buy prednisolone
prednisolone online
redirect buy prednisolone
amitriptyline 10mg
buy amitriptyline
pregnancy probability calculator calendar
menstruation calculator pregnancy
redirect CHƯƠNG BA
CÔNG TÁC THUỘC LINH
Khi một tín đồ tiến bộ dần trên lối mòn thuộc linh, người ấy sẽ từ từ thấy rõ hơn rằng sống cho chính mình là một tội lỗi, thậm chí là tội lỗi lớn nhất. Một tín đồ sống cho chính mình là loại hạt lúa mì không sẵn lòng rơi xuống đất và chết; vì vậy người ấy vẫn là một hạt. Một tín đồ có thể tìm kiếm sự đổ đầy của Thánh Linh và muốn trở nên một người thuộc linh có quyền năng. Tuy nhiên, mục đích của người ấy là gì? Đó là làm cho chính người ấy hạnh phúc và cảm thấy thoải mái hơn! Nếu người ấy được yêu cầu sống hoàn toàn vì Đức Chúa Trời và công tác của Đức Chúa Trời, không kể đến cảm nhận và hạnh phúc của riêng mình, người ấy sẽ thối lui và không tiến lên nữa. Điều này chỉ tỏ rằng người ấy hiểu lầm ý nghĩa của việc trở nên thuộc linh. Trong phần sâu thẳm nhất của lòng người ấy, sự ái kỷ và sự sống-hồn chưa được từ bỏ. Mỗi người con của Đức Chúa Trời đều là một đầy tớ của Đức Chúa Trời. Mỗi người đều nhận được ân tứ từ Chúa; không ai không có ân tứ (Matt. 25:15). Đức Chúa Trời đặt mỗi tín đồ trong hội thánh và ban cho mỗi người một phần lao tác mà người ấy phải hoàn thành. Ý định của Đức Chúa Trời, từ đầu cho đến cuối, không phải là linh của tín đồ phải trở nên một ao tù sự sống thuộc linh. Nếu là như vậy, nước sẽ bắt đầu cạn khô. Sự thoái lui của một tín đồ và sự giảm sút quyền năng thuộc linh có lẽ chính yếu là do nguyên nhân này. Một khi sự sống của Đức Chúa Trời bị khóa chặt trong linh, tín đồ bắt đầu cảm thấy khô hạn. Thật ra, sự sống thuộc linh là vì công tác thuộc linh. Công tác thuộc linh không gì khác hơn là sự biểu hiện của sự sống thuộc linh. Bí quyết để sống nếp sống thuộc linh là để cho sự sống tuôn chảy ra mà không có sự gián đoạn và không vươn đến nếp sống của người khác.
Thức ăn cho nếp sống thuộc linh của tín đồ là làm công tác của Đức Chúa Trời (John 4:34). Nếu một tín đồ thuộc linh (những người mới bắt đầu thì chưa đủ tiến bộ để được kể đến ở đây) đặc biệt chú ý đến tính thuộc linh của riêng mình, xem việc đọc Kinh Thánh và cầu nguyện như là sự giải trí, hay sự dưỡng linh suông, thì khi người ấy chỉ quan tâm đến chính mình, vương quốc Đức Chúa Trời sẽ chịu tổn thất lớn. Người ấy phải tin rằng Đức Chúa Trời có thể chống đỡ cho mình, không chỉ về mặt thuộc thể mà còn về mặt thuộc linh. Nếu người ấy sẵn lòng chịu đói, không tìm thức ăn khi mình đói, nhưng chỉ tìm cách thực hiện điều Đức Chúa Trời muốn nơi mình, thì người ấy chắc chắn sẽ được thỏa mãn. Vâng phục và thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời là ăn thức ăn thuộc linh. Trái lại, những người chỉ chú ý đến những điều nuôi dưỡng họ sẽ chẳng có được gì. Nhưng những người có lòng đơn nhất, chỉ chăm lo cho những điều của vương quốc Đức Chúa Trời sẽ hoàn toàn được thỏa mãn. Khi một tín đồ không quan tâm đến chính mình, nhưng chỉ đặt tâm trí trên công việc của Cha, người ấy sẽ thấy mình luôn luôn đầy dẫy và thỏa mãn.
Một tín đồ đừng bao giờ quá ao ước một điều gì đó mới mẻ. Điều người ấy thật sự cần là canh giữ điều mình đã có được để nó không bị đánh mất, vì điều gì không bị đánh mất tức là đã có được. Phương cách để canh giữ là sử dụng điều người ấy đã có được, vì chôn nó xuống đất chắc chắn là mất nó. Khi một tín đồ để cho sự sống trong linh mình tuôn chảy mọi nơi, người ấy không chỉ có được người khác mà còn có được chính mình. Tuy nhiên, sự có được này là do người ấy đã không muốn có được chính mình mà muốn đánh mất chính mình để có được người khác. Sự sống thuộc linh bên trong người thuộc linh phải tuôn chảy ra bởi phương tiện là công tác thuộc linh bên ngoài. Nếu linh của tín đồ có thói quen mở ra – nó phải đóng lại đối với kẻ thù – thì sự sống của Đức Chúa Trời sẽ tuôn chảy ra từ đó để cứu và xây dựng nhiều người. Một khi công tác thuộc linh ngừng lại, sự sống thuộc linh sẽ bị cản trở. Hai điều này không thể phân rẽ.
Bất kể một tín đồ làm nghề gì trong thế giới thì vẫn luôn có phạm vi làm việc. Một tín đồ thuộc linh nhận biết vị trí của mình trong Thân Thể Đấng Christ; vì vậy, người ấy cũng nhận biết phạm vi công tác của mình. Mọi chi thể đều có công dụng và việc thực hiện công dụng của mình là công tác của người ấy. Một số ân tứ là dành cho một số loại chi thể và một số ân tứ là dành cho cả thân thể. Tín đồ phải biết phạm vi ân tứ của chính mình và công tác trong phạm vi đó. Nhiều tín đồ thuộc linh đã thất bại trong vấn đề này. Hoặc họ rút khỏi công tác khiến cho nếp sống thuộc linh không có cơ hội phát triển hoặc họ công tác bên ngoài phạm vi của họ khiến cho nếp sống thuộc linh bị tổn hại. Việc không sử dụng tay chân cũng tổn hại như việc lạm dụng tay chân vậy. Giữ lại sự sống thuộc linh là cách duy nhất để đánh mất nó, nhưng việc công tác cách khinh suất cũng ngăn trở sự giải phóng sự sống thuộc linh.
QUYỀN NĂNG THUỘC LINH
Nếu chúng ta muốn nhận được quyền năng để làm chứng cho Đấng Christ và chiến đấu chống lại Satan, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc tìm kiếm các kinh nghiệm đầy dẫy Thánh Linh. Đúng là hiện tại, ngày càng có nhiều người tìm kiếm sự đầy dẫy Thánh Linh. Nhưng họ tìm cách đầy dẫy Thánh Linh và nhận được quyền năng thuộc linh vì mục đích gì? Bao nhiêu người tìm kiếm quyền năng để phô trương? Để khiến xác thịt mình lộng lẫy hơn? Bao nhiêu người hi vọng nhận được quyền năng có thể khiến người khác nể phục họ, để họ khỏi phải khổ công tìm kiếm và chiến đấu? Chúng ta phải thấy rõ động cơ của chúng ta là gì trong việc nhận được quyền năng thuộc linh. Nếu động cơ của chúng ta không hòa hợp với Đức Chúa Trời và không ra từ Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ không nhận được quyền năng thuộc linh. Thánh linh của Đức Chúa Trời sẽ không ngự trên “xác thịt” con người (Sáng 6:3). Ngài chỉ ngự xuống trên linh mà Đức Chúa Trời đã tạo nên mới. Nhưng như vậy không phải là chúng ta có thể để cho người bên ngoài (xác thịt) sống trong khi xin Đức Chúa Trời baptism người bên trong (linh) trong Thánh Linh. Nếu xác thịt chưa trải qua sự xử lý, thì Linh của Đức Chúa Trời sẽ không ngự xuống trên nhân linh, vì việc ban quyền năng cho người thuộc xác thịt sẽ không có kết quả nào khác hơn là làm cho người ấy khoe khoang và thậm chí trở nên thuộc xác thịt hơn.
Chúng ta thường nói rằng thập tự giá đến trước Lễ Ngũ Tuần; Thánh linh sẽ không ban quyền năng cho người nam và người nữ nào chưa trải qua thập tự giá. Golgotha là con đường duy nhất để đến với phòng cao của Jerusalem. Chỉ những người đi theo khuôn mẫu này mới có khả năng tiếp nhận quyền năng của Thánh Linh. Lời Đức Chúa Trời nói: “Đây sẽ là dầu xức thánh…sẽ chẳng hề đổ ra trên xác thịt con người” (Xuất 30:31-32). Bất kể đó là xác thịt ô uế nhất hay xác thịt có văn hóa nhất, Thánh Linh của Đức Chúa Trời cũng không thể ngự xuống trên đó. Nếu không có dấu đinh từ thập tự giá thì không thể có dầu xức của Thánh Linh. Sự chết của Chúa Jesus là phán quyết của Đức Chúa Trời trên mọi người trong Adam: “Mọi người đều phải chết”. Đức Chúa Trời chờ cho đến khi Chúa Jesus chết; chỉ khi đó Ngài mới sai Thánh Linh xuống. Cũng vậy, nếu một tín đồ không kinh nghiệm sự chết của Chúa Jesus và chết đối với mọi điều thuộc về sáng tạo cũ thì người ấy không thể hi vọng nhìn thấy quyền năng của Thánh Linh. Trong lịch sử, Lễ Ngũ Tuần đến sau Golgotha; trong kinh nghiệm thuộc linh, sự đổ đầy quyền năng của Thánh Linh cũng đến sau việc vác thập tự giá.
Xác thịt mãi mãi bị kết án trước mặt Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời muốn nó chết. Một tín đồ có thể không muốn xác thịt chết, nhưng lại muốn nhận được Thánh Linh để tô điểm cho nó và cung cấp thêm quyền năng cho công tác của Đức Chúa Trời (tất nhiên, điều này tuyệt đối không thể). Động cơ của chúng ta trong tất cả những điều này là gì? Động cơ của chúng ta phải chăng là sự hấp dẫn, danh tiếng riêng, được mọi người chào đón, được các tín đồ thuộc linh ngưỡng mộ, sự thành công, được con người chấp nhận, xây dựng bản ngã của mình? Những người có động cơ không tinh sạch – động cơ kép – không thể nhận được baptism trong Thánh Linh. Chúng ta có thể nghĩ rằng động cơ của chúng ta rất tinh sạch, nhưng thầy Tế Lễ Thượng Phẩm vĩ đại của chúng ta sẽ qua môi trường mà cho chúng ta biết động cơ của chúng ta có thật sự tinh sạch hay không. Nếu không đi đến chỗ công tác hiện tại của chúng ta hoàn toàn thất bại, người khác khinh thường và từ chối chúng ta, khiến chúng ta mang tiếng ác, thì thật khó biết được động cơ của chúng ta có hoàn toàn vì Đức Chúa Trời hay không. Mọi người thật sự được Chúa sử dụng đều đi lối mòn này. Mỗi khi thập tự giá hoàn thành công tác của nó, vào lúc đó chúng ta nhận được quyền năng của Thánh Linh.
Chẳng phải không có nhiều tín đồ không có kinh nghiệm sâu nhiệm về thập tự giá mà lại có quyền năng để làm chứng cho Chúa và được Chúa đại dụng sao? Kinh Thánh bảo chúng ta rằng ngoài dầu xức thánh, còn có một loại dầu xức “giống như” vậy (Xuất 30:33). Nó cũng được tổng hợp theo cách tương tự, nhưng nó không phải là dầu xức thánh. Chúng ta không nên ao ước sự thành công và sự vĩ đại; chúng ta chỉ nên quan sát xem sáng tạo cũ của mình – mọi sự chúng ta có bởi sự sinh ra – đã trải qua thập tự giá hay chưa. Nếu xác thịt không trải qua thập tự giá, quyền năng mà chúng ta có chắc chắn không phải là quyền năng của Thánh Linh. Mọi tín đồ có cái nhìn thấu đáo thuộc linh, là những người đã bước vào trong bức màn, đều biết rằng các sự thành công như vậy không hề có giá trị thuộc linh.
Khi một tín đồ kết án xác thịt mình và bước đi theo linh, người ấy có thể thật sự nhận được quyền năng của Thánh Linh. Nếu không, người ấy đang muốn xác thịt mình nhận được quyền năng thuộc linh. Nếu xác thịt không trải qua sự chết, linh không thể nhận được quyền năng, vì khi quyền năng của xác thịt vẫn còn, xác thịt vẫn trị vì và linh bị đàn áp. Quyền năng của Thánh Linh chỉ ngự xuống trên một linh đầy dẫy Thánh Linh, vì chỉ khi đó quyền năng của Thánh Linh mới có thể tuôn chảy. Khi linh đầy dẫy, quyền năng bước vào sẽ tràn chảy ra. Vì vậy, về một mặt, tín đồ phải chết đối với sáng tạo cũ, và mặt khác người ấy phải học cách đồng đi với Thánh Linh trong cách sống của mình. Khi đó, người ấy có thể nhận được quyền năng.
Mọi tín đồ phải tìm kiếm quyền năng của Thánh Linh. Chỉ hiểu biết trong tâm trí thôi thì không đủ. Thánh linh phải bao quanh linh người ấy. Công tác có hiệu quả hay không phụ thuộc vào việc tín đồ có kinh nghiệm việc được baptism trong Thánh Linh hay không. Thánh Linh cần một đầu ra. Tiếc là Ngài không thể tìm thấy đầu ra trong nhiều tín đồ. Một số bị cản trở bởi tội lỗi, một số thì kiêu ngạo, một số thì lạnh lẽo, một số thì đầy dẫy ý kiến riêng, và một số thì tin cậy sự sống của hồn. Chẳng có một khe hở nào cho quyền năng của Thánh Linh thoát ra! Ngoài Thánh Linh chúng ta còn có quá nhiều nguồn khác!
Trong vấn đề tìm kiếm quyền năng của Thánh linh, chúng ta phải giữ cho tâm trí mình sáng tỏ và ý muốn của mình năng động. Điều này canh giữ chống lại sự giả mạo của kẻ thù. Hơn nữa, chúng ta phải để cho Đức Chúa Trời cất khỏi cách sống của chúng ta, từng điều một, mọi sự thuộc về tội lỗi và mọi sự bất nghĩa và nghi ngờ. Chúng ta phải dâng toàn bản thể cho Chúa. “Hãy tiếp nhận lời hứa của Linh qua đức tin” (Gal 3:14). Hãy yên nghỉ trong Đức Chúa Trời và tin rằng Đức Chúa Trời sẽ làm theo lời Ngài vào đúng thời điểm của Ngài. Đừng quên vấn đề này. Nếu Đức Chúa Trời trì hoãn, chúng ta phải để cho ánh sáng của Ngài kiểm tra cách sống của chúng ta hơn nữa. Nếu Đức Chúa Trời để cho chúng ta có cảm xúc khi nhận được quyền năng, chúng ta có thể vui mừng. Nếu Ngài không cho, chúng ta vẫn phải tin rằng Ngài đã thực hiện điều đó.
Chỉ bởi nhìn vào kinh nghiệm của một tín đồ, chúng ta có thể nói được là người ấy đã nhận được quyền năng hay chưa. Bất cứ ai nhận được quyền năng đều phát triển một ý thức rất nhạy bén về các cảm thức của linh mình. Người ấy sẽ nhận được tài hùng biện (nhưng không cách thế tục) để làm chứng cho Chúa. Công tác của người ấy sẽ hiệu quả và kết quả còn lại. Quyền năng là điều kiện cơ bản cho công tác thuộc linh.
Sau khi một tín đồ nhận được quyền năng của Thánh Linh, người ấy sẽ có cảm nhận sáng tỏ về các cảm thức của linh mình. Trong công tác của Đức Chúa Trời, một tín đồ phải giữ cho linh mình tự do để cho Thánh Linh tuôn chảy ra sự sống Ngài sau khi nhận được quyền năng. Giữ linh mình tự do là giữ cho linh mình luôn luôn ở trong tình trạng Thánh Linh có thể công tác.
Thí dụ, Đức Chúa Trời có thể truyền lệnh cho một tín đồ dẫn dắt một buổi nhóm. Linh của tín đồ này cần được tự do. Người ấy không nên bước vào buổi nhóm với một linh vẫn còn nhiều gánh nặng hoặc lo âu. Điều này sẽ khiến toàn bộ buổi nhóm có gánh nặng và trở nên “chai cứng” và không thể phá vỡ được. Một người dẫn dắt buổi nhóm không được đến buổi nhóm với gánh nặng riêng, hi vọng rằng cả hội đoàn sẽ tác nhiệm hoặc hỗ trợ người ấy tự do khỏi gánh nặng của mình. Việc lệ thuộc vào sự đáp ứng của hội đoàn giải phóng người dẫn dắt buổi nhóm khỏi gánh nặng riêng của mình sẽ dẫn đến sự thất bại.
Linh của chính tín đồ phải sôi trào và không có vướng mắc khi đến chỗ nhóm. Nhiều người đầy dẫy gánh nặng khi đến buổi nhóm. Người dẫn dắt buổi nhóm phải tự giải phóng mình trước bởi phương tiện là sự cầu nguyện, thánh ca hoặc lẽ thật, trước khi giảng sứ điệp của Đức Chúa Trời. Nếu người dẫn dắt buổi nhóm có gánh nặng mà không thể được giải phóng khỏi gánh nặng của mình thì làm sao người ấy có thể hi vọng người khác được giải phóng?
Chúng ta phải biết rằng các buổi nhóm thuộc linh là một sự tương giao giữa linh và linh. Người nói giải phóng sứ điệp từ linh mình, và người nghe tiếp nhận lời Đức Chúa Trời bằng linh mình. Dù một tín đồ là người dẫn dắt hay người nghe, khi linh người ấy có gánh nặng và không được tự do, thì người ấy không thể mở ra đối với Đức Chúa Trời và đáp ứng với lời Đức Chúa Trời; vì vậy, linh của chính mỗi tín đồ phải được tự do. Hơn nữa, người dẫn dắt phải nổ lực giải phóng linh của hội chúng trước khi giảng sứ điệp của Đức Chúa Trời.
Chúng ta phải có được quyền năng của Thánh Linh trước khi có thể thực hiện một công tác quyền năng. Chúng ta phải giữ cho linh mình tự do để quyền năng tuôn chảy ra từ linh. Sự biểu hiện của quyền năng trên một tín đồ ở nhiều mức độ khác nhau. Người ấy kinh nghiệm Golgotha bao nhiêu thì người ấy sẽ kinh nghiệm Lễ Ngũ Tuần bấy nhiêu. Nếu linh của tín đồ thật sự sôi trào, Thánh Linh sẽ có thể công tác.
Tuy nhiên, trong công tác, đặc biệt là đối với mỗi cá nhân, đôi khi có kinh nghiệm về việc linh bị đóng lại. Điều này có thể là do một người khác. Có thể người mà anh em gặp có một tình trạng đặc biệt khiến linh anh em cảm thấy bị đóng kín. Có thể người ấy không có một linh và tâm trí mở ra hoặc người ấy không có khả năng tiếp nhận lẽ thật; người ấy có thể có ý tưởng không đúng đắn trong tâm trí là điều chặn đứng sự tuôn chảy của linh. Nếu người khác có loại tình trạng này, điều này sẽ khiến linh của công nhân cảm thấy bị đóng kín. Trong nhiều trường hợp, chúng ta chỉ cần nhìn vào thái độ của người đến với chúng ta là có thể biết được chúng ta có thể thực hiện công tác thuộc linh đối với người ấy hay không. Nếu chúng ta cảm thấy linh mình bị đóng kín vì cớ người ấy thì chúng ta không thể truyền đạt lẽ thật cho người ấy.
Nếu linh chúng ta cảm thấy bị đóng lại và chúng ta tự gượng ép công tác thì công tác có thể không phải ra từ linh nhưng chỉ là sản phẩm của tâm trí. Chỉ có công tác được thực hiện từ linh mới có bông trái còn lại và hiệu quả. Điều gì được sản sinh từ tâm trí sẽ luôn luôn thiếu quyền năng thuộc linh. Nếu chúng ta không cất bỏ sự ngăn trở của một người bởi sự cầu nguyện và sự lao tác chuẩn bị hầu cho linh chúng ta được tự do để truyền đạt lời Đức Chúa Trời, thì công tác của chúng ta sẽ đánh mất tính hiệu quả. Các tín đồ phải học tập bước đi theo linh hầu cho họ có thể công tác trong linh.
SỰ KHỞI XƯỚNG CÔNG TÁC THUỘC LINH
Việc khởi đầu bất cứ điều gì cũng không phải là chuyện nhỏ. Một tín đồ không nên hấp tấp làm một điều gì đó chỉ vì điều đó tốt lành, cần thiết và ích lợi cho người khác. Nhưng điều này không đủ để làm lý lẽ chứng minh rằng công tác đó là theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Có thể Đức Chúa Trời muốn dấy người khác lên để làm công tác, hoặc Ngài có thể cho phép công tác tạm thời dừng lại. Mặc dù theo quan niệm loài người thì thật khó để buông bỏ điều đó nhưng Đức Chúa Trời biết cách chăm lo cho điều đó. Vì vậy, sự tốt lành, sự cần thiết hoặc ích lợi đều không đủ để làm nguyên tắc chỉ đạo cho công tác của chúng ta.
Sách Công Vụ có khuôn mẫu tốt nhất cho công tác của chúng ta. Trong công vụ, chúng ta không nhìn thấy một ai đó “dâng mình làm giảng sư”, “quyết định làm công tác của Chúa”, “trở nên một nhà truyền giáo” hoặc “trở nên một mục sư”…v…v.. Đúng hơn, chúng ta thấy chính Thánh Linh xức dầu và sai người đi công tác. Đức Chúa Trời không tuyển dụng những người tự dâng mình vì công tác; Đức Chúa Trời chỉ sai những người mà Ngài muốn. Chúng ta không thấy bất cứ ai tự mình chọn làm công tác; chỉ có Đức Chúa Trời tuyển chọn những người lao tác vì công tác của Ngài. Không có chỗ cho ý tưởng của xác thịt con người. Nếu Đức Chúa Trời muốn làm một điều gì đó thì thậm chí một Saul cũng không thể kháng cự. Nếu Đức Chúa Trời không muốn làm thì thậm chí một Simon cũng không thể mua bằng tiền. Là Chúa của mọi người, Đức Chúa Trời kiểm soát công tác của chính Ngài, không cho phép một phần nhỏ nào của con người pha trộn vào đó. Con người không đến với công tác; đúng hơn, Đức Chúa Trời “sai phái” những người lao tác. Vì vậy, công tác thuộc linh phải bắt đầu bằng một sự kêu gọi riêng tư từ chính Chúa. Một người không nên đi ra công tác vì sự khẩn nài của các giảng sư, sự thúc giục của người thân và bạn bè hoặc sự ham thích của chính bản chất người ấy đối với Lời thánh. Chỉ những người không mang đôi giày xác thịt mới có thể đứng trên lập trường thánh của công tác Đức Chúa Trời. Một sự thất bại, lãng phí và rối loạn như vậy xảy ra vì tự con người đến với công tác chứ không phải được sai đi công tác.
Ngay cả khi đã được chọn, một người cũng không thể bắt đầu hành động cách tự do. Từ quan điểm của xác thịt, không một công tác nào khác trong thế giới nghiêm khắc hơn công tác thuộc linh. Chúng ta đọc trong Công Vụ các cụm từ như: “Thánh Linh nói”, “Chúa nói với ông”; “Thánh Linh nói với ông”, “Thánh Linh sai đi”, “Thánh Linh cấm”. Ngoài việc vâng phục, công nhân không có quyền để đưa ra bất cứ ý kiến nào. Vào lúc đó, công tác của các sứ đồ không là gì khác hơn là nhận biết tâm trí của Thánh Linh trong trực giác của họ và bước theo. Điều này đơn giản biết bao!. Nếu công tác thuộc linh cần một tín đồ sử dụng đôi chút nỗ lực riêng để khuyên răn, tính toán, xoay xở và lo lắng thì chỉ những người tài năng, thông minh và có học thức cách thiên nhiên mới có thể công tác. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã hoàn toàn đặt mọi sự thuộc xác thịt qua một bên. Đối với Đức Chúa Trời, hễ linh của một tín đồ thánh khiết và tinh sạch, sống động và đầy quyền năng, thì người ấy có thể bước theo sự hướng dẫn của Chúa và thực hiện một công tác thật hiệu quả. Đức Chúa Trời không bao giờ ban cho các tín đồ quyền bính để kiểm soát công tác; Ngài chỉ muốn họ lắng nghe điều Ngài nói trong linh họ.
Samaria có một “cuộc phục hưng lớn” nhưng Philip không chịu trách nhiệm về công tác nuôi dưỡng tiếp tục. Ông phải lập tức rời khỏi đó và đi đến đồng vắng để cứu hoạn quan Ngoại Bang. Ananias chưa từng nghe về sự hoán cải của Saul, và theo lập luận của ông thù đi cầu thay cho Saul là đồng nghĩa với chết. Tuy nhiên ông không quyết định cho chính mình. Luật lệ Do Thái cấm người Do Thái đến nhà của một người Ngoại Bang để giao thiệp với họ, nhưng khi Thánh Linh phát ngôn, Peter không thể kháng cự. Paul và Barnabas được Thánh Linh sai đi , nhưng Thánh Linh vẫn có quyền cấm họ đến Asia, rồi sau này lại dẫn dắt Paul đến Asia để thiết lập hội thánh tại Epheso. Mọi công tác đều ở trong tay của Thánh Linh; một tín đồ chỉ phải vâng phục. Nếu công tác là theo ý tưởng, những điều thích và không thích của loài người thì vào những ngày đầu, họ sẽ không đến nhiều nơi mà lẽ ra họ phải đến, và họ sẽ đến nhiều nơi mà lẽ ra họ không nên đến. Các kinh nghiệm này bày tỏ cho chúng ta rằng chúng ta không nên bước theo ý tưởng, lập luận, sở thích và quyết định riêng; đúng hơn, chúng ta phải bước theo sự dẫn dắt của Thánh Linh trong linh mình. Nhưng kinh nghiệm này cũng bày tỏ cho chúng ta rằng Thánh Linh không dẫn dắt qua ý tưởng, sở thích và quyết định của chúng ta; trái lại, các ý tưởng, sở thích và quyết định của chúng ta hoàn toàn trái ngược với sự dẫn dắt của Thánh Linh trong chúng ta. Nếu các sứ đồ không công tác theo tâm trí, tình cảm và ý muốn của họ, thì làm sao chúng ta có thể?
Mọi công tác Đức Chúa trời kêu gọi chúng ta làm đều được khải thị trong trực giác của linh (xem phần Năm, Chương Một). Khi một tín đồ hành động theo các ý tưởng cả tâm trí, các hoạt động của tình cảm và các tham vọng của ý muốn thì người ấy ở ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời. Chỉ có điều nào được sinh bởi Linh mới là linh; mọi điều khác đều không phải. Mọi sự trong công tác của một tín đồ phải ra từ việc tiếp nhận sự khải thị trong linh sau khi tin cậy và chờ đợi Đức Chúa Trời; nếu không, xác thịt sẽ bước vào. Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ ban cho chúng ta quyền năng thuộc linh để làm mọi sự Ngài kêu gọi chúng ta làm. Vì vậy, có một nguyên tắc quan trọng là đừng bao giờ công tác vượt quá sức lực trong linh chúng ta. Nếu công tác vượt quá linh mình thì chúng ta sẽ lấy sức lực riêng của mình để trợ giúp. Đây là khởi đầu của sự khốn khổ. Công tác quá sức sẽ ngăn trở chúng ta bước đi theo linh và ngăn trở chúng ta thực hiện công tác thuộc linh thật.
Hầu hết mọi người ngày nay đều sử dụng lý lẽ, ý tưởng, lập luận, tình cảm, cảm xúc, sở thích, ước muốn, ao ước…v…v làm tiêu chuẩn cho công tác. Nhưng mọi điều này đều ra từ hồn và không có giá trị thuộc linh. Chúng ta phải biết rằng những điều này là các đầy tớ tốt, nhưng chúng không phải là những ông chủ tốt; nếu chúng ta bước theo chúng, chúng ta sẽ thất bại. Công tác thuộc linh phải ra từ linh. Đức Chúa Trời sẽ không khải thị ý muốn của Ngài ở bất cứ nơi nào khác hơn linh
Hơn nữa, khi dân chúng cần sự giúp đỡ thuộc linh, công nhân đừng bao giờ để cho các cảm xúc thuộc hồn đắc thắng mối liên hệ thuộc linh. Ngoài niềm ao ước hoàn toàn thuần khiết là giúp đỡ họ về mặt thuộc linh, thì các cảm xúc thuộc hồn khác đều gây tổn hại. Đây thường là một hiểm họa và là một cái bẫy cho công nhân. Tình yêu, sự cảm mến, mối quan hệ, sự lo lắng, sự thích thú, sự nhiệt thành…v…v..đều phải hoàn toàn được hướng dẫn bởi Thánh Linh. Vì không vâng theo luật này mà một số công nhân cho Đấng Christ có các sự thất bại về mặt đạo đức và mặt thuộc linh. Về một mặt, chúng ta có thể để cho sự cuốn hút thiên nhiên và niềm ao ước loài người kiểm soát công tác của mình; mặt khác, chúng ta có thể để cho sự căm ghét thiên nhiên và sự thiếu cảm mến loài người kiểm soát công tác chúng ta. Trong cả hai trường hợp, kết quả đều là một sự thất bại và nếp sống của công nhân sẽ sụp đổ. Nhiều lần, thậm chí đối với những người thân yêu nhất của chúng ta dựa trên xác thịt cũng phải được đặt ở vị trí thứ yếu, thậm chí đôi khi phải hoàn toàn không để ý đến, trước khi chúng ta có thể thu đoạt được kết quả thuộc linh. Các ý định và ước muốn của chúng ta phải hoàn toàn được dâng cho Chúa.
Chúng ta chỉ phải công tác khi nhận biết trong trực giác rằng công tác là theo sự dẫn dắt của Thánh Linh. Xác thịt không có khả năng tham gia công tác của Đức Chúa Trời. Mức độ hữu dụng thuộc linh của chúng ta phụ thuộc vào việc chúng ta để cho thập tự giá cắt xác thịt chúng ta sâu đến đâu. Các sự hoàn thành trên bề mặt chẳng có nghĩa lý gì; chỉ có công tác được thực hiện bởi Đức Chúa Trời, qua những người chịu đóng đinh, mới có ý nghĩa. Thậm chí công tác được thực hiện trong danh Chúa Jesus với sự nhiệt thành và lao tác, vì chính nghĩa hay vì sứ mệnh của vương quốc thiên thượng, cũng không đủ để che đậy xác thịt. Đức Chúa Trời chỉ muốn chính Ngài thực hiện công tác; Ngài không muốn xác thịt xen vào quấy rầy Ngài. Chúng ta phải nhận thức rằng thậm chí trong vấn đề phục vụ Đức Chúa Trời, cũng có khả năng dâng “lửa lạ” và “không thuộc linh”. Điều này sẽ khuấy động cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời. Mọi ngọn lửa không được nhen lên trong linh bởi Thánh Linh đều là lửa lạ và là tội lỗi trong mắt Đức Chúa Trời. Không phải công tác nào được thực hiện vì Đức Chúa Trời cũng là công tác của Đức Chúa Trời. Chỉ làm một điều gì đó vì Ngài thôi thì không đủ. Vấn đề thật sự là ai làm điều đó? Nếu chính Đức Chúa Trời không công tác từ linh của tín đồ và chỉ có hoạt động của một tín đồ sử dụng sức lực riêng của mình thì công tác không thể được kể đến trước mặt Đức Chúa Trời. Mọi điều ra từ xác thịt đều hư nát cùng với xác thịt. Chỉ những điều ra từ Đức Chúa Trời còn lại mãi mãi. Chỉ thực hiện công tác mà Đức Chúa Trời truyền lệnh thì mới không vô ích
W.N (Người Thuộc Linh)
MỤC ĐÍCH CỦA CÔNG TÁC THUỘC LINH
Mục đích của công tác thuộc linh không gì khác hơn là để nhân linh nhận được sự sống và xây dựng linh mà đã có sự sống. Nếu mục tiêu của công tác chúng ta không chú ý đến linh trong phần sâu thẳm nhất của con người, thì công tác của chúng ta sẽ chẳng có giá trị gì và kết quả thuộc linh nào cả. Các tội nhân không cần một loại ý tưởng tốt đẹp nào đó; đúng hơn, họ cần sự sống. Các tín đồ không cần thêm tri thức Kinh Thánh; đúng hơn, họ cần một điều gì đó có thể nuôi dưỡng sự sống thuộc linh của họ. Nếu mọi sự chúng ta có đều chỉ là các đoạn Kinh Thánh tuyệt vời, các minh họa khôn khéo, các ý nghĩa sâu nhiệm, các lời khôn ngoan hoặc các lập luận sáng tỏ thì chúng ta chỉ có thể có cho tâm trí con người thêm ý tưởng, cho tình cảm thêm kích thích, và cho ý muốn thêm quyết định. Sau một nỗ lực như vậy, chúng ta vẫn để cho người mà chúng ta công tác ra về giống như khi người ấy đến – với một linh chết. Một tội nhân không cần lập luận tốt hơn, nước mắt nhiều hơn hoặc quyết tâm vững chắc hơn; người ấy cần sự phục sinh linh. Một tín đồ không cần xây dựng người bên ngoài; người ấy cần sự sống dư dật hơn, là điều có thể khiến linh người ấy tăng trưởng. Nếu chúng ta chỉ chú ý đến người bên ngoài và quên mất người bên trong là nhân linh thì mọi công tác của chúng ta, dù cho có trọn vẹn và tuyệt đối, thì cuối cùng cũng trống rỗng. Công tác mà như chưa công tác và thậm chí còn tệ hơn vì làm lãng phí thời gian!
Một người có thể được chạm đến về mặt tình cảm, rơi lệ, xưng nhận tội lỗi mình, hiểu biết các giáo lý, thừa nhận tính hợp lý của sự cứu chuộc, quan tâm đến tôn giáo, quyết tâm, ăn năn, ký tên, đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, “được phục hưng”, vui mừng và làm chứng. Tuy nhiên, linh người ấy có thể vẫn chưa nhận được sự sống của Đức Chúa Trời và có thể vẫn chết chóc y như trước. Hồn con người có thể làm mọi điều bất kể linh chết hay sống. Chúng ta không xem thường những điều đó nhưng chúng ta biết rằng nếu linh không được làm cho sống động thì những điều này chỉ là chồi non không rễ và sẽ cháy khô khi mặt trời mọc lên. Trong sự tái sanh linh, có thể có các sự biểu hiện bên ngoài trong hồn; tuy nhiên trong phần sâu thẳm nhất của cả bản thể, người ấy đã nhận được một sự sống mới, khiến người ấy có thể nhận biết Đức Chúa Trời và Jesus Đấng Christ và Ngài sai đến. Nếu linh chưa được phục sinh để người ấy có thể nhận biết Đức Chúa Trời trong trực giác thì không một công tác nào có kết quả thuộc linh.
Chúng ta phải nhận thức rằng rất có thể có “đức tin giả dối” và “sự ăn năn giả dối”. Nhiều người lầm lẫn giữa việc “hiểu rõ” với việc “tin”. Hiểu rõ là hiểu biết trong tâm trí rằng giáo lý này là hợp lý và có thể tin được. Còn tin theo ý nghĩa trong Kinh Thánh là được kết hiệp. Tin rằng Chúa Jesus đã chết vì chúng ta tự kết hiệp mình trong sự chết của Chúa Jesus. Một người có thể hiểu biết giáo lý, nhưng người ấy có thể không tin Chúa Jesus. Chúng ta phải chú ý đến sự kiện là một người không được cứu bởi các việc làm của mình mà được cứu bởi tiếp nhận sự sống đời đời qua việc tin vào Con Đức Chúa Trời. Con người phải tin Con Đức Chúa Trời. Nhiều người “tin giáo lý về sự cứu chuộc” nhưng không tin Cứu Chúa cứu chuộc. Nhiều người chứa huyết của Chiên Con trong bình nhưng không áp dụng huyết này trên cánh cửa lòng họ. Sự tái sanh cũng có thể là giả! Cách sống của các Cơ Đốc nhân trên danh nghĩa dường như giống với cách sống của những người được tái sanh đích thực. Họ rất tinh sạch, ngoan đạo, và sẵn lòng giúp đỡ người khác; họ biết cách cầu nguyện, thường đọc Kinh Thánh, thường đến các buổi nhóm, và rất yêu thương! Họ dùng nhiều nỗ lực để dẫn dắt người khác tin Đấng Christ. Mặc dù họ có mọi điều này và thậm chí nói rằng Chúa Jesus là Cứu Chúa của họ nhưng họ có một sự thiếu hụt cơ bản. Họ không nhận biết Đức Chúa Trời trong trực giác của mình. Họ có thể nghe và nói về Đức Chúa Trời nhưng họ không nhận biết Đức Chúa Trời cũng không có tri thức riêng tư về Đức Chúa Trời. “Chiên ta biết Ta… chúng nghe tiếng Ta” (John 10:14, 16). Những người không nhận biết Chúa và tiếng Chúa thì không phải chiên đích thực của Chúa.
Vì mối liên hiệp giữa con người và Đức Chúa Trời bắt đầu vào lúc tái sanh và hoàn toàn ở trong linh nên mọi công tác của chúng ta phải tập trung vào điểm này Nếu một người chỉ muốn sự thành công bên ngoài và mục đích của người ấy chỉ là làm cho dân nhiệt thành và phấn khích thì người ấy sẽ nhận thấy rằng chẳng có điều gì của Đức Chúa Trời trong công tác của người ấy. Một khi chúng ta nhận biết vị trí của linh, công tác của chúng ta phải có sự thay đổi căn bản. Thay vì công tác cách không chủ đích, bước theo điều chúng ta cho là tốt, chúng ta phải có mục đích sáng tỏ là xây dựng nhân linh. Trong khi trước đây chúng ta nhấn mạnh những điều thiên nhiên, bây giờ chúng ta phải nhấn mạnh những điều của Linh Đức Chúa Trời. Ý nghĩa của công tác thuộc linh không gì khác hơn là công tác bởi linh để làm sống động linh người khác. Mọi công tác khác đều không phải là công tác thuộc linh đích thực.
Nếu thật sự biết rằng mọi điều chúng ta có không thể ban sự sống cho người khác, chúng ta sẽ thấy mình vô dụng biết bao. Nếu thật sự không dựa nương hoặc sử dụng bất cứ điều gì của chính mình, chúng ta sẽ thấy mình yếu đuối biết bao. Khi đó chúng ta sẽ thấy người bên trong của chúng ta, cái tôi mới của chúng ta và sự sống thuộc linh của chúng ta, thật sự có bao nhiêu quyền năng. Vì chúng ta thường sống bởi hồn nên chúng ta không biết linh của chúng ta vô quyền biết dường nào. Một khi mọi sự giúp đỡ khác từ hồn chúng ta bị kết thúc và chúng ta chỉ lệ thuộc vào quyền năng của linh, chúng ta sẽ nhận thức rằng sự sống trong linh chúng ta rất nhỏ bé. Khi chúng ta không còn muốn người khác hiểu biết trong tâm trí, khi chúng ta không còn muốn họ cảm động trong tình cảm và khi chúng ta không còn muốn họ quyết định trong ý muốn nữa, và thay vào đó chúng ta chỉ muốn linh họ tiếp nhận sự sống, thì chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta tuyệt đối không thể ban sự sống cho ngươi khác trừ khi Thánh Linh sử dụng chúng ta. “Những người không phải được sinh bởi huyết, không bởi ý muốn của xác thịt, cũng không bởi ý muốn con người, nhưng bởi Đức Chúa Trời” (John 1:13). Nếu Đức Chúa Trời không sinh họ ra, chúng ta thật sự không thể sinh họ ra. Khi ấy, chúng ta sẽ nhận thức rằng mọi công tác phải được thực hiện bởi Đức Chúa Trời và chúng ta chỉ là những chiếc bình rỗng. Bên trong chúng ta không có điều gì có thể sản sinh dân chúng và bên trong một người không có điều gì có thể sản sinh người ấy. Đúng hơn, chính Đức Chúa Trời đổ sự sống Ngài ra từ linh chúng ta. Vì vậy, công tác thuộc linh không gì khác hơn là công tác mà chính Đức Chúa Trời thực hiện. Mọi sự không được thực hiện bởi Đức Chúa Trời thì không thể được xem là công tác thuộc linh.
Chúng ta phải xin Đức Chúa Trời khải thị điều này cho chúng ta, cho chúng ta biết bản chất công tác vĩ đại của Ngài và chúng ta cần quyền năng vĩ đại của Ngài để thực hiện công tác Ngài. Khi ấy, chúng ta sẽ nhận thức rằng ý kiến của chúng ta thật ngu dại và sự tự lực của chúng ta thật nực cười; mọi công tác của chúng ta không gì khác hơn là “các công tác chết”. Mặc dù nhiều lần Đức Chúa Trời ban cho chúng ta sự thương xót đặc biệt và để công tác của chúng ta có kết quả vượt quá những điều chúng ta xứng đáng nhận lãnh, nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng chúng ta có thể làm được nhiều việc hơn. Bất kỳ công tác nào ra từ chính chúng ta đều vô dụng và nguy hiểm. Công tác của Đức Chúa Trời không thể được hoàn thành trong một bầu không khí nhiệt thành và một môi trường hấp dẫn, bởi các ý tưởng lãng mạn, các sự tưởng tượng nên thơ, các quan điểm lý tưởng, các sự thuyết phục tha thiết, các đề nghị hợp lý, hoặc bởi thỉnh thoảng dấy lên ý muốn khích lệ người khác có một sự nhiệt thành lâu dài. Nếu công tác thuộc linh dựa trên các tư tưởng của chúng ta và không dựa trên thực tại thì các phương pháp này không có thể được sử dụng. Nhưng nếu công tác thuộc linh thật sự khiến nhân linh được tái sanh, phục sinh, và nhận được sự sống mới, thì điều đó chỉ có thể thực hiện qua quyền năng của Đức Chúa Trời, qua đó Ngài đã khiến Chúa Jesus sống lại từ kẻ chết .
Nếu chúng ta không ban sự sống của Đức Chúa Trời cho dân chúng thì sẽ không có lời ngợi khen trong cõi thiên thượng. Bất kể công tác của chúng ta có đầy lập luận, tình cảm và lời lẽ khiến dân chúng quyết tâm trong ý muốn họ, hay cho dù công tác của chúng ta có hoàn toàn nghịch lại với các lập luận, cảm xúc và sự kích động, nhưng nếu nó không ra từ linh có Thánh Linh cư trú bên trong thì công tác của chúng ta sẽ không khiến con người nhận được sự sống. Mặc dù quyền năng thuộc linh giả tạo có thể sản sinh các kết quả tương tự nhưng linh chết chóc của con người không bao giờ có thể thật sự nhận được sự sống từ điều đó. Nhiều điều có thể được thu đoạt nhưng lại không thể đạt đến mục đích của công tác thuộc linh.
Nếu mục đích của chúng ta thật sự là truyền sự sống cho người khác thì quyền năng chúng ta sử dụng phải là quyền năng của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta sử dụng quyền năng của hồn, chúng ta sẽ gặp thất bại. Hồn có thể sống động (Sáng 2:7) nhưng nó không thể ban sự sống; “chính Linh là Đấng ban sự sống” (John 6:63). Chúa Jesus là “ Adam sau cùng trở nên Linh ban sự sống” (1 Cor. 15:45). “Ngài đổ hồn Ngài ra cho đến chết” (Isa. 53:12). Những người là đường dẫn cho sự sống của Chúa Jesus cũng phải giao nộp sự sống – hồn của họ cho sự chết và công tác bởi sự sống của linh hầu cho dân chúng có thể được tái sanh. Nếu không, cho dù sự sống – hồn có thể đẹp đẽ, nhưng nó không có quyền năng sinh sản. Không thể lấy quyền năng thật từ sự sống thiên nhiên để làm bất cứ công tác thuộc linh nào. Sáng tạo cũ không bao giờ giúp đỡ sáng tạo mới. Nếu chúng ta có sự khải thị từ Thánh Linh và công tác qua quyền năng của Thánh Linh, người nghe chúng ta sẽ được quở trách và cho phép Đức Chúa Trời làm sống động linh họ. Nếu không, bài giảng mà chúng ta giảng sẽ trở nên một ý tưởng tuyệt vời có thể khuấy động dân chúng tạm thời nhưng sau đó chẳng điều thuộc linh nào xảy ra. Một người lệ thuộc vào quyền năng của linh có thể sử dụng cùng một lời, nhưng các lời này sẽ trở nên sự sống cho linh. Lời của những người lệ thuộc vào quyền năng của bản ngã sẽ trở nên các ý tưởng loài người. Hơn nữa, công tác được thực hiện bởi sử dụng quyền năng của hồn sẽ khiến những người này càng lúc càng đòi hỏi thêm cảm xúc và ý tưởng. Vì vậy, họ sẽ ở gần những ai ban cho họ những điều này. Một người thiếu hiểu biết sẽ xem đây là thành công thuộc linh vì nhiều người được thu đoạt. Tuy nhiên, một người có tri thức thuộc linh sẽ nhận thức rằng họ không có sự sống trong linh vì linh họ vẫn không thể chuyển động. Loại công tác này trong lĩnh vực tôn giáo giống như thuốc phiện và rượu đối với thân thể vật lý. Con người cần sự sống, không phải các ý tưởng và sự kích động. Vì vậy, một tín đồ không có trách nhiệm nào khác hơn là dâng linh mình làm chiếc bình cho Đức Chúa Trời sử dụng và giao nộp mọi sự thuộc bản ngã của mình cho sự chết. Đức Chúa Trời có thể dùng con cái Ngài để làm ống dẫn sự sống khiến các tội nhân có thể nhận được sự cứu rỗi và các thánh đồ nhận được sự gây dựng, nhưng một mặt họ lại khóa chặt linh mình và mặt khác chỉ cho người khác những điều họ có trong chính họ. Mọi điều mà thính giả nhận được là các ý tưởng, lập luận và tình cảm của công nhân. Sau mọi sự phát ngôn, thính giả không nhận được Chúa như Cứu Chúa của họ, để linh chết của họ có thể được làm cho sống. Nếu chúng ta hiểu rằng mục đích của chúng ta là để cho linh của người khác nhận được sự sống thì chính chúng ta phải có một sự chuẩn bị đáng kể. Nếu chúng ta thật sự đánh mất hồn mình và lệ thuộc linh thì chúng ta sẽ thấy rằng lời mà Chúa phát ngôn từ miệng chúng ta “là linh và sự sống”.
SỰ DỪNG LẠI CỦA CÔNG TÁC THUỘC LINH
Công tác thuộc linh thường tuôn chảy với dòng chảy của Thánh Linh mà không có bất cứ sự thúc ép vào và không cần sức lực của xác thịt. Không phải là không có sự chống đối từ thế giới hoặc sự tấn công của kẻ thù; đúng hơn, điều đó có nghĩa là trong Chúa luôn luôn có cảm thức về việc có được sự xức dầu của Chúa. Khi công tác của một tín đồ còn cần thiết đối với Đức Chúa Trời thì người ấy sẽ cảm nhận sự tuôn chảy của Thánh Linh bất kể có khó khăn đến đâu. Thánh Linh luôn luôn vì sự biểu hiện sự sống của linh. Loại công tác này rất tự phát. Điều đó có thể mở rộng và điều đó mở rộng sự sống trong linh.
Tuy nhiên, nhiều đầy tớ của Đức Chúa Trời bị thúc ép bởi môi trường (hoặc các lý do khác) cách vô thức để cho công tác họ thực hiện trở nên máy móc. Mỗi khi một tín đồ cảm thấy như vậy, họ phải tìm kiếm để xem loại “công tác máy móc” này vẫn còn cần thiết đối với Thánh Linh hay nó hoàn thành xong chủ đích của Ngài và bây giờ Đức Chúa Trời đang kêu gọi chính các chiếc bình của Ngài tiến lên. Các đầy tớ của Chúa phải biết rằng một điều được khởi đầu như một công tác thuộc linh, một công tác của Thánh Linh, không phải lúc nào cũng tiếp tục là thuộc linh. Nhiều công tác khởi đầu ra từ Thánh Linh nhưng sau đó chính Ngài, chứ không phải con người, không cần công tác này nữa. Nhưng con người vẫn tiếp tục, cho rằng điều Thánh Linh đã bắt đầu vẫn mãi là thuộc linh. Điều này khiến cho một điều thuộc linh trở nên thuộc xác thịt.
Một tín đồ thuộc linh sẽ không bao giờ nhìn thấy sự xức dầu của Thánh Linh trong một công tác máy móc. Đức Chúa Trời có thể không còn cần một loại công tác như vậy nữa. Nếu một tín đồ tiếp tục thực hiện công tác đó vì tổ chức bên ngoài (không nhất thiết là một tổ chức thấy được), thì người ấy phải tự lấy quyền năng riêng, ngoài quyền năng của Thánh Linh, làm nguồn cung ứng để đáp ứng yêu cầu của công tác. Khi công tác thuộc linh cần dừng lại mà tín đồ không dừng lại, người ấy phải sử dụng sức lực thuộc hồn và sức lực vật lý của mình để công tác. Trong công tác thuộc linh thật, tín đồ phải hoàn toàn từ chối trí năng, khả năng, tài năng thiên nhiên, v.v. của mình trước khi có thể thực hiện một công tác kết quả cho Đức Chúa Trời. Nhưng một công tác không được dẫn dắt bởi Thánh Linh sẽ lập tức thất bại, vì tín đồ đang sử dụng trí năng, khả năng, tài năng thiên nhiên, v.v. của mình.
Một công nhân phải thức canh để xem Thánh Linh đang xức dầu trên phần nào trong công tác của mình. Khi đó, người ấy sẽ biết cách cùng lao tác với Thánh Linh và công tác theo dòng chảy quyền năng của Thánh Linh. Trách nhiệm của một tín đồ là dán mắt vào “dòng chảy” của Thánh Linh và bước theo dòng chảy đó. Nếu một công tác không còn có sự xức dầu của Đức Chúa Trời nữa, nếu nó ở ngoài dòng chảy của Thánh Linh, nếu nó khiến công nhân có cảm giác bị đè nén và tắc nghẽn và nếu người ấy có thể có được dòng chảy ngoài công tác này thì công tác đó phải dừng lại. Những người có sự biện biệt thuộc linh sẽ biện biệt nhanh hơn người khác. Vấn đề là: “dòng chảy” của Thánh Linh ở đâu và dòng chảy đó đang tuôn chảy ở đâu? Bất cứ công tác nào đàn áp sự sống của linh, không thể hỗ trợ sự biểu hiện sự sống của linh hoặc ngăn trở Thánh Linh tuôn chảy ra trong sự sống và sự chiến thắng thì đều là một rào cản, bất kể nó được khởi đầu ra sao. Nếu công tác không hoàn thành bị hủy bỏ thì nó phải được điều chỉnh để vâng phục sự sống trong linh hoặc mối liên hệ của tín đồ với công tác này phải được thay đổi.
Trong kinh nghiệm thuộc linh của các tín đồ, có nhiều người có thể được dùng để làm gương cho việc bị mắc bẫy trong “tổ chức”, cả hữu hình lẫn vô hình, cho đến khi họ làm tổn hại sự sống của chính họ. Khởi đầu, một đầy tớ của Đức Chúa Trời nhận được quyền năng của linh và Đức Chúa Trời công tác rất nhiều. Nhiều người được cứu gây dựng. Khi đó phải có một loại “tổ chức” hoặc “phương pháp” để bảo tồn ân điển. Vì các nhu cầu, đòi hỏi và thậm chí có thể là lệnh truyền, đầy tớ đó sẽ phải lao tác để “nuôi dưỡng”. Cho nên, người ấy bị cột trói bởi môi trường và không còn có thể bước theo Thánh Linh cách tự do nữa. Sự sống của linh người ấy dần dần giảm sút nhưng công tác bên ngoài với tổ chức vẫn tiếp tục cách rất thịnh vượng. Đây là câu chuyện về sự thất bại của nhiều người.
Ngày nay giữa vòng các công tác thuộc linh có một tình trạng đáng buồn là nhiều công nhân xem công tác của mình là một gánh nặng. Nhiều người thường nói: “Tôi bận rộn với nhiều việc và nhiều công tác đến nỗi tôi chỉ có một ít thời gian để tương giao với Chúa. Tôi hi vọng rằng tôi sẽ có cơ hội tạm dừng công tác lại để có thời gian cho sự nuôi dưỡng thuộc linh, sau đó tôi sẽ trở lại công tác”. Điều này thật nguy hiểm. Công tác của chúng ta phải là kết quả của mối tương giao giữa linh chúng ta với Chúa. Mọi công tác phải là một niềm vui; tất cả phải là sự tuôn tràn sự sống của linh. Nếu công tác trở nên một điều mệt nhọc, phân rẽ sự sống của linh chúng ta với Chúa Jesus, thì công tác này phải được dừng lại ngay lập tức. Vì dòng chảy của Thánh Linh đã chuyển hướng nên chúng ta phải tìm ra dòng chảy đang ở đâu và bước theo.
Việc Thánh Linh dừng công tác của chúng ta lại thì khác với việc Satan chặn đứng công tác của chúng ta. Nhưng dân chúng thường nhầm lẫn hai điều này. Nếu Đức Chúa Trời nói dừng lại và tín đồ vẫn tiếp tục thì người ấy sẽ sa ngã từ việc công tác bởi linh đến việc sử dụng trí năng, khả năng và nỗ lực riêng của mình để hỗ trợ. Cho dù người ấy có thể kháng cự kẻ thù thì vẫn không có sự xức dầu của Thánh Linh. Người ấy không thể đắc thắng vì trận chiến này thật sự sai trật. Ngay khi một tín đồ nhìn thấy có một sự bao vây trong bản chất của linh thì người ấy phải biện biệt xem thật ra điều này đến từ Đức Chúa Trời hay từ kẻ thù. Nếu sự bao vây này là kẻ thù, thì người ấy có thể kháng cự kẻ thù trong linh và tiến lên cùng với Đức Chúa Trời qua sự cầu nguyện, giải phóng linh mình. Nếu không phải như vậy, Đức Chúa Trời sẽ khiến linh tín đồ bị đè nén hơn và cảm thấy nặng trĩu và không tự do nếu người ấy tiến tới.
Vì vậy, vào lúc này, các đầy tớ của Đức Chúa Trời phải từ bỏ mọi công tác mà Đức Chúa Trời đã không ban cho, công tác mà lẽ ra người ấy phải buông bỏ từ lâu rồi, công tác độc chiếm, công tác mà không ra từ Thánh Linh, công tác mà đàn áp linh, công tác mà chia cắt tín đồ với linh và công tác mà có thể tốt nhưng ngăn trở tín đồ trở nên cao nhã hơn.
Watchman Nee (Người thuộc Linh)