buy accutane 10mg uk
buy accutane
europe mixing melatonin and weed
mixing xanax and weed
website side effects of alcohol and antidepressants
alcohol and antidepressants
lexapro CHƯƠNG BA
NGUYÊN TẮC TÂM TRÍ HỖ TRỢ LINH
Nếu một tín đồ ao ước bước đi theo tâm linh, người ấy phải biết các luật của tâm linh. Chỉ có những người biết các luật của linh mới có thể hiểu được các cảm thức khác nhau của linh và ý nghĩa của các cảm thức đó để bước đi theo đòi hỏi của các cảm thức trong linh. Mọi đòi hỏi của linh đều bày tỏ qua cảm thức của linh. Việc phớt lờ các cảm thức của linh sẽ khiến chúng ta bỏ lỡ các đòi hỏi của linh. Do đó, việc hiểu biết và bước đi theo các luật của linh là rất trọng yếu trong nếp sống thuộc linh của chúng ta.
Tuy nhiên, ngoài việc hiểu biết các luật của linh, các tín đồ bước đi theo linh còn phải biết một vấn đề khác nữa: nguyên tắc tâm trí hỗ trợ linh. Nguyên tắc này cũng không kém phần quan trọng hơn so với các luật của linh. Trên lối mòn bước đi theo linh, nguyên tắc này phải được áp dụng liên tục. Nếu chỉ hiểu các luật của linh mà không hiểu nguyên tắc tâm trí hỗ trợ linh thì chúng ta sẽ thất bại.
Các luật của linh chỉ giải thích cho chúng ta các cảm thức khác nhau của linh, ý nghĩa của chúng và cách thỏa đáp các đòi hỏi của chúng. Mỗi khi có cảm thức của linh, chúng ta có thể bước đi theo cảm thức của linh. Nếu tình trạng bình thường, chúng ta có thể bước đi theo cảm thức đó; nếu bất thường, chúng ta có thể điều chỉnh cách sống của mình. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng có cảm thức của linh. Không phải lúc nào linh cũng phát ngôn; đôi khi linh im lặng. Trong các kinh nghiệm của nhiều tín đồ, linh thường không phát ngôn trong nhiều ngày. Vào lúc này, dường như linh không hoạt động và ngủ im trong chúng ta. Nếu linh vẫn im lìm trong vài ngày, chẳng lẽ chúng ta không làm gì hết và chờ cho đến khi linh chuyển động sao? Chúng ta có nên ngồi yên vài ngày mà không cầu nguyện, đọc Lời và công tác không? Cảm thức thuộc linh thông thường sẽ trả lời là không; chúng ta không nên lãng phí thời gian. Tuy nhiên, nếu làm một điều gì đó thì chẳng phải chúng ta đang làm ở ngoài linh và ở trong xác thịt sao?
Đây là lúc chúng ta phải áp dụng nguyên tắc tâm trí hỗ trợ linh. Tâm trí hỗ trợ linh như thế nào? Khi linh ngủ, chúng ta phải sử dụng tâm trí để công tác thay cho linh, và không lâu sau đó, linh cũng sẽ tham gia công tác. Tâm trí và linh có liên hệ mật thiết với nhau; chúng giúp đỡ lẫn nhau. Nhiều lần, linh đưa ra một cảm thức khiến tâm trí hiểu ra và khiến thân vị hành động. Tuy nhiên, đôi khi linh không chuyển động. Vì vậy, tín đồ cần kích hoạt linh bằng cách vận động tâm trí mình. Khi linh không chuyển động, tâm trí phải kích hoạt linh. Sau khi linh chuyển động, các tín đồ có thể chuyển động theo linh. Việc kích hoạt linh bởi tâm trí được gọi là nguyên tắc tâm trí hỗ trợ linh. Có một nguyên tắc trong nếp sống thuộc linh; ban đầu chúng ta phải sử dụng cảm thức của linh để lĩnh hội tri thức mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta; sau đó chúng ta phải canh giữ và áp dụng tri thức này bằng tâm trí mình. Thí dụ, theo tri thức trước đây từ Đức Chúa Trời, nếu anh em nhìn thấy một nhu cầu lớn, anh em phải cầu nguyện và xin Đức Chúa Trời đáp ứng nhu cầu này. Tuy nhiên, khi anh em nhìn thấy một nhu cầu cụ thể, linh anh em có thể không có cảm thức để cầu nguyện. Anh em phải làm gì? Anh em phải dùng tâm trí để cầu nguyện; đừng đợi có cảm thức của linh rồi mới cầu nguyện. Mọi nhu cầu đều là một lời kêu gọi chúng ta cầu nguyện. Nếu ban đầu anh em cứ phớt lờ sự im lặng của linh và tiếp tục cầu nguyện, thì không lâu sau đó anh em sẽ cảm thức một điều gì đó chỗi dậy bên trong – bây giờ linh anh em tham gia vào sự cầu nguyện.
Khi linh chúng ta bị Satan áp bức, hoặc khi chúng ta bị vướng phải sự sống thiên nhiên, đôi khi chúng ta thậm chí không cảm thức linh mình ở đâu. Linh chìm xưống chỗ thấp đến nỗi chúng ta thậm chí không có cảm thức gì hết. Chúng ta có thể cảm thức hồn và thân thể nhưng chỗ của linh dường như bị khuyết. Chúng ta phải làm gì? Nếu chúng ta chờ có cảm thức của linh rồi mới cầu nguyện thì có lẽ sẽ không có cơ hội để cầu nguyện và linh cũng không được giải phóng. Vì vậy, phương cách để cầu nguyện là theo lẽ thật chúng ta biết và ghi nhớ trong tâm trí mình, đứng chống lại bậc cầm quyền của sự tối tăm. Mặc dù không cảm thức linh nhưng chúng ta phải cầu nguyện theo điều chúng ta biết trong tâm trí. Hoạt động này của tâm trí sẽ kích thích linh chuyển động
Sự cầu nguyện bởi tâm trí (1 Cor 14:15) sẽ khuấy động linh. Mặc dù ban đầu dường như chúng ta chỉ cầu nguyện bằng những lời trống rỗng và vô nghĩa, nhưng nếu chúng ta vận dụng tâm trí mình để kháng cự bởi sự cầu nguyện, thì một lúc sau linh sẽ đi lên. Khi đó cả linh và tâm trí mình để kháng cự bởi sự cầu nguyện, thì một lúc sau linh sẽ đi lên. Khi đó cả linh và tâm trí sẽ phối hợp để công tác. Vì chúng ta đã học tập một số lẽ thật về chiến trận và cách cầu nguyện, nên dù không cảm thức linh mình, chúng ta vẫn có thể sử dụng tâm trí để linh tham gia vào bởi sự khuấy động trong tâm trí. Ngay khi linh đến, chúng ta sẽ cảm thấy rằng sự cầu nguyện của chúng ta rất có ý nghĩa và tự do. Sự đồng lao tác hòa hợp của linh và tâm trí là tình trạng bình thường của nếp sống thuộc linh.
CHIẾN TRẬN THUỘC LINH
Trong chiến trận thuộc linh, một tín đồ không thường xuyên tấn công kẻ thù bởi vì người ấy quên mất nguyên tắc phối hợp linh và tâm trí. Vì vậy, người chờ đợi “gánh nặng của Đức Chúa Trời”. Người ấy nghĩ rằng mình không có “cảm thức” để chiến đấu và phải chờ cho đến khi có cảm thức mới chiến đấu tấn công kẻ thù bằng các lời cầu nguyện. Chỉ cần người ấy cầu nguyện theo tâm trí một lúc thì cảm thức trong linh sẽ lập tức đáp ứng. Chúng ta đã biết ác linh hung ác như thế nào và làm tổn hại cả con cái Chúa lẫn người thế giới ra sao. Chúng ta cũng biết rõ mình phải chống lại hắn bởi sự cầu nguyện để khiến hắn sớm bị quăng xuống vực sâu. Vì đây là sự nhận thức của chúng ta nên chúng ta không nên chờ có cảm thức trong linh rồi mới cầu nguyện. Dù không có cảm nhận gì, chúng ta vẫn phải cầu nguyện. Trước hết chúng ta phải sử dụng tâm trí để khởi xướng sự cầu nguyện, sử dụng các lời chúng ta biết để rủa sả ác linh; khi đó linh sẽ chuyển động, và các lời chúng ta đã rủa sả hắn sẽ được chống đỡ bởi quyền năng của linh. Thí dụ, vào buổi sáng, Thánh Linh có thể ban cho chúng ta một sự xức dầu đáng kể trong linh để rủa sả ác linh, nhưng vào buổi trưa, có thể chúng ta đã đánh mất sự xức dầu này. Vậy chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải áp dụng tâm trí để hành động theo cùng một cách mà linh chúng ta đã hành động vào buổi sáng. Đây là nguyên tắc thuộc linh. Những gì được thu đoạt trong linh phải được canh giữ và áp dụng bởi tâm trí.
SỰ CẤT LÊN
Điều này cũng giống với đức tin về sự cất lên. Ban đầu,chúng ta có được “linh của sự cất lên”, nhưng không bao lâu sau đó, chúng ta có thể cảm thấy như thể linh chúng ta trống rỗng, như thể chúng ta không có bất cứ cảm thức nào về việc Chúa sắp đến và thực tại của sự cất lên. Vào lúc này, chúng ta phải nhớ nguyên tắc tâm trí phối hợp với linh. Chúng ta phải cầu nguyện với tâm trí khi thiếu vắng cảm thức trong linh. Nếu chúng ta chỉ mong đợi linh được đổ đầy một lần nữa bởi cảm thức về sự cất lên, chúng ta sẽ không có được điều đó. Chúng ta phải xem xét và cầu nguyện theo những gì chúng ta biết trong tâm trí, khi đó điều chúng ta đã có trước đây sẽ lại đổ đầy linh chúng ta lần nữa.
VIỆC RAO GIẢNG
Chúng ta không được quên nguyên tắc này trong việc làm lan rộng lẽ thật của Đức Chúa Trời. Chúng ta biết rằng các lẽ thật chúng ta đã học được trong những ngày qua chỉ được lưu trữ trong đầu chúng ta. Nếu chúng ta truyền đạt chúng cho dân chúng chỉ từ tâm trí thì sẽ không có bất cứ tác động thuộc linh nào. Ban đầu, chắc chắn chúng ta đã biết các lẽ thật này trong linh, nhưng bây giờ dường như linh đã phai nhạt và chỉ còn lại ký ức. Chúng ta phải làm gì để linh chúng ta một lần nữa được đổ đầy bằng các lẽ thật này hầu làm lan rộng các lẽ thật này cho người khác từ linh? Chúng ta không thể làm gì khác hơn là vận dụng tâm trí mình. Chúng ta phải tái xem xét các lẽ thật này và một lần nữa cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời, dùng các lẽ thật này làm trung tâm. Không lâu sau, chúng ta sẽ lại được đổ đầy trong linh như trước. Các lẽ thật từ đầu đã được thu đoạt trong linh và được bảo tồn trong tâm trí chúng ta. Bây giờ bởi sự cầu nguyện theo tâm trí chúng ta, chúng ta bước vào linh. Theo cách này, chúng ta có thể một lần nữa công bố các lẽ thật mà chúng ta đã biết trong linh mình trước đây.
SỰ CẦU THAY
Tất cả chúng ta đều biết rằng sự cầu thay là một vấn đề rất trọng yếu. Chúng ta thường có thời gian cầu thay nhưng không có cảm thúc của linh. Chúng ta không biết phải cầu nguyện cho điều gì. Điều này không có nghĩa là chúng ta không cần cầu thay và có thể lãng phí thời gian cho những chủ đích khác. Đúng hơn, điều đó có nghĩa là chúng ta phải sử dụng tâm trí mình để cầu thay, hi vọng là sẽ kích thích sự cộng tác của linh. Do đó, vào lúc này, chúng ta phải vận dụng tâm trí mình để xem bạn bè, gia đình và các đồng công của chúng ta có nhu cầu gì không. Khi nghĩ đến một nhu cầu, chúng ta phải cầu thay cho nhu cầu đó. Nếu linh bên trong vẫn lạnh lẽo, chúng ta phải nhận thức rằng Ngài không muốn chúng ta cầu nguyện cho vấn đề đó. Chúng ta có thể gặp tình trạng là hội thánh tại địa phương của chúng ta có một số sự thiếu hụt, các hội thánh tại các địa phương khác thì đang ở trong sự cám dỗ, công tác của Chúa ở một số khu vực thì bị ngăn trở hoặc con cái Đức Chúa Trời có nhu cầu về một lẽ thật cụ thể nào đó. Một khi chúng ta nghĩ về một chi tiết nào đó, chúng ta phải cầu thay cho điều đó. Nếu sau một lúc mà linh chúng ta vẫn không hưởng ứng, và chúng ta vẫn cầu nguyện bằng tâm trí mình thì chúng ta phải nhận thức rằng Chúa không muốn chúng ta cầu thay cho vấn đề này. Nếu có sự xức dầu của Thánh Linh khi đang cầu nguyện cho một vấn đề khác và cảm thức của linh cũng hưởng ứng, chúng ta phải biết rằng đó là điều thích hợp để chúng ta chạm đến và cầu nguyện cho. Nguyên tắc mà chúng ta dùng là tâm trí hỗ trợ linh để định vị xu hướng của linh. Đôi khi, chúng ta chỉ cần sử dụng tâm trí để xem xét một chút là linh đã hưởng ứng rồi; tuy nhiên, cũng có lúc chúng ta phải đợi một thời gian linh mới đồng ý với chúng ta, vì tâm trí chúng ta quá hạn hẹp và có thể chúng ta không nhanh chóng nhận thức được điều mà Thánh Linh vui thích qua linh. Đôi khi, Đức Chúa Trời ao ước mở rộng phạm vi cầu nguyện của chúng ta; Ngài ao ước chúng ta cầu nguyện cho một quốc gia để mọi công tác của Satan ẩn núp đằng sau đó sẽ thất bại. Ngài có thể muốn chúng ta cầu nguyện cho mọi tội nhân trong thế giới hoặc cho cả hội thánh. Nếu tâm trí của chúng ta chỉ đặt trên tình trạng hiện tại, thì phải mất một thời gian để những điều này xảy đến với chúng ta và để chúng ta đạt đến sự cầu nguyện mà Thánh linh hòa hợp với tâm trí. Sau khi có được sự hợp tác của cảm thức thuộc linh, chúng ta phải dốc đổ mọi gánh nặng của linh cho vấn đề này. Chúng ta phải cầu nguyện về nhiều phương diện của vấn đề này cách chi tiết và thích đáng cho đến khi linh được bốc dỡ gánh nặng. Khi đó, chúng ta có thể tiếp tục cầu thay cho các chi tiết khác.
Đây là một trong những nguyên tắc trong nếp sống thuộc linh của chúng ta. Bất cứ sự cầu nguyện mới mẻ nào mà Đức Chúa Trời ban cho, chúng ta đều có được trong linh. Sau một thời gian, chúng ta không thể mong đợi Đức Chúa Trời đổ đầy linh bằng sự cầu nguyện mới mẻ này một lần nữa. Chúng ta phải tiếp tục cầu nguyện băng tâm trí, bất kể cảm xúc của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta sẽ có được sự cầu nguyện này một lần nữa trong linh.
NHẬN BIẾT Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Chúng ta đã biết rằng các sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời không phải lúc nào cũng “trực tiếp”, đúng hơn, một số sự dẫn dẫn là “gián tiếp”. Trong sự dẫn dắt trực tiếp của Ngài, Linh của Đức Chúa Trời chuyển động trong linh chúng ta để chúng ta có thể nhận biết ý muốn của Ngài. Chúng ta chỉ cần chú ý đến sự chuyển động trong linh mình là có thể biết được ý muốn của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, trong tất cả những điều chúng ta phải làm trong cuộc đời mình, không phải điều nào chúng ta cũng được Đức Chúa Trời trực tiếp sai bảo. Có nhiều nhu cầu chúng ta nhìn thấy. Chúng ta phải làm gì cho những điều đó? Thí dụ, chúng ta có thể được mời đến một nơi để công tác hoặc có một điều gì đó đột ngột xảy đến với chúng ta. Điều này không được khởi xướng trực tiếp từ linh nhưng đến với chúng ta qua những điều khác. Tâm trí chúng ta có thể nhận được tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề này, nhưng linh chúng ta có thể không hưởng ứng. Chúng ta phải làm gì để có được sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời? Sau khi một điều gì đó xảy ra, chúng ta phải xin Đức Chúa Trời dẫn dắt chúng ta trong linh mình; đây được gọi là sự dẫn dắt gián tiếp
Đây là thời điểm tâm trí hỗ trợ linh. Khi không có sự khuấy động trong linh mình, tín đồ phải sử dụng tâm trí. Nếu linh liên tục thốt ra ý định của mình thì không cần tâm trí hỗ trợ linh. Tuy nhiên, vì có đôi lúc linh im lặng nên tâm trí phải thế chỗ linh.
Vào những lúc như vậy, tín đồ phải dùng tâm trí mình để xem xét và cân nhắc các sự nghi ngờ cùng khó khăn của mình trước mặt Đức Chúa Trời. Mặc dù sự cầu nguyện, xem xét và cân nhắc của người ấy đều ra từ tâm trí, nhưng sau một thời gian, tín đồ sẽ thấy linh mình cũng tham gia vào trong sự cầu nguyện, xem xét và cân nhắc. Khi người ấy cảm thức linh, trước đây vốn im lặng, thì không lâu sau đó, Thánh Linh sẽ dẫn dắt người ấy trong linh. Theo cách này, chúng ta có thể sử dụng tâm trí để hỗ trợ linh. Chúng ta đừng nghĩ rằng không nên làm một điều gì đó vì linh không chuyển động; đúng hơn, chúng ta phải “kéo” linh chúng ta lên bằng tâm trí để khiến linh sống động và để linh quyết định xem vấn đề đó có theo ý muốn của Đức Chúa Trời hay không.
NGUYÊN TẮC CHO CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA LINH
Trong nếp sống thuộc linh của chúng ta, có nhiều điều phải được thực hiện. Vì lý do này, chúng ta không thể lơ là công tác của tâm trí. Được đổ đầy trong linh chúng ta thì khác với dòng thủy triều lên xuống tùy ý. Để được đổ đầy trong linh, chúng ta phải thỏa đáp đòi hỏi của linh. Điều này ngụ ý rằng tâm trí phải khởi xướng điều linh đã sẵn sàng làm nhưng chưa bắt đầu. Nếu chúng ta ngồi chờ cảm thức linh thì cảm thức sẽ không bao giờ đến. Chúng ta cũng không nên quá nhấn mạnh công tác của tâm trí. Chúng ta phải biết rằng chỉ có các hoạt động được thực hiện trong linh mới có giá trị thuộc linh; vì vậy, chúng ta không nên bước đi theo tâm trí. Vậy tại sao chúng ta sử dụng tâm trí? Chúng ta sử dụng tâm trí nhưng đó không phải là mục đích. Đúng hơn, chủ đích của chúng ta là khuấy động linh để làm công tác. Linh phải là người công tác. Vì vậy, linh vẫn rất trọng yếu. Việc sử dụng tâm trí đơn giản là để khuấy động công tác của linh. Vì vậy, khi chúng ta áp dụng tâm trí để kéo linh lên, nếu không có sự hưởng ứng hay kinh nghiệm sự xức dầu sau một thời gian, công tác của tâm trí trong vấn đề đó phải dừng lại và xoay qua một hướng khác. Trong chiến trận thuộc linh cũng vậy, nếu chúng ta có cảm thức “trống rỗng” bên trong mình trong một thời gian dài và không có cảm thức của linh thì chúng ta phải dừng lại; tuy nhiên, chúng ta không nên dừng lại chỉ vì sự thiếu kiên nhẫn của xác thịt. Có lúc, dù đã kiệt sức nhưng chúng ta biết mình phải tiếp tục. Vào những lúc khác, chúng ta biết mình phải dừng lại. Không có một quy luật cố định nào.
Việc tâm trí hỗ trợ linh theo cách này giống như mồi nước vào máy bơm. Một số máy bơm cần phải đổ một chén nước vào mới tạo ra lực hút để kéo nước lên khi bơm. Mối liên hệ giữa tâm trí với linh cũng như chén nước với máy bơm. Nếu không sử dụng chén nước để khởi động thì nước không được kéo lên; tương tự như vậy, nếu chúng ta không khởi xướng bằng tâm trí thì linh sẽ không chỗi dậy. Nếu chúng ta không sử dụng tâm trí khởi xướng sự cầu nguyện thì giống như một người không đổ chén nước vào và sau khi bơm một vài lần rồi mà nói rằng giếng đã cạn nước.
Thật sự có các sự khác biệt trong công tác của linh chúng ta. Đôi khi linh mạnh mẽ như một con sư tử và đội khi linh thiếu quyết đoán như trẻ con vậy. Khi linh chúng ta yếu đuối và không thể tự giúp mình, tâm trí phải hành động như nhũ mẫu của linh để trông nom linh. Tâm trí không thể thay thế linh, nhưng có thể hỗ trợ linh để làm sống động linh. Khi linh xuống khỏi vị trí kiểm soát, tín đồ phải sử dụng năng lực của tâm trí để cầu nguyện và dấy linh lên một lần nữa. Nếu linh bị sự đàn áp nhấn chìm, tín đồ phải sử dụng tâm trí mình để kiểm tra tình trạng và sau đó cầu nguyện cách mạnh mẽ cho đến khi linh chỗi dậy để lại được tự do. Một tâm trí thuộc linh có thể duy trì vị trí yên tĩnh của linh. Tâm trí có thể hạn chế các hoạt động quá mức của linh và cũng nâng cao linh bị chán nản quá mức.
Nói cách đơn giản, linh chúng ta chỉ có thể được đổ đầy một lần nữa bởi các hoạt động của tâm trí (trong lĩnh vực thuộc linh). Theo nguyên tắc, bất cứ điều gì chúng ta thực hiện trong linh, bây giờ chúng ta phải thực hiện bằng tâm trí. Rồi khi Thánh Linh xức đầu chúng ta, điều đó xác nhận rằng chúng ta đang thực hiện trong linh. Khởi đầu của một tình huống nào đó, có thể anh em không hề có cảm thức của linh. Tuy nhiên, một khi anh em có được cảm thức của linh, điều này chỉ tỏ rằng linh muốn hành động như vậy nhưng quá yếu đuối nên không thể. Qua sự hỗ trợ của tâm trí, linh có thể biểu hiện điều trước đây linh không thể biểu hiện. Bất cứ điều gì chúng ta cần trong linh có thể thu đoạt được chỉ đơn giản bởi xem xét trong tâm trí và cầu nguyện. Theo cách này chúng ta sẽ được đổ đầy trong linh.
Về việc hỗ trợ linh, một điểm khác cần phải được tuân thủ; chiến trận thuộc linh là trận chiến giữa linh với linh. Khi linh chúng ta vật lộn cùng ác linh, sức lực của cả bản thể chúng ta làm một với linh cho trận chiến đó. Phần quan trọng nhất là tâm trí chúng ta. Toàn bộ sức lực của linh và tâm trí phải hiệp nhất với nhau để tấn công. Nếu linh bị đàn áp và mất sức kháng cự, tâm trí phải liên tục chiến đầu cho linh. Khi tâm trí chiến đầu bằng cách cầu nguyện, kháng cự và chống đối, linh sẽ nhận được nguồn cung ứng để chỗi dậy một lần nữa và chiến đấu.
TÌNH TRẠNG CỦA TÂM TRÍ
Vì tâm trí có thể hỗ trợ linh nên dù vị trí của nó thấp hơn linh nhiều, nhưng một tín đồ vẫn phải giữ tâm trí mình ở trong tình trạng bình thường để nó có thể tìm kiếm sự giải thích của linh và hỗ trợ trong bất cứ sự yếu đuối nào của linh. Các hoạt động của linh đươc cai trị bởi các luật của linh. Cũng vậy, các hoạt động của tâm trí được cai trị bởi các luật cụ thể của tâm trí. Khi tâm trí được tự do hoạt động, thì gánh nặng rất nhẹ. Nếu nó làm việc quá sức (giống như căng dây ná), nó không thể hoạt động tự do. Kẻ thù biết rằng chúng ta cần tâm trí để hỗ trợ linh hầu bước đi theo linh. Vì vậy, hắn luôn luôn đè nén chúng ta giữ cho tâm trí chúng ta luôn bị căng thẳng quá mức và không thể tác nhiệm bình thường, để tâm trí không thể hỗ trợ khi linh yếu đuối.
Hơn nữa, tâm trí chúng ta không chỉ là một cơ quan hỗ trợ linh; chúng ta còn có ánh sáng qua tâm trí. Thánh Linh của Đức Chúa Trời ban ánh sáng cho tâm trí qua linh chúng ta. Nếu tâm trí bị vận dụng quá mức, sẽ không thể nhận được ánh sáng từ Thánh Linh. Ác linh biết rằng nếu tâm trí chúng ta ở trong sự tối tăm thì toàn bản thể chúng ta cũng sẽ ở trong sự tối tâm. Vì vậy, nó nỗ lực khiến chúng ta suy nghĩ quá mức hầu không thể lắng dịu để công tác được. Khi một tín đồ bước đi theo linh, người ấy phải cấm tâm trí mình liên tục xoay hướng. Việc tập trung vào một chủ đề, sự lo lắng, sự buồn rầu hoặc suy xét ý muốn của Đức Chúa Trời là gì cách quá mức, khiến cho tâm trí không thể mang vác gánh nặng và công tác. Chỉ bởi duy trì một tâm trí lắng dịu và bình an, một người mới có thể bước đi theo linh.
Vì tâm trí chiếm một vị trí quan trọng như vậy nên khi công tác với người khác, một tín đồ phải cẩn thận để không làm gián đoạn các ý tưởng của anh em mình. Việc ngắt dòng tư tưởng có thể khiến tâm trí bị tổn hại. Khi Thánh Linh dẫn dắt một tín đồ xem xét một vấn đề qua linh, thì việc người khác làm gián đoán là một điều đáng lo sợ. Nếu một ý tưởng bị gián đoạn, tâm trí sẽ bị căng thẳng và bởi đó khó công tác với linh hơn. Do đó, chúng ta không chỉ phải giữ cho tâm trí mình tự do mà còn phải quan tâm đến tâm trí của các anh em mình. Trước khi phát ngôn với một anh em, chúng ta phải kiểm tra dòng tư tưởng của người ấy rồi mới phát ngôn với người ấy. Nếu không, chúng ta sẽ khiến người ấy bị tổn hại.
W.N. (Người Thuộc Linh)
CHƯƠNG BỐN
TÌNH TRẠNG ĐÚNG ĐẮN CỦA LINH
Một linh lầm lạc thường dẫn đến cách cư xử không đúng đắn. Nếu một tín đồ ao ước bước đi theo linh, người ấy phải liên tục giữ mình trong tình trạng đúng đắn. Linh, giống như tâm trí, có thể trở nên không kiềm chế và xấc láo, hoặc có thể co rút lại. Nếu không có Thánh Linh canh giữ linh thì một khi linh thất bại, tín đồ cũng sẽ thất bại trong cách cư xử bên ngoài. Chúng ta phải nhận thức rằng đằng sau nhiều sự thất bại trong cách cư xử bên ngoài, linh đã thất bại thậm chí trước khi cách cư xử thất bại. Nếu linh của một tín đồ mạnh mẽ và đầy quyền năng thì linh có thể kiểm soát hồn và thân thể, không cho phép chúng trở nên phóng đãng, bất kể hoàn cảnh ra sao. Nếu không, chúng sẽ đàn áp linh và khiến một tín đồ thất bại.
Đức Chúa Trời nhấn mạnh linh chúng ta. Đây là nơi sự sống mới cư trú và Thánh Linh công tác. Đây là nơi chúng ta tương giao với Đức Chúa Trời, hiểu biết ý muốn của Đức Chúa Trời và tiếp nhận sự khải thị của Thánh Linh. Đây là nơi chúng ta được huấn luyện và tăng trưởng. Đây là nơi chúng ta kháng cự mọi sự tấn công của kẻ thù và có được quyền bính để đắc thắng ma quỷ và đội quân của hắn. Đây cũng là nơi chúng ta nhận được quyền năng cho công tác. Linh đã nhận được sự sống phục sinh, còn thân thể phục sinh thì sau này chúng ta mới có được. Vì vậy, tình trạng của linh cũng là tình trạng của nếp sống thuộc linh. Vì vậy, việc giữ linh chúng ta trong một tình trạng đúng đắn là điều thiết yếu. Chúa không quan tâm đến người bên ngoài, hồn, trong một Cơ Đốc nhân; Ngài chú ý đến người bên trong của chúng ta, là linh. Nếu người bên trong không ở trong một tình trạng đúng đắn, toàn bộ cách sống của chúng ta sẽ bị đảo lộn, cho dù sự sống – hồn chúng ta vẫn thịnh vượng.
Kinh Thánh không phải không nói gì về tình trạng đúng đắn của linh tín đồ. Nhiều tín đồ có kinh nghiệm đã trải qua các sự nài khuyên của Kinh Thánh. Họ đã ý thức rằng nếu muốn gìn giữ vị trí chiến thắng và khả năng cùng lao tác với Đức Chúa Trời, một tín đồ phải giữ linh mình trong các tình trạng khác nhau theo như Kinh Thánh đã dạy dỗ. Chúng ta đã thấy rằng linh được kiểm soát bởi ý muốn được đổi mới của tín đồ. Điều này rất quan trọng vì một tín đồ chỉ có thể đặt linh mình trong tình trạng đúng đắn bởi ý muốn của người ấy. Vì chúng ta đã đề cập đến tầm quan trọng của việc linh ở trong tình trạng đúng đắn, nên chúng ta không cần phải lặp lại điều đó nữa.
THỐNG HỐI
“Jehovah…cứu những người thống hối trong linh” (Thi 34:18). “Vì Đấng cao cả và được tôn cao, Đấng cư trú trong cõi đời đòi, có danh là thánh, nói như vầy: Ta sẽ cư trú trong nơi cao và thánh, và với sự thống hới và khiêm ti của linh” (Isa 57:15)
Thường có một sự hiểu lầm rằng chúng ta chỉ cần linh thống hối khi ăn ăn tin Chúa hoặc khi sa ngã và phạm tôi. Nhưng Đức Chúa Trời muốn chúng ta liên tục giữ linh mình trong tình trạng thống hối. Dù chúng ta có thể không phạm tội hằng ngày nhưng Đức Chúa Trời muốn chúng ta liên tục ăn năn với sự thống hối vì xác thịt chúng ta vẫn hiện hữu, và nó có thể hoạt động bất cứ lúc nào. Một linh như vậy sẽ giữ chúng ta khỏi việc đánh mất sự thức canh. Chúng ta đừng bao giờ phạm tội, nhưng chúng ta phải liên tục thống hối vì chúng ta là tội lỗi. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời có thể được cảm nhận trong một linh như vậy.
Đức Chúa Trời không muốn chúng ta thỉnh thoảng mới ăn năn, cho rằng như vậy là đủ rồi; Ngài muốn chúng ta liên tục ăn năn với sự thống hối trong cách sống của mình. Bởi đó, ngay khi có bất kỳ sự bất hòa nào với Thánh Linh trong cách sống và cách cư xử, chúng ta có thể lập tức cảm thức được và đau buồn về điều đó. Chỉ bởi như vậy chúng ta mới có thể thừa nhận mình sai khi người khác nói chúng ta thật sự sai. Sự năn năn thống hối là rất cần thiết vì một tín đồ, cho dù đã kết hiệp với Chúa trong một linh, vẫn có thể lầm lạc. Linh có thể lầm lạc (Isa 29:24) cho dù linh không lầm lạc, thì tâm trí cũng có thể trở nên mù mờ, không biết cách thực thi ý định của linh. Một linh thống hối có thể khiến một tín đồ lập tức thừa nhận, mà không che đậy, các vấn đề nhỏ nhặt không giống Chúa mà người khác nhìn thấy trong người ấy. Đức Chúa Trời chỉ cứu những người có linh thống hối; Ngài không thể cứu bất cứ ai khác vì Ngài cần một linh thống hối để khải thị ý định của Ngài. Nhưng ai che đậy và thanh minh các lỗi lầm của mình chắc chắn là không có linh thống hối. Thậm chí Đức Chúa Trời không thể cứu người ấy cách hoàn toàn. Chúng ta cần một linh có thể tiếp nhận sự quở trách từ Thánh Linh cũng như từ những người thế giới và chúng ta cần thừa nhận rằng chúng ta chưa đạt đến giai đoạn mà mình đáng phải đạt đến. Khi đó, chúng ta sẽ nhìn thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong cách sống hằng ngày của chúng ta.
TAN VỠ
“Các sinh tế của Đức Chúa Trời là một linh tan vỡ” (Thi 51:17)
“Tan vỡ” trong bản gốc có nghĩa là “run rẩy”. Một số tín đồ, sau khi xưng nhận tội lỗi, vẫn bình thản trong linh như không có chuyện gì xảy ra. Một linh lành mạnh, sau khi phạm tội, sẽ luôn tan vỡ - giống như David. Thật ra, một người có một linh tan vỡ có thể dễ dàng được khôi phục lại cho Đức Chúa Trời.
RUN RẨY
“Nhưng loại người mà ta đoái đến, là người nghèo khó trong linh, có linh thống hối, và run rẩy vì lời ta” (Isa 66:2)
“Thống hối” trong bản gốc có nghĩa là “bị đánh đập”. Đức Chúa Trời vui lòng khi linh của một tín độ thật cẩn trọng, như thể luôn luôn ở dưới sự quở trách và đánh đập, kính sợ Đức Chúa Trời và lời Ngài. Linh của một tín đồ phải đạt đến giai đoạn liên tục kính sợ Đức Chúa Trời. Tấm lòng quá tự tin và cứng cỏi phải hoàn toàn tan vỡ, để cho lời Đức Chúa Trời trở nên sự hướng dẫn trong mọi sự. Một tín đồ phải có sự tôn trọng thánh này, tuyệt đối không có sự tin cậy nơi chính mình. Vì linh người ấy đã bị đánh đập, nên người ấy không dám ngẩng đầu lên; thay vì vậy, người ấy luôn luôn vâng phục Đức Chúa Trời. Một linh cứng cỏi luôn luôn là một sự ngăn trở trong việc vâng phục ý muốn của Đức Chúa Trời. Chỉ sau khi thập tự giá hoàn thành công tác triệt để trong việc làm cho tín đồ có khả năng nhận biết cách sáng tỏ sự không đáng tin cậy của các ý kiến, cảm xúc và ao ước của mình, người ấy mới không dám quá tự tin. Người ấy trở nên hết sức thận trọng trong mọi sự, biết rằng mọi sự sẽ thất bại nếu không có quyền năng can thiệp và giữ gìn của Đức Chúa Trời. Chúng ta không được trở nên độc lập với Đức Chúa Trời. Hễ linh chúng ta không còn run rẫy nữa thì nó sẽ có một ý định độc lập (quá tự tin). Chúng ta chỉ dựa nương Đức Chúa Trời khi nhận thức minh đang ở trong tình trạng hoàn toàn vô vọng. Một linh run rẩy giữ chúng ta khỏi việc thất bại và khiến chúng ta thật sự nhận biết Đức Chúa Trời.
KHIÊM NHƯỜNG
“Thà làm một người có linh khiêm nhường ở với người thấp hèn” (Châm 16:19)
“Nhưng người có linh khiêm nhường sẽ được tôn trọng” (Châm 29:23)
“Ta sẽ cư trú….với sự thống hối và khiêm ti của linh, để phục hồi linh của người khiêm ti” (Isa 57:15)
Khiêm nhường không phải là tự xem thường mình; đúng hơn, đó là không nhìn vào chính mình. Thái độ tự phụ trong linh của một tín đồ là bằng chứng cho thấy người ấy đã sa ngã. Sự khiêm nhường không chỉ ở trước mặt Đức Chúa Trời mà còn ở trước mặt con người. Một linh khiêm nhường có thể được nhìn thấy trong việc giao tiếp với người thấp hèn. Chỉ có một linh khiêm nhường mới không xem thường bất cứ người nào Đức Chúa Trời sáng tạo. Sự hiện diện và vinh hiển của Đức Chúa Trời được biểu lộ trong người nào có linh khiêm nhường.
Một linh khiêm nhường là linh chịu dạy dỗ, chịu khuyên lơn, và chịu tiếp nhận lời giải thích. Nhiều tín đồ quá kiêu căng trong linh; vì vậy, họ chỉ có thể dạy người khác chứ không chịu nghe dạy. Nhiều tín đồ quá ngoan cố, không thể lay chuyển trong linh đến nỗi họ khó có thể được dạy dỗ. Dù có nhận thức mình sai, họ vẫn nắm giữ cái nhìn riêng. Nhiều tín đồ quá cứng cõi trong linh nên không thể lắng nghe lời giải thích của người khác về một sự hiểu lầm. Chỉ có một linh khiêm nhường mới có khả năng tiếp nhận. Đức Chúa Trời cần một linh khiêm nhường để biểu lộ các mỹ đức của Ngài. Làm sao một linh kiêu ngạo có thể lắng nghe tiếng của Thánh Linh và cùng lao tác với Thánh Linh? Linh phải không có bất cứ dấu vết nào của sự kiêu ngạo và phải luôn luôn mềm mại, dịu dàng và linh động. Một linh có bất cứ sự cứng cỏi nào thì không giống với Linh của Chúa; vì vậy, linh đó không thể tương giao với Chúa. Linh phải khiêm nhường, luôn luôn chờ đợi Chúa, và không kháng cự Chúa thì mới có thể bước đi với Ngài.
NGHÈO KHÓ
“Phước cho người nghèo khó trong linh” (Matt 5:3)
Nghèo khó trong linh là nhận thức được mình tuyệt đối không có gì. Mối nguy hiểm cho một tín đồ là có quá nhiều điều trong linh. Chỉ những ai nhận thức mình nghèo khó trong linh mới có thể khiêm nhường. Kinh nghiệm, sự tăng trưởng và sự tiến bộ của một tín đồ thường trở nên các báu vật đáng giá trong linh, khiến linh đánh mất sự nghèo khó. Việc suy gẫm về các sự thu đoạt của mình và chú ý đến các kinh nghiệm của mình là các mối nguy hiểm rất quỷ quyệt. Tuy nhiên, tín đồ thường không nhận thức được điều này. Nghèo khó là gì? Nghèo khó là không có gì cả. Nếu một tín đồ có kinh nghiệm sâu xa nhất và luôn nhớ về kinh nghiệm đó thì nó giống như hàng hóa trong linh người ấy và trở nên một lưới bẫy cho người ấy. Chỉ có một linh trống không mới khiến một tín đồ đánh mất chính mình trong Đức Chúa Trời. Một linh giàu có sẽ khiến một tín đồ trở nên tập trung vào chính mình. Sự cứu rỗi trọn vẹn giải phóng một tín đồ ra khỏi bản ngã và quay trở lại với Đức Chúa Trời. Nếu một tín đồ cứ giữ lại một điều gì đó cho chính mình, linh người ấy sẽ lập tức hướng nội và không thể “vươn ra” để được kết hiệp trong Đức Chúa Trời.
NHU MÌ
“Một linh nhu mì” (Gal 6:1)
Đây là một tình trạng rất quan trọng đối với linh. Sự nhu mì thì đối lập với sự cứng cỏi và ngoan cố. Đức Chúa Trời đòi hỏi một linh nhu mì nơi chúng ta. Một linh khó uốn nắn thường đánh mất sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Một linh nhu mì có thể từ bỏ ý muốn riêng và vâng phục Đức Chúa Trời trong thời gian ngắn nhất. Người nào có linh nhu mì thì có thể lập tức dừng lại, theo sự dẫn dắt của Chúa, mà Đức Chúa Trời không cần phải báo trước, ngay cả khi người ấy đang hết sức thịnh vượng trong công tác của mình. Philip đã có một linh như vậy khi ông được kêu gọi ở Samaria để đi vào đồng vắng. Một linh nhu mì xoay chuyển tự do trong tay Đức Chúa Trời theo như Đức Chúa Trời muốn. Một linh nhu mì không biết cách kháng cự Đức Chúa Trời bước theo ý riêng. Đức Chúa Trời cần một linh thuận phục để hoàn thành ý muốn của Ngài.
Một linh nhu mì cũng không kém phần quan trọng đối với con người. Linh nhu mì là một linh giống như chiên con, một linh của thập tự giá. “Đấng đã chịu lăng mạ mà không lăng mạ lại; chịu khổ mà không đe dọa” (1 Pet. 2:23); đây là một linh nhu mì. Linh nhu mì sẵn lòng bị đối xử bất công. Dù được luật pháp bảo vệ và có khả năng trả thù, người ấy cũng chẳng hề sử dụng cánh tay xác thịt để bù đắp cho chính mình. Dù chịu đau khổ và thiệt hại, linh này cũng không gây hại cho người khác. Ai có một linh như vậy sẽ cư xử trong sự công nghĩa nhưng không đòi hỏi sự công nghĩa từ người khác. Người ấy đầy dẫy tình yêu, ân điển và sự nhân từ; vì vậy, người ấy có thể cảm động lòng của những người xung quanh.
NHIỆT THÀNH
“Chớ biếng nhác khi lòng nhiệt thành; hãy nóng chảy trong linh, hãy phục vụ Chúa” (Rô ma 12:11)
Xác thịt có thể hăng hái trong chốc lát từ sự kích động hoặc tình cảm, nhưng điều này chỉ là tạm thời và không kéo dài. Ngay cả khi xác thịt nhiệt thành nhất, nó vẫn có thể rất lười biếng vì nó chỉ nhiệt thành cho những điều phù hợp với ý muốn của nó. Sự nhiệt thành của nó chỉ nhờ vào sự giúp đỡ của tình cảm. Nó không thể phục vụ Chúa trong những điều nó không thích hoặc khi nó lạnh lẽo trong cảm xúc. Xác thịt không thể lao tác với Chúa để liên tục làm việc cách chậm rãi, từng bước một, dù mưa hay nắng. Việc “nhiệt thành trong linh” là một vấn đề lâu dài; chỉ khi đó chúng ta mới có thể luôn luôn phục vụ Chúa. Chúng ta phải tránh mọi sự hăng hái thuộc xác thịt. Chúng ta phải để cho Thánh Linh đổ đầy linh chúng ta và giữ linh chúng ta nhiệt thành. Khi đó, cho dù tình cảm chúng ta lạnh lẽo, linh chúng ta vẫn không trở nên lạnh lẽo và bất động trong công tác của Chúa.
Lời nói của vị sứ đồ trong câu này là một lệnh truyền. Vì vậy, ý muốn được đổi mới của chúng ta có thể lựa chọn điều này. Chúng ta phải vận dụng ý muốn của mình để chọn điều này. Chúng ta phải vận dụng ý muốn của mình để chọn sự nhiệt thành. Chúng ta phải nói: “Linh tôi ao ước trở nên nhiệt thành và không chấp nhận trở nên lạnh lẽo”. Khi tình cảm của chúng ta hoàn toàn thờ ơ, chúng ta phải để cho linh nhiệt thành của mình kiểm soát mọi sự, không để cho các cảm xúc hâm hẩm của chúng ta đắc thắng chúng ta. Việc luôn luôn phục vụ Chúa trong sự đơn nhất là một sự biểu minh của linh nhiệt thành.
ĐIỀM TĨNH
“Người nào có linh điềm tĩnh là người có sự hiểu biết” (Châm 17:27, ASV)
Linh chúng ta cần phải nhiệt thành. Linh cũng cần điềm tĩnh hoặc bình tịnh. Sự nhiệt thành liên hệ đến việc không “biếng nhác khi lòng nhiệt thành….phục vụ Chúa” sự điềm tĩnh có liên hệ đến tri thức.
Nếu linh chúng ta không điềm tĩnh, các hành động của chúng ta thường mất kiểm soát. Chủ đích của kẻ thù là khiến các thánh đồ đi chệch hướng và mất liên lạc với Thánh Linh. Chúng ta thường thấy rằng khi linh của một tín đồ không điềm tĩnh, người ấy thay đổi từ một cách sống theo nguyên tắc sang một cách sống theo tình cảm.
Ban đầu, linh và tâm trí liên kiết chặt chẽ với nhau. Chỉ cần linh mất bình tĩnh, tâm trí sẽ bị kích động; chỉ cần tâm trí trở nên nhiệt thành, tín đồ sẽ mất kiểm soát trên nhiều hành động của mình và trở nên bất thường. Vì vậy, duy trì một linh bình tĩnh thì luôn luôn có ích. Để giữ cho bước đi của chúng ta luôn luôn ở trên lối mòn của Chúa, chúng ta phải liên tục phớt lờ sự phấn khích trong tình cảm, sự gia tăng trong ao ước và sự bối rối trong tâm trí; thay vào đó, chúng ta phải rút lui để cân nhắc mọi vấn đề trong linh bình tĩnh của chúng ta. Nếu hành động mỗi khi linh bị kích động, chung ta e rằng mọi hành động ra từ đó sẽ nghịch lại với ý muốn của Đức Chúa Trời.
Để có tri thức về bản ngã, Đức Chúa Trời, Satan, và hiểu biết mọi sự cách thấu đáo, chúng ta phải có sự bình tĩnh trong linh, điều mà những tín đồ thuộc hồn không bao giờ có. Thánh Linh phải đổ đầy linh tín đồ. Hồn phải hoàn toàn bị đặt vào chỗ chết để linh có thể có một sự bình tĩnh khôn xiết. Bất kể có các sự thay đổi trong hồn, thân thể hoặc môi trường, sự bình tĩnh trong linh chắc chắn sẽ không bị đánh mất. Giống như biển, dù sóng có vỗ ầm ầm trên bề mặt, thì đáy biển vẫn luôn tĩnh lặng. Trước khi một tín đồ phân rẽ hồn với linh, mỗi khi có chuyện xảy ra bất ngờ, toàn bản thể người ấy lập tức bối rối, hoang mang hoặc lúng túng không biết làm gì hay ít nhất là bị rúng động trong chủ đích của mình. Đây là do thiếu tri thức thuộc linh và thiếu sự phân rẽ hồn với linh. Vì vậy, để duy trì sự phân rẽ hồn với linh, người ấy phải duy trì sự điềm tĩnh trong linh. Khi ấy, tín đồ sẽ có kinh nghiệm “không thể rúng động”. Bất kể hoàn cảnh bên ngoài quấy rầy đến đâu cũng không thể khiến người ấy đánh mất sự điềm tĩnh và bình an bên trong. Cho dù núi có sụp trước mắt người ấy, người ấy vẫn không đánh mất sự điềm tĩnh của mình. Điều này không phải là do sự suy gẫm của con người mà là bởi tín đồ nương dựa sự khải thị của Thánh Linh về tình trạng thật của mọi sự và bởi sự giới hạn hồn của tín đồ. Điều này ngăn không cho hồn kiểm soát linh.
Vấn đề chúng ta đang bàn đến liên hệ đến sự kiểm soát của ý muốn. Linh chúng ta phải thuận phục sự kiểm soát của ý muốn chúng ta. Ý muốn chúng ta ao ước sự nhiệt thành; ý muốn của chúng ta cũng ao ước sự điềm tĩnh. Chúng ta không được để cho tình trạng thuộc linh của mình vượt quá tầm kiểm soát của ý muốn. Linh phải nhiệt thành trong công tác của Chúa, nhưng cũng phải duy trì thái độ điềm tĩnh khi thực hiện công tác của Chúa.
VUI MỪNG
“ Và linh tôi hớn hở trong Đức Chúa Trời Cứu Chúa tôi” (luke 1:47)
Linh của một tín đồ phải nhận lấy thái độ tan vỡ đối với bản ngã (Thi 51:17), nhưng đồng thời phải vui mừng trong Đức Chúa Trời. Tín đồ vui mừng không phải vì có một điều gì đó vui mừng hoặc bất cứ kinh nghiệm, công tác, phước hạnh hay môi trường riêng nào. Người ấy vui mừng vì Đức Chúa Trời là trung tâm của người ấy. Nói cho đúng, ngoài Đức Chúa Trời ra, không điều gì có thể khiến một tín đồ vui mừng.
Nếu linh của một tín đồ bị đè nén bởi sự lo lắng, đau khổ hoặc buồn rầu, lập tức linh người ấy bị bỏ rơi. Linh trở nên chán nản và đánh mất vị trí đúng đắn, không thể hoàn thành sự dẫn dắt của Thánh Linh. Một khi linh tín đồ bị đè nén bởi các gánh nặng, lập tức linh đánh mất sự nhanh nhẹn, tự do, sáng suốt và rớt khỏi vị trí thăng thiên. Nếu thời gian buồn rầu kéo dài, mức độ tổn hại mà linh phải chịu là không dò lường được. Vào một lúc như vậy, không điều gì khác có thể giúp đỡ ngoại trừ vui mừng trong Đức Chúa Trời. Vui mừng trong sự kiện Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời; vui mừng trong cách Đức Chúa Trời hoàn thành mọi sự để làm Cứu Chúa của chúng ta. Một tín đồ không được đánh mất tiếng “hallelujah” của mình.
KHÔNG HÈN NHÁT
“Vì Đức Chúa Trời không ban cho chúng ta một linh hèn nhát, mà là linh quyền năng, yêu thương và tỉnh táo “2 Tim 1:7).
Hèn nhát không phải là khiêm nhường. Khiêm nhường là tuyệt đối quên đi bản ngã của mình – các sự yếu đuối cũng như các sự mạnh mẽ của mình. Một người hèn nhát thì ghi nhớ các sự yếu đuối và bản ngã của mình. Rụt lại và nhút nhát thì không làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Về một mặt, Đức Chúa Trời ao ước chúng ta run rẫy vì chúng ta không là gì cả, nhưng mặt khác, Ngài muốn chúng ta dạn dĩ bước tới bởi quyền năng của Ngài. Dạn dĩ là làm chứng cho Chúa, chịu đau khổ, mang sự sỉ nhục, đánh mất mọi sự, nương cậy nơi Chúa và tin cậy tình yêu sự khôn ngoan, quyền năng, sự thành tín và các lời hứa của Ngài. Đây là điều Chúa ao ước nơi chúng ta. Mỗi khi thấy mình rụt lại trong các vấn đề như làm chứng cho Chúa, chúng ta phải nhận thức rằng linh chúng ta đã rời khỏi tình trạng đúng đắn. Chúng ta phải giữ linh mình trong “sự không sợ hãi”.
Chúng ta phải có một linh quyền năng, yêu thương và một tâm trí tỉnh táo . Linh chúng ta cần mạnh mẽ và đầy quyền năng, nhưng không nên trở nên mạnh đến nỗi không yêu thương nữa. Việc yên lặng, tự kỷ luật và không dễ bị kích động cũng rất quan trọng. Để chống cự kẻ thù, linh chúng ta cần mạnh mẽ; để đối xử với người thế giới, linh chúng ta cần yêu thương; để cư xử cách đúng đắn, linh chúng ta cần tỉnh táo.
W.N. (Người Thuộc Linh)
oooooooooooo
YÊN LẶNG
“Trang sức người ẩn mật trong lòng theo tính không hư hoại của linh nhu mì và yên lặng, là điều quý giá theo cách nhìn của Đức Chúa Trời” (1 Pet 3:4)
Mặc dù lời này được nói cho các chị em, nhưng nói về mặt thuộc linh, các anh em cũng cần một sự dạy dỗ như vậy.
“Khao khát ở yên lặng” (1 Thes 4:11) là trách nhiệm của mỗi tín đồ. Ngày nay thật sự có quá nhiều cuộc nói chuyện giữ vòng các tín đồ. Đôi khi, các lời chưa nói còn nhiều hơn các lời đã nói ra. Chỉ cần có các ý tưởng bối rối và các sự phát ngôn ba hoa là đủ để khiến linh chúng ta lang thang ngoài sự kiểm soát của ý muốn. “Một linh không được kiểm soát” thường khiến con người hạnh động theo xác thịt. Khi linh của một tín đồ bị mất kiểm soát, người ấy rất khó giữ mình khỏi phạm tội. Một linh lầm lạc thường dẫn đến cách cư xử sai trật.
Trước khi miệng yên lặng, linh phải yên lặng, vì trong linh có điều gì thì miệng sẽ phát ra điều đó. Chúng ta phải luôn luôn cẩn thận để giữ linh mình yên lặng để có thể giữ yên lặng khi sự việc trở nên rối loạn. Linh yên lặng là điều thiết yếu để chúng ta bước đi theo linh. Nếu không, chúng ta sẽ sa vào trong tội. Nếu linh chúng ta yên lặng chúng ra có thể nghe tiếng của Thánh Linh trong linh mình. Khi đó, chúng ta có thể thi hành ý muốn của Đức Chúa Trời và hiểu được điều chúng ta không thể hiểu ở giữa sự rối loạn. Linh yên lặng này là trang sức của một tín đồ. Đó là điều một tín đồ phải biểu hiện ra bên ngoài.
MỚI MẺ
“Trong sự mới mẻ của linh” (Rô ma 7: 6)
Đây là một bước rất quan trọng trong nếp sống và công tác thuộc linh. Một linh cũ kỹ không thể đụng chạm dân chúng. Tối đa, linh chỉ có thể cho người ta một loại ý tưởng nào đó. Dù như vậy, linh vẫn vô quyền; linh không thể khiến người ta suy nghĩ cách sốt sắng. Một linh cũ kỹ chỉ sản sinh ra các ý tưởng cũ kỹ. Một nếp sống sôi nổi không bao giờ có thể tuôn chảy ra từ một linh cũ kỹ. bất cứ điều gì linh cũ kỹ lưu xuất ra – lời nói, sự dạy dỗ, thái độ, tư tưởng, cách sống – đều cũ kỹ, già nua và thuộc về dĩ vãng. Nhiều giáo lý vươn đến tâm trí tín đồ, chúng châm rễ trong linh. Đằng sau sự dạy dỗ không có linh “chạm đến” linh người khác. Có thể một tín đồ có một giáo lý mà người ấy đã từng kinh nghiệm, nhưng bây giờ giáo lý đó đã trở nên một điều gì đó của dĩ vãng, một món đồ lưu niệm, một kỷ niệm trong tâm trí – nó được truyền từ linh sang tâm trí. Ý tưởng của người ấy có thể rất tươi mới, mới được tiếp nhận trong tâm trí. Nhưng vì ý tưởng đó chưa được chứng thực bởi sự sống, nên những người nghe người ấy và những người ở gần người ấy sẽ không cảm thấy có một linh tươi mới chạm đến họ.
Nhiều lần chúng ta đã nhìn thấy loại Cơ Đốc nhân luôn luôn có được một điều gì mới mẻ từ Chúa. Khi đứng trước một người như vậy, chúng ta cảm thấy như thế người ấy vừa mới bước ta từ sự hiện diện của Chúa và đem chúng ta đến trước mặt Chúa. Loại người này dường như liên tục có được sức lực mới, giống như chim ưng vậy. Đây là cách của những người trẻ. Họ không cho dân chúng mana khô, bị hư hỏng, thối rữa, trong tâm trí nhưng cho bánh và cá nướng trên than lửa trong linh. Đây là sự tươi mới. Ngoài điều này ra, mọi sự điều cũ kỹ. Bất kể các ý tưởng có vẻ sâu nhiệm và lạ lùng đến đâu, chúng cũng không bao giờ có thể chạm đến dân chúng cách mới mẻ và tươi mới như linh.
Chúng ta phải giữ linh mình mới mẻ và tươi mới. Nếu linh chúng ta không ở trong Chúa và được Chúa chúc phước, không thích hợp để gặp người khác. Bất kể đó là sự sống, tư tưởng hay kinh nghiệm của chúng ta, nếu một điều gì đó đã trở nên kỷ niệm trong quá khứ, thì nó đã cũ rồi. Mọi điều chúng ta có thể phải liên tục mới mẻ từ Chúa. Việc bắt chước người khác mà không có kinh nghiệm trong sự sống chắc chắn sẽ không đáng kể đến, nhưng thậm chí việc bắt chước kinh nghiệm quá khứ của chình mình cũng không hiệu quả. Điều này phải khiến chúng ta nhận thức tầm quan trọng của việc “Ta sống bởi vì Cha” (John 6:57). Chỉ khi nào chúng ta liên tục nhận lấy sự sống của Cha làm sự sống của mình, linh chúng ta mới có thể mới mẻ và tươi mới mọi lúc. Một linh không mới mẻ và tươi mới thì không thể kết trái trong sự lao tác, không thể bước đi theo Thánh Linh trong sự sống và không thể đắc thắng trong trận chiến. Linh cũ kỹ không thể gặp con người vì nó chưa gặp Đức Chúa Trời. Để tươi mới mỗi lúc, linh phải luôn luôn đụng chạm Đức Chúa Trời.
THÁNH KHIẾT
“Là thánh trong cả thân thể lẫn trong linh” (1 Cor 7:34)
“Chúng ta hãy tự tẩy sạch mình khỏi mọi sự ô uế của xác thịt và của linh” (2 Cor 7:1)
Nếu muốn bước đi theo linh, chúng ta phải luôn luôn giữ linh mình thánh khiết. Một linh bất khiết sẽ dẫn dân chúng đi lạc. Có các ý tưởng không đúng đắn trong việc chỉ trích người khác hoặc phán đoán các vấn đề, ghi nhớ tội lỗi của người khác, thiếu tình yêu, nói quá nhiều, chỉ trích cách cay độc, và tự xưng nghĩa, không chịu tiếp nhận sự nài khuyên, đố kỵ các anh em, tự phụ và v…v… đều có thể làm ô uế linh. Một linh bất khiết không thể mới mẻ và tươi mới.
Trong việc theo đuổi cách sống thuộc linh, chúng ta không thể phớt lờ tội lỗi trong một giây phút nào. Tội lỗi làm tổn hại chúng ta nhiều hơn bất cứ điều gì khác. Dù biết cách để được tự do khỏi tội lỗi và bước đi theo linh, chúng ta vẫn cần thận trọng để không quay trở lại tình trạng tội lỗi trong quá khứ của chúng ta cách vô thức. Khi tội lỗi đến, chúng ta không thể bước đi theo linh. Chúng ta phải luôn luôn thức canh để có thái độ là đã chết hầu cho tội lỗi không đắc thắng chúng ta hoặc bước vào trong linh chúng ta để đầu độc linh. Nếu không có sự thánh khiết, không người nào có thể thấy Chúa.
MẠNH MẼ
“Trở nên mạnh mẽ trong linh” (Luke 1:80)
Linh chúng ta phải dần dần tăng trưởng và trở nên mạnh mẽ. Đây là điều không thể thiếu trong cách sống thuộc linh. Nhiều lần chúng ta cảm thấy linh mình không đủ mạnh để kiểm soát hồn và thân thể, nhất là khi hồn chúng ta bị kích động hoặc thân thể chúng ta đau yếu. Đôi khi chúng ta muốn giúp đỡ người khác vì nhìn thấy gánh nặng trong linh họ, nhưng chúng ta cảm thấy linh mình vô quyền biết bao. Chúng ta không thể giải phóng họ. Đôi khi trong trận chiến với kẻ thù, chúng ta thấy mình không đủ mạnh mẽ trong sức lực thuộc linh, thấy khó “vật lộn” thắng hơn kẻ thù trong một thời gian dài. Nhiều lần, chúng ta thật sự thấy sức lực thuộc linh của mình không đủ để kiểm soát mọi sự. Có nhiều phần trong cách sống và công tác của chúng ta mà chúng ta chỉ có thể vừa đủ sức để quản lý thôi. Chúng ta ao ước có một linh mạnh mẽ hơn biết bao!
Một khi linh mạnh mẽ, sẽ có trực giác sắc bén và quyền năng biện biệt. Chúng ta cũng có khả năng từ chối mọi điều không thuộc về linh. Một số tín đồ có ý định bước đi theo linh, nhưng họ không thể, vì quyền năng trong linh họ không đủ để kiểm soát mọi sự trái lại, linh phải bị kiểm soát. Chúng ta không thể mong đợi Thánh linh thay thế chúng ta để thực hiện mọi công tác; linh được tái sanh của chúng ta cần cùng lao tác với Thánh Linh. Chúng ta phải học cách sử dụng linh mình và sử dụng hết mức theo những gì chúng ta biết. Nếu một tín đồ sử dụng linh mình, linh sẽ dần trở nên mạnh mẽ và có quyền năng xuyên phá mọi điều ngăn trở Thánh Linh, bất kể đó là ý nghĩa muốn bướng bỉnh, tâm trí rối loạn, hay tỉnh cảm không được giới hạn.
Kinh Thánh bảo chúng ta rằng linh có thể bị thương tổn (Châm 18:14) nghĩa là có thể cảm thấy đau. Linh bị thương sẽ rất yếu. Nếu linh chúng ta mạnh mẽ, chúng ta có thể đứng chống lại sự kích động của hồn và không bị rúng động. Tâm linh của Moses có thể được xem là một linh rất mạnh mẽ, nhưng vì ông liên tục giữ cho linh mình mạnh mẽ nên dân Israel có thể chọc tức linh ông khiến ông phạm tội (Thi 106:33). Nếu linh chúng ta mạnh mẽ, chúng ta sẽ có thể công bố chiến thắng trong Chúa bất kể tình hưống là gì và bất kể nỗi khổ trong thân thể hay nổi buồn trong cảm xúc của chúng ta lớn đến đâu.
Chỉ có Thánh Linh mới có thể ban cho chúng ta sức lực mà người bên trong cần. Sức lực trong linh chúng ta ra từ quyền năng của Thánh Linh. Nhưng chính linh cũng cần được huấn luyện. Sau khi một tín đồ học cách bước đi theo linh, người ấy sẽ học cách sử dụng năng lực của linh mình trong công tác thay vì sử dụng năng lực thiên nhiên. Trong đời sống, người ấy sẽ biết cách sống bởi sự sống thuộc linh chứ không nương dựa nơi sự sống thuộc hồn. Trong trận chiến, người ấy sẽ học cách sử dụng sức lực trong linh chứ không phải sức lực thuộc hồn của mình để chống cự, tấn công và chống đối Satan và các ác linh của hắn. Điều này sẽ tự phát được trau dồi và cần được trau dồi. Khi một tín đồ bước đi theo linh, người ấy nhận được nhiều quyền năng hơn từ Thánh Linh. Đồng thời, linh người ấy cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Một tín đồ phải luôn luôn giữ cho linh mình ở trong tình trạng mạnh mẽ. Người ấy đừng bao giờ để cho linh mất quyền năng, vì e rằng khi có cần, linh sẽ không thể đáp ứng.
SỰ HIỆP MỘT
“Một linh” (Phil. 1:27)
Chúng ta đã thấy thể nào cách sống của một người thuộc linh được kết hiệp với các tín đồ khác. Sự hiệp một trong linh rất quan trọng. Nếu Đức Chúa Trời, qua Thánh Linh nội cư trong linh tín đồ, hoàn toàn kết hiệp với tín đồ, thì linh tín đồ cũng sẽ là một với các tín đồ khác. Một người thuộc linh không chỉ là một với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời; người ấy cũng được kết hiệp với Đức Chúa Trời cư trú trong mọi tín đồ. Vì vậy, nếu một tín đồ để cho sự sống thuộc hồn công tác, người ấy sẽ không thể bước đi theo linh. Nếu một tín đồ để cho tâm trí hoặc tình cảm của mình kiểm soát linh, thì linh người ấy sẽ không thể là một với các tín đồ khác. Chỉ khi nào tâm trí và tình cảm thuận phục sự kiểm soát của linh, tín đồ mới có thể không để ý đến hoặc dừng sự bất hòa trong tâm trí và tình cảm lại để làm một với các con cái khác của Đức Chúa Trời trong linh. Một tín đồ phải giữ cho linh mình ở trong tình trạng làm một với mọi tín đồ. Điều này không phải là chỉ được kết hiệp với một nhóm nhỏ người có cùng ý kiến, mà là với toàn Thân Thể Đấng Christ. Linh chúng ta phải không có sự cứng cỏi, cay đắng, hoặc giới hạn; thay vì vậy, linh phải hoàn toàn mở ra và tự do thì sự tiếp xúc của chúng ta với người khác mới có thể không có rào cản.
ĐẦY ÂN ĐIỂN
“Ân điển của Chúa Jesus Đấng Christ chúng ta ở với linh anh em” (Gal. 6:18).
Chúng ta phải liên tục canh giữ linh minh. Vì vậy, ân điển của Chúa Jesus Đấng Christ rất quý báu. Ân điển của Chúa trong linh chúng ta là sự giúp đỡ cho chúng ta mọi lúc. Đây là một lời chúc phước; đây cũng là đỉnh cao của những gì một tín đồ có thể nhận được trong linh mình. Chúng ta phải luôn luôn giữ cho linh mình ở trong ân điển của Chúa.
LINH ĐƯỢC CẤT LÊN
Ngoài các tình trạng của linh được bàn ở trên, chúng ta cũng phải giữ cho linh mình ở trong tình trạng ra khỏi thế giới và thăng thiên lên cõi thiên thượng mọi lúc. Chúng ta gọi đây là linh được cất lên. Linh được cất lên thì sâu nhiệm hơn linh của sự thăng thiên. Người có được linh cất lên không chỉ sống như thể đang ở trong cõi thiên thượng; qua sự dẫn dắt của Thánh Linh, người ấy còn tin và mong đợi sự đến lần thứ hai của Chúa và sự cất lên của chính mình. Khi linh của tín đồ và của Đấng Christ được kết hiệp là một linh, người ấy trở nên một công dân của cõi thiên thượng trong kinh nghiệm, sống trong thế giới như một người kiều cư. Thánh Linh sẽ kêu gọi người ấy tiến lên từng bước một hầu cho người ấy có thể nhận được linh cất lên. Trước đây, sự hô la của người ấy là “Tiến tới!” Bây giờ, sự hô la của người ấy là “Thăng thiên!” Điều này khiến toàn bản thể người ấy hướng lên cõi thiên thượng. Một linh được cất lên khiến tín đồ có tiền vị của linh, là điều “nếm được… các quyền năng của thời đại sắp đến” (Heb. 6:5).
Không phải ai tin giáo lý về sự đến lần thứ hai cũng có một linh được cất lên. Việc tin vào sự đến lần thứ hai của Chúa, rao giảng về điều đó hoặc thậm chí cầu nguyện về điều đó, không có nhiều ý nghĩa lắm. Chúng ta có thể có mọi điều này nhưng vẫn không có linh được cất lên. Không phải mọi tín đồ trưởng thành đều có linh này. Đây là một ân tứ của ân điển từ Đức Chúa Trời. Đôi khi, điều đó ban cho theo niềm vui thích của Ngài; đôi khi, điều đó được ban cho theo sự khẩn xin trong đức tin. Với linh được cất lên này, linh của tín đồ luôn luôn ở trong vị trí được cất lên, không chỉ tin vào sự trở lại của Chúa mà còn tin vào sự cất lên của chính mình. Đây không phải là tin một giáo lý mà là nhận biết một sự thật. Giống như Simeon, bởi sự khải thị của Thánh Linh, đã biết rằng ông sẽ thấy Đấng Christ của Đức Chúa Trời trước khi chết, thì một tín đồ cũng tin với sự tin chắc đầy đủ trong linh mình rằng mình sẽ được cất lên trước khi chết. Đức tin này là đức tin của Enoch. Dĩ nhiên, chúng ta không ngoan cố tin một điều mê tín. Nếu ở trong giai đoạn của sự cất lên, chúng ta không thể không đầy dẫy đức tin về việc được cất lên. Loại đức tin này sẽ khiến chúng ta có thể hiểu biết hơn về công tác của Đức Chúa Trời trong thời đại này. Do đó, chúng ta sẽ nhận được quyền năng thiên thượng để giúp đỡ trong công tác của chúng ta.
Nếu một tín đồ nhận được linh cất lên này hoặc nói cách khác, nếu linh người ấy ở trong tình trạng được cất lên, chúng ta sẽ thấy người ấy thiên thượng hơn. Con đường lên cõi thiên thượng của người ấy không giống như trong quá khứ khi người ấy từng cho rằng mình phải trả qua cái chết.
Khi một tín đồ làm công tác thuộc linh, người ấy thường có nhiều sự mong đợi và kế hoạch. Người ấy đầy dẫy Thánh Linh, sự khôn ngoan và quyền năng. Người ấy tin và mong đợi rằng Đức Chúa Trời sẽ trọng dụng mình, cứ như thể hiệu quả công tác sẽ nhanh chóng kết nhiều trái. Nhưng trong tình trạng thịnh vượng này, Đức Chúa Trời sẽ đắc thắng, như thể yêu cầu kết thúc mọi công tác và chuẩn bị cho một lối mòn khác. Điều này đến rất bất ngờ. “Tại sao? Sức lực của tôi chẳng phải dành cho công tác sao? Chẳng phải tri thức kỳ diệu tôi có được là để giúp đỡ người khác sao? Tại sao mọi sự đều đóng lại và lạnh lẽo?” Nhưng dưới loại dẫn dắt này, tín đồ biết rằng chủ đích của Đức Chúa Trời là kêu gọi người ấy nhận lấy một lối mòn khác. Trước đây, lối mòn đó là đi tới; bây giờ, lối mòn đó là đi lên. Không phải là không còn công tác nữa, mà là công tác có thể bị kết thúc bất cứ lúc nào.
Vào những lúc khác, Đức Chúa Trời cũng sử dụng môi trường – sự bắt bớ, chống đối, tước đoạt, v.v. – để các tín đồ biết rằng Đức Chúa Trời muốn họ có linh được cất lên và không nghĩ rằng công tác trong thế giới sẽ dần dần tiến triển. Bây giờ, Chúa muốn thay đổi lối mòn của con cái Ngài. Nhiều con của Đức Chúa Trời không biết rằng ngoài các công tác khả thi tốt nhất đang tiến triển còn có một điều gì đó tốt hơn – thăng thiên.
Linh được cất lên này không phải là không kết trái. Trước khi tín đồ nhận được linh như vậy, các kinh nghiệm của người ấy thường thay đổi. Nếu tín đồ có lời chứng về việc được cất lên trong linh mình, nếu người ấy có đức tin vững chắc về sự cất lên của mình và nếu cách cư xử của người ấy cũng tương xứng với linh được cất lên trong đời sống và công tác, thì linh này sẽ khiến tín đồ chuẩn bị cho sự đến của Chúa. Sự chuẩn bị này không chỉ liên hệ đến các sự điều chỉnh bên ngoài; nó cũng khiến tín đồ được chuẩn bị đầy đủ trong linh, hồn và thân thể để chào đón Chúa.
Vì vậy, một tín đồ phải cầu nguyện để Thánh Linh chỉ cho mình cách tiếp nhận và gìn giữ linh được cất lên này. Các tín đồ phải cầu nguyện, hi vọng, tin và sẵn lòng cất bỏ mọi ngăn trở để có được linh cất lên này. Đời sống và công tác của chúng ta phải luôn luôn được kiểm tra theo linh được cất lên hầu cho chúng ta biết mình thất bại ở đâu. Trong trường hợp linh này bị đánh mất, chúng ta phải biết mình đã đánh mất khi nào và làm thế nào để khôi phục lại. Chúng ta phải cầu nguyện để biết các vấn đề trong thế giới có liên hệ thế nào với linh chúng ta; theo cách này, chúng ta biết cách để đắc thắng. Khi chúng ta nhận được linh cất lên này, thì cũng rất dễ đánh mất vì chúng ta không biết phải có lời cầu nguyện và công tác cụ thể gì vào giai đoạn này trong nếp sống chúng ta để duy trì vị trí của chúng ta trong các nơi thiên thượng và có cái nhìn sáng tỏ nhất. Vì vậy, chúng ta phải cầu nguyện để Thánh Linh dạy chúng ta cách liên tục được gìn giữ trong loại linh này. Kết quả của các lời cầu nguyện này là chúng ta sẽ được dẫn dắt để có tâm trí đặt trên những điều ở trên (Col. 3:2). Đây là yêu cầu tiên quyết để được gìn giữ.
Vì chúng ta đang đứng ngay cổng của cõi thiên thượng và có thể được cất lên vào bất cứ lúc nào nên chúng ta phải chọn áo trắng và công tác thiên thượng vì có thể một phút sau, chúng ta sẽ được kêu gọi để thăng thiên. Loại hi vọng này hoàn toàn phân rẽ chúng ta khỏi những điều thế tục và kết nối chúng ta với những điều ở trên.
Dù Đức Chúa Trời muốn chúng ta mong đợi sự thăng thiên với tấm lòng đơn nhất, nhưng chúng ta không nên chỉ quan tâm đến việc được cất lên. Chúng ta đừng phớt lờ các nhu cầu của người khác và quên đi công tác sau cùng trên đất, như Đức Chúa Trời đã phân công cho chúng ta. Điều này chỉ có nghĩa là Đức Chúa Trời không muốn chúng ta để cho công tác mà Ngài giao ngăn trở chúng ta được cất lên. Trong cách sống và công tác của mình, chúng ta phải luôn luôn nhìn thấy “lực hút của cõi thiên thượng” mạnh hơn “lực hút của trái đất”. Chúng ta phải học tập sống không chỉ cho công tác của Chúa mà còn cho sự cất lên bởi Chúa. Nguyện linh chúng ta hằng ngày được nâng cao để hi vọng về sự hiện đến sắp tới của Chúa. Nguyện những điều thế tục trở nên vô quyền đến nỗi chúng ta không chỉ không thích “thuộc thế giới” mà còn không thích “ở trong thế giới”. Nguyện linh chúng ta hằng ngày thăng thiên lên cõi thiên thượng và mong sớm được ở với Chúa. Nguyện chúng ta đơn nhất trong việc quan tâm đến những điều ở trên để ngay cả các công tác tốt nhất trong thế giới cũng không thể làm chúng ta xao lãng. Từ giờ trở đi, nguyện chúng ta thiết tha cầu nguyện và với sự hiểu biết: “Chúa Jesus ơi, xin hãy đến”.
W.N. (Người Thuộc Linh)