sertraline for anxiety reviews
sertraline for anxiety side effects
click sertraline for anxiety and panic attacks
naltrexone buy online
where to buy low dose naltrexone
open CHƯƠNG 1
TRỰC GIÁC
Nếu chúng ta muốn hiểu biết sáng tỏ hơn về nếp sống thuộc linh, chúng ta phải phân tích và hiểu được mọi luật của linh. Chỉ sau khi hiểu biết mọi chức năng của linh chúng ta mới lĩnh hội được các luật mà bởi đó linh vận hành. Một khi đã biết các luật của linh, chúng ta sẽ học cách bước theo linh, tức là bước đi bởi các luật của linh. Những điều này là sự sinh tử đối với nếp sống thuộc linh. Chúng ta không sợ có quá nhiều tri thức về linh; mối lo ngại duy nhất của chúng ta là chúng ta quá ra sức theo đuổi tri thức về linh bằng tâm trí của mình.
Phúc âm của Đức Chúa Trời là nói với dân chúng rằng con người sa ngã có thể nhận được sự tái sanh và con người xác thịt có thể có được một linh mới. Linh mới là nền tảng của nếp sống mới. Nếp sống thuộc linh mà chúng ta thường nói đến chính là một nếp sống mà trong đó chúng ta sống bởi linh nhận được lúc tái sanh. Đáng tiếc là hầu hết các tín đồ đều biết rất ít về các chức năng của linh và những điều liên hệ đến linh. Họ có thể biết thuật ngữ về mối liên hệ giữa con người và linh, nhưng họ vẫn không thể nhận ra linh này trong kinh nghiệm của mình. Như chúng ta đã đề cập đến trước đây, hoặc họ không biết linh mình ở đâu, hoặc họ kể các cảm xúc và ý tưởng của mình là các chức năng của linh. Vì vậy, một sự phân tích các chức năng là cần thiết, vì chỉ khi đó các tín đồ mới biết cách bước đi theo linh.
CÁC CHỨC NĂNG CỦA LINH
Trước đây chúng ta đã đề cập rằng các chức năng của linh có thể chia thành ba phần: trực giác, sự tương giao và lương tâm. Mặc dù ba phần này có thể phận biệt nhưng chúng gắn chặt với nhau. Chúng ta rất khó nói đến phần này mà không đề cập đến hai phần kia. Thí dụ, khi nói về trực giác, tự phát chúng ta cũng bao gồm sự tương giao và lương tâm. Vì vậy, mặc dù phân tích linh, nhưng chúng ta vẫn cần nghiên cứu kỹ về các chức năng ba phần của linh. Chúng ta đã thấy thể nào linh được chia thành trực giác, sự tương giao và lương tâm, và chúng ta sẽ không lặp lại ở đây. Tuy nhiên, chúng ta phải xem xét thêm xem trực giác, sự tương giao (hoặc thờ phượng) và lương tâm là gì và có chức năng gì, để biết cách bước đi theo linh. Vì linh bao gồm công tác của trực giác, sự tương giao và lương tâm nên chúng ta có thể nói rằng bước đi theo linh chỉ là bước đi theo trực giác, sự tương giao và lương tâm.
Trực giác, sự tương giao và lương tâm chính là ba chức năng của linh. Chúng ta không nói rằng linh chỉ bao gồm ba phần này, chúng ta cũng không nói rằng linh chỉ là một trong ba phần này. Theo Kinh Thánh, đây đơn giản là ba chức năng chính của linh. Linh vẫn là linh; linh thì có thật, riêng tư và không thấy được. Ngày nay, chúng ta không thể hiểu thấu tố chất bên trong của linh. Chúng ta chỉ có thể nhận thức rằng chính bởi các chức năng này mà linh biểu lộ. Chúng ta ở đây không phải để học tập các huyền nhiệm kỳ diệu về tương lai mà là để theo đuổi cách sống thuộc linh. Chỉ cần chúng ta nhận biết các chức năng của linh và biết cách bước đi theo linh là đủ rồi. Linh chúng ta không phải là vật chất hữu hình, nhưng linh có thể hiện hữu độc lập trong thân thể như nhân linh. Vì vậy, mặc dù linh chúng ta không phải vật chất nhưng chắc chắn linh sở hữu “tố chất thuộc linh”. Nếu không, linh không thể hiện hữu cách độc lập. Tố chất thuộc linh này chứa đựng các chức năng khác nhau, là điều thực hiện mọi đòi hỏi của Đức Chúa Trời đối với con người. Vì vậy, chúng ta sẽ chỉ cố gắng học về các chức năng của linh, chứ không phải về tố chất của linh.
Con người giống như đền thờ thánh, và linh chúng ta giống như Nơi Chí Thành. Tiến thêm một bước nữa, chúng ta có thể ví trực giác, sự tương giao và lương tâm với hòm chứng cớ trong Nơi Chí Thánh. (1) Luật pháp của Đức Chúa Trời ở trong hòm chứng cớ để chỉ dẫn dân Israel trong những điều họ phải làm. Đức Chúa Trời khải thị chính Ngài và ý muốn của Ngài qua luật pháp. Tương tư, Đức Chúa Trời tỏ chính Ngài và ý muốn của Ngài với các tín đồ qua trực giác của họ để họ có thể bước theo. (2) Trên hòm chứng cớ có nắp vãn hồi được rảy huyết. Đây là nơi Đức Chúa Trời biểu lộ vinh hiển của Ngài và nhận được sự thờ phượng của con người. Tương tự, mỗi người được cứu bởi huyết quý báu đều có linh được tái sanh. Trong linh này, người ấy thờ phượng Đức Chúa Trời và tương giao với Ngài. Đức Chúa Trời chỉ có thể tương giao với dân Israel qua nắp vãn hồi của hòm chứng cớ. Tương tự, Ngài chỉ có thể tương giao với các tín đồ trong linh được tẩy sạch bởi huyết. (3) Theo ngôn ngữ gốc, hòm là “hòm chứng cớ” và Mười Điều Răn trong đó phục vụ như chứng cớ của Đức Chúa Trời với dân Israel. Nếu họ làm tốt, hai bảng luật pháp trong hòm chứng cớ sẽ chứng thực cho họ. Nếu họ làm những điều không đúng đắn, mười điều răn sẽ âm thầm kiện cáo họ từ bên trong hòm chứng cớ. Tương tự, Thánh Linh viết luật pháp của Đức Chúa Trời trong lương tâm chúng ta chúng ta để làm chứng cho phẩm hạnh của chúng ta. Lương tâm làm chứng cho những điều theo ý muốn của Đức Chúa Trời và kết án những điều không theo ý muốn của Đức Chúa Trời. “ Lương tâm tôi cùng làm chứng với tôi trong Thánh Linh” (Rô ma 9:1).
Hãy xem con cái Israel tôn trọng hòm chứng cớ biết bao! Khi băng qua sông Jordan, họ không có sự hướng dẫn nào ngoài hòm chứng cớ. Họ đơn giản bước theo hòm chứng cớ mà không có bất cứ sự nghi ngờ nào. Khi chiến đấu với thành Jericho, họ không làm gì khác hơn là bước theo hòm chứng cớ. Khi không thể chống cự lại quân Philistine, họ cố gắng lợi dụng hòm chứng cớ theo ý riêng của mình. Chẳng phải Uzzah lập tức bị giết chết khi cố giữ hòm chứng cớ bằng đôi tay xác thịt của mình sao? Họ vui mừng biết bao khi chuẩn bị được một nơi cho hòm chứng cớ! (Thi 132). Những điều này phải dạy các tín đồ cách đối xử với hòm chứng cớ, là trực giác, sự tương giao và lương tâm trong linh chúng ta. Có sự sống và sự hòa bình khi chúng ta bước theo các chức năng này và sẽ không có gì ngoài sự thất bại hoàn toàn nếu chúng ta cố gắng quấy rầy những điều này theo ý muốn xác thịt của chúng ta. Sự chiến thắng không phụ thuộc vào những gì dân Israel nghĩ mà phụ thuộc vào nơi hòm chứng cớ dẫn dắt. Bất cứ sự hữu dụng thuộc linh nào cũng không phụ thuộc vào suy nghĩ của chúng ta mà phụ thuộc vào sự dạy dỗ của trực giác, sự tương giao và lương tâm.
TRỰC GIÁC
Thân thể có các giác quan của nó và linh cũng có các cảm thức của linh. Linh cư trú trong thân thể và có mối liên hệ mật thiết với thân thể; tuy nhiên, linh hoàn toàn khác với thân thể. Thân thể có các giác quan khác nhau nhưng người thuộc linh có thể dò ra những điều vượt quá các giác quan vật lý của mình. Có một cảm thức khác trong phần sâu thẳm nhất của bản thể người ấy, có thể là vui mừng, buồn rầu, sợ hãi, tán thành, kết án, quyết tâm và biện biệt. Đây là các cảm thức của linh, khác với các giác quan của hồn được biểu hiện qua thân thể.
Các cảm thức và chức năng của linh có thể được nhìn thấy từ các câu sau đây:
“Linh thì sẵn sàng” (Matt. 26:41).
“Jesus, hoàn toàn nhận biết trong linh mình” (Mark 2:8).
“Ngài than thở sâu trong linh Ngài” (Mark 2:8).
“Linh tôi đã hớn hở trong Đức Chúa Trời Cứu Chúa tôi” (Luke 1:47).
“Những người thờ phượng thật sẽ thờ phượng Cha trong linh và tính chân thật” (John 4:23).
“Ngài … phẫn nộ trong linh” (John 11:33).
“Khi nói những điều đó rồi, Jesus bị bối rối trong linh” (John 13:21)
“Linh ông bị chọc giận bên trong khi ông thấy thành phố đầy thần tượng” (Công 17:16).
“Người này đã được chỉ dạy về đường lối của Chúa, có linh nhiệt thành” (Công 18:25).
“Paul chủ định trong linh” (Công 19:21).
“Tôi bị ràng buộc trong linh là phải đi đến Jerusalem” (Công 20:22).
“Nóng cháy trong linh” (Rô ma 12:11).
“Vì giữa dòng loài người ai biết được những điều của con người ngoài nhân linh ở trong con người” (1 Cor. 2:11).
“Tôi sẽ hát bằng linh” (1 Cor. 14:15).
“Nếu anh chúc em phước bằng linh” (1.Cor. 14:16).
“ Tôi không có sự yên nghỉ trong linh mình” (2 Cor. 2:13).
“Có cùng một linh của đức tin” (2 Cor. 4:13).
“Linh của sự khôn ngoan và khải thị” (Eph. 1:17).
“Tình yêu của anh em trong linh” (Col. 1:8).
Bây giờ chúng ta có thể thấy cảm thức của nhân linh nhạy bén biết bao và các chức năng của linh nhiều biết bao. Kinh Thánh không nói lòng của con người cảm thức và tác nhiệm theo cách này nhưng nói nhân linh cảm thức hoặc tác nhiệm như vậy. Chúng ta phải đọc các câu trên cách thật cẩn thận để nhận thức rằng nhân linh sở hữu mọi chức năng này. Sau khi đọc kỹ, chúng ta thấy rằng các chức năng và cảm thức của nhân linh cũng bao hàm như của hồn. dù là suy nghĩ, quyết định hay cảm nhận, hễ điều gì hồn có thì linh cũng có. Điều này cho chúng ta thấy rằng việc học tập biện biệt điều thuộc linh với điều thuộc hồn quan trọng biết bao. Hễ một tín đồ trải qua công tác sâu nhiệm của thập tự giá và Thánh Linh, người ấy sẽ dần dần lão luyện và biết được điều gì thuộc hồn và điều gì thuộc linh.
Sau khi một tín đồ dấn thân vào nếp sống thuộc linh, các cảm thức và chức năng của linh tăng trưởng và phát triển đầy đủ. Trước khi linh của tín đồ được phân rẽ khỏi hồn và kết hiệp với Chúa làm một linh, thì thật khó để người ấy để ý đến các cảm thức trong linh mình. Nhưng một khi quyền năng của Thánh Linh được đổ vào trong linh và người bên trong được làm vững mạnh thì linh người ấy sẽ sở hữu các cảm thức và chức năng của một người tăng trưởng đầy trọn. Chỉ khi đó người ấy mới có thể hiểu biết các chức năng khác nhau của linh.
Cảm thức này của linh được gọi là trực giác vì nó đến mà không có bất cứ nguyên nhân hoặc lý do nào. Nó đến qua “trực giác” chứ không qua bất cứ phương tiện nào. Các cảm giác thông thường của chúng ta được dấy lên bởi những phương tiện cụ thể, có thể là con người, sự vật hay sự kiện. Những điều này dấy lên một số cảm nhận. Nếu có một điều gì đó vui mừng thì chúng ta vui mừng. Nếu có một điều gì đó buồn rầu thì chúng ta cảm thấy buồn rầu. Mọi cảm giác này được dấy lên bởi một điều gì đó; vì vậy, chúng không thể được gọi là trực giác. Cảm thức của linh không ra từ bất cứ phương tiện nào những trực tiếp đến từ bản thể bên trong.
Hồn và linh khá giống nhau. Các tín đồ không nên bước theo hồn mình, nghĩa là họ không nên bước theo các suy nghĩ, cảm giác hay sở thích của mình. Mọi điều này đều ra từ hồn. Đường lối của Đức Chúa Trời cho các tín đồ là bước đi theo linh. Mọi đường lối khác đều thuộc về sáng tạo cũ và không có chút giá trị thuộc linh nào. Vậy thì, làm sao chúng ta có thể bước đi theo linh? Bước đi theo linh là bước đi theo trực giác trong linh; đây là vì trực giác của linh biểu hiện tư tưởng của nhân linh và của Đức Chúa Trời.
Nhiều lần, chúng ta dự định làm một điều gì đó, và chúng ta có thể có nhiều lý do để làm điều đó. Lòng chúng ta có thể ao ước một số điều nào đó và niềm ao ước này có thể rất tốt. Hơn nữa, ý muốn của chúng ta có thể quyết định thực hiện các ý định của tâm trí và ao ước. Tuy nhiên, trong phần sâu thẳm nhất của bản thể chúng ta, có một điều gì đó không nói ra được, yên lặng, nặng nề, bức bách và kín giấu, đang chiến đấu chống lại với các tư tưởng của tâm trí, các niềm ao ước của tình cảm và các quyết định của ý muốn chúng ta. Cảm giác phức tạp này trong lòng chúng ta dường như nói với chúng ta rằng chúng ta không được làm những điều này. Vào những dịp khác, kinh nghiệm này có thể khác. Kinh nghiệm đó có thể khởi đầu bằng việc bản thể sâu thẳm của chúng ta có cùng một cảm nhận không thể nói ra được, yên lặng, nặng nề, bức bách và kín giấu như chúng ta đã có trước đây, là điều thúc ép, đè nén, chuyển động và khích lệ chúng ta làm một số điều gì đó. Những điều này đối với chúng ta dường như vô lý, phi lý và trái với các tư tưởng thông thường của chúng ta. Những điều này nghịch với những điều chúng ta thường ao ước, ủng hộ, thích thú, yêu mến và nắm giữ và ý muốn của chúng ta không ao ước thực hiện chúng.
Điều mà hành động trái nghịch với tâm trí, tình cảm và ý muốn của chúng ta là gì? Đó là trực giác của nhân linh. Linh biểu hiện tư tưởng của linh qua trực giác. Bây giờ chúng ta có thể thấy sự khác biệt giữa trực giác và các cảm nhận của tình cảm. Thông thường, điều chúng ta cảm thấy phải làm thì đối nghịch với sự cảnh báo của trực giác yên lặng, bên trong này. Trực giác này cũng hoàn toàn khác với tâm trí chúng ta. Tâm trí chúng ta ra từ đầu chúng ta và là điều hợp lý. Tuy nhiên, trực giác không được đặt trong đầu chúng ta và thường thì phi lý. Thánh Linh khải thị tư tưởng của chính Ngài qua trực giác của linh. “Sự thúc giục” của Thánh Linh là công tác của Thánh Linh trong linh chúng ta, khiến trực giác của chúng ta hiểu biết ý muốn của Ngài. Bây giờ chúng ta có thể phân biệt điều gì ra từ Thánh Linh và điều gì ra từ bản ngã và Satan. Nơi cư trú của Thánh Linh ở trong linh chúng ta, và linh chúng ta là trung tâm của toàn bản thể chúng ta. Do đó, khi Thánh Linh khải thị ý muốn của Ngài qua trực giác, Ngài làm điều đó qua phần sâu thẳm của bản thể chúng ta. Tuy nhiên, ý muốn riêng của chúng ta nằm ở phần bên ngoài của thân thể chúng ta. Các tư tưởng của chúng ta đến từ bên ngoài của chúng ta. Một khi chúng ta nhìn thấy các ý kiến của mình ra từ tâm trí hoặc tình cảm – người bên ngoài của chúng ta – chúng ta sẽ biết rằng tình cảm – người bên ngoài của chúng ta – chúng ta sẽ biết rằng chúng chỉ là các tư tưởng của riêng chúng ta và không phải là sự thúc giục của Thánh Linh. Sự thúc giục của Thánh Linh luôn luôn ra từ phần sâu thẳm nhất của bản thể chúng ta. Chúng ta cũng có thể dùng điều này để biện biệt những điều từ Satan (ngoại trừ những người bị quỷ ám). Satan không cư trú trong linh tín đồ. Nơi cư trú của hắn là ở trong thế giới. “Đấng ở trong anh em lớn hơn kẻ (Satan) ở trong thế giới” (1 John 4:4). Satan chỉ có thể xâm lấn các tín đồ từ bên ngoài. Hắn công tác qua các sự khao khát và cảm giác của thân thể hoặc qua tâm trí và tình cảm của chúng ta, vì cả thân thể lẫn tâm hồn đều thuộc về người bên ngoài. Vì vậy, các tín đồ phải rất cẩn thận để biện biệt các cảm nhận của mình là ra từ phần sâu thẳm của bản thể bên trong hay ra từ người bên ngoài.
SỰ XỨC DẦU CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Trực giác là nơi sự xức dầu của Đức Chúa Trời dạy dỗ chúng ta. “Còn các con có sự xức dầu từ Đấng Thánh, và tất cả các con đều biết… Sự xức dầu mà các con nhận được từ Ngài cứ ở trong các con, và các con không cần bất cứ ai dạy dỗ mình; nhưng như sự xức dầu của Ngài dạy dỗ các con về mọi sự và là thật chứ không giả dối, và cũng như sự xức dầu đó đã dạy dỗ các con, hãy cứ ở trong Ngài” (1 John 2:20, 27). Đoạn Kinh Thánh này cho biết rất rõ sự xức dầu của Thánh Linh dạy dỗ chúng ta như thế nào.
Trước khi xem xét đoạn Kinh Thánh này, chúng ta hãy phân biệt ý nghĩa của chữ “nhận biết” và “hiểu biết”. Linh “nhận biết”, trong khi tâm trí “hiểu biết”. Một tín đồ “nhận biết” một điều gì đó bởi trực giác của linh. Tâm trí chỉ có thể “hiểu biết”. Nói cho đúng, tâm trí không thể “nhận biết”. ( Tất nhiên, mọi điều này chỉ về mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Chúa Trời). Các tín đồ rất bối rối về vấn đề tìm kiếm tư tưởng của Thánh Linh, vì họ không biết sự khác biệt giữa “nhận biết” và “hiểu biết”. Theo cách dùng thông thường thì nhận biết và hiểu biết không khác biệt lắm. Nhưng trong những vấn đề thuộc linh, nhận biết và hiểu biết cách xa nhau như cõi thiên thượng với trái đất vậy. Nhận biết là công tác của trực giác; hiểu biết là công tác của tâm trí. Thánh Linh khiến linh chúng ta có thể nhận biết và linh chúng ta khiến tâm trí chúng ta hiểu biết. Thật khó để phân biệt hai từ ngữ này nhưng trong kinh nghiệm, chúng khác nhau như lúa mì với cỏ lùng vậy.
Có phải là nhiều lần chúng ta có một cảm nhận không diễn tả được trong bản thể bên trong chúng ta như được đề cập trên đây không? Cảm nhận này khiến chúng ta có thể biết là có nên làm một điều gì đó hay không. Đúng là trong linh mình chúng ta có thể biết tư tưởng của Thánh Linh. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, trong trực giác, chúng ta biết mình nên làm gì, nhưng tâm trí chúng ta có thể vẫn thiếu hiểu biết về ý nghĩa và lý do của điều đó. Trong các vấn đề thuộc linh, rất có thể chúng ta nhận biết nhưng không hiểu. Chẳng phải là nhiều lần các tư tưởng của chúng ta bị bí lối, nhưng linh chúng ta lại nhận được sự dạy dỗ từ Thánh Linh; vào những lần đó, chúng ta kêu lên: “Tôi biết điều đó!” Nhiều lần khi chúng ta phủ nhận các tư tưởng và lý luận trong tâm trí mình và vâng phục tư tưởng của Thánh Linh được biểu hiện trong trực giác, chúng ta phải chờ đợi một thời gian dài rồi tâm trí chúng ta mới được soi sáng và chúng ta mới hiểu được lý do tại sao Thánh Linh lại dẫn dắt chúng ta theo cách đặc biệt như vậy. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể kêu lên: “Bây giờ tôi đã hiểu!” Các kinh nghiệm này nói với chúng ta rằng chúng ta “biết” tư tưởng của Thánh Linh trong trực giác của linh mình, nhưng chúng ta “hiểu” sự dẫn dắt của Thánh Linh trong tâm trí của hồn mình.
Sứ đồ John bảo chúng ta rằng sự xức dầu của Chúa cứ ở trong chúng ta và dạy dỗ để chúng ta biết mọi sự và không cần ai dạy chúng ta. Điều này chỉ về các chức năng của trực giác. Chúa ban Thánh Linh cho mọi tín đồ; Ngài cứ ở trong linh chúng ta và dẫn dắt chúng ta vào trong mọi lẽ thật. Ngài dẫn dắt như thế nào? Ngài dẫn dắt qua trực giác của linh. Trong linh, Ngài biểu hiện các tư tưởng của Ngài. Trực giác sở hữu khả năng nhận biết ý nghĩa sự thúc giục của Thánh Linh. Giống như tâm trí khiến con người có khả năng lĩnh hội những điều của thế giới thì trực giác khiến con người lĩnh hội những điều của lĩnh vực thuộc linh. Sự xức dầu nguyên thủy chỉ về sự áp dụng dầu xức. Cách mà Thánh Linh dạy dỗ, công tác và phát ngôn với chúng ta là ở trong nhân linh. Ngài không phát ngôn từ trời bằng một tiếng lớn và lửa đang cháy hoặc ném các tín đồ xuống đất bằng quyền năng của Ngài. Đúng hơn, Ngài công tác cách thầm lặng trong linh chúng ta để khiến chúng ta cảm thức một điều gì đó trong trực giác mình. Giống như dầu khi được xức lên sẽ khiến thân thể có một cảm giác nào đó thì sự xức dầu của Thánh Linh cũng ban cho linh các tín đồ một cảm nhận nào đó khi được áp dụng. Khi ý thức về cảm nhận này, trực giác sẽ biết Thánh Linh phát ngôn điều gì.
Nếu một tín đồ muốn bước theo ý muốn của Đức Chúa Trời, người ấy không cần hỏi người khác hoặc thậm chí cũng không cần tự hỏi mình. Tất cả những gì người ấy cần làm là bước đi theo sự chỉ dẫn của trực giác. Sự xức dầu sẽ dạy tín đồ “mọi sự”. Ngài sẽ không để hoặc cho phép con người tự đưa ra sự lựa chọn của mình. Những ai muốn bước đi theo linh đều phải nhận thức được điều này. Trách nhiệm của chúng ta không gì khác hơn là chịu dạy dỗ. Chúng ta không cần quyết định con đường của mình; thật ra thì chúng ta cũng chẳng có thể quyết định được gì. Bất cứ điều gì ngoài sự dẫn dắt của sự xức dầu đều chỉ là hành động của riêng chúng ta. Công tác của sự xức dầu là độc lập; nó không đòi hỏi sự giúp đỡ của con người. Nó không đòi hỏi tâm trí con người nghiêm cứu hay tình cảm con người được khuấy động; sự xức dầu biểu hiện tư tưởng của chính Thánh Linh cách độc lập. Ngài công tác cách độc lập trong nhân linh và khiến con người nhận biết ý muốn của Ngài trong trực giác của họ. Sau đó, Ngài khiến con người thực hiện các sự hướng dẫn của Ngài.
SỰ BIỆN BIỆT
Nếu đọc văn mạch của phần Kinh Thánh này, chúng ta sẽ thấy rằng vị sứ đồ diễn giảng về nhiều sự dạy dỗ giả mạo và antichrist. Ông đang nói rằng vì các tín đồ đã nhận được sự xức dầu từ Đấng Thánh, là Đấng cứ ở trong họ, nên sự xức dầu này tự phát dạy họ điều gì là thật, điều gì là giả, ai vì Đấng Christ, và ai là antichrist. Không cần con người dạy dỗ hoặc phát ngôn bất cứ điều gì; sự xức dầu cứ ở bên trong sẽ tự phát dạy dỗ. Sự biện biệt thuộc linh là điều thiết yếu ngày nay. Chúng ta không cần tham khảo nhiều sách thần học, không cần lý luận, so sánh, nghiên cứu, quan sát và suy nghĩ bằng trí năng của mình để có thể hiểu được điều gì là giả dối và điều gì là sự thật. Nếu chúng ta phải làm như vậy thì chỉ có các tín đồ uyên bác và trí thức mới có thể tự mình thoát khỏi các sự lừa dối. Đức Chúa Trời không tôn trọng sáng tạo cũ của con người. Ngoài linh của sáng tạo mới, mọi sự điều chết chóc trong mắt Ngài và phải bị kết liễu. Khả năng trí tuệ, điều mà Đức Chúa Trời nhất quyết phải hủy bỏ, có thể giúp con người phân biệt đúng sai không? Không, tuyệt đối không. Đúng hơn, Đức Chúa Trời đặt Linh Ngài vào trong linh của mỗi tín đồ để dạy người ấy điều gì thuộc và không thuộc về Ngài, bất kể người ấy có thể thiếu hiểu biết hoặc ngu dại đến đâu. Vì vậy, mặc dù có nhiều lần chúng ta không thể tìm ra lý do để chống đối một sự dạy dỗ nào đó nhưng có một cảm thức không tán thành bên trong phần sâu thẳm nhất của bản thể chúng ta. Chúng ta không biết lý do, nhưng cảm thức bên trong chúng ta bảo chúng ta rằng điều này là sai trật. Đôi khi chúng ta nghe một sự dạy dỗ hoàn toàn khác với điều chúng ta thường nắm giữ và chúng ta không muốn bước theo; nhưng bên trong chúng ta có một tiếng nói nhỏ nhẹ, kiên trì nói với chúng ta rằng đó là con đường đúng rồi và chúng ta phải bước theo. Mặc dù chúng ta có thể có nhiều lý do để chống đối lại và mặc dù lập luận của chúng ta có thể thắng nhưng tiếng nói nhỏ nhẹ này của trực giác bên trong sẽ luôn luôn nói với chúng ta và luôn luôn bảo chúng ta rằng chúng ta sai rồi.
Các kinh nghiệm này bày tỏ cho chúng ta rằng trực giác– cơ quan mà Thánh Linh công tác tại đó – có thể phân biệt đúng sai. Không cần có bất cứ sự hỗ trợ nào từ sự quan sát và nghiên cứu của tâm trí. Bất cứ một tín đồ được dưỡng dục ra sao về mặt thiên nhiên, người ấy vẫn luôn có thể được dạy dỗ bởi sự xức dầu, miễn là người ấy chân thành, ao ước và trung tín bước theo Chúa. Trong các vấn đề thuộc linh, một bác sĩ trí thức nhất và một người nhà quê thất học nhất cũng đều ngu dại như nhau. Nhiều lần, người trí thức còn phạm nhiều sai lầm hơn là người thất học nữa. Ngày nay, các sự dạy dỗ giả dối rất phổ biến. Nhiều người sử dụng các lời xảo trá để cải trang các lời nói dối của họ thành lẽ thật. Do đó, có nhu cầu về sự biện biệt trong linh về điều gì đúng và điều gì sai. Các sự dạy dỗ tốt nhất, tâm trí lanh lợi nhất, và các cố vấn lão luyện nhất, tất cả đều không đáng tin cậy; chỉ những người bước đi theo sự dạy dỗ của Thánh Linh trong trực giác mới được cứu khỏi việc lừa dối bởi các sự nhầm lẫn về thần học và nhiều tà giáo, điều kỳ diệu và phép lạ. Chúng ta phải liên tục xin Chúa làm cho linh chúng ta trở nên năng động và thuần khiết hơn; chúng ta cũng phải bước theo tiếng nói nhỏ nhẹ nhất ra từ trực giác của mình. Chúng ta đừng nên thời ơ đối với lời cảnh báo của trực giác vì một số người khác có nhiều tri thức hơn. Nếu không, chúng ta sẽ bị sa vào cái bẫy tà giáo hoặc trở nên cuồng tín. Nếu không bình tĩnh bước theo sự dạy dỗ của sự xức dầu, là điều ra từ tiếng nói nhỏ nhẹ này, chúng ta sẽ bị xao lãng bởi tình cảm rối loạn và tâm trí ồn ào.
ĐỐI XỬ VỚI NGƯỜI KHÁC BẰNG TRỰC GIÁC
Sự xức dầu này cũng dạy chúng ta cách đối xử với người khác.
Chúng ta đừng nên chỉ trích một người, nhưng chúng ta phải nhận biết người ấy cách xác định để học cách kết hợp với người ấy hoặc giúp đỡ. Để làm được điều này thì người ta thường kiểm tra người khác bằng cách quan sát và nghiên cứu người ấy. Nhưng điều này thường dẫn chúng ta đi sai đường. Chúng ta không nói rằng điều này hoàn toàn vô ích, nhưng đó chỉ là thứ yếu. Một linh thuần khiết thường có sự biện biệt đúng đắn. Một số người trong chúng ta có thể nhớ lại rằng khi còn nhỏ, chúng ta thường có thể có những sự quả quyết chính xác về những người chúng ta nhìn thấy. Thời gian qua dần, tri thức, kinh nghiệm và khả năng quan sát của chúng ta đều gia tăng nhưng khả năng nhận biết người khác của chúng ta dường như không tốt hơn trước. Vào lúc đó, chúng ta không biết tại sao mình lại có những sự quả quyết như vậy; một điều gì đó dường như có trong lòng chúng ta nhưng chúng ta lại không thể thốt ra thành lời. Thời gian qua dần và mọi sự đều thay đổi. Bây giờ sự thật đã chứng minh rằng “cảm nhận” của chúng ta là đúng. Chúng ta không có các sự quả quyết đó bởi khai thác từ các cuộc điều tra và thẩm vấn; chúng ta thậm chí cũng không thể đưa ra bất cứ bằng chứng hoặc lý do nào cho các sự quả quyết của mình. Đây là công tác của một trực giác thuần khiết mặc dù điều đó vẫn còn là thiên nhiên. Tuy nhiên, Chúa muốn chúng ta đánh giá những điều của Đức Chúa Trời theo cùng một cách. Linh chúng ta phải được hoán cải và chúng ta phải trở nên con trẻ. Chỉ khi đó, chúng ta mới có tri thức sáng tỏ về Đức Chúa Trời.
Chúng ta hãy nhìn vào nếp sống của Chúa Jesus. “Và lập tức, trong linh Ngài, Jesus hoàn toàn biết rằng họ đang biện luận bên trong như vậy, nên đã nói với họ…” (Mark 2:8). Câu này bày tỏ cho chúng ta sự vận hành của trực giác. Lời kinh thánh không nói rằng Chúa Jesus có một tư tưởng hoặc một cảm nhận trong lòng Ngài, cũng không nói rằng Thánh Linh nói với Ngài như vậy. Quan năng của linh Ngài biểu minh khả năng hoàn hảo của nó. Cảm thức của linh trong con người Jesus Christ rất thuần khiết, sắc bén và được tôn cao; Ngài nhận biết trong linh Ngài các lập luận của những người xung quanh. Sau đó Ngài phát ngôn với họ theo điều Ngài đã lĩnh hội trong trực giác của Ngài. Đây phải là nếp sống thuộc linh bình thường của mọi người thuộc linh. Thánh Linh cư trú trong linh chúng ta; Ngài làm cho linh chúng ta có khả năng hoàn toàn vận hành và đầy quyền năng nhận biết. Theo cách này, Ngài điều chỉnh toàn bản thể chúng ta. Giống như nhân linh của Chúa Jesus công tác khi Ngài ở trên đất, linh chúng ta cũng phải công tác qua Thánh Linh là Đấng nội cư bên trong chúng ta.
SỰ KHẢI THỊ
Tri thức về các sự vật qua trực giác là điều mà Kinh Thánh gọi là sự khải thị. Sự khải thị không gì khác hơn là Thánh Linh khải thị thực tại của một vấn đề trong linh của một tín đồ và khiến người ấy nhận biết vấn đề đó. Chỉ có một loại tri thức này, về Kinh Thánh hay về Đức Chúa Trời, là đáng giá; đó là lẽ thật được Thánh Linh khải thị trong linh chúng ta. Đức Chúa Trời không giải thích Ngài là những gì, cho trí năng của con người một lần đủ cả và con người cũng không thể nhận biết Đức Chúa Trời một lần đủ cả qua trí năng của mình. Bất kể trí năng của con người khôn ngoan đến đâu và bất kể người ấy hiểu Đức Chúa Trời bao nhiêu, thì sự hiểu biết của người ấy luôn luôn bị che màn. Người ấy chỉ có thể suy luận bằng trí năng của mình đằng sau bức màn; ở phia sau bức màn, người ấy không thấy được sự thật. Người ấy chưa “thấy” nên chỉ có thể “hiểu” chứ không “biết”. Nếu nếp sống Cơ Đốc không phải là một sự khải thị - sự khải thị riêng tư – thì nó chẳng có chút giá trị nào cả. Mọi người tin Đức Chúa Trời phải nhận được sự khải thị của Ngài trong linh mình; nếu không thì người ấy chỉ tin vào sự khôn ngoan, ý kiến và lời loài người chứ không phải vào chính Đức Chúa Trời. Loại đức tin này sẽ không đứng vững trong các thời kỳ cám dỗ.
Khải thị không phải là khải tượng, không phải là tiếng nói từ trời, giấc mơ hay quyền năng bên ngoài làm rung lắc thân thể một người. Mọi điều này có thể xảy đến với một mà người ấy vẫn không nhận được bất kỳ sự khải thị nào. Sự khải thị là một điều gì đó ở trong trực giác; nó yên lặng, không chậm cũng không nhanh; nó có vẻ như là một tiếng nói nhưng không phải là tiếng nói. Nhiều người tự nhận là Cơ Đốc nhân nhưng điều họ tin chỉ là triết lý loài người, đạo đức, các chi tiết lẽ thật, hoặc một số chuyện siêu nhiên. Việc tin vào những điều này sẽ không đem đến một sự sinh ra mới; nó sẽ không ban cho con người một linh mới. Mặc dù loại “Cơ Đốc nhân” này ngày nay có rất nhiều, nhưng sự hữu dụng thuộc linh của họ hoàn toàn bằng không. Đức Chúa Trời ban ân điển cho mọi người chấp nhận Đấng Christ và khiến họ nhìn thấy trong linh thực tại của lĩnh vực thuộc linh như thể một bức màn được cất đi khỏi họ vậy. Sau đó, điều họ nhận biết sẽ sâu hơn điều họ hiểu biết trong tâm trí mình. Những điều họ hiểu biết và lĩnh hội trong quá khứ dường như có một ý nghĩa mới. Mọi sự đều trong suốt và được biết chắc vì họ đã “ thấy” điều đó trong linh. “Chúng ta phát ngôn điều chúng ta biết và làm chứng về điều chúng ta đã thấy” (John 3:11). Đây là nếp sống Cơ Đốc. Sự theo đuổi trong tâm trí sẽ chẳng bao giờ cứu được người khác; chỉ có sự khải thị trong linh mới ban cho con người tri thức đích thực về Đức Chúa Trời.
SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
Ngày nay, nhiều người nói về sự sống đời đời qua đức tin. Nhưng sự sống đời đời mà chúng ta nhận được là gì? Mặc dù điều đó cũng chỉ về các phước hạnh trong tương lai, nhưng sự sống đời đời nghĩa là gì ngày hôm nay? “Và đây là sự sống đời đời, để họ có thể biết Ngài, Đức Chúa Trời chân thật duy nhất, và Đấng mà Ngài sai đến là Jesus Christ” (John 17:3). Sự sống đời đời trong thời đại này là khả năng nhận biết Đức Chúa Trời và Chúa Jesus. Điều này rất thực tế. Nói rằng mọi người tin Chúa đều nhận được sự sống đời đời nghĩa là người ấy nhận được tri thức trong trực giác về Đức Chúa Trời, điều mà trước đây người ấy không có. “Sự sống đời đời qua đức tin” không phải là một khẩn hiệu. Đúng hơn, điều đó có thể được chứng thực trong thời đại này. Những người không có sự sống này – sự sống đời đời – có thể suy diễn nhiều điều về Đức Chúa Trời. Chỉ sau khi có được sự sống mới này và được tái sanh, một người mới có thể thật sự biết Đức Chúa Trời qua trực giác của mình. Người ấy có thể hiểu Kinh Thánh, nhưng linh người ấy vẫn chết. Người ấy có thể quen thuộc thần học nhưng vẫn chưa được tái sanh trong linh. Người ấy có thể nhiệt thành phục vụ “trong danh Chúa”; tuy nhiên, không có sự tái sanh của sự sống mới trong linh người ấy. Kinh Thánh bảo chúng ta rằng con người không thể tìm thấy Đức Chúa Trời bởi sự tra xem (Job 11:7). Mọi sự được thực hiện qua tâm trí không thể đem chúng ta đến với trí thức về Đức Chúa Trời. Ngoài linh ra thì con người không thể nhận biết Đức Chúa Trời; con người không thể nhận biết Đức Chúa Trời bằng trí năng của mình. Trong Kinh Thánh, chúng ta chỉ thấy một loại tri thức: trực giác trong linh.
SỰ HƯỚNG DẪN ĐÚNG ĐẮN
Các tín đồ không chỉ phải tiếp nhận tri thức trong trực giác qua linh mà họ còn phải tiếp tục như vậy mọi lúc. Trong nếp sống Cơ Đốc, ngoài sự khải thị mà một người nhận được trong trực giác của mình ra thì không điều gì khác có ý nghĩa thuộc linh vì những điều khác không ra từ linh. Vì không ra từ linh nên những điều đó không phải là ý muốn của Đức Chúa Trời; Đức Chúa Trời chỉ khải thị những điều liên quan đến ý muốn của Ngài cho chúng ta trong linh. Bất cứ điều gì chúng ta nghĩ, yêu thích và quyết định ngoài sự khải thị của linh, đều là chết chóc trong mắt Đức Chúa Trời. Một tín đồ có thể hành động theo các ý tưởng đột ngột, các ý kiến xuất hiện sau một sự cầu nguyện, cái gọi là sự nóng chảy trong lòng, các khuynh hướng thiên nhiên, các lý do vững chắc, hoặc các sự xét đoán hợp lý. Mọi điều này chỉ là các hoạt động của người cũ. Ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ không được tỏ ra qua các tư tưởng, cảm nhận hoặc sự yêu thích như vậy. Đức Chúa Trời chỉ khải thị ý muốn của Ngài trong nhân linh. Bất cứ điều gì không được khải thị qua linh đều là hoạt động của bản ngã.
Đức Chúa Trời không bao giờ khải thị ý muốn của Ngài cho tâm trí con người. Sự khải thị là từ Thánh Linh và trong nhân linh. Nhân linh nhận biết và nhận được ý muốn của Đức Chúa Trời qua trực giác. Qua đó, nó sẽ truyền ý muốn của Đức Chúa Trời đến tâm trí để có thể hiểu được. Tâm trí là nơi chúng ta có thể hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời nhưng nó không bao giờ là nguồn của ý muốn Đức Chúa Trời. Ý muốn của Đức Chúa Trời phát xuất từ Đức Chúa Trời và được Thánh Linh khải thị cho nhân linh. Rồi linh mới khiến người bên ngoài hiểu biết qua tâm trí điều mà người bên trong đã nhận biết rồi. Theo cách này, người bên ngoài sẽ biết cách thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu một tín đồ không tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời trong linh mình, nhưng vận dụng tâm trí mình mọi lúc thì người ấy sẽ luôn bị lạc hướng và không biết bước theo điều gì. Tâm trí chúng ta thường dao động. Những người bước đi theo tâm trí không một giây phút nào có thể nói từ lòng mình: “Tôi biết chắc đây là ý muốn của Đức Chúa Trời”. Chỉ những người nhận được sự khải thị trong linh mới có một sự tin chắc sâu xa; chỉ những người như vậy mới nhận biết và có sự tin chắc đầy đủ về điều họ đang làm.
Sự khải thị của Đức Chúa Trời trong linh chúng ta có thể thuộc hai loại: một là trực tiếp và hai là qua sự tìm kiếm. Sự khải thị trực tiếp xảy ra khi chính Đức Chúa Trời có ý muốn và Ngài truyền bảo các tín đồ thực hiện điều đó. Trong trường hợp này, Ngài bước vào trong linh các tín đồ và khải thị ý muốn của Ngài cho họ. Khi các tín đồ nhận được sự khải thị này trong trực giác của mình, họ sẽ theo đó mà thực hiện. Sự khải thị đến qua sự tìm kiếm diễn ra khi một tín đồ có một nhu cầu và không biết phải làm gì; người ấy đến trước mặt Đức Chúa Trời, chờ đợi và tìm kiếm ý muốn Ngài. Để đáp lại sự tìm kiếm của tín đồ, Đức Chúa Trời vận hành trong linh người ấy và khải thị cho biết người ấy nên tiếp tục hay dừng lại. Khi một tín đồ còn non trẻ trong sự sống thuộc linh thì sự khải thị người ấy nhận được hầu hết là thuộc loại tìm kiếm. Khi trưởng thành hơn, người ấy sẽ có các sự khải thị trực tiếp. Tuy nhiên, điều này không tuyệt đối; tôi chỉ có ý nói rằng ban đầu sự tìm kiếm thì điển hình hơn sự khải thị trực tiếp. Tuy nhiên, đây là nơi hầu hết các tín đồ trẻ gặp khó khăn. Họ cần dành thời gian chờ đợi trước mặt Chúa và loại bỏ tư tưởng, sự yêu thích và các ý kiến riêng của mình; tuy nhiên, họ thường từ bỏ việc chờ đợi sự khải thị của Đức Chúa Trời và thay thế bằng ý muốn riêng của họ. Kết quả là họ thường bị lương tâm mình kiên cáo. Ngay cả khi họ thật sự ao ước bước theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì họ cũng bước theo các ý tưởng trong tâm trí mình cách ngu dại vì thiếu tri thức thuộc linh. Bất cứ điều gì được thực hiện mà không có sự khải thị đều không thể tránh khỏi sự dẫn đến sai lầm.
Bây giờ chúng ta có thể thấy tri thức thuộc linh thật sự là gì. Chỉ có điều gì được lĩnh hội trong linh mới là tri thức thuộc linh. Bất cứ điều gì khác hơn điều này thì chỉ là tri thức suông trong tâm trí. Đức Chúa Trời nhận biết sự vật như thế nào? Ngài xét đoán bởi phương tiện gì? Ngài sử dụng tri thức gì để quản lý vũ trụ? Ngài có lập luận bằng tâm trí giống như con người không? Ngài có cần suy gẫm trước khi có thể hiểu không? Ngài có nhận biết bằng lập luận, lý lẽ hay so sánh không? Ngài có cần điều tra và xem xét trước khi đi đến kết luận không? Đấng toàn tri cũng cần phải dùng đến trí óc sao? Chắc chắn là không! Đức Chúa Trời không cần tìm kiếm theo cách này trước khi Ngài biết. Mọi tri thức và xét đoán của Đức Chúa Trời đều thuộc trực giác. Trực giác là quan năng của mọi người hoặc mọi hữu thể thuộc linh. Các thiên sứ bước theo ý muốn của Đức Chúa Trời bởi nhận biết điều đó trong trực giác. Họ không xác định điều đó bằng lý lẽ, lập luận hay suy nghĩ. Sự khác biệt giữa việc hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời bằng tâm trí với bằng trực giác thì không đo lường được. Sự thành công hoặc thất bại thuộc linh tùy thuộc vào sự biện biệt này. Nếu cách cư xử và công tác của các tín đồ dựa trên sự hợp lý, lập luận và sự hiểu biết theo lẽ thường, thì sẽ không ai dám làm các công tác thuộc linh vĩ đại mà đã được hoàn thành trong quá khứ và thậm chí là hiện tại. Mọi công tác thuộc linh đều vượt qua các lập luận loài người. Nếu không nhận biết ý muốn của Đức Chúa Trời trong trực giác thì ai mà dám liều mình?
Bất cứ ai bước đi với Đức Chúa Trời cách thân mật, có sự tương giao ẩn mật với Đức Chúa Trời và mối liên hiệp thuộc linh với Ngài, đều nhận được sự khải thị của Ngài trong trực giác và biết rõ mình phải chuyển động như thế nào. Hành động này không nhận được sự cảm thông từ loài người, vì những người khác không biết điều người ấy biết cách riêng tư. Theo sự khôn ngoan của thế giới, các sự chuyển động của người ấy hoàn toàn vô nghĩa. Chẳng phải có rất nhiều tín đồ thuộc linh bị chống đối vì điều này sao? Chẳng phải những người khôn ngoan đã xem họ là điên rồ sao? Không chỉ có người thế giới nói vậy mà ngay cả các anh em thuộc xác thịt của họ cũng chỉ trích họ y như vậy. Đây là vì sự sống của sáng tạo cũ, dù ở trong người thế giới hay trong các tín đồ, đều thiếu hiểu biết về công tác của Thánh Linh Đức Chúa Trời y như nhau. Các tín đồ càng trí thức thì càng dán nhãn cho những người hành động trái với lẽ thường là “nhiệt thành cách ngu dại”. Đối với họ, các hành động của những người này là nhiệt thành cách thuộc hồn. Nhưng thật ra, nhiều người bị gọi là nhiệt thành cách ngu dại lại rất thuộc linh. Họ cư xử “cách ngu dại” vì họ đã nhận được sự khải thị trong trực giác của mình.
Chúng ta phải cẩn thận để không pha trộn trực giác với tình cảm. Sự nhiệt thành của một tín đồ tình cảm có thể dường như thuộc linh nhưng điều đó không thật ra từ trực giác. Cũng vậy, sự xét đoán của một tín đồ lý trí có thể dường như thuộc linh nhưng nó cũng không phải là sự khải thị ra từ trực giác. Giống như tín đồ tình cảm là thuộc hồn thì tín đồ lý trí cũng thuộc hồn. Linh có sự nhiệt thành. Thật ra, sự nhiệt thành của linh vượt xa sự nhiệt thành của tình cảm. Mọi hành động của các tín đồ thuộc linh đều “được biện minh trong linh” (1 Tim. 3:16). Tâm trí hay tình cảm thuộc xác thịt sẽ không dung thứ cho những điều đó. Nếu chúng ta rời khởi vị trí của linh và bước đi theo các cảm xúc thuộc xác thịt hay các tư tưởng hợp lý của mình thì chúng chúng ta sẽ lập tức lúng túng, không biết phải làm gì và phải xoay về đâu. Khi điều này xảy ra, chúng ta sẽ không như Abraham, đi xuống Ai Cập để nhận sự giúp đỡ từ những điều thấy được và đụng chạm được. Linh và hồn công tác độc lập với nhau. Nếu linh không dấy lên và nắm toàn quyền kiểm soát thì hồn sẽ luôn luôn gây chiến với linh.
Khi linh của một tín đồ được Thánh Linh đổi mới, làm vững mạnh và giáo dục, thì hồn người ấy sẽ đánh mất vị trí của nó và thuận phục linh. Dần dần, hồn trở nên nô lệ cho linh và thân thể được chinh phục để trở nên đầy tớ của hồn hầu thực hiện ý muốn của linh. Khi đó, linh nhận biết sự khải thị của Đức Chúa Trời qua trực giác. Tiến trình này không có hồi kết. Một số người có nhiều điều phải bị ném qua một bên hơn so với những người khác. Họ đầy dẫy tri thức trong tâm trí và tình cảm. Nhiều người không thể có một linh mở ra để tiếp nhận lẽ thật của Đức Chúa Trời vì họ đã đầy dẫy định kiến rồi. trước khi trực giác có thể nhận được bất cứ điều gì từ Đức Chúa Trời thì mọi điều này phải được cất đi.
Bây giờ chúng ta phải sáng tỏ hơn trước về sự khác biệt giữa trực giác và tâm trí hay tình cảm. Một khi đã hiểu trực giác, chúng ta sẽ sáng tỏ hơn về linh, là điều thường huyền nhiệm hơn đối với chúng ta. Bây giờ chúng ta phải nhận thức sự khác biệt cơ bản giữa kinh nghiệm thuộc linh và kinh nghiệm thuộc hồn. Kinh nghiệm thuộc linh là thuộc linh vì điều đó bắt đầu từ Đức Chúa Trời và được nhận biết trong linh chúng ta. Trái lại, kinh nghiệm thuộc hồn bắt đầu từ chính con người và không bao giờ đi qua linh. Vì vậy, một người có thể có đầy tri thức Kinh Thánh và có sự lĩnh hội, chính xác về các giáo lý Cơ Đốc. Người ấy có thể nhiệt thành và áp dụng mọi tài năng của mình cho công tác. Người ấy có thể có tài hùng biệt tuyệt vời và đưa ra những bài giảng hấp dẫn về các chủ đề và đề tài trong Kinh Thánh; tuy nhiên, bản thể người ấy vẫn đang sống trong lĩnh vực của hồn. Có thể người ấy vẫn chưa bước ra khỏi hồn một bước; linh người ấy có thể vẫn còn chết. Dân chúng không được đem vào trong vương quốc Đức Chúa Trời qua sự khích lệ, nài khuyên, tranh luận, kích động, thu hút và thúc giục của chúng ta. Họ chỉ có thể bước vào qua sự tái sanh, chính là sự phục sinh linh. Sự sống mới sẽ đến với nhiều khả năng khác nhau và giữa vòng các khả năng đó thì quan trọng nhất là trực giác, để hiểu biết, nhận biết và thừa nhận Đức Chúa Trời.
Có phải điều này nghĩa là tâm trí (trí óc) loài người hoàn toàn vô dụng không? Tất nhiên là không rồi. Chắc chắn tâm trí có một công dụng nào đó. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng trí năng không bước ra trước; nó là điều thứ yếu. Chúng ta không nhận biết Đức Chúa Trời và những điều của Đức Chúa Trời bởi trí năng. Nếu là như vậy thì sự sống đời đời sẽ trở nên vô ích. Sự sống đời đời (tức là sự sống mới) không gì khác hơn là linh được đề cập đến trong John 3. Chúng ta nhận biết Đức Chúa Trời qua sự sống đời đời mà chúng ta mới nhận được và linh mà chúng ta mới có được. Công dụng của tâm trí ở nơi khả năng giải thích cho người bên ngoài của chúng ta điều chúng ta nhìn thấy trong linh và soạn thành lời cho người khác hiểu. Chúng ta có thể nhìn thấy điều này trong thí dụ về Paul. Trong các Thư Tín của mình, ông nhấn mạnh rằng phúc âm mà ông rao giang không phải là từ con người; phúc âm do tâm trí con người “bán sỉ” và cũng không được “bán lẻ” cho các tâm trí khác. Thay vì vậy, ông đã nhận phúc âm đó qua sự khải thị. Mặc dù ông có thể có năng lực trí tuệ tốt nhất nhưng giáo lý của ông không ra từ các tư tưởng của ông, cách đột ngột hay dần dần. Tâm trí của ông ở trong mối liên hiệp với linh và chỉ truyền đạt cho người khác sự khải thị mà ông nhận được trong linh. Tâm trí (hồn) không bao giờ là cơ quan để tiếp nhận tri thức thuộc linh; nó chỉ là cơ quan đề truyền đạt tri thức thuộc linh.
Ngoài linh ra thì không có chỗ nào khác để Đức Chúa Trời có thể thông công với chúng ta. Không có cách nào khác đề chúng ta nhận biết Đức Chúa Trời ngoại trừ ở trong trực giác. Qua linh, con người bước vào trong lĩnh vực đời đời, thần thượng và không thấy được. Chúng ta có thể nói rằng trực giác là “bộ não” của linh. Khi nói nhân linh đã chết, chúng ta đang nói rằng trực giác của người ấy đã mất hết cảm giác và không thể nhận biết Đức Chúa Trời và hiểu biết những điều của Đức Chúa Trời. Khi nói rằng linh phụ trách toàn bản thể, chúng ta có ý nói rằng mọi phần của hồn và mọi chi thể của thân thể phải hoàn toàn bước theo ý muốn của Đức Chúa Trời, là điều được tỏ cho chúng ta biết qua trực giác. Trước đây chúng ta đã nói rằng sự tái sanh là tuyệt đối cần thiết rồi, nhưng bây giờ chúng ta sẽ nhấn mạnh điều đó một lần nữa. Tâm trí, tình cảm và ý muốn con người không thể nhận biết Đức Chúa Trời và không thể thay thế cho trực giác. Nếu từ đầu con người không tiếp nhận sự sống của Đức Chúa Trời và nếu trực giác của người ấy không được phục sinh thì người ấy mãi mãi phân rẽ với Đức Chúa Trời. Sự tái sanh rất thực tiễn. Điều đó không phải chỉ là một thuật ngữ hay một sự thay đổi về mặt đạo đức mà chắc chắn là sự sống đời đời bước vào trong linh chúng ta, làm phục sinh linh và trực giác của chúng ta. Con người tuyệt đối không thể làm thiện và làm vui lòng Đức Chúa Trời bởi chính mình vì các hoạt động này đều ở trong lĩnh vực của hồn; chúng không được thực hiện qua trực giác, là điều đã trở nên sống động đối với Đức Chúa Trời. Một người khó mà được sinh lại bởi chính mình vì người ấy không có gì có thể sản sinh ra sự sống mới. Nếu Đức Chúa Trời là Cha thì người ấy không thể tự làm cha. Hơn nữa, bất kể chúng ta hiểu biết và tin cậy nơi các giáo lý bao nhiêu cũng đều vô dụng. Không gì có thể cứu con người ngoại trừ việc đặt mình vào trong tay Đức Chúa Trời và xin Ngài công tác. Linh của một người sẽ vẫn mãi chết chóc trừ khi người ấy thừa nhận mọi sự của mình đều vô dụng và người ấy đang đứng với Chúa Jesus trong chỗ chết và đang tiếp nhận sự sống của Ngài.
Phương cách của con người là không tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa; đó không phải là cách phục sinh trực giác (linh). Thay vì vậy, đó là cách thay thế trực giác bằng tâm trí. Con người suy xét, cân nhắc, và nêu ra các triết lý, luân lý và tôn giáo khác nhau. Nhưng Đức Chúa Trời nói: “ Vì cõi thiên thượng cao hơn trái đất bao nhiêu thì các đường lối của Ta cũng cao hơn các đường lối của ngươi và các tư tưởng của Ta cũng cao hơn các tư tưởng của ngươi bấy nhiêu” (Isa. 55:9). Bất kể có tư tưởng gì thì con người vẫn là thuộc đất và không thuộc cõi thiên thượng. Sau khi chúng ta được tái sanh, Đức Chúa Trời ao ước chúng ta nhận biết các công tác và ý muốn của Ngài qua trực giác của mình hầu cho chúng ta bước đi theo đó. Nhưng các tín đồ dễ quên đi những gì mình đã học được vào lúc tái sanh biết bao! Có nhiều tín đồ bước đi theo tâm trí và tình cảm của mình trong nếp sống hằng ngày biết bao! Khi phục vụ, chúng ta vẫn dùng trí năng, sự nhiệt thành và ý kiến của mình để chuyển động tâm trí, tình cảm và ý muốn của người khác. Đức Chúa Trời dạy muốn dạy chúng ta rằng cả hồn chúng ta lẫn hồn của những người khác đều không có bất cứ giá trị và tính hữu dụng thuộc linh nào. Đức Chúa Trời muốn hủy diệt sự sống thiên nhiên của chúng ta cùng với trí năng, khả năng và sức lực của nó. Vì vậy, Ngài cho phép chúng ta thất bại, thất vọng, trở nên lạnh lẽo và vô dụng trong công tác thuộc linh của mình. Loại bài học này không thể học được trong một hai ngày. Đức Chúa Trời sẽ hướng dẫn chúng ta trong suốt cuộc đời và làm cho chúng ta nhận thức rằng ngoài việc bước đi theo trực giác thì mọi sự đều vô ích.
Vấn đề chủ chốt nằm ở đây: khi trực giác đề xuất một điều gì đó hoàn toàn khác với điều hồn đề xuất thì chúng ta sẽ bước đi theo điều nào? Bây giờ là lúc quyết định ai sẽ phụ trách nếp sống của chúng ta và chúng ta sẽ đi đường nào. Bây giờ là lúc trận chiến mang tính quyết định ai sẽ là đầu, người bên ngoài hay người bên trong của chúng ta, người của cảm xúc hay người của linh. Khởi đầu nếp sống Cơ Đốc, linh chúng ta gây chiến với xác thịt. Ngày nay, có một trận chiến giữa linh và sự sống thiên nhiên. Trước đây, chúng ta gây chiến với nan đề là tội lỗi; bây giờ, vấn đề không phải là thiện hay ác mà là sự tốt lành thiên nhiên hay sự tốt lành của Đức Chúa Trời. Trước đây, chúng ta bận tâm về bản chất của những điều chúng ta làm, nhưng bây giờ, chúng ta bận tâm về nguồn của những điều tốt. Ngày nay, có một trận chiến giữa người bên ngoài và người bên trong, trận chiến giữa ý muốn của Đức Chúa Trời và ý định của con người. Việc học tập bước đi theo linh là công việc suốt đời cho “người mới”. Nếu một người có thể hoàn toàn bước đi theo linh, người ấy sẽ hoàn toàn đắc thắng xác thịt. Qua việc làm vững mạnh của Thánh Linh vào trong linh của người mới, người ấy sẽ hoàn toàn kết thúc tâm trí của xác thịt. Một tâm trí thuộc xác thịt sẽ chẳng dẫn đến điều gì khác hơn là sự chết trong những điều thuộc linh, trong khi tâm trí đặt trên linh là sự sống và hòa bình.
(Người thuộc linh)