tuy nhiên, nguyên tắc vẫn như nhau. Ai thụ động trong ý muốn hoặc thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác đều sẽ nhận thấy các quỷ công tác trong mình. Mặc dù nhiều tín đồ không ý thức khi chọn những điều này, nhưng họ vô thức rơi vào sự thụ động và nhường lập trường cho các ác linh. Kết quả là họ lún sâu vào trong vị trí nguy hiểm. Tất cả những ai có kinh nghiệm được đề cập ở trên hãy tự hỏi xem mình có thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác hay không. Điều này sẽ cứu họ khỏi nhiều kinh nghiệm giả mạo và các nỗi khổ không cần thiết.
Chúng ta biết rằng các ác linh lợi dụng lẽ thật trong Kinh Thánh. Nhưng lẽ thật mà chúng lợi dụng bị suy diễn quá mức và vượt qua giới hạn nguyên thủy của nó. Việc phủ nhận bản ngã, thuận phục, chờ đợi lệnh truyền của Đức Chúa Trời, chịu khổ, v..v., tất cả đều là lẽ thật Kinh Thánh. Nhưng vì tìn đồ thiếu hiểu biết về nguyên tắc của nếp sống thuộc linh nên các ác linh có thể lợi dụng sự ngu dại của tín đồ và khiến người ấy thỏa đáp điều kiện để chúng công tác. Nếu một người không kiểm tra nguyên tắc liên quan đến mọi sự dạy dỗ để xem nó tương ứng với công tác của Thánh Linh hay công tác của các ác linh, người ấy sẽ bị lừa dối. Mọi lẽ thật bị suy diễn một chút thôi cũng trở nên vô cùng nguy hiểm. Vì vậy, chúng ta phải cẩn thận.
Bây giờ chúng ta phải sáng tỏ thấu đáo về sự khác biệt cơ bản giữa nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời và nguyên tắc công tác của Satan trên chúng ta: (1) Đức Chúa Trời muốn tín đồ vận dụng mọi quan năng của toàn bản thẩ mình qua ý muốn của người ấy, hợp tác với Đức Chúa Trời đến mức được đổ đầy bằng Thánh Linh. (2) Các ác linh đòi hỏi tín đồ phải thụ động, từ bỏ mọi quan năng của toàn bản thể mình, toàn bộ hoặc một phần, để chúng thuận tiện công tác.
Trong trường hợp trước, Thánh Linh đổ đầy vào linh con người và ban cho linh con người sự sống, quyền năng, sự tự do, sự mở rộng và sự đổi mới cũng như làm vững mạnh toàn bản thể người ấy và giải phóng người ấy khỏi ách nô lệ. Trong trường hợp sau, các ác linh chiếm hữu các quan năng của con người qua sự thụ động. Nếu con người không biện biệt được điều đó, chúng sẽ khiến cho người ấy đánh mất nhân cách và ý muốn của mình; chúng làm cho người ấy trở nên con rối của chúng bằng cách giam cầm, đàn áp, cướp đoạt, ép buộc và vây quanh người ấy. Chúng muốn chinh phục hồn và thân thể con người, đem con người vào trong xiềng xích và lấy đi sự tự do của con người.
Trong trường hợp trước, ngoài việc hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời trong trực giác của mình, tín đồ còn có thể suy nghĩ và hiểu được bằng tâm trí và điều khiển toàn bản thể mình qua sự vận dụng ý muốn tự do để hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong trường hợp sau, tín đồ bị tác động bên ngoài đè nén và cho rằng tác động đó đại diện cho ý muốn của Đức Chúa Trời; người ấy không thể suy nghĩ hay đưa ra bất cứ quyết định nào. Người ấy bị ép buộc bởi một tác động cách máy móc.
Ngày nay, vô số con cái Đức Chúa Trời để cho chính mình rơi vào trong sự thụ động theo tiềm thức. Họ dừng chức năng của ý muốn và tâm trí mình lại; cho nên, họ bị ám và chịu khổ. Bất kể sự thụ động ở mức độ thấp đến đâu, nó cũng đủ để các ác linh công tác. Nếu mức độ thụ động cao, nó sẽ nhường chỗ cho sự biểu lộ nhiều phép lạ siêu nhiên qua thân thể. Sự biểu lộ này sẽ tương tự như sự biểu lộ được nhìn thấy trong các thầy phù thủy khi họ nhường chỗ cho các ác linh. Sự khác biệt duy nhất là trong trường hợp trước, có hình thức bên ngoài là một Cơ Đốc nhân. Chúng ta không nên ngạc nhiên bởi các kinh nghiệm siêu nhiên của nhiều tín đồ, như nói tiếng lạ, thấy khải tượng, nghe tiếng nói… Chúng chỉ đi theo một qui luật. Giống như trong lĩnh vực tự nhiên, mọi vấn đề đều có một qui luật, thì trong lĩnh vực thuộc linh, mọi sự cũng đều có một qui luật. Nếu có một hiện tượng hoặc hành vi nào đó, chắc chắn phải có một kết quả ra từ hiện tượng và hành vi đó. Đức Chúa Trời là Đấng thiết lập các qui luật sẽ tuân thủ các qui luật đó. Vì vậy, nếu một người vô tình hay cố ý vi phạm luật này, người ấy sẽ kinh nghiệm một hậu quả đã được nói trước. Dù anh em là Cơ Đốc nhân hay là người thực hành tà thuật, hễ anh em thụ động, các ác linh sẽ nhập vào anh em. Nếu một người hợp tác vói Đức Chúa Trời qua việc vận dụng ý muốn, tâm trí và sức lực của mình, Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ công tác. Đây cũng là một qui luật.
Watchman Nee (Người thuộc linh)