symbicort inhaler coupon
symbicort generic alternative
click symbicort inhaler coupon
planned parenthood abortion pill
abortion pill side effects
read here
SỰ BIỆT RIÊNG VÀ HOẠT ĐỘNG
|
Lời Đức Chúa Trời cho chúng ta biết hội thánh An-ti-ốt là
|
hội thánh mẫu, vì đó là hội thánh đầu tiên hiện hữu sau khi
|
các hội thánh liên hệ đến người Do-thái và người Ngoại bang
|
được thành lập. Trong Công-vụ chương 2 chúng ta thấy hội
|
thánh liên hệ đến người Do-thái được thành lập tại
|
Giê-ru-sa-lem, và trong chương mười chúng ta thấy hội thánh
|
liên hệ đến người Ngoại bang được thành lập trong nhà
|
Cọt-nây. Ngay sau khi những hội thánh này xuất hiện, hội
|
thánh tại An-ti-ốt được thành lập. Trong giai đoạn chuyển tiếp,
|
hội thánh tại Giê-ru-sa-lem không hoàn toàn thoát khỏi
|
Do-thái giáo, nhưng hội thánh tại An-ti-ốt ngay từ bước đầu đã
|
tuyệt đối đứng trên nền tảng rõ ràng của Hội Thánh. “Ấy cũng
|
ở An-ti-ốt mà môn đồ được gọi là Cơ-đốc-đồ trước nhứt” (Công
|
11:26), đó là sự kiện có tầm quan trọng không nhỏ. Tại đó lần
|
đầu tiên những đặc tính riêng biệt của Cơ-đốc-nhân và Hội
|
Thánh Cơ-đốc được bày tỏ rõ ràng, vì lý do ấy hội thánh này
|
được kể là hội thánh mẫu cho thời đại này. Các tiên tri và giáo
|
sư của hội thánh ấy là các tiên tri và giáo sư mẫu, và các sứ đồ
|
hội thánh ấy sai đi là các sứ đồ mẫu. Không chỉ những người
|
được sai đi là gương mẫu cho chúng ta, mà cách họ được sai đi
|
cũng là gương mẫu cho chúng ta nữa. Vì sự kiện Thánh Linh
|
sai phái các sứ đồ được ghi lại lần đầu tiên là từ An-ti-ốt, nên
|
chúng ta sẽ cẩn thận xem xét chi tiết của việc này.
|
Kể từ khi Tân Ước được hoàn tất, Thánh Linh đã kêu gọi
|
nhiều con cái Đức Chúa Trời trên khắp thế giới phục vụ Ngài,
|
nhưng nói đúng ra, không người nào trong số đó có thể được kể
|
là gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn xem xét
|
cách Thánh Linh hành động lần đầu tiên như thế nào trong
|
một hướng chuyển động nhất định để khám phá kiểu mẫu của
|
Ngài cho hướng chuyển động ấy. Vì vậy, để nhìn thấy gương
|
mẫu nào Hội Thánh ngày nay phải theo khi sai phái các sứ đồ,
|
chúng ta hãy cẩn thận xem xét lần đầu tiên Kinh Thánh chép
|
về việc sai phái các công tác viên từ hội thánh đầu tiên được
|
thành lập hoàn toàn trên nền tảng rõ ràng của Hội Thánh.
|
SỰ KÊU GỌI CỦA THÁNH LINH
|
Trong hai câu đầu của Công-vụ chương 13 chúng ta đọc thấy:
|
“Vả, hội thánh tại An-ti-ốt có mấy tiên tri và giáo sư, tức là
|
Ma-na-hen là người đồng dưỡng với vua chư hầu Hê-rốt, cùng
|
Sau-lơ. Đương khi họ phụng sự Chúa và kiêng ăn, thì Thánh
|
Linh phán rằng: Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta để
|
làm công việc Ta đã gọi họ làm”. Xin chúng ta lưu ý một vài sự
|
kiện ở đây. Có một hội thánh địa phương tại An-ti-ốt, có một
|
số tiên tri và giáo sư đang phục vụ tại hội thánh ấy, và giữa
|
vòng những người này, Thánh Linh biệt riêng hai người để
|
phục vụ trong một lãnh vực khác. Ba-na-ba và Sau-lơ là hai
|
người phụng sự Chúa đã tham gia vào chức vụ cung ứng trước
|
khi có sự kêu gọi này của Linh. Thánh Linh chỉ sai phái đến
|
những miền khác những người đã được trang bị cho công tác và
|
đang gánh vác trách nhiệm tại nơi họ ở, chứ Ngài không sai
|
phái những ai chôn ta-lâng mình và xao lãng nhu cầu tại địa
|
phương trong khi mơ ước được kêu gọi vào chức vụ đặc biệt vào
|
một ngày nào đó trong tương lai. Ba-na-ba và Sau-lơ đang mang
|
gánh nặng về tình trạng của địa phương vào lúc Linh đặt gánh
|
nặng của những miền khác trên họ. Trong tay họ đã đầy công
|
tác tại địa phương khi Ngài đẩy họ đi xa công tác. Điểm thứ
|
nhất chúng ta phải lưu ý là Thánh Linh lựa chọn các sứ đồ giữa
|
vòng các tiên tri và giáo sư.
|
“Đương khi họ phụng sự Chúa và kiêng ăn, thì Thánh Linh
|
phán rằng: Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta để làm
|
công việc Ta đã gọi họ làm”. Những tiên tri và giáo sư này
|
phụng sự Chúa hết lòng đến nỗi khi có nhu cầu, thậm chí họ bỏ
|
qua những đòi hỏi hợp pháp thuộc thể của mình mà kiêng ăn.
|
Điều đầy dẫy tư tưởng của các tiên tri và giáo sư tại An-ti-ốt là
|
phụng sự chính Chúa, chứ không phải làm việc cho Ngài. Họ
|
tận hiến mình cho chính Chúa, chứ không cho sự phục vụ Ngài.
|
Không ai có thể thật sự công tác cho Chúa mà trước hết chưa
|
học biết phụng sự Ngài. Đang khi Ba-na-ba và Sau-lơ phụng sự
|
Chúa, họ nghe Linh gọi họ bước vào sự phục vụ đặc biệt.
|
Họ đã đáp ứng sự kêu gọi thần thượng chứ không đáp ứng
|
tiếng gọi của nhu cầu con người. Họ chưa từng nghe những lời
|
tường thuật về những kẻ man rợ ăn thịt người hay săn đầu
|
người; lòng trắc ẩn của họ chưa từng bị khuấy động bởi những
|
câu chuyện sầu thảm về tục tảo hôn, bó chân hay tệ nạn hút
|
thuốc phiện. Họ không nghe tiếng nói nào ngoại trừ tiếng của
|
Linh; họ không nhìn thấy nhu cầu nào ngoại trừ nhu cầu của
|
Đấng Christ. Không có sự kêu gọi nhằm khơi lên chủ nghĩa
|
anh hùng thiên nhiên trong họ hay lòng yêu thích mạo hiểm
|
của họ. Họ chỉ biết một sự kêu gọi là sự kêu gọi của Chúa.
|
Quyền làm Chúa của Đấng Christ đã đòi hỏi họ phục vụ, và chỉ
|
dựa trên uy quyền của Ngài mà họ đã ra đi. Sự kêu gọi của họ
|
là sự kêu gọi thuộc linh. Không có nhân tố thiên nhiên nào xen
|
vào. Ấy là Thánh Linh phán: “Hãy biệt riêng Ba-na-ba và
|
Sau-lơ cho Ta để làm công việc Ta đã gọi họ làm”. Mọi công tác
|
thuộc linh đều phải bắt đầu với sự kêu gọi của Linh. Mọi công
|
tác thần thượng đều phải được khởi xướng cách thần thượng.
|
Kế hoạch được vạch ra cho công tác có thể rất tuyệt vời, lý do
|
có thể thích đáng, nhu cầu có thể cấp bách và con người được
|
lựa chọn để thực hiện công tác có thể vô cùng thích hợp; nhưng
|
nếu Thánh Linh không phán: “Hãy biệt riêng người ấy cho
|
công tác Ta đã kêu gọi người làm”, thì người ấy không bao giờ
|
có thể làm sứ đồ. Người ấy có thể làm một tiên tri hay giáo sư,
|
nhưng không phải là sứ đồ. Tất cả các sứ đồ thật ngày xưa đều
|
được Thánh Linh biệt riêng cho công tác mà Ngài đã kêu gọi
|
họ, và ngày nay tất cả các sứ đồ thật đều phải được Ngài biệt
|
riêng cho công tác cách rõ ràng y như vậy. Đức Chúa Trời
|
mong muốn sự phục vụ của con cái Ngài, nhưng chính Ngài
|
tuyển mộ họ, chứ không muốn những người tình nguyện. Công
|
tác là của Ngài, và Ngài là Đấng Khởi Đầu hợp pháp duy nhất
|
Ý định của con người, dầu tốt chăng nữa, cũng không bao giờ có
|
thể thay cho sự khởi xướng thần thượng. Lòng tha thiết muốn
|
cứu rỗi tội nhân hay gây dựng các thánh đồ sẽ không bao giờ
|
làm cho người nào đủ điều kiện thi hành công tác của Đức
|
Chúa Trời. Điều kiện cần thiết duy nhất là Đức Chúa Trời phải
|
Ấy là Thánh Linh phán: “Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ
|
cho Ta để làm công việc Ta đã gọi họ làm”. Chỉ có sự kêu gọi
|
thần thượng mới có thể khiến một người đủ điều kiện đảm
|
nhiệm chức vụ sứ đồ. Trong chính quyền thuộc đất không thể
|
có sự phục vụ nào mà không có sự ủy nhiệm, và trong sự quản
|
trị của Đức Chúa Trời thì cũng vậy. Thảm kịch trong công tác
|
Cơ-đốc ngày nay là rất nhiều công tác viên cứ tự tiện ra đi; họ
|
không được sai đi. Sự ủy nhiệm thần thượng tạo nên sự kêu gọi
|
cho công tác thần thượng. Ước muốn riêng tư, sự thuyết phục
|
của bạn bè, lời khuyên của các trưởng lão và sự thúc giục của cơ
|
hội — đó đều là những nhân tố ở trên bình diện thiên nhiên,
|
và không bao giờ có thể thay thế sự kêu gọi thuộc linh. Ấy là
|
điều Linh của Đức Chúa Trời phải bày tỏ trong nhân linh cách
|
Khi Ba-na-ba và Sau-lơ được sai đi, trước hết Linh kêu gọi
|
họ, sau đó các anh em xác quyết sự kêu gọi ấy. Các anh em có
|
thể nói anh có sự kêu gọi, và hoàn cảnh có thể dường như bày
|
tỏ điều đó, nhưng vấn đề là chính anh có nghe tiếng gọi ấy hay
|
không. Nếu anh phải ra đi thì trước hết anh phải là người nghe
|
tiếng gọi của Linh. Chúng ta không dám xem thường ý kiến
|
của các anh em, nhưng ý kiến của họ không thay thế cho sự kêu
|
gọi nhận từ Đức Chúa Trời cách riêng tư. Cho dầu họ tin chắc
|
là chúng ta có sự kêu gọi, và một số con cái Chúa cũng tin chắc
|
như vậy và sẵn lòng sai chúng ta ra đi công tác, nhưng nếu
|
chính chúng ta không nhận biết tiếng Đức Chúa Trời phán trực
|
tiếp trong lòng mình trên cơ sở của giao ước mới, thì chúng ta
|
chỉ ra đi như sứ giả của loài người, chứ không như sứ đồ của
|
Nếu Đức Chúa Trời mong muốn một người con nào của Ngài
|
phục vụ Ngài, chính Ngài sẽ kêu gọi người ấy, và chính Ngài sẽ
|
sai người ấy ra đi. Điều kiện đầu tiên trong công tác thần
|
thượng là sự kêu gọi thần thượng. Mọi sự đều phụ thuộc vào
|
điều này. Sự kêu gọi thần thượng dành cho Đức Chúa Trời một
|
vị trí thích đáng, vì sự kêu gọi ấy thừa nhận Ngài là Đấng khởi
|
đầu công tác. Nơi nào không có sự kêu gọi từ Đức Chúa Trời,
|
thì công tác được thực hiện không ra từ nguồn gốc thần thượng
|
và không có giá trị thuộc linh. Công tác thần thượng phải được
|
khởi xướng cách thần thượng. Một công tác viên có thể được
|
Linh trực tiếp kêu gọi hay gián tiếp được kêu gọi qua Lời Chúa,
|
sự giảng dạy hay hoàn cảnh; nhưng dầu Đức Chúa Trời dùng
|
phương tiện nào để bày tỏ ý muốn của Ngài cho con người,
|
tiếng nói của Ngài phải được nghe thấy qua mỗi tiếng nói khác;
|
Ngài phải là Đấng phán, cho dầu sự kêu gọi có thể đến qua một
|
công cụ nào chăng nữa. Chúng ta đừng bao giờ độc lập với các
|
chi thể khác của Thân Thể, nhưng chúng ta cũng đừng bao giờ
|
quên rằng mình nhận được mọi sự hướng dẫn từ Đầu; cho nên
|
chúng ta phải cẩn thận gìn giữ sự độc lập thuộc linh của mình,
|
thậm chí đang khi chúng ta vun trồng tinh thần lệ thuộc lẫn
|
nhau giữa vòng các chi thể. Khước từ ý kiến của các đồng công
|
viện cớ là làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời là sai trật,
|
nhưng chấp nhận ý kiến của họ để thay thế cho sự hướng dẫn
|
trực tiếp của Linh Đức Chúa Trời thì cũng sai trật.
|
SỰ BIỆT RIÊNG CÁC CÔNG TÁC VIÊN
|
Phải, chính Thánh Linh đã kêu gọi Ba-na-ba và Sau-lơ,
|
nhưng Ngài cũng phán với các tiên tri và giáo sư rằng: “Hãy
|
biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta để làm công việc Ta đã
|
gọi họ làm”. Thánh Linh phán trực tiếp với các sứ đồ, nhưng
|
Ngài cũng phán gián tiếp qua các tiên tri và các giáo sư. Điều
|
được phán riêng với hai người được xác nhận công khai qua ba
|
người kia. Tất cả các sứ đồ đều phải được khải thị cách riêng tư
|
về ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng chỉ dựa vào bấy nhiêu thì
|
vẫn chưa đủ. Một mặt, ý kiến của những người khác dầu thuộc
|
linh và kinh nghiệm đến đâu vẫn không bao giờ có thể thay
|
thế cho sự kêu gọi trực tiếp từ Đức Chúa Trời. Mặt khác, sự kêu
|
gọi của cá nhân dầu rõ ràng đến đâu vẫn cần sự xác nhận của
|
các chi thể đại diện cho Thân Thể Đấng Christ tại địa phương
|
mà từ đó các công tác viên ra đi.
|
Chúng ta hãy lưu ý rằng Thánh Linh không nói với hội
|
thánh tại An-ti-ốt: “Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta”.
|
Ngài phán với các tiên tri và giáo sư. Đức Chúa Trời mà bày tỏ
|
ý muốn Ngài cho toàn thể hội chúng thì hầu như không thể
|
thực hiện được. Một số chi thể trưởng thành về mặt thuộc linh,
|
trong khi những người khác chỉ là những em bé trong Đấng
|
Christ. Một số hết lòng tận tụy với Chúa, nhưng rất có thể là
|
không phải chi thể nào cũng chuyên tâm tìm kiếm Chúa đến
|
như vậy để có thể phân biệt rõ ràng giữa ý muốn Ngài với các
|
ý riêng của họ. Vì vậy, Đức Chúa Trời phán với nhóm người đại
|
diện trong hội thánh, với những người có kinh nghiệm thuộc
|
linh, những người tận hiến cho lợi ích của Ngài.
|
Và đây là kết quả: “Khi đã kiêng ăn và cầu nguyện xong, họ
|
bèn đặt tay trên hai người, rồi sai đi” (Công 13:3). Việc các tiên
|
tri và giáo sư biệt riêng các sứ đồ theo sau sự kiện Linh kêu gọi
|
họ. Sự kêu gọi có tính cách cá nhân, sự biệt riêng có tính cách
|
tập thể; và cần phải có cả hai điều mới đầy đủ. Đức Chúa Trời
|
kêu gọi trực tiếp và các tiên tri cùng giáo sư xác nhận sự kêu
|
gọi ấy bằng cách biệt riêng người được kêu gọi chính là cách
|
Đức Chúa Trời dự phòng trường hợp tự tiện phục vụ Ngài.
|
Sự kêu gọi một sứ đồ là Thánh Linh phán trực tiếp với
|
người được kêu gọi. Sự biệt riêng một sứ đồ là Thánh Linh
|
phán gián tiếp qua các đồng công của người được kêu gọi.
|
Thánh Linh khởi xướng kêu gọi và biệt riêng các công tác viên.
|
Vì vậy, nếu các anh em đại diện của một hội chúng biệt riêng
|
người nào đó để phục vụ Chúa, họ phải tự hỏi: Chúng ta tự ý
|
thực hiện điều ấy hay thực hiện với tư cách là đại diện cho
|
Linh của Đức Chúa Trời? Nếu họ hành động mà không hoàn
|
toàn biết chắc rằng mình đang thay mặt Thánh Linh hành
|
động, thì sự biệt riêng công tác viên ấy không có giá trị thuộc
|
linh. Đối với mỗi công tác viên họ sai đi, họ phải có thể nói
|
rằng người ấy được Thánh Linh sai đi, chứ không phải loài
|
người sai đi. Không nên biệt riêng các công tác viên cách vội
|
vàng hay khinh suất. Vì lý do ấy, họ đã kiêng ăn, cầu nguyện
|
trước khi sai phái Ba-na-ba và Sau-lơ.
|
Khi Ba-na-ba và Sau-lơ được biệt riêng cho công tác, thì vài
|
anh em cầu nguyện, kiêng ăn và đặt tay. Sự cầu nguyện và
|
kiêng ăn không chỉ vì nhu cầu trước mắt là biện biệt rõ ràng ý
|
muốn của Đức Chúa Trời, nhưng cũng vì nhu cầu tương lai khi
|
các sứ đồ đã thật sự ra đi. Sự đặt tay không phải là để phong
|
chức, vì Ba-na-ba và Sau-lơ đã được Thánh Linh phong chức
|
rồi. Cũng như trong Cựu Ước, sự đặt tay ở đây nói lên sự hoàn
|
toàn hiệp một của hai bên. Dường như ba anh em nói với hai
|
anh em được sai đi rằng: “Khi các anh là hai chi thể của Thân
|
Thể Đấng Christ ra đi, tất cả những chi thể khác cũng sẽ cùng
|
đi với các anh. Sự ra đi của các anh là sự ra đi của chúng tôi, và
|
công tác của các anh là công tác của chúng tôi”. Việc đặt tay là
|
chứng cớ về sự hiệp một của Thân Thể Đấng Christ. Điều này
|
có nghĩa là những người ở lại hiệp một với những người ra đi,
|
và hoàn toàn đồng cảm với họ; và khi họ ra đi, những người ở
|
tại hậu cứ tự hứa nguyện sẽ liên tục theo dõi họ với mối quan
|
tâm trong sự cầu nguyện và sự cảm thông trong tình yêu
|
Về phần những người được sai đi, họ phải chú ý đến hai
|
phương diện của sự biệt riêng để phục vụ Đức Chúa Trời. Một
|
mặt, Đức Chúa Trời phải trực tiếp kêu gọi họ và đích thân họ
|
phải nhận biết sự kêu gọi ấy. Mặt khác, các chi thể đại diện
|
của Thân Thể Đấng Christ phải xác nhận sự kêu gọi của họ.
|
Đối với những người có trách nhiệm sai phái người khác, một
|
mặt họ phải ở vị trí tiếp nhận khải thị từ Linh và biện biệt
|
tâm trí của Chúa; mặt khác, với tư cách là các chi thể đại diện
|
của Thân Thể Đấng Christ họ phải có khả năng thông cảm đặt
|
chính mình vào trong kinh nghiệm của những người họ sai
|
phái trong danh Chúa. Nguyên tắc chi phối việc sai phái những
|
sứ đồ đầu tiên vẫn chi phối việc sai phái tất cả các sứ đồ thật
|
sự được Linh chỉ định cho công tác của Đức Chúa Trời.
|
Dựa vào đâu các tiên tri và giáo sư ấy biệt riêng một số
|
người làm sứ đồ, và các tiên tri cùng giáo sư ấy đại diện cho ai?
|
Tại sao họ, chứ không phải toàn thể hội thánh, biệt riêng
|
những công tác viên ấy? Ý nghĩa của sự biệt riêng ấy là gì, và
|
những người đảm trách vấn đề này cần có phẩm chất gì?
|
Điều đầu tiên chúng ta phải nhận biết là Đức Chúa Trời đã
|
sáp nhập tất cả con cái Ngài thành một Thân Thể. Ngài không
|
nhìn nhận tình trạng dân Ngài chia rẽ thành các giáo hội và
|
hội truyền giáo khác nhau. Ngài đã hoạch định rằng tất cả
|
những người thuộc về Ngài phải sống nếp sống tập thể, nếp
|
sống của một thân thể trong đó nhiều chi thể quan tâm đến
|
nhau, yêu thương lẫn nhau, và hiểu biết nhau. Ngài đã định
|
rằng không những sự sống của con cái Ngài phải theo nguyên
|
tắc của thân thể mà chức vụ cung ứng của họ cũng vậy; nguyên
|
tắc của thân thể là giúp đỡ nhau, gây dựng nhau và phục vụ
|
nhau, tức hoạt động của nhiều chi thể trong một thân thể.
|
Thân Thể Đấng Christ có hai phương diện là sự sống và chức
|
vụ cung ứng. Nửa phần đầu của Ê-phê-sô chương 4 nói về Thân
|
Thể trong mối liên hệ với chức vụ cung ứng của Thân Thể; nửa
|
phần sau nói về Thân Thể trong mối liên hệ với sự sống của
|
Thân Thể. “Nhờ Ngài mà cả Thân Thể đều kết cấu liên lạc bởi
|
sự tương trợ của các lắt léo, tùy theo công dụng đã lượng cho
|
từng phần, khiến thân thể lớn lên và tự gây dựng trong sự
|
thương yêu” (c. 16). Ở đây điều được xem xét là công tác.
|
Nhưng trong câu 25, rõ ràng vấn đề là sự sống: “Cho nên anh
|
em phải chừa sự nói dối, mỗi người phải nói thật với kẻ lân cận
|
mình, bởi vì chúng ta là chi thể của nhau”. Trong Rô-ma chương
|
12 chúng ta thấy các chi thể phải quan tâm đến nhau ra sao,
|
vậy một lần nữa ý tưởng ở đây là sự bày tỏ một sự sống. Nhưng
|
trong Cô-rin-tô chương 12 chúng ta thấy các chi thể phải phục
|
vụ nhau như thế nào, cho nên ý tưởng trong phân đoạn ấy là sự
|
bày tỏ một chức vụ cung ứng.
|
Khi nói đến một Thân Thể, chúng ta nhấn mạnh đến sự
|
hiệp một trong sự sống của mọi con cái Đức Chúa Trời. Khi nói
|
đến nhiều chi thể, chúng ta nhấn mạnh đến những chức năng
|
khác nhau trong sự hiệp một ấy. Đặc tính của điều trước là sự
|
sống; đặc tính của điều sau là công tác. Trong một thân thể vật
|
lý, các chi thể đều khác nhau, nhưng chúng hoạt động như một,
|
vì chúng chia sẻ cùng một sự sống và có cùng một mục tiêu là
|
Vì Thân Thể Đấng Christ có hai phương diện là sự sống và
|
chức vụ cung ứng, cho nên Thân Thể có hai biểu hiện bề ngoài
|
khác nhau. Hội thánh tại một địa phương được dùng để bày tỏ
|
sự sống của Thân Thể, và các ân tứ trong Hội Thánh được dùng
|
để bày tỏ chức vụ cung ứng của các chi thể trong Thân Thể. Nói
|
cách khác, mỗi hội thánh địa phương phải đứng trên nền tảng
|
của Thân Thể, tự xem mình là sự bày tỏ sự hiệp một của sự
|
sống Thân Thể, và không vì lý do gì mà chấp nhận sự chia rẽ,
|
vì hội thánh địa phương hiện hữu với tư cách là biểu hiện của
|
một sự sống không thể bị chia rẽ. Tương tự như vậy, những
|
người cung ứng khác nhau của Hội Thánh cần phải đứng trên
|
nền tảng của Thân Thể, tự xem mình là sự bày tỏ sự hiệp một
|
của các chức vụ cung ứng khác nhau của Thân Thể. Mối tương
|
giao và sự hợp tác hoàn hảo cần phải là đặc tính của mọi hoạt
|
động của họ, vì tuy chức năng của họ khác nhau nhưng chức vụ
|
cung ứng của họ thật sự là một. Không hội thánh địa phương
|
nào được phân chia thành nhiều bè phái hoặc sáp nhập với
|
những hội thánh khác thành một giáo phái, nếu thế họ đã lìa
|
khỏi nền tảng của Thân Thể. Không một nhóm người cung ứng
|
nào được liên kết với nhau để hình thành một đơn vị phân rẽ,
|
và đứng trên nền tảng không phải là của Thân Thể. Mọi công
|
tác của họ cần phải được thực hiện với tư cách là những chi thể
|
của Thân Thể, chứ không phải với tư cách là những thành viên
|
của một tổ chức tồn tại tách biệt với Thân Thể. Một công tác
|
viên có thể sử dụng các ân tứ của mình với tư cách là một viên
|
chức trong một tổ chức, nhưng khi làm như vậy người ấy lìa
|
khỏi nền tảng của Thân Thể.
|
Đọc lướt qua Ê-phê-sô 4:11-12, chúng ta có thể kết luận rằng
|
các sứ đồ, tiên tri, người giảng phúc-âm, người chăn và giáo sư
|
hoạt động ở ngoài Thân Thể, vì Chúa ban họ cho Hội Thánh
|
Ngài để xây dựng Hội Thánh (c. 12). Nhưng câu 16 nêu rõ rằng
|
họ không đứng bên ngoài Thân Thể để xây dựng Thân Thể
|
nhưng tìm cách xây dựng Thân Thể từ bên trong. Chính họ là
|
một phần của Thân Thể, và chỉ khi nào họ đứng vào vị trí thích
|
hợp của mình trong Thân Thể với tư cách là các chi thể cung ứng,
|
thì toàn Thân Thể mới được gây dựng.
|
Sự kiện các hội thánh là biểu hiện địa phương của Thân
|
Thể Đấng Christ đã được xác minh, cho nên ở đây chúng ta
|
không cần đi sâu vào điểm này; nhưng cần phải giải thích ít
|
nhiều về những người cung ứng có ân tứ mà Đức Chúa Trời đã
|
đặt trong Hội Thánh để bày tỏ chức vụ cung ứng của Thân Thể.
|
Trong 1 Cô-rin-tô chương 12 Phao-lô rõ ràng bàn về vấn đề
|
phục vụ của Cơ-đốc-nhân. Ông ví sánh các công tác viên với
|
những chi thể của một thân thể, và bày tỏ rằng mỗi chi thể có
|
công dụng riêng và tất cả đều phục vụ thân thể đang khi thuộc
|
về thân thể, chứ không phải khi tách biệt khỏi thân thể. Trong
|
câu 27 ông viết: “Vả, anh em là thân thể của Christ, và mọi
|
người đều là một chi thể riêng”; và trong câu sau ông nói: “Đức
|
Chúa Trời đã lập trong Hội Thánh, thứ nhứt là sứ đồ, thứ nhì
|
là tiên tri, thứ ba là giáo sư, kế đến kẻ làm việc quyền năng,
|
rồi đến kẻ được ân tứ chữa bệnh, vùa giúp, quản lý, nói các thứ
|
tiếng”. Nghiên cứu câu thứ nhì này sẽ làm sáng tỏ rằng những
|
người cung ứng có ân tứ trong câu 28 là các chi thể trong câu
|
27, và Hội Thánh trong câu 28 là Thân Thể trong câu 27; vì
|
vậy, những người cung ứng là gì đối với Hội Thánh, thì các chi
|
thể là y như vậy đối với Thân Thể. Họ giữ vị trí trong Thân
|
Thể bởi vì chức năng của họ (“sự nghe” và “sự ngửi” trong câu
|
. Những người cung ứng có ân tứ là những chi thể hoạt động
|
của Thân Thể, và họ luôn luôn hoạt động với tư cách là các chi
|
thể. Tay, chân, miệng và đầu là gì đối với thân thể vật lý thì
|
họ là thể ấy đối với Hội Thánh. Các đầy tớ của Đức Chúa Trời
|
không cung ứng cho Hội Thánh như thể mình tách rời với Hội
|
Thánh, nhưng với tư cách là những thành viên của Hội Thánh.
|
Họ ở trong Thân Thể, phục vụ Thân Thể bằng cách sử dụng
|
những quan năng mà họ sở hữu với tư cách là chi thể. Hội
|
thánh tại bất cứ địa phương nào cũng là sự bày tỏ một sự sống
|
của Thân Thể, trong khi những người cung ứng bày tỏ khía
|
cạnh vừa khác biệt vừa hiệp một của chức vụ cung ứng của
|
1 Cô-rin-tô chương 12 bàn về đề tài Thân Thể Đấng Christ,
|
không theo phương diện sự sống của Thân Thể mà theo phương
|
diện công tác của Thân Thể. Toàn chương bàn về vấn đề chức
|
vụ cung ứng và chức vụ ấy được nói đến là hoạt động của những
|
chi thể khác nhau, qua đó chúng ta thấy rõ tư tưởng của Đức
|
Chúa Trời là toàn thể chức vụ đều dựa trên nền tảng Thân
|
Thể. Chức vụ cung ứng là biểu hiện thực tiễn của Thân Thể,
|
tức biểu hiện của sự khác biệt trong sự hiệp nhất của các chi
|
thể khác nhau của Thân Thể. Vì vậy, chúng ta thấy rằng khi
|
phương diện sự sống của Thân Thể Đấng Christ được bày tỏ,
|
thì tại đó anh em có một hội thánh địa phương; và khi phương
|
diện công tác được bày tỏ, thì tại đó anh em có sự bày tỏ các ân
|
tứ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Hội Thánh Ngài.
|
Khi đọc 1 Cô-rin-tô 12:28, một người không thể không chú ý
|
đến sự khác biệt rành rành giữa lời mô tả về ba ân tứ đầu tiên
|
và năm ân tứ còn lại. Dưới sự cảm thúc của Linh, Phao-lô đặc
|
biệt quan tâm đến việc liệt kê các ân tứ này — “thứ nhứt là sứ
|
đồ, thứ hai là tiên tri, thứ ba là giáo sư”. Ba ân tứ đầu được
|
đánh số cách cụ thể, nhưng những ân tứ kia thì không; những
|
ân tứ đầu không những khác biệt vì được đánh số riêng biệt
|
mà còn khác biệt về bản chất. Ba ân tứ ấy là những con người;
|
những ân tứ còn lại là những sự việc. Ba ân tứ được liệt kê
|
trước là sứ đồ, tiên tri và giáo sư, là những ân tứ Chúa ban cho
|
Hội Thánh Ngài thì đứng riêng biệt với mọi ân tứ khác. Họ là
|
những người cung ứng Lời Đức Chúa Trời, và chức năng của họ
|
là gây dựng Thân Thể Đấng Christ chính là chức năng quan
|
trọng nhất trong Hội Thánh. Họ là những người đại diện cho
|
chức vụ cung ứng của Thân Thể.
|
Phần Kinh Thánh duy nhất ghi lại việc sai phái các sứ đồ
|
được tìm thấy trong Công-vụ chương 13, tại đó chúng ta thấy
|
các tiên tri và giáo sư đã biệt riêng các sứ đồ cho chức vụ cung
|
ứng của họ. Kinh Thánh không cho thấy một tiền lệ nào về
|
việc một người hay nhiều cá nhân, hoặc một hội truyền giáo
|
hay tổ chức biệt riêng và sai phái người ta; thậm chí Lời Đức
|
Chúa Trời không nói gì đến việc một hội thánh địa phương sai
|
phái các công tác viên. Gương mẫu duy nhất được ban cho
|
chúng ta ở đây là các tiên tri và giáo sư biệt riêng và sai phái
|
Điều này có ý nghĩa gì? Tại An-ti-ốt các tiên tri và giáo sư
|
được Đức Chúa Trời lựa chọn để biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ
|
cho việc phục vụ Ngài, vì họ là những thành viên cung ứng của
|
hội thánh, và sự biệt riêng các sứ đồ này là vấn đề chức vụ
|
cung ứng hơn là vấn đề sự sống. Giá như việc này liên hệ đến
|
sự sống mà không đặc biệt liên hệ đến sự phục vụ, thì việc này
|
đã là mối quan tâm của cả hội thánh địa phương, chứ không chỉ
|
của những thành viên cung ứng. Tuy nhiên, chúng ta hãy lưu ý
|
rằng, dầu Ba-na-ba và Sau-lơ không được toàn thể hội thánh
|
biệt riêng cho công tác, nhưng họ đã được sai đi không phải
|
như đại diện cho một vài chi thể được lựa chọn, nhưng như đại
|
diện cho cả Thân Thể. Việc họ được các tiên tri và giáo sư biệt
|
riêng ngụ ý rằng họ không ra đi theo cách cá nhân, cũng không
|
ra đi nhân danh một tổ chức nào, mà ra đi trên nền tảng chức
|
vụ của Thân Thể. Như chúng ta đã thấy, chức vụ cung ứng được
|
nhấn mạnh, chứ không phải sự sống, nhưng đây là chức vụ
|
cung ứng đại diện cho cả hội thánh chứ không đại diện cho một
|
phần đặc biệt nào của hội thánh. Điều này được bày tỏ rõ ràng
|
Như chúng ta đã thấy, việc đặt tay nói lên sự hiệp một (Lê
|
1:4), và chỉ sự hiệp một được biết đến giữa vòng con cái Đức
|
Chúa Trời mới là sự hiệp một của Thân Thể Đấng Christ; vì
|
vậy, khi đặt tay trên các sứ đồ, các tiên tri và giáo sư rõ ràng
|
đứng trên nền tảng của Thân Thể, hành động với tư cách là
|
các chi thể đại diện của Thân Thể. Hành động của họ đồng
|
nhất cả hội thánh với các sứ đồ, và đồng nhất các sứ đồ với cả
|
hội thánh. Các tiên tri và giáo sư này không nhân danh cá
|
nhân sai các sứ đồ ra đi làm đại diện riêng của họ, cũng không
|
nhân danh một nhóm người chọn lọc sai các sứ đồ ra đi làm đại
|
diện của nhóm người đặc biệt đó; nhưng họ đứng trên nền tảng
|
của Thân Thể, với tư cách là những chi thể cung ứng, và họ
|
biệt riêng hai người ấy cho công tác phúc-âm. Về phần hai
|
người được biệt riêng ấy, họ đã ra đi, không phải để đại diện
|
cho cá nhân nào hay tổ chức đặc biệt nào, mà để đại diện cho
|
Thân Thể Đấng Christ và chỉ Thân Thể Đấng Christ mà thôi.
|
Mọi công tác thật sự phù hợp với Kinh Thánh và thật sự thuộc
|
linh đều phải ra từ Thân Thể và cung ứng cho Thân Thể. Thân
|
Thể phải là nền tảng trên đó các công tác viên đứng, và phải
|
là lãnh vực duy nhất trong đó họ công tác.
|
Vào hai dịp khác nhau Phao-lô đã được đặt tay; lần thứ nhất
|
là khi ông tin Chúa (Công 9:17), và lần thứ hai là khi ông được
|
sai đi từ An-ti-ốt. Sự đặt tay lần đầu bày tỏ sự đồng nhất của
|
ông với sự sống của Thân Thể; lần sau bày tỏ sự đồng nhất của
|
ông với chức vụ cung ứng của Thân Thể. Lần đầu công bố ông
|
là một chi thể của Thân Thể nhờ ông nhận lãnh sự sống từ
|
Đầu; lần thứ nhì công bố ông là một chi thể cung ứng, công tác
|
không như một cá nhân độc lập, mà như một phần tử của một
|
tổng thể lớn lao trong mối quan hệ với các chi thể khác.
|
Khi sai phái Ba-na-ba và Sau-lơ từ An-ti-ốt, các tiên tri và
|
giáo sư không đại diện cho giáo hội hay hội truyền giáo, mà đại
|
diện cho chức vụ cung ứng của Thân Thể. Họ không phải là
|
toàn thể Hội Thánh, mà chỉ là một nhóm đầy tớ của Đức Chúa
|
Trời. Họ không mang danh hiệu đặc biệt, không bị ràng buộc
|
bởi một tổ chức nào và không lệ thuộc vào luật lệ cứng ngắt
|
nào. Họ chỉ đầu phục sự điều khiển của Linh và biệt riêng
|
những người Ngài đã biệt riêng và kêu gọi cho công tác. Chính
|
họ không phải là Thân Thể, nhưng họ đứng trên nền tảng của
|
Thân Thể, dưới uy quyền của Đầu. Dưới uy quyền ấy, trên nền
|
tảng ấy, họ biệt riêng những người làm sứ đồ; cũng dưới chính
|
uy quyền ấy và trên cùng một nền tảng ấy, những người khác
|
có thể hành động giống như vậy. Sự biệt riêng các sứ đồ theo
|
nguyên tắc này có nghĩa là dầu những người được sai đi có thể
|
khác, những người sai họ đi có thể khác, thời điểm và nơi chốn
|
sai phái cũng có thể khác, nhưng vì tất cả đều ở dưới sự hướng
|
dẫn của một Đầu và đứng trên nền tảng của một Thân Thể,
|
nên sẽ không có sự chia rẽ. Nếu An-ti-ốt sai người đi trên nền
|
tảng Thân Thể, và Giê-ru-sa-lem sai người đi trên nền tảng
|
Thân Thể, thì vẫn có sự hiệp một bên trong bất kể mọi khác
|
biệt bên ngoài. Thật kỳ diệu dường nào nếu không có những
|
đại diện của các đoàn thể khác nhau thuộc đất, mà chỉ có
|
những đại diện của Thân Thể, tức Thân Thể Đấng Christ. Nếu
|
hàng ngàn hội thánh địa phương bao gồm hàng ngàn tiên tri
|
và giáo sư sai đi hàng ngàn công tác viên, thì tuy bề ngoài có
|
sự đa dạng lớn lao nhưng bề trong vẫn có thể có sự hiệp nhất
|
hoàn toàn giá như mọi người đều được sai phái dưới sự hướng
|
dẫn của Đầu và trên nền tảng của một Thân Thể.
|
Đấng Christ là Đầu của Hội Thánh là một sự thật được thừa
|
nhận, nhưng sự thật ấy cần được nhấn mạnh trong mối liên hệ
|
với chức vụ cung ứng cũng như với sự sống của Hội Thánh.
|
Chức vụ cung ứng của Cơ-đốc-nhân là chức vụ của toàn thể Hội
|
Thánh, chứ không chỉ của một phần Hội Thánh. Chúng ta phải
|
đảm bảo chắc chắn rằng công tác của mình không dựa trên
|
một nền tảng nào kém hơn là Thân Thể Đấng Christ. Nếu
|
không, chúng ta sẽ đánh mất quyền làm Đầu của Đấng Christ,
|
vì Đấng Christ không phải là Đầu của một hệ thống nào, hội
|
truyền giáo nào hay tổ chức nào; Ngài là Đầu của Hội Thánh.
|
Nếu chúng ta thuộc về một tổ chức của con người, thì quyền
|
làm đầu thần thượng sẽ không còn được bày tỏ trong công tác
|
Trong Kinh Thánh chúng ta không tìm thấy dấu tích việc
|
những tổ chức nhân tạo sai phái người ta ra đi rao giảng
|
phúc-âm. Chúng ta chỉ tìm thấy những người đại diện cho chức
|
vụ cung ứng của Hội Thánh, ở dưới sự dẫn dắt của Linh và
|
đứng trên nền tảng của Thân Thể sai phái những người đã
|
được Linh biệt riêng cho công tác. Nếu những người đảm trách
|
việc sai phái không sai phái các công tác viên như là những
|
người đại diện cho chính họ hay cho một tổ chức nào, mà chỉ
|
sai phái họ như là người đại diện cho Thân Thể Đấng Christ,
|
và nếu những người được sai đi không đứng trên nền tảng của
|
giáo hội hay hội truyền giáo đặc biệt nào, mà chỉ đứng trên
|
nền tảng của Hội Thánh, thì dầu các công tác viên từ đâu đến
|
hoặc sẽ đi đâu, sự hợp tác và hiệp nhất sẽ luôn luôn có được và
|
họ sẽ tránh được nhiều rắc rối trong công tác.
|
Sau khi các sứ đồ được Linh kêu gọi và được các chi thể đại
|
diện của Thân Thể biệt riêng cho công tác, thì họ đã làm gì?
|
Chúng ta cần nhớ rằng những người biệt riêng họ chỉ bày tỏ sự
|
đồng nhất và sự cảm thông qua việc đặt tay; họ không có uy
|
quyền điều khiển các sứ đồ. Những tiên tri và giáo sư ở tại hậu
|
cứ không chính thức đảm trách hoạt động, phương pháp công
|
tác, hay nguồn cung ứng cho nhu cầu tài chánh của các sứ đồ.
|
Trong Kinh Thánh không có chỗ nào cho thấy các sứ đồ ở dưới
|
sự điều khiển của cá nhân hay tổ chức nào. Họ không phải
|
tuân theo luật lệ nào và không phải vâng phục thượng cấp nào.
|
Thánh Linh đã kêu gọi họ, và họ ra đi theo sự dẫn dắt và lãnh
|
đạo của Ngài; chỉ một mình Ngài là Giám đốc của họ.
|
Trong Công-vụ chương 13 và 14 lần đầu tiên chúng ta thấy
|
Kinh Thánh ghi lại những hoạt động truyền giáo. Dầu ngày
|
nay nơi chốn chúng ta thăm viếng và tình trạng chúng ta gặp
|
có thể khác xa so với những gì Kinh Thánh ghi lại, nhưng trên
|
nguyên tắc, kinh nghiệm của các sứ đồ đầu tiên có thể dùng
|
làm gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta hãy xem qua hai chương
|
“Vậy, Sau-lơ và Ba-na-ba đã chịu Thánh Linh sai đi, bèn
|
rồi từ đó đáp thuyền qua Chíp-rơ. Đến
|
Sa-la-min, họ rao giảng đạo (nguyên văn: lời) Đức Chúa Trời
|
trong các nhà hội của người Do-thái; cũng có Giăng theo làm
|
thừa sai cho họ. Trải qua cả đảo cho đến Ba-phô, gặp một người
|
Do-thái kia, là thuật sĩ” (13:4-6). Ngay từ đầu, di chuyển liên
|
tục là đặc tính của những người được sai đi. Sứ đồ thật là người
|
đi đây đó, chứ không định cư một chỗ.
|
“Phao-lô với đồng bạn từ Ba-phô giương buồm sang Bẹt-giê
|
thuộc Bam-phi-ly. Nhưng Giăng lìa họ, trở về Giê-ru-sa-lem.
|
Còn họ thì lìa Bẹt-giê, trải đến An-ti-ốt thuộc Bi-si-đi; rồi
|
nhằm ngày Sa-bát vào nhà hội mà ngồi” (13:13-14). (An-ti-ốt
|
được đề cập ở đây không phải là An-ti-ốt mà từ đó Ba-na-ba và
|
Sau-lơ đã được sai đi trong chuyến truyền giáo đầu tiên). Các sứ
|
đồ di chuyển thường xuyên, công bố Lời Đức Chúa Trời tại bất
|
cứ nơi nào họ đến, nhưng mãi đến khi họ tới An-ti-ốt tại
|
Bi-si-đi chúng ta mới biết kết quả công lao của họ. Từ thời
|
điểm ấy có sự phát triển rõ rệt trong công tác.
|
“Lúc hội đã tan, có nhiều người Do-thái và kẻ kỉnh kiền đã
|
nhập giáo Do-thái đều đi theo Phao-lô và Ba-na-ba, hai người
|
nói chuyện với họ và khuyên cứ ở trong ân điển Đức Chúa
|
Trời” (13:43). Đó là kết quả của một thời gian ngắn làm chứng
|
tại An-ti-ốt thuộc Bi-si-đi — nhiều người Do-thái và người cải
|
đạo kỉnh kiền đã tin. Một tuần sau, hầu như toàn thể thành
|
phố đều họp lại để nghe Lời Chúa (c. 44), nhưng việc dân
|
chúng đáp ứng nhiệt thành như vậy đã khiến người Do-thái
|
ganh ghét; họ chống đối các sứ đồ (c. 45). Vào thời điểm ấy các
|
sứ đồ quay sang người Ngoại bang (c. 46) và “bao nhiêu kẻ đã
|
được dự định cho sự sống đời đời đều tin” (c. 48). Vào ngày
|
Sa-bát trước một số người Do-thái đã tiếp nhận Lời sự sống,
|
còn vào ngày Sa-bát này nhiều người Ngoại bang tin Chúa.
|
Không bao lâu sau khi các sứ đồ đến An-ti-ốt thuộc Bi-si-đi,
|
chúng ta thấy có hội thánh tại đó.
|
Tuy nhiên, các sứ đồ không lý luận: “Bây giờ chúng ta đã có
|
một nhóm tín đồ tại đây. Chúng ta phải ở lại ít lâu và chăn dắt
|
họ”. Họ thành lập hội thánh địa phương tại An-ti-ốt thuộc
|
Bi-si-đi, nhưng không ở lại để xây dựng hội thánh đó. Họ lại
|
tiếp tục ra đi, truyền bá Lời Chúa “khắp miền đó” (c. 49). Mục
|
tiêu của họ không phải là một thành phố, mà là “khắp miền”.
|
Thời nay lề thói định cư tại một nơi để chăn dắt một bầy nào
|
đó vốn không phải là tiền lệ trong Kinh Thánh.
|
Sau đó có sự bắt bớ (c. 50). Những người chống đối sứ điệp
|
phúc-âm đã đuổi các sứ đồ khỏi bờ cõi họ, và các sứ đồ đáp ứng
|
bằng cách phủi bụi nơi chân mình (c. 51). Nhiều giáo sĩ ngày
|
nay không có bụi để phủi khỏi chân mình! Những người không
|
dính bụi thiếu đặc tính của một sứ đồ. Các sứ đồ đầu tiên
|
không bao giờ định cư trong những ngôi nhà tiện nghi, cũng
|
không dừng ở đâu lâu để chăn dắt những hội thánh mình đã
|
thành lập. Họ liên tục đi đây đó. Làm một sứ đồ có nghĩa là
|
làm người được sai đi, tức là luôn luôn ra đi. Một sứ đồ định cư
|
là mâu thuẫn về mặt từ ngữ. Sứ đồ thật là người khi bị bắt bớ
|
thì luôn luôn có bụi để phủi khỏi chân mình.
|
Các sứ đồ ra đi sớm như vậy gây tác động gì trên một hội
|
thánh non trẻ? Đây là một nhóm tín đồ mới, chỉ là con trẻ
|
trong Đấng Christ, và những người cha của họ trong đức tin đã
|
lìa bỏ họ trong tình trạng non nớt. Có phải họ biện luận: “Tại
|
sao các sứ đồ sợ bị bắt bớ mà bỏ chúng tôi lại đối diện với sự
|
chống đối một mình?” Họ có nài nỉ các sứ đồ ở lại ít lâu và
|
chăm sóc tình trạng thuộc linh của họ không? Phải chăng họ lý
|
luận: “Nếu các ông bỏ chúng tôi bây giờ, chúng tôi sẽ như chiên
|
không có người chăn. Nếu cả hai ông không thể ở lại, thì ít
|
nhất một người phải ở lại và chăm sóc chúng tôi. Sự bắt bớ quá
|
dữ dội, nếu thiếu sự giúp đỡ của các ông thì chúng tôi không
|
thể nào vượt qua được”? Điều lạ lùng là Kinh Thánh ghi lại
|
rằng: “Còn các môn đồ thì được đầy dẫy sự vui mừng và Thánh
|
Khi các sứ đồ ra đi, các môn đồ không than khóc, mà vô
|
cùng vui mừng. Các môn đồ vui mừng vì họ biết Chúa; và có
|
thể họ rất vui mừng vì các sứ đồ ra đi có nghĩa là những người
|
khác có cơ hội nghe phúc-âm. Điều mất mát cho họ là lợi ích
|
cho Y-cô-ni. Những tín đồ ấy không giống các tín đồ ngày nay,
|
trông mong có một mục sư định cư để dạy dỗ họ, giải quyết các
|
nan đề cho họ và bảo bọc họ khỏi mọi rắc rối. Các sứ đồ ấy
|
không giống như các sứ đồ ngày nay; họ là những người tiên
|
phong, không phải những người định cư. Họ không chờ đợi các
|
tín đồ trưởng thành rồi mới ra đi. Họ dám ra đi trong khi các
|
môn đồ còn non trẻ, vì họ tin nơi quyền năng sự sống của Đức
|
Chúa Trời trong các môn đồ.
|
Các môn đồ ấy không những đầy dẫy sự vui mừng mà còn
|
đầy dẫy Thánh Linh. Các sứ đồ có thể ra đi, nhưng Linh ở lại.
|
Nếu các sứ đồ ở lại để chăn dắt họ, thì họ có đầy dẫy Thánh
|
Linh hay không cũng không mấy quan trọng. Nếu có mục sư
|
giúp làm sáng tỏ mọi nan đề của mình, họ sẽ cảm thấy không
|
mấy cần Linh hướng dẫn; và nếu giữa vòng họ có người gánh
|
hết trách nhiệm về phương diện thuộc linh của công tác còn họ
|
thì lo việc thế tục, họ sẽ cảm thấy không mấy cần đến quyền
|
năng Ngài. Kinh Thánh hoàn toàn không nói gì về việc các sứ
|
đồ phải định cư để chăn dắt những người mình đã dẫn đến với
|
Chúa. Có thấy người chăn trong Kinh Thánh, nhưng họ chỉ là
|
những anh em được Đức Chúa Trời dấy lên giữa vòng các thánh
|
đồ địa phương để chăm sóc những người cùng là tín đồ. Một
|
trong những lý do vì sao rất nhiều người hoán cải ngày nay
|
không đầy dẫy Linh là các sứ đồ định cư để chăn dắt họ và
|
chính các sứ đồ gánh vác trách nhiệm của Thánh Linh.
|
Ngợi khen Đức Chúa Trời, các sứ đồ đã tiếp tục di chuyển
|
đến Y-cô-ni, vì “có người trong cả người Do-thái lẫn người
|
Hi-lạp đều tin rất đông” (14:1). Không bao lâu “dân chúng
|
trong thành chia rẽ, kẻ thì theo người Do-thái, kẻ thì theo hai
|
sứ đồ” (c. 4). Những người được cứu rõ ràng là một số đông vì
|
việc họ ra khỏi những người chưa được cứu đã gây ảnh hưởng
|
lớn tại nơi ấy đến nỗi tạo nên sự chia rẽ trong thành phố. Chỉ
|
một thời gian ngắn sau khi các sứ đồ lìa khỏi An-ti-ốt thuộc
|
Bi-si-đi, một hội thánh đã được thành lập tại Y-cô-ni; tại đây,
|
cũng như tại nơi trước, có sự chống đối dữ dội. Các sứ đồ có thể
|
lý luận rằng lìa một số đông con trẻ trong Đấng Christ đang bị
|
bắt bớ dữ dội thì thật là vô tâm, ngoài ra làm như vậy còn là
|
một sách lược kém cỏi. Nhưng các sứ đồ đã trung tín đối với sự
|
kêu gọi làm sứ đồ của mình, và họ ra đi đến “các thành thuộc
|
Y-cao-ni, là Lít-trơ, Đẹt-bơ” (c. 6). Họ đã làm gì khi đến Lít-trơ?
|
Cũng như tại những nơi khác, tại đây họ “giảng Tin-lành (hay:
|
phúc-âm)” (c. 7), và giống như những nơi khác, tại đây có sự
|
chống đối và bắt bớ (c. 19). Khó có thể phỏng đoán số người tin
|
tại Lít-trơ là bao nhiêu, nhưng qua lời nhận xét nói rằng các
|
môn đồ đứng chung quanh Phao-lô (c. 20), thì ít nhất phải có
|
nửa tá, và có thể có hàng chục hay thậm chí hàng trăm. Như
|
vậy tại Lít-trơ có một hội thánh!
|
Phao-lô có ở lại chăn dắt họ ít lâu, hay ít nhất chăm sóc họ
|
đến khi sự chống đối dữ dội giảm bớt không? Không! “Sáng
|
ngày sau người cùng Ba-na-ba đi đến Đẹt-bơ” (c. 20). Một lần
|
nữa tin mừng được công bố và nhiều người trở nên môn đồ (c.
|
. Như vậy, thêm một hội thánh nữa được hình thành! Với
|
việc thành lập một hội thánh tại Đẹt-bơ, cuộc hành trình
|
truyền giáo đầu tiên của các sứ đồ đã chấm dứt.
|
Nhìn lại hai chương này, chúng ta thấy một nguyên tắc căn
|
bản chi phối hoạt động của các sứ đồ. Họ đi từ nơi này đến nơi
|
khác theo sự dẫn dắt của Linh, rao giảng phúc-âm và thành
|
lập các hội thánh. Không nơi nào chúng ta thấy họ định cư để
|
chăn dắt và dạy dỗ những người hoán cải, hay đảm đương
|
trách nhiệm địa phương tại những hội thánh họ thành lập. Vào
|
những ngày bình an các sứ đồ di chuyển, và vào những ngày
|
bắt bớ họ cũng di chuyển. “Hãy đi!” là lời phán của Chúa, và
|
“Hãy đi!” là khẩu lệnh của các sứ đồ. Điểm nổi bật của một
|
người được sai đi là luôn luôn di chuyển.
|
Nhưng câu hỏi được đặt ra là: “Những người mới hoán cải
|
được chăn dắt và hướng dẫn bằng cách nào? Những hội thánh
|
mới thành lập được trở nên vững vàng bằng cách nào? Khi
|
nghiên cứu Lời chúng ta thấy cuộc hành trình truyền giáo của
|
các sứ đồ bao gồm chuyến ra đi và chuyến trở về. Trong chuyến
|
ra đi mối quan tâm hàng đầu của họ là thành lập các hội
|
thánh. Trong chuyến trở về công việc chính yếu của họ là xây
|
Sau khi “làm cho nhiều người trở nên môn đồ, thì trở về
|
Lít-trơ, Y-cô-ni, và An-ti-ốt, làm cho tâm hồn môn đồ vững
|
vàng khuyên cứ giữ đức tin, và bảo rằng cần phải trải qua
|
nhiều hoạn nạn mới được vào nước Đức Chúa Trời” (14:21-22).
|
Ở đây chúng ta thấy Phao-lô và Ba-na-ba trở lại làm công tác
|
xây dựng trong những hội thánh đã được thành lập; nhưng như
|
trong chuyến ra đi trước đó, bây giờ trong chuyến trở về, họ
|
không bao giờ định cư tại một nơi nào cả.
|
Như vậy, rõ ràng là các sứ đồ không những đi đây đó thành
|
lập các hội thánh, mà còn thực hiện công tác xây dựng cụ thể.
|
Chỉ thành lập hội thánh mà không củng cố thì cũng như bỏ
|
mặc con sơ sinh để cho chúng tự lo liệu lấy. Điểm cần lưu ý ở
|
đây là mặc dầu hướng dẫn người mới hoán cải và xây dựng các
|
hội thánh là phần rất quan trọng trong công tác của các sứ đồ,
|
nhưng họ thực hiện điều đó không bằng cách định cư tại một
|
chỗ, mà bằng cách thăm viếng những nơi mình đã đến trước
|
đây. Trong công tác rao giảng phúc-âm ban đầu, cũng như
|
trong công tác củng cố các hội thánh sau đó, các sứ đồ không ở
|
Trước khi lìa khỏi một hội thánh đã được thành lập và ít
|
nhiều được xây dựng, họ chỉ định các trưởng lão để gánh vác
|
trách nhiệm tại đó (14:23). Đây là một trong những phần quan
|
trọng nhất của công tác sứ đồ. (Đề tài này sẽ được bàn đến
|
cách đầy đủ hơn trong chương sau).
|
Như vậy các sứ đồ ban đầu đã công tác, và phước hạnh của
|
Chúa giáng trên công lao khó nhọc của họ. Chúng ta sẽ được
|
ích lợi nếu noi theo dấu chân của họ, nhưng chúng ta phải biết
|
rõ rằng chúng ta tuy tiếp nhận phương pháp của các sứ đồ,
|
nhưng nếu không có sự dâng mình của các sứ đồ, đức tin của
|
các sứ đồ, quyền năng của các sứ đồ, thì chúng ta vẫn không có
|
được kết quả của các sứ đồ. Chúng ta không dám xem nhẹ giá
|
trị của phương pháp các sứ đồ — những phương pháp ấy hết
|
sức quan trọng nếu chúng ta muốn có bông trái của các sứ đồ —
|
nhưng chúng ta không được bỏ qua việc chúng ta cần có tính
|
chất thuộc linh của các sứ đồ, và chúng ta không được sợ sự bắt
|
“Từ đó họ đáp thuyền đến An-ti-ốt, là chỗ họ đã được giao
|
thác cho ân điển Đức Chúa Trời, để làm công việc mình vừa
|
mới làm xong. Khi hai người đã đến nơi, bèn nhóm họp hội
|
thánh, thuật lại mọi việc Đức Chúa Trời đã đồng công với
|
mình, và Ngài đã mở cửa đức tin cho người Ngoại bang là thể
|
nào” (14:26-27). Khi trở về An-ti-ốt các sứ đồ “thuật lại mọi
|
việc Đức Chúa Trời đã đồng công với mình”. Phao-lô và
|
Ba-na-ba đã ra đi từ An-ti-ốt, cho nên khi trở về, họ có tường
|
thuật với hội thánh nhà cách Chúa đã đối xử với mình là điều
|
thích đáng thôi. Tường thuật công tác cho những người thật sự
|
mang gánh nặng với chúng ta là điều Lời Chúa tán thành. Con
|
cái Đức Chúa Trời tại hậu cứ được cho biết những gì Ngài hành
|
động nơi tiền tuyến là điều không những được phép, mà còn là
|
cần thiết; nhưng tốt nhất là chúng ta phải làm sao cho lời
|
tường thuật của mình không mang tính chất quảng cáo.
|
Khi tường thuật, một mặt chúng ta nên tránh mọi sự dè dặt
|
thiếu tự nhiên và thu rút thuộc hồn; mặt khác, chúng ta phải
|
cẩn thận đề phòng kẻo tư lợi cá nhân nào len lỏi vào. Khi
|
tường thuật công tác, mục tiêu của chúng ta phải là tôn vinh
|
Đức Chúa Trời và đem lại sự phong phú thuộc linh cho người
|
nghe. Dùng lời tường thuật làm phương tiện tuyên truyền để
|
được lợi lộc vật chất là điều vô cùng thấp hèn, và không xứng
|
đáng cho bất cứ Cơ-đốc-nhân nào. Khi động cơ là tôn vinh Đức
|
Chúa Trời và đem lợi ích đến cho con cái Ngài, nhưng đồng
|
thời cũng là bày tỏ nhu cầu của công tác để được giúp đỡ về vật
|
chất, thì động cơ ấy vẫn không được Chúa chấp nhận và không
|
xứng đáng cho đầy tớ của Ngài. Mục tiêu của chúng ta chỉ là
|
Đức Chúa Trời được tôn vinh và con cái Ngài được phước. Nếu
|
có động cơ hoàn toàn thuần khiết khi tường thuật, thì cách
|
chúng ta diễn đạt sẽ khác biết bao!
|
Mỗi khi viết hay nói về công tác của mình, chúng ta hãy tự
|
hỏi những câu sau: (1) Tôi có đang tường thuật để được nhiều
|
người biết đến tôi và công tác của tôi không? (2) Tôi có đang
|
tường thuật để vừa tôn vinh Chúa vừa quảng cáo cho công tác
|
không? (3) Tôi có đang tường thuật với mục tiêu duy nhất là
|
Đức Chúa Trời được tôn vinh và con cái Ngài được phước
|
không? Nguyện Chúa ban ân điển cho chúng ta để tường thuật
|
với động cơ không pha trộn và với tấm lòng hoàn toàn thuần
|