"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:6870269
Đang truy cập:219

NẾP SỐNG HỘI THÁNH CƠ ĐỐC BÌNH THƯỜNG - CHƯƠNG 1

prednisolone dosage

buy prednisolone

lexapro side effects sleep

lexapro side effects anger click lexapro side effects shaking

is there a generic viagra

generic viagra

       

LỜI TỰA CHO ẤN BẢN ANH NGỮ

 


Sau khi tôi xuất bản quyển sách này bằng tiếng Hoa, nhiều

giáo sĩ hỏi tôi bản tiếng Anh. Tôi thấy do dự không biết có nên

đáp ứng yêu cầu của họ không, vì cá nhân tôi muốn cho dịch

những quyển khác trình bày chức vụ của tôi cách tốt hơn là

quyển này, là quyển dễ bị hiểu lầm và gây ra nhiều tranh luận.

Nhưng tâm ý Chúa dường như rất sáng tỏ, và với lòng tin chắc

ấy tôi đã tiến hành dịch quyển này. Quyển sách hiện có đây đã

được rút gọn nhiều và được sửa chữa chút ít từ bản tiếng Hoa.

Văn thể và cách diễn đạt trong ấn bản Anh ngữ đều không

được như ý, nhưng tôi tin rằng về phương diện này tôi có thể

nương cậy vào lòng khoan dung của người đọc. Nếu tất cả

những gì chúng ta muốn là lẽ thật của Đức Chúa Trời, thì dầu

sách có khó hiểu cũng sẽ không tạo nên ngăn trở nào đáng kể

Vì tính cách rộng lớn của chủ đề và tầm quan trọng của các

vấn đề trong chủ đề ấy, tôi thấy viết hoặc dịch quyển này

không phải là dễ. Vì một vài điểm tương đồng đã phải được

bàn đến trong những phần khác nhau của quyển sách này, nên

cần phải đọc từ đầu đến cuối nếu chúng ta muốn có được sự

hiểu biết đầy đủ. Nếu bỏ ngang không đọc hết quyển do gặp

khó khăn dường như không thể khắc phục được, chúng ta sẽ có

quan điểm sai lầm; trong khi đó, bằng cách đọc trọn quyển,

nhiều nan đề, nếu không phải là tất cả, sẽ được sáng tỏ. Thông

thường các thắc mắc dấy lên ở những điểm nào đó sẽ được giải

đáp về sau — đôi khi là khá lâu sau đó. Vì vậy để đối xử công

bình với quyển sách này, xin người đọc hãy đọc trọn quyển

Chúng tôi không có ý định viết quyển sách này cho mọi

người. Quyển sách này chỉ dành cho những ai gánh vác trách

nhiệm trong sự phục vụ Chúa. Nhưng hơn thế nữa, nó được

dành cho những ai chân thành và thực sự hết lòng với Đức 

Chúa Trời, cho những ai chịu mở lòng, không khép kín tâm trí

hay không có thành kiến. Quyển sách này thử nghiệm không ít

sự thành thật và chân thành của người đọc; nhưng lòng khao

khát thật và niềm ao ước được biết ý tưởng đầy trọn của Chúa

sẽ giúp chúng ta đọc kỹ càng đến trang cuối cùng. Tôi nhận

biết rất rõ quyển sách này có nhiều khiếm khuyết (đây không

phải là làm ra vẻ nhún nhường, nhưng là lời thú nhận thật sự);

nhưng dầu vậy, tôi tin rằng Chúa đã bày tỏ một điều thật quan

trọng cho toàn Thân Thể Đấng Christ.

Sau lần đọc thứ nhất, toàn bộ vấn đề sẽ dần dần hình

thành nơi người đọc và trở nên sáng tỏ hơn qua việc từ từ suy

gẫm. Đừng đóng sập cửa lại và nói: “Không thể có điều đó

được!” hay “Lý tưởng, nhưng không thực tế!” Với tấm lòng mở

ra trong tinh thần cầu nguyện, không bàn cãi hay tranh luận,

chúng ta hãy cho Linh của Lẽ thật một cơ hội, và rồi điều gì đó

của Ngài sẽ làm cho mọi phản ứng thiên nhiên của chúng ta

dần dần tiêu biến đi, và chúng ta sẽ biết lẽ thật và lẽ thật sẽ

giải phóng chúng ta!

Tôi xin nhắc nhở người đọc rằng sách này không phải để

nghiên cứu như một giả thuyết. Tôi có khá đông đồng công đã

được sai phái đi và đang công tác theo chiều hướng được bày tỏ,

và có nhiều hội thánh hơn nữa đã được thành lập và phát triển

trên nền tảng đề cập ở đây. Cho nên các vấn đề được đưa ra

trong những trang này không chỉ là lý thuyết hay sự dạy dỗ

suông, mà là điều chúng tôi đã thật sự thử nghiệm.

Một trong những lời cầu nguyện tôi dâng lên Chúa về quyển

sách này là xin Chúa giữ nó khỏi những người chống đối muốn

dùng nó làm cớ để công kích, và cũng xin Chúa giữ nó khỏi

những người đồng ý và muốn dùng nó làm cẩm nang để phục

vụ. Tôi sợ loại người thứ hai hơn loại người thứ nhất.

 

Luân-đôn

Tháng Tư năm 1939

Watchman Nee

 

LỜI GIỚI THIỆU

 

 

CẦN THIẾT ĐỂ HIỂU QUYỂN SÁCH NÀY

 


Những trang sau đây là nội dung của nhiều cuộc nói chuyện

với các đồng công trẻ tuổi trong những kỳ hội đồng gần đây tổ

chức tại Thượng Hải và Hán Khẩu. Khi chia sẻ những bài ấy,

tôi không nghĩ đến quyển sách này, mà chỉ nghĩ đến các thính

giả trực tiếp của mình lúc đó, và tôi định ý dùng những bài ấy

để hướng dẫn các đồng công trẻ tuổi của mình. Những sự kiện

ấy giải thích lý do vì sao các bài giảng này có tính chất vô cùng

thực tế, và giải thích tại sao tôi sử dụng văn thể đơn giản.

Trong hai hội đồng ấy trước hết chúng tôi nghiên cứu sự dạy dỗ

của Lời Đức Chúa Trời về các hội thánh và công tác của Ngài,

và thứ hai là xem lại các sứ mạng của chúng tôi trong quá khứ

dưới ánh sáng của những gì chúng tôi đã tìm thấy.

Các anh em trẻ tuổi nhận biết giá trị những bài nói chuyện

ấy và vì họ ghi chép lại, nên các bài ấy được chia sẻ với những

người khác. Kết quả là nhiều người yêu cầu cho in các bài ấy

thành sách. Vì thành phần tham dự hội đồng chính yếu là các

đồng công trẻ tuổi của tôi, nên tôi cảm thấy được tự do dạy dỗ,

hướng dẫn họ và thảo luận khá thoải mái về nhiều vấn đề thân

mật và có phần tế nhị. Nếu dự định phổ biến những bài chia sẻ

ấy cho một cử tọa rộng rãi hơn, hẳn tôi đã cảm thấy bắt buộc

phải bỏ đi nhiều vấn đề đã đề cập, và rao giảng theo một chiều

hướng hoàn toàn khác. Vì vậy, tự nhiên là tôi do dự khi người

ta đề nghị xuất bản những bài giảng này, nhưng Chúa đã tỏ rõ

đó là ý của Ngài, nên tôi không còn cách nào khác hơn là chấp

thuận. Tôi tự hỏi không biết có nên giữ văn thể ban đầu của

___________________________

1

Từ ngữ “chúng tôi” được sử dụng suốt quyển sách này như giữa vòng các

đồng công, vì từ ngữ này cũng được các sứ đồ sử dụng trong sách Công-vụ

bài nói chuyện, với ít nhiều những lời khuyên của “bậc đàn

anh” và chiều hướng riêng tư thân mật hay không; nhưng vì

nhiều bạn hữu làm chứng rằng họ được giúp đỡ đặc biệt nhờ

những phần nói chuyện có tính cách riêng tư hơn, nên tôi nhận

biết quyển sách này sẽ mất đi giá trị lớn nhất của nó nếu loại

bỏ các phần ấy đi. Vì vậy, dầu tôi cho phổ biến các bài nói

chuyện đã được sửa chữa phần nào, về cả nội dung lẫn về văn

thể, chúng vẫn còn rất giống như khi được chia sẻ lần đầu.

Chúng tôi tin rằng những người đọc quyển sách này sẽ ghi

nhớ rằng các bài chia sẻ ban đầu vốn không định dành cho họ.

Theo dự tính, những bài chia sẻ này chỉ dành riêng cho những

người thân cận của tôi trong công tác, nhưng theo yêu cầu,

chúng tôi chia sẻ những gì mình khám phá được với mọi anh

em. Quyển sách này vốn có tính cách riêng tư nhưng lại được

đem phổ biến, ban đầu dự định dành cho ít người bây giờ mở

rộng ra cho nhiều người; cho nên chúng tôi tin rằng người đọc

sẽ lượng thứ cho bất cứ điều gì dường như không thích hợp với

quần chúng rộng rãi.

Chúng tôi muốn nêu lên ở đây rằng vị trí của những sự dạy

dỗ trong sách này thì nằm trong phần chủ yếu của lẽ thật thần

thượng, vì những sự dạy dỗ ấy chỉ có giá trị thuộc linh khi

chúng được giữ trong mối liên hệ với phần chủ yếu của lẽ thật

thần thượng. Suốt mười tám năm qua, Chúa đã dẫn dắt chúng

tôi qua những kinh nghiệm khác nhau để chúng tôi học tập

được một chút về nguyên tắc cũng như sự kiện về thập tự giá

và sự phục sinh, và học được ít nhiều về sự sống-Đấng Christ,

quyền làm Chúa của Giê-su, sự sống tập thể của Thân Thể, nền

tảng của vương quốc Đức Chúa Trời và mục đích đời đời của

Ngài. Vì vậy tự nhiên những điều đó đã và đang là gánh nặng

trong chức vụ chúng tôi. Nhưng rượu của Đức Chúa Trời phải có

bầu da để chứa. Trong khuôn mẫu thần thượng, không có gì

dành cho con người quyết định. Chính Đức Chúa Trời đã cung

ứng bầu da tốt nhất cho rượu của Ngài, là chiếc bình chứa đựng

và giữ gìn rượu không bị mất, bị cản trở hay không còn trình

bày sai [về chính Ngài].  Ngài không những bày tỏ cho chúng

tôi rượu của Ngài, mà còn bày tỏ cho chúng tôi bầu da nữa.

Suốt những năm qua, công tác của chúng tôi vẫn theo một

số nguyên tắc rõ ràng; nhưng cho đến nay chưa bao giờ chúng

tôi tìm cách định nghĩa hay dạy dỗ các nguyên tắc đó. Dầu vậy

trong quyền năng của Linh, chúng tôi tìm cách nhấn mạnh

những lẽ thật ấy, là những lẽ thật rất yêu dấu đối với lòng

chúng tôi và là những lẽ thật mà chúng tôi tin là có liên hệ

mật thiết đến đời sống thuộc linh của người tín đồ và mục đích

đời đời của Đức Chúa Trời. Nhưng thực hành các lẽ thật ấy

trong sự phục vụ Chúa không phải là không quan trọng. Không

có điều đó, mọi sự đều ở trong lãnh vực lý thuyết và không thể

nào có sự tăng trưởng thuộc linh. Cho nên nhờ ân điển của Đức

Chúa Trời, chúng tôi muốn tìm cách không những chuyển đạt

rượu ngon của Ngài, nhưng cả bầu da mà Ngài đã cung ứng để

bảo vệ rượu ngon. Vì vậy các lẽ thật được nêu lên trong quyển

sách này phải được suy xét trong mối liên hệ với các lẽ thật

được dạy dỗ suốt mười tám năm chức vụ của chúng tôi, và là sự

tiếp nối, chứ không phải là sự giới thiệu, của những năm ấy.

Trong phạm vi những trang sách này, tôi không thể nào

bàn về tất cả những vấn đề liên quan đến đề tài của sách. Một

số vấn đề đã được bàn đến ở những quyển khác, còn những vấn

đề khác tôi hi vọng sẽ bàn đến sau này. Tựa sách giải thích

bản chất của nó. Đây không phải là luận thuyết về các phương

pháp truyền giáo, nhưng là phần ôn lại công tác của chúng tôi

trong quá khứ dưới ánh sáng của ý muốn Đức Chúa Trời mà

chúng tôi đã khám phá được trong Lời Ngài. Bởi Linh của

Ngài, Chúa đã dẫn dắt chúng tôi cách đầy ân điển hơn hết

trong sự phục vụ Ngài trong quá khứ, nhưng chúng tôi muốn

được sáng tỏ về nền tảng mà mọi công tác thần thượng cần

nương dựa trên đó. Tôi nhận thức rằng nhu cầu chủ yếu của các

anh em trẻ tuổi là được Linh dẫn dắt và được nhận lãnh khải

thị từ Ngài, nhưng tôi không thể lơ là nhu cầu của họ về một

nền tảng vững chắc phù hợp với Kinh Thánh cho trọn cả chức

vụ của họ. Vì vậy, chúng tôi đã thẳng thắn đàm luận với nhau

về những gì chúng tôi đã làm, và phương cách chúng tôi đã

làm, và tìm cách so sánh công tác và phương pháp của chúng

tôi với điều Đức Chúa Trời đã đặt trước mặt chúng ta trong Lời

Ngài. Chúng tôi xem xét những lý do phù hợp với Kinh Thánh

cho các phương tiện chúng tôi sử dụng và sự biện minh phù hợp

với Kinh Thánh cho cứu cánh chúng tôi theo đuổi; và chúng tôi

ghi nhận những bài học mà mình đã học được nhờ quan sát

cũng như nhờ kinh nghiệm. Chúng tôi không có ý phê phán

công lao của người khác, thậm chí không hề gợi ý với họ là

công tác của Đức Chúa Trời cần phải được tiến hành theo cách

nào; chúng tôi chỉ tìm cách học hỏi từ Lời Đức Chúa Trời, từ

kinh nghiệm và từ sự quan sát cách tiến hành công tác trong

những ngày tới, để chúng tôi có thể là những người làm công

“được Đức Chúa Trời chấp thuận”.

Quyển sách này được viết theo quan điểm của một đầy tớ

nhìn từ công tác hướng về các hội thánh. Sách này không bàn

đến chức vụ cụ thể mà chúng tôi tin rằng Chúa đã kêu gọi

chúng tôi, nhưng chỉ bàn đến những nguyên tắc chung của công

tác; sách này cũng không bàn đến “hội thánh, là Thân Thể

Ngài”, nhưng bàn đến các hội thánh địa phương và mối liên hệ

của các hội thánh với công tác. Sách này không bàn đến các

nguyên tắc của công tác, hay nếp sống của các hội thánh, mà

chỉ ôn lại các sứ mạng của chúng tôi, như tựa đề sách nêu lên.

Các lẽ thật được nêu lên trong sách này đã dần dần được

học tập và thực hành suốt những năm qua. Có nhiều điều được

điều chỉnh khi chúng tôi nhận được ánh sáng lớn hơn, và nếu

chúng tôi tiếp tục khiêm nhường và Đức Chúa Trời vẫn bày tỏ

sự thương xót cho chúng tôi, chúng tôi tin rằng sẽ còn những

điều chỉnh thêm nữa trong tương lai. Trong ân điển của Ngài,

Chúa đã ban cho chúng tôi nhiều đồng công, tất cả những

người ấy đã được sai phái ra đi trên nền tảng đã được đề cập

trong sách này, và qua công lao của họ nhiều hội thánh đã được

thành lập ở những miền khác nhau tại Trung Quốc. Dầu tình

trạng những hội thánh này rất khác nhau, và các tín đồ liên hệ

đến các hội thánh ấy cũng rất khác nhau — về bối cảnh, học

vấn, địa vị xã hội và kinh nghiệm thuộc linh — nhưng chúng

tôi đã khám phá ra rằng dưới quyền làm Chúa tuyệt đối của

Giê-su, nếu chúng ta đến xem kiểu mẫu thiên thượng về sự

hình thành và quản trị hội thánh, thì những phương pháp của

Kinh Thánh vừa có thể áp dụng được trong thực tế, vừa rất kết

quả.

Dầu sách này dường như bàn đến phương diện kỹ thuật của

Đạo Đấng Christ, điều cần nhấn mạnh ở đây là chúng tôi

không chỉ nhắm đến sự đúng đắn về mặt kỹ thuật. Điều chúng

tôi theo đuổi là thực tại thuộc linh. Nhưng tính cách thuộc linh

không phải là vấn đề lý thuyết, mà luôn luôn dẫn đến sự thực

hành; sách này bàn đến tình trạng thuộc linh trong công tác

thực tế.

Đối với tôi, thật là mệt mỏi nếu không nói là kinh khủng

khi phải nói chuyện với những người chỉ nhắm đến sự đúng

đắn hoàn hảo bề ngoài, trong khi không mấy quan tâm đến

điều gì sống động và thuộc linh. Vì vậy, các phương pháp

truyền giáo không thu hút tôi chút nào. Thật ra, tôi cảm thấy

đau buồn sâu xa khi gặp những con cái của Đức Chúa Trời

không biết gì về tình trạng đáng ghét của một đời sống trong

năng lực thiên nhiên của con người và chỉ biết rất ít về kinh

nghiệm trọng yếu thuộc quyền làm đầu của Giê-su Christ, thế

mà lại cẩn thận từng li từng tí để đạt đến chỗ hoàn toàn chính

xác về phương pháp trong sự phục vụ Đức Chúa Trời. Nhiều lần

người ta nói với chúng tôi: “Chúng tôi đồng ý với các anh về

mọi sự”. Nhưng thật ra không phải như vậy! Trên thực tế

chúng ta không đồng ý với nhau chút nào! Chúng tôi hi vọng

quyển sách này sẽ không rơi vào tay những người muốn cải

thiện công tác của họ bằng cách cải tiến phương pháp mà

không điều chỉnh mối quan hệ của họ với Chúa; nhưng chúng

tôi thật hi vọng quyển sách này có một thông điệp cho những

người khiêm nhường muốn học tập sống trong quyền năng của

Linh và không tin cậy xác thịt chút nào.

Có bầu da mà không có rượu là chết, nhưng có rượu mà

không có bầu da thì cũng mất mát. Chúng ta phải có bầu da

sau khi có rượu. Phao-lô viết thư Ê-phê-sô, nhưng ông cũng viết

thư Cô-rin-tô; và thư Cô-rin-tô trình bày cho chúng ta các lẽ

thật của thư Ê-phê-sô trong biểu hiện thực tế. Phải, người viết

thư Ê-phê-sô cũng là người viết thư Cô-rin-tô! Thế thì tại sao

các con cái của Đức Chúa Trời chưa bao giờ tranh luận gay gắt

về các lẽ thật của thư Ê-phê-sô, nhưng lại luôn luôn tranh cãi

về các lẽ thật của thư Cô-rin-tô? Vì lãnh vực của thư Ê-phê-sô

là cõi thiên thượng và những lẽ thật ấy thuần thuộc linh, cho

nên nếu có sự bất đồng ý kiến nào về những lẽ thật ấy thì

không ai cảm nhận rõ; nhưng những sự dạy dỗ của thư

Cô-rin-tô thì thực tế và bàn đến lãnh vực thuộc đất, cho nên

nếu có ý kiến khác biệt một chút thì người ta phản ứng ngay

lập tức. Phải, thư Cô-rin-tô rất thực tế! Và thư này thử nghiệm

sự vâng phục của chúng ta nhiều hơn thư Ê-phê-sô!

Những người ít biết về sự sống và thực tại có hiểm họa chỉ

nhấn mạnh đến sự đúng đắn bề ngoài; nhưng những người kể

sự sống và thực tại là tối quan trọng lại bị cám dỗ ném bỏ

khuôn mẫu thần thượng của nhiều điều, nghĩ rằng khuôn mẫu

ấy là luật pháp và kỹ thuật. Họ cảm thấy họ có điều quan

trọng hơn và do đó không cần đến điều thấp kém hơn. Hậu quả

là càng thuộc linh, người ta càng cảm thấy mình được tự do hơn

để làm những gì mình nghĩ là thích hợp. Người ấy nghĩ rằng

mình có quyền định đoạt những sự việc bề ngoài, và cho rằng

bỏ qua những mạng lệnh của Đức Chúa Trời về những sự việc

bề ngoài là dấu chỉ mình đã được được giải cứu khỏi luật pháp

và đang bước đi trong sự tự do của Linh. Nhưng Đức Chúa Trời

không những bày tỏ các lẽ thật về sự sống bề trong của chúng

ta; Ngài cũng bày tỏ lẽ thật liên quan đến biểu hiện bề ngoài

của sự sống ấy. Đức Chúa Trời đánh giá cao thực tại bề trong,

nhưng Ngài không bỏ qua biểu hiện bề ngoài của thực tại ấy.

Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta Ê-phê-sô, Rô-ma và

Cô-lô-se, nhưng Ngài cũng ban cho chúng ta Công-vụ, các Thư

tín gửi cho Ti-mô-thê, và các Thư tín gửi cho người Cô-rin-tô.

Có lẽ chúng ta nghĩ rằng Đức Chúa Trời dùng Rô-ma, Ê-phê-sô

và Cô-lô-se dạy dỗ chúng ta về sự sống của mình trong Đấng

Christ là đủ rồi, nhưng Ngài cho rằng Ngài dùng Công-vụ,

Cô-rin-tô và Ti-mô-thê dạy dỗ chúng ta cách thi hành công tác

và cách tổ chức Hội Thánh là cần thiết. Đức Chúa Trời không

chừa điều gì cho sự tưởng tượng hay ý muốn của con người. Con

người sợ dùng những đầy tớ không biết suy nghĩ, nhưng Đức

Chúa Trời không muốn dùng những đầy tớ suy nghĩ quá nhiều;

tất cả những gì Ngài đòi hỏi con người là vâng phục cách đơn

sơ. “Ai đã làm mưu sĩ cho Ngài ư?” Phao-lô đã hỏi như vậy (Rô

11:34). Con người rất muốn giữ chức vụ ấy, nhưng Đức Chúa

Trời không cần cố vấn. Vị trí của chúng ta không phải là đề

nghị công tác thần thượng nên được thực hiện như thế nào, mà

là trong mọi sự chúng ta phải hỏi: “Ý muốn của Chúa là gì?”

Người Pha-ri-si rửa sạch ngoài mâm, nhưng trong mâm thì

đầy dẫy sự ô uế. Chúa chúng ta quở trách họ vì quá coi trọng

những điều bề ngoài và bỏ qua những điều bên trong; từ lời quở

trách của Chúa, nhiều con cái Chúa kết luận rằng mọi sự đều

tốt đẹp miễn là chúng ta chú trọng đến phương diện bề trong

của lẽ thật thuộc linh. Nhưng Đức Chúa Trời đòi hỏi sự tinh

sạch cả trong lẫn ngoài. Có bề ngoài mà không có bề trong là

chết thuộc linh, nhưng có bề trong mà không có bề ngoài thì

chỉ là sự sống thuộc linh hóa. Và thuộc linh hóa không phải là

thuộc linh. Chúa chúng ta phán: “Những điều này các ngươi cần

phải làm, mà những điều kia cũng không nên bỏ sót” (Math.

23:23). Dầu một mạng lệnh thiên thượng có vẻ kém quan trọng

đến đâu chăng nữa, mạng lệnh ấy vẫn nói lên ý muốn của Đức

Chúa Trời; vì vậy, chúng ta đừng bao giờ xem thường. Chúng ta

không thể bỏ qua mạng lệnh nhỏ nhất của Ngài mà không bị

trừng phạt. Những điều Ngài đòi hỏi có thể có tầm quan trọng

khác nhau, nhưng mọi sự thuộc về Đức Chúa Trời đều có mục

đích đời đời và giá trị đời đời. Dĩ nhiên, sự giữ hình thức bề

ngoài của sự phục vụ không có giá trị thuộc linh nào. Mọi lẽ

thật thuộc linh, dầu liên quan đến sự sống bề trong hay bề

ngoài, đều rất có thể bị luật pháp hóa. Mọi sự thuộc về Đức

Chúa Trời — dầu là bề trong hay bề ngoài — nếu ở trong Linh

đều là sự sống, nếu ở trong văn tự đều là sự chết. Cho nên vấn

đề không phải điều đó thuộc bề trong hay bề ngoài, nhưng điều

đó ở trong Linh hay trong văn tự. “Văn tự làm cho chết, còn

thần linh (RcV: Linh) làm cho sống” (2 Côr. 3:6).

Mong ước của chúng tôi là chấp nhận và công bố toàn bộ

Lời Đức Chúa Trời. Chúng tôi khao khát có thể cùng nói với

Phao-lô: “Vì tôi không tránh trút mà rao giảng cho anh em cả

chỉ định của Đức Chúa Trời” (Công 20:27). Chúng ta tìm cách

đi theo sự dẫn dắt của Linh Đức Chúa Trời, nhưng đồng thời

cũng chú tâm đến đến những gương mẫu được bày tỏ cho chúng

ta trong Lời Ngài. Sự dẫn dắt của Linh rất quí báu, nhưng nếu

không có gương mẫu nào trong Lời, chúng ta dễ thay thế sự

dẫn dắt của Linh bằng các tư tưởng sai lầm và cảm xúc vô căn

cứ của mình, trôi dạt vào lỗi lầm mà không biết. Nếu một

người không được chuẩn bị để vâng phục ý muốn của Đức Chúa

Trời trong mỗi một lời chỉ dẫn, thì rất dễ làm những điều trái

ngược với Lời Ngài mà vẫn tưởng mình đang được Linh Ngài

dẫn dắt. Chúng tôi nhấn mạnh tính cách thiết yếu của việc vừa

đi theo sự dẫn dắt của Linh vừa đi theo những gương mẫu trong

Lời, vì bằng cách so sánh đường lối của mình với Lời thành

văn chúng ta có thể khám phá ra nguồn dẫn dắt mình. Sự

hướng dẫn của Linh sẽ luôn luôn hòa hợp với Kinh Thánh.

Cách Đức Chúa Trời dẫn dắt con người trong sách Công-vụ

không thể khác với cách Ngài dẫn dắt con người ngày nay. Về

bề ngoài sự dẫn dắt có thể khác, nhưng theo nguyên tắc thì

luôn luôn giống nhau; vì ý muốn của Đức Chúa Trời là đời đời,

vì vậy ý muốn ấy không thay đổi. Đức Chúa Trời là Đức Chúa

Trời đời đời; Ngài không quan tâm đến thời gian, và ý muốn

cùng đường lối của Ngài đều mang dấu ấn đời đời. Do đó, Đức

Chúa Trời không bao giờ có thể hành động lúc như vầy lúc thế

khác. Hoàn cảnh có thể khác nhau và các trường hợp có thể

khác nhau, nhưng trên nguyên tắc thì ý muốn và đường lối của

Đức Chúa Trời ngày nay cũng như vào thời của sách Công-vụ

đều giống nhau.

Đức Chúa Trời phán với người Y-sơ-ra-ên: “Ấy vì lòng cứng

cỏi của các ngươi nên Môi-se cho phép các ngươi để vợ” (Math.

19:8), nhưng Chúa Giê-su nói: “Những kẻ mà Đức Chúa Trời đã

phối hiệp, người ta chớ chia rẽ” (Math. 19:6). Ở đây có sự khác

biệt không? Không! “Ấy vì lòng cứng cỏi của các ngươi nên

Môi-se cho phép các ngươi để vợ, nhưng từ ban đầu không có

như vậy đâu” (Math. 19:8). Không phải ban đầu được phép rồi

về sau bị cấm, và về sau nữa lại được phép, dường như Đức

Chúa Trời thay đổi. Không, Chúa nói: “Từ ban đầu không có

như vậy đâu” bày tỏ rằng ý muốn của Đức Chúa Trời không bao

giờ thay đổi. Từ ban đầu cho đến ngày nay vẫn y nguyên. Đây

là nguyên tắc quan trọng nhất. Nếu muốn biết tâm trí của Đức

Chúa Trời, chúng ta phải nhìn vào các mạng lệnh của Ngài

trong Sáng-thế Ký và đừng nhìn vào những gì Ngài cho phép

về sau, vì mỗi một điều cho phép về sau có lời giải thích này:

“vì lòng cứng cỏi của các ngươi”. Chúng ta muốn khám phá ý

muốn trực tiếp của Đức Chúa Trời, không phải ý muốn cho

phép của Ngài. Chúng ta muốn thấy mục đích của Đức Chúa

Trời từ ban đầu. Chúng ta muốn thấy sự việc như thế nào khi

bắt nguồn trong sự thuần khiết trọn vẹn từ tâm trí của Đức

Chúa Trời, chứ không phải sự việc đã trở nên thế nào do sự

cứng lòng của dân Ngài.

Nếu muốn hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời về Hội Thánh

Ngài, chúng ta không được nhìn xem cách Ngài dẫn dắt dân

Ngài năm ngoái, hay cách đây mười năm, hay cách đây một

trăm năm, nhưng chúng ta phải trở lại từ đầu, trở về với

“Sáng-thế Ký” của Hội Thánh, để xem khi ấy Ngài nói và làm

những gì. Tại đó chúng ta sẽ thấy biểu hiện cao nhất của ý

muốn Ngài. Công-vụ là “Sáng-thế Ký” của lịch sử Hội Thánh,

và Hội Thánh vào thời Phao-lô là “Sáng-thế Ký” về công tác

của Linh. Tình trạng trong Hội Thánh ngày nay rất khác với

tình trạng thời ấy, nhưng tình trạng ngày nay không thể là

khuôn mẫu của chúng ta, không thể là sự dẫn dắt có thẩm

quyền cho chúng ta. Chúng ta phải trở lại thuở ban đầu. Chỉ có

điều gì Đức Chúa Trời đưa ra làm khuôn mẫu cho chúng ta từ

đầu mới là ý muốn đời đời của Đức Chúa Trời. Đó là tiêu chuẩn

thần thượng và khuôn mẫu của chúng ta mãi mãi.

Có lẽ cần phải giải thích đôi lời về những khuôn mẫu Đức

Chúa Trời đã ban cho chúng ta trong Lời Ngài. Đạo Đấng

Christ không những được xây dựng trên các lời giáo huấn, mà

cũng trên những khuôn mẫu nữa. Đức Chúa Trời đã bày tỏ ý

muốn Ngài, không những bằng cách ban những huấn lệnh mà

cũng bằng cách cho những sự việc được thực hiện trong Hội

Thánh Ngài, để trong các thời đại về sau, những người khác có

thể chỉ nhìn vào khuôn mẫu mà biết ý muốn Ngài. Đức Chúa

Trời không chỉ hướng dẫn dân Ngài bằng những nguyên tắc

trừu tượng và những luật lệ khách quan, mà còn bởi những

gương mẫu cụ thể và kinh nghiệm chủ quan. Đức Chúa Trời

thật có dùng những lời giáo huấn để dạy dỗ dân Ngài, nhưng

một trong những phương pháp dạy dỗ chính yếu là qua lịch sử.

Đức Chúa Trời bày tỏ cho chúng ta những người khác đã biết

và thực hiện ý muốn Ngài như thế nào, để rồi bằng cách nhìn

vào đời sống họ, chúng ta không những biết ý muốn của Ngài,

mà còn thấy cách thực hiện ý muốn ấy nữa. Ngài hành động

trong đời sống họ, sản sinh ra trong họ những gì chính Ngài

mong muốn, và Ngài khuyên chúng ta nhìn vào họ, để có thể

biết những gì Ngài theo đuổi.

Như vậy, chúng ta có được nói rằng vì Đức Chúa Trời không

truyền lệnh phải làm một điều gì đó nên chúng ta không cần

làm? Nếu chúng ta đã thấy cách Ngài đối xử với loài người

trong quá khứ, nếu chúng ta đã thấy cách Ngài dẫn dắt dân

Ngài và xây dựng Hội Thánh Ngài, chúng ta vẫn có thể viện cớ

rằng mình không biết ý muốn của Ngài sao? Một đứa trẻ có cần

phải được chỉ bảo cách rõ ràng tường tận phải làm mọi chuyện

như thế nào không? Có cần phải cho nó biết từng điều một cái

nào được phép làm và cái nào không được phép làm không?

Không phải là có nhiều điều “đứa trẻ” có thể học tập chỉ bằng

cách quan sát cha mẹ hay anh chị mình sao? Chúng ta học nơi

những gì mình thấy nhanh chóng và dễ dàng hơn những gì

mình nghe, và ấn tượng do những gì chúng ta thấy cũng sâu

đậm hơn. Đó là lý do vì sao Đức Chúa Trời ban cho chúng ta

rất nhiều sự kiện lịch sử trong Cựu Ước và sách Công-vụ các Sứ

Đồ trong Tân Ước. Ngài biết chúng ta học qua gương mẫu dễ

dàng hơn là học qua lời giáo huấn. Các gương mẫu có giá trị

lớn hơn những lời giáo huấn, vì lời giáo huấn thì trừu tượng

trong khi gương mẫu là lời giáo huấn được thực hiện. Bằng

cách nhìn vào gương mẫu, không những chúng ta biết lời giáo

huấn của Đức Chúa Trời là gì, mà chúng ta còn có sự trình bày

cụ thể về việc thi hành lời giáo huấn. Nếu cố gắng loại bỏ các

gương mẫu khỏi Đạo Đấng Christ và chỉ để lại các lời giáo

huấn, thì chúng ta không còn lại bao nhiêu. Các lời giáo huấn

có chỗ của chúng, nhưng gương mẫu cũng có một vị trí không

kém quan trọng, tuy nhiên rõ ràng là nếu không có sự sống

tương hợp ở bên trong thì phỏng theo khuôn mẫu thần thượng

cách bề ngoài chỉ là hình thức mà thôi.

Để kết luận, tôi xin nhấn mạnh rằng đây không phải là một

quyển sách về các phương pháp truyền giáo. Chúng ta không

nên khinh thường phương pháp, nhưng trong sự phục vụ Đức

Chúa Trời, điều quan trọng nhất là con người chứ không phải

phương pháp của con người. Nếu một người không đúng đắn,

thì các phương pháp đúng đắn không ích lợi gì cho người ấy

hay cho công tác của người ấy. Phương pháp xác thịt thích hợp

với người xác thịt, và phương pháp thuộc linh thích hợp với

người thuộc linh. Người xác thịt mà dùng phương pháp thuộc

linh thì chỉ dẫn đến tình trạng rối loạn và thất bại. Quyển

sách này dành cho những ai đã học biết ít nhiều về thập tự giá,

biết sự bại hoại của bản chất con người, và tìm cách bước đi

theo Linh, không theo xác thịt. Mục tiêu của quyển sách này là

giúp những người thừa nhận quyền làm Chúa của Đấng Christ

trong mọi sự, và tìm cách phục vụ Ngài theo cách Ngài chỉ

định, chứ không theo cách họ chọn lựa. Nói cách khác, quyển

sách này được viết cho những người đã tiếp nhận những lẽ thật

trong Ê-phê-sô, để họ có thể biết cách bày tỏ sự phục vụ của

mình theo Cô-rin-tô. Mong rằng không một người đọc nào dùng

quyển sách này làm cơ sở để điều chỉnh công tác cách bề ngoài,

mà không để thập tự giá triệt để xử lý sự sống thiên nhiên của

mình.

Trong công tác của Đức Chúa Trời, mọi sự tùy thuộc vào loại

công tác viên được sai đi và loại người hoán cải được sinh ra.

Về phần người hoán cải, điều thiết yếu là phải có sự tân sinh

thật sự của Thánh Linh và mối liên hệ sống động với Đức Chúa

Trời. Về phần công tác viên, ngoài sự thánh khiết cá nhân và

sự ban cho ân tứ để phục vụ, điều thiết yếu là người ấy có sự

hiểu biết trong kinh nghiệm về ý nghĩa sự phó thác cho Đức

Chúa Trời và đức tin nơi sự quan phòng tể trị của Ngài. Nếu

không, dầu phương pháp được áp dụng có phù hợp với Kinh

Thánh đến đâu chăng nữa, kết quả vẫn là trống rỗng và thất

bại.


Tôi xin phó thác quyển sách này cho Chúa và dân Ngài, với

lời cầu nguyện là xin Ngài dùng nó cho vinh quang Ngài theo ý

Ngài.

 


Thượng Hải

Tháng Giêng 1938

Watchman Nee

 


 

CHƯƠNG MỘT

CÁC SỨ ĐỒ

 


Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời công tác. Chúa chúng ta

phán: “Cha Ta vẫn làm việc cho đến bây giờ”. Ngài có một mục

đích cụ thể, và toàn bộ công tác của Ngài đều nhắm vào việc

hoàn thành mục đích ấy. Ngài là Đức Chúa Trời “làm mọi sự

theo quyết nghị của ý chỉ Ngài”. Nhưng Đức Chúa Trời không

trực tiếp làm mọi sự. Ngài hành động qua các đầy tớ Ngài.

Giữa vòng các đầy tớ của Đức Chúa Trời các sứ đồ là những

người quan trọng nhất. Chúng ta hãy nghiên cứu kỹ Lời Đức

Chúa Trời để xem Lời dạy gì về các sứ đồ.

 


VỊ SỨ ĐỒ ĐẦU TIÊN

 


Khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến

thế gian để thực hiện công tác của Ngài. Ngài được biết đến là

Đấng Christ của Đức Chúa Trời, tức là “Đấng được xức dầu”. Từ

ngữ “Con” liên hệ đến Thân Vị của Ngài; danh hiệu “Christ”

liên hệ đến chức vụ của Ngài. Ngài là Con Đức Chúa Trời,

nhưng Ngài được sai đến để làm Đấng Christ của Đức Chúa

Trời. “Christ” là tên của Con Đức Chúa Trời trong chức vụ.

Chúa chúng ta không tự ý đến trên đất hay lên thập tự giá;

Ngài không tự chỉ định, mà được sai đi. Trong suốt Phúc-âm

Giăng, chúng ta thường thấy Ngài nói về Đức Chúa Trời là

“Đấng đã sai Ta”, chứ không là “Đức Chúa Trời” hay “Cha”.

Ngài nhận lấy vị trí của người được sai đi. Nếu Con Đức Chúa

Trời còn như vậy, thì các đầy tớ của Ngài lại càng nên áp dụng

thái độ ấy cho mình là dường nào! Nếu thậm chí Con còn

không thể khởi xướng trong công tác của Đức Chúa Trời, lẽ nào

chúng ta có thể khởi xướng? Nguyên tắc đầu tiên cần lưu ý

trong công tác của Đức Chúa Trời là tất cả các công tác viên

của Ngài đều là những người được sai đi. Nếu không có sự ủy

nhiệm thần thượng thì không thể có công tác thần thượng.

Kinh Thánh đặc biệt gọi người được sai đi là sứ đồ. Ý nghĩa

của từ ngữ Hi-lạp này là “người được sai đi”. Chính Chúa là vị

Sứ đồ đầu tiên vì Ngài là người đầu tiên được Đức Chúa Trời

sai phái cách đặc biệt; vì vậy, Lời Kinh Thánh nói Ngài là “Sứ

đồ (BNC: Sứ giả)” (Hê 3:1).

 

 

MƯỜI HAI SỨ ĐỒ

 

 

Đang khi Chúa thi hành chức vụ sứ đồ của Ngài trên đất,

Ngài luôn luôn nhận thức rằng sự sống của Ngài trong xác thịt

có giới hạn. Vì vậy, thậm chí đang khi theo đuổi công tác mà

Cha ủy nhiệm, Ngài chuẩn bị một nhóm người để tiếp tục công

tác sau khi Ngài ra đi. Những người này cũng là các sứ đồ được

chỉ định. Họ không phải là những người tình nguyện; họ là

những người được sai đi. Chúng ta không thể nhấn mạnh đủ sự

kiện là mọi công tác thần thượng đều do ủy nhiệm chứ không

phải do lựa chọn.

Chúa chúng ta lựa chọn các sứ đồ này từ những ai? Họ được

lựa chọn từ trong các môn đồ Ngài. Tất cả những người được

Chúa sai đi vốn là các môn đồ. Không phải môn đồ nào cũng

nhất thiết phải là sứ đồ, nhưng tất cả các sứ đồ nhất thiết phải

là môn đồ; không phải tất cả môn đồ đều được lựa chọn cho

công tác, nhưng những ai được lựa chọn luôn luôn được lựa chọn

từ trong số các môn đồ của Chúa. Như vậy một sứ đồ phải có

hai sự kêu gọi; trước hết người ấy phải được gọi làm môn đồ, và

thứ hai người ấy phải được gọi làm sứ đồ. Trước hết người ấy

được kêu gọi từ giữa những con cái của thế gian để làm người

theo Chúa. Thứ hai người ấy được kêu gọi từ giữa những người

theo Chúa để làm người được Ngài sai đi.

Các sứ đồ được Chúa lựa chọn trong khi Ngài thi hành chức

vụ trên đất chiếm một vị trí đặc biệt trong Kinh Thánh, và họ

cũng chiếm một vị trí đặc biệt trong mục đích của Đức Chúa

Trời, vì họ ở với Con Đức Chúa Trời trong khi Ngài sống trong

xác thịt. Họ không chỉ là những sứ đồ được kêu gọi mà còn

được gọi là “mười hai sứ đồ.” Họ chiếm một vị trí đặc biệt trong

Lời Đức Chúa Trời, và họ chiếm một vị trí đặc biệt trong kế

hoạch của Đức Chúa Trời. Chúa chúng ta bảo Phi-e-rơ rằng một

ngày kia họ sẽ “ngồi trên ngôi mà xét đoán mười hai chi phái

Y-sơ-ra-ên” (Lu 22:30). Đấng là Sứ đồ có ngai của Ngài, và

mười hai sứ đồ cũng sẽ có ngai của họ nữa. Đó là đặc quyền

không được ban cho các sứ đồ khác. Khi Giu-đa mất chức vụ và

Đức Chúa Trời dẫn dắt mười một người còn lại chọn một người

để bù cho đủ số; chúng ta đọc thấy họ bắt thăm và thăm trúng

nhằm Ma-thia, “người bèn được liệt vào mười một sứ đồ” (Công

1:26). Trong chương tiếp theo chúng ta thấy Thánh Linh cảm

thúc người viết sách Công-vụ ghi rằng: “Bấy giờ Phi-e-rơ cùng

mười một sứ đồ đứng dậy” (Công 2:14), cho thấy Thánh Linh

thừa nhận Ma-thia là một trong mười hai sứ đồ. Ở đây chúng

ta thấy con số của các sứ đồ cố định; Đức Chúa Trời không

muốn nhiều hơn mười hai người, Ngài cũng không muốn ít hơn.

Trong sách Khải-thị chúng ta thấy sau cùng, một lần nữa, họ

giữ một địa vị đặc biệt — “Tường thành có mười hai nền, trên

đề mười hai danh của mười hai sứ đồ của Chiên Con” (Khải

21:14). Thậm chí trong trời mới và đất mới, mười hai sứ đồ sẽ

được hưởng địa vị đặc biệt mà các công tác viên khác của Đức

Chúa Trời không được hưởng.

 

 

CÁC SỨ ĐỒ VÀO THỜI KINH THÁNH

 

 

Chúa với tư cách là một sứ đồ thì độc nhất vô nhị, và mười

hai sứ đồ cũng độc nhất vô nhị; nhưng Đấng là Sứ đồ cũng như

mười hai sứ đồ không thể ở trên đất mãi mãi. Khi Chúa ra đi,

Ngài để lại mười hai người để tiếp tục công tác của Ngài. Nay

mười hai sứ đồ đã ra đi, vậy còn lại ai để tiếp tục thực hiện

công tác?

Chúa đã ra đi, nhưng Linh đã đến. Thánh Linh phải đến để

chịu mọi trách nhiệm về công tác của Đức Chúa Trời trên đất.

Con làm việc cho Cha; Linh làm việc cho Con. Con đến để hoàn

thành ý muốn của Cha; Linh đến để hoàn thành ý muốn của

Con. Con đến để tôn vinh Cha; Linh đến để tôn vinh Con. Cha

chỉ định Đấng Christ làm Sứ đồ; Con cũng chỉ định mười hai

người làm các sứ đồ trong khi ở trên đất. Bây giờ Con đã trở về

với Cha, và Linh ở trên đất chỉ định con người làm sứ đồ. Các

sứ đồ được Thánh Linh chỉ định không thể xếp vào hàng những

người mà Con đã chỉ định; tuy nhiên, họ cũng là các sứ đồ. Các

sứ đồ mà chúng ta đọc thấy trong Ê-phê-sô chương 4 rõ ràng

không phải là mười hai người ban đầu, vì những người kia được

chỉ định khi Chúa còn ở trên đất, trong khi những người này

được chỉ định vào chức vụ sứ đồ sau khi Chúa thăng thiên — họ

là những ân tứ Chúa Giê-su ban cho Hội Thánh sau khi Ngài

vinh hóa. Mười hai sứ đồ khi ấy là những người đích thân theo

Chúa Giê-su, nhưng các sứ đồ bây giờ là những người cung ứng

để xây dựng Thân Thể Đấng Christ. Chúng ta phải phân biệt

rõ ràng giữa các sứ đồ là chứng nhân về sự phục sinh của Đấng

Christ (Công 1:22, 26) và các sứ đồ là những người cung ứng để

xây dựng Thân Thể Đấng Christ, vì Thân Thể Đấng Christ

hiện hữu sau thập tự giá. Chắc chắn về sau mười hai người ấy

cũng nhận được sự ủy nhiệm của Ê-phê-sô, nhưng thuộc nhóm

mười hai người, họ rất khác biệt với các sứ đồ được đề cập

trong thư Ê-phê-sô. Hiển nhiên khi ấy Đức Chúa Trời có những

sứ đồ khác ngoài mười hai sứ đồ ban đầu.

Ngay sau khi Linh đổ ra, chúng ta thấy mười hai sứ đồ thực

hiện công tác. Cho đến Công-vụ chương 12 chúng ta thấy họ là

những công tác viên chính yếu; nhưng với chương mười ba mở

ra chúng ta thấy Thánh Linh bắt đầu bày tỏ chính Ngài là Đại

Diện của Đấng Christ và là Chúa của Hội Thánh. Trong chương

ấy chúng ta thấy ở An-ti-ốt, khi một số tiên tri và giáo sư đang

phụng sự Chúa và kiêng ăn, thì Thánh Linh phán: “Hãy biệt

riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta để làm công việc Ta đã gọi họ

làm” (Công 13:2). Bấy giờ là thời điểm Linh bắt đầu sai phái

con người. Vào thời điểm ấy Thánh Linh đã ủy nhiệm hai công

tác viên mới.

Sau khi hai người này được Linh sai đi, họ được ban cho

danh hiệu gì? Khi Ba-na-ba và Phao-lô đang công tác tại

Y-cô-ni: “Dân chúng trong thành chia rẽ, kẻ thì theo người

Do-thái, người thì theo hai sứ đồ” (Công 14:4). Hai người được

sai đi trong chương trước được nhắc đến trong chương này như

những sứ đồ, và trong cùng một chương (c. 14), danh hiệu “hai

sứ đồ” được dùng thay thế cho “Ba-na-ba và Phao-lô”, chứng tỏ

rõ ràng hai người được Thánh Linh sai đi cũng là các sứ đồ. Họ

không ở trong nhóm mười hai người; nhưng họ cũng là các sứ

đồ.

Như vậy ai là sứ đồ? Sứ đồ là công tác viên của Đức Chúa

Trời, được Thánh Linh sai đi để làm công tác Ngài kêu gọi họ.

Trách nhiệm công tác ở trong tay họ. Nói chung, tất cả tín đồ

đều chịu trách nhiệm về công tác của Đức Chúa Trời, nhưng các

sứ đồ là nhóm người đặc biệt được biệt riêng cho công tác. Theo

một ý nghĩa cụ thể, trách nhiệm công tác đặt trên họ.

Bây giờ chúng ta đã thấy sự dạy dỗ của Kinh Thánh khi bàn

đến các sứ đồ. Đức Chúa Trời chỉ định Con Ngài làm Sứ đồ;

Đấng Christ chỉ định các môn đồ của Ngài làm mười hai sứ đồ;

và Thánh Linh chỉ định một nhóm người (ngoài mười hai

người) làm các sứ đồ xây dựng Thân Thể. Vị sứ đồ đầu tiên là

độc nhất vô nhị; chỉ có một mình Ngài. Mười hai sứ đồ cũng

thuộc về một hàng ngũ riêng; chỉ có mười hai người. Nhưng có

một lớp sứ đồ khác được Thánh Linh lựa chọn, và bao lâu Hội

Thánh còn được xây dựng và Thánh Linh còn hiện diện trên

đất, thì việc lựa chọn và sai phái loại sứ đồ này cũng sẽ còn

tiếp tục.

Trong Lời Đức Chúa Trời, ngoài Ba-na-ba và Phao-lô chúng

ta còn thấy nhiều sứ đồ khác. Có nhiều người thuộc về hàng sứ

đồ mới được Linh của Đức Chúa Trời lựa chọn và sai đi. Trong

1 Cô-rin-tô 4:9 chúng ta đọc thấy: “Đức Chúa Trời đã phơi

chúng tôi là các sứ đồ ra sau rốt”. Những chữ “chúng tôi là các

sứ đồ” chỉ về ai? Đại từ “chúng tôi” ngụ ý có ít nhất một sứ đồ

nữa ngoài người viết. Nếu nghiên cứu văn mạch, chúng ta thấy

A-bô-lô ở với Phao-lô khi ông viết (c. 6) và Sốt-then là người

cùng viết các Thư tín với Phao-lô. Cho nên dường như sáng tỏ

rằng “chúng tôi” ở đây chỉ về hoặc A-bô-lô hoặc Sốt-then, hay

cả hai. Như vậy hoặc một trong hai người hoặc cả hai người

phải là sứ đồ.

Rô-ma 16:7: “Chào thăm An-trô-ni-cơ và Giu-nia, tức là bà

con và bạn đồng tù với tôi, nổi tiếng giữa các sứ đồ”. Mệnh đề

“nổi tiếng (hay: nổi bật) giữa các sứ đồ” không có nghĩa là họ

được các sứ đồ xem là nổi bật mà là giữa vòng các sứ đồ, họ là

những người nổi bật. Ở đây không những chúng ta có hai sứ đồ

khác, nhưng có hai sứ đồ nổi bật khác.

1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:6: “Chúng tôi vì là sứ đồ của Christ”. Chữ

“chúng tôi” ở đây chỉ rõ về những người viết thư Tê-sa-lô-ni-ca,

tức là Phao-lô, Sin-vanh và Ti-mô-thê (1:1); câu này cho thấy

hai đồng công trẻ tuổi của Phao-lô cũng là sứ đồ.

1 Cô-rin-tô 15:5-7: “Ngài đã hiện ra cho Sê-pha, sau lại hiện

ra cho mười hai sứ đồ. Rồi đó cùng một lúc Ngài hiện ra cho

hơn năm trăm anh em... Đoạn Ngài hiện ra cho Gia-cơ, rồi cho

hết thảy các sứ đồ”. Ngoài mười hai sứ đồ còn có một nhóm

được biết đến là “hết thảy các sứ đồ”. Như vậy, rõ ràng là ngoài

mười hai người còn có những sứ đồ khác nữa.

Phao-lô không bao giờ tuyên bố ông là sứ đồ sau cùng và sau

ông không còn ai khác. Chúng ta hãy đọc cẩn thận những gì

ông nói: “Rốt lại, Ngài cũng hiện ra cho tôi, như cho một thai

sanh non vậy. Vì tôi nhỏ hơn hết trong các sứ đồ, không đáng

gọi là sứ đồ” (1 Côr. 15:8-9). Xin lưu ý cách Phao-lô dùng những

từ “rốt lại” và “nhỏ nhất”. Ông không nói ông là sứ đồ sau

cùng; ông chỉ nói ông là sứ đồ nhỏ nhất. Nếu ông là sứ đồ sau

cùng, không thể có thêm ai sau ông, nhưng ông chỉ là sứ đồ nhỏ

nhất.

Trong sách Khải-thị có nói về hội thánh Ê-phê-sô: “Ngươi...

đã từng thử nghiệm những kẻ tự xưng là sứ đồ mà không phải

là sứ đồ, đã thấy họ là giả dối” (2:2). Qua câu này dường như rõ

ràng các hội thánh đầu tiên cho là có thể có những sứ đồ khác

ngoài mười hai người ban đầu, vì khi sách Khải-thị được viết

ra, Giăng là sứ đồ duy nhất còn sống trong mười hai sứ đồ, và

vào thời điểm ấy ngay cả Phao-lô cũng đã tuận đạo. Nếu chỉ có

mười hai sứ đồ, và Giăng là người duy nhất còn lại, thì không

ai khờ dại đến nỗi tự cho mình là sứ đồ, không ai khờ dại đến

nỗi bị lừa dối, và như vậy thì đâu cần phải thử nghiệm. Nếu

Giăng là sứ đồ duy nhất thì việc thử nghiệm thật dễ dàng! Bất

cứ ai không phải là Giăng thì không phải là sứ đồ!

 

 

Ý NGHĨA CỦA CHỨC VỤ SỨ ĐỒ

 

 

Vì ý nghĩa của từ ngữ “sứ đồ” là “người được sai đi”, ý nghĩa

của chức vụ sứ đồ thật đơn giản, tức là chức vụ của người được

sai đi. Các sứ đồ chủ yếu không phải là những người có các ân

tứ đặc biệt, mà là những người có sứ mạng đặc biệt. Người nào

được Đức Chúa Trời sai đi cũng là sứ đồ. Nhiều người được Đức

Chúa Trời kêu gọi không có nhiều ân tứ như Phao-lô, nhưng

nếu họ nhận được một sứ mạng từ Đức Chúa Trời thì họ là

những sứ đồ thật y như Phao-lô. Các sứ đồ là những người có

ân tứ, nhưng chức vụ sứ đồ của họ không dựa trên ân tứ, mà

dựa trên sứ mạng của họ. Dĩ nhiên Đức Chúa Trời không sai ai

đi mà không trang bị người ấy, nhưng sự trang bị không cấu

tạo chức vụ sứ đồ. Nếu Đức Chúa Trời muốn sai phái một con

người hoàn toàn chưa được trang bị, người ấy vẫn là một sứ đồ

y như một sứ đồ được trang bị đầy đủ, vì chức vụ sứ đồ không

dựa trên khả năng con người nhưng trên sự ủy nhiệm thần

thượng. Người nào đảm nhận chức vụ sứ đồ chỉ vì nghĩ mình có

các ân tứ hay khả năng cần thiết là người làm chuyện vô ích.

Chỉ có ân tứ và khả năng thì không đủ để làm cho một người

trở thành sứ đồ. Để trở thành một sứ đồ, điều kiện cần có

không gì kém hơn là Đức Chúa Trời, ý muốn của Đức Chúa

Trời và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Không ai có thể đạt được

chức vụ sứ đồ nhờ những điều kiện thiên nhiên hay những điều

kiện khác; một người là sứ đồ vì Đức Chúa Trời làm cho người

ấy trở thành sứ đồ. Một người có giá trị thuộc linh hay không,

và công tác của người ấy có vì cứu cánh thuộc linh nào hay

không, đều tùy thuộc vào sự sai phái của Đức Chúa Trời.

“Người Đức Chúa Trời sai phái” phải là đặc tính chính yếu của

việc bước vào sự phục vụ Ngài, và của mọi hoạt động của chúng

ta sau đó.

Chúng ta hãy mở ra Kinh Thánh. Trong Lu-ca 11:49 chúng

ta đọc thấy rằng: “Ta sẽ sai tiên tri và sứ đồ đến cùng họ, họ sẽ

giết kẻ nầy, bắt bớ kẻ kia”. Từ Sáng-thế Ký đến Ma-la-chi

chúng ta không thấy ai được gọi là sứ đồ cách rõ ràng; nhưng

những người được nhắc đến ở đây là các sứ đồ sống giữa thời

A-bên và Xa-cha-ri (c. 51). Vì vậy, rõ ràng là thậm chí vào thời

Cựu Ước Đức Chúa Trời cũng có các sứ đồ của Ngài.

Chúa chúng ta phán: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các

ngươi, tớ chẳng lớn hơn chủ, sứ giả (Hi-văn: sứ đồ) cũng chẳng

lớn hơn đấng sai mình” (Giăng 13:16). Ở đây chúng ta có lời

định nghĩa của từ ngữ “sứ đồ”. “Sứ đồ” ngụ ý là được sai đi —

chỉ có vậy; và đó là tất cả. Dầu ý định của con người có tốt đến

đâu chăng nữa cũng không thể thay thế sự ủy nhiệm thần

thượng. Ngày nay những người được Chúa sai đi để rao giảng

phúc-âm và thành lập các hội thánh tự xưng mình là các giáo

sĩ, chứ không xưng là sứ đồ; nhưng từ ngữ “giáo sĩ” (mis sion ary)

mang ý nghĩa rất giống với “sứ đồ” (apostle), là “người được sai

đi”. Mission ary (giáo sĩ) là hình thức tiếng La-tinh của từ ngữ

tương đương apostolos trong tiếng Hi-lạp. Vì ý nghĩa của hai từ

ngữ này giống y như nhau, nên tôi không thấy lý do tại sao

những người thật được sai đi ngày nay lại thích xưng mình là

giáo sĩ thay vì sứ đồ.

 

 

CÁC SỨ ĐỒ VÀ CHỨC VỤ CUNG ỨNG

 

 

“Nhưng đã ban ơn cho mỗi người trong chúng ta theo lượng

sự ban tứ của Đấng Christ. Cho nên có phán rằng: Khi Ngài

lên nơi cao thì dẫn theo những kẻ bị bắt làm phu tù, và ban ân

tứ cho loài người. (Vả, đã phán rằng ‘Ngài lên,’ há chẳng phải

có nghĩa là Ngài cũng đã xuống trong các miền thấp dưới đất

sao? Đấng đã xuống chính là Đấng đã lên trên cả các từng trời

để làm cho đầy dẫy mọi sự). Ngài ban cho người này làm sứ đồ,

kẻ kia làm tiên tri, người khác làm kẻ giảng Tin-lành (hay:

phúc-âm), kẻ khác nữa làm mục sư và giáo sư, cốt để làm cho

thánh đồ được nên trọn vẹn về công việc của chức dịch (hay:

chức vụ cung ứng), và về sự gây dựng thân thể của Đấng

Christ, cho đến chừng chúng ta thảy đều đạt đến sự hiệp một

của đức tin và của sự thông biết Con Đức Chúa Trời mà nên

bậc thành nhơn, được tầm thước vóc giạc theo sự đầy đủ của

Đấng Christ” (Êph. 4:7-13).

Có nhiều chức vụ liên quan đến sự phục vụ Đức Chúa Trời,

nhưng Ngài đã lựa chọn một số người cho chức vụ đặc biệt là

cung ứng Lời để xây dựng Thân Thể Đấng Christ. Vì chức vụ

này khác với các chức vụ khác, nên chúng ta gọi là “chức vụ

cung ứng”. Chức vụ ấy được phó thác cho một nhóm người trong

đó chính yếu là các sứ đồ. Đó không phải là chức vụ của một

người, hay một chức vụ của “mọi người”, mà là chức vụ dựa trên

các ân tứ của Thánh Linh và sự hiểu biết Chúa trong kinh

nghiệm.

Sứ đồ, tiên tri, người giảng phúc-âm, người chăn và giáo sư

là các ân tứ Chúa ban cho Hội Thánh Ngài để phục vụ trong

chức vụ cung ứng. Nói đúng ra, người chăn và giáo sư là một ân

tứ, chứ không phải hai hai ân tứ khác biệt, vì dạy dỗ và chăn

dắt liên hệ mật thiết với nhau. Khi liệt kê các ân tứ, thì sứ đồ,

tiên tri và người giảng phúc-âm được đề cập cách riêng rẽ,

trong khi người chăn và giáo sư được liên kết với nhau. Hơn

nữa, ba ân tứ đầu đều được từ ngữ “some” (một số người) đi

trước, trong khi từ ngữ “một số” đi trước nhóm chữ người chăn

và giáo sư. Như vậy, “một số người làm sứ đồ,” “một số người

làm tiên tri,” “một số người làm người giảng phúc-âm,” và “một

số người làm người chăn và giáo sư”, chứ không phải “một số

người làm người chăn và một số người làm giáo sư”. Sự kiện từ

ngữ “một số người” chỉ được dùng bốn lần trong bản liệt kê này

cho thấy chỉ có bốn loại người được đề cập. Người chăn và giáo

sư tuy là hai nhưng là một.

Chăn dắt và dạy dỗ có thể được xem là một chức vụ, vì

những người dạy dỗ cũng phải chăn dắt, và người chăn cũng

phải dạy dỗ. Hai loại công tác này có liên hệ hỗ tương. Hơn

nữa, từ ngữ “người chăn” không thấy được ứng dụng cho ai ở

một nơi nào khác trong Tân Ước, nhưng từ ngữ “giáo sư” được

dùng vào bốn trường hợp khác. Trong Tân Ước chúng ta thấy

có chỗ đề cập đến sứ đồ (chẳng hạn như Phao-lô), tiên tri

(chẳng hạn như A-ga-bút), người giảng phúc-âm (chẳng hạn

như Phi-líp), và giáo sư (chẳng hạn như Ma-na-hen), nhưng

chúng ta không tìm thấy người nào trong Lời Đức Chúa Trời

được gọi là người chăn. Điều này khẳng định sự kiện người

chăn và giáo sư là một loại người mà thôi.

Các giáo sư là những người nhận được ân tứ dạy dỗ. Đó

không phải là ân tứ phép lạ, mà là ân tứ ân điển, điều này giải

thích sự kiện ân tứ này không được đề cập trong bản liệt kê

những ân tứ phép lạ trong 1 Cô-rin-tô 12:8-10, mà được đề cập

trong bản liệt kê những ân tứ ân điển trong Rô-ma chương 12.

Ân tứ ân điển làm cho người có ân tứ ấy hiểu sự dạy dỗ của Lời

Đức Chúa Trời, nhận rõ được mục đích của Ngài và do đó trang

bị họ để dạy dỗ dân Ngài về những vấn đề giáo lý. Hội thánh

tại An-ti-ốt có vài người được trang bị như vậy, trong số đó có

Phao-lô. Nhờ Đức Chúa Trời hành động mà những người như

vậy được “đặt... trong hội thánh”, và vị trí của họ ở kế bên vị

trí của các tiên tri. Giáo sư là cá nhân nhận được ân tứ dạy dỗ

từ Đức Chúa Trời, và được Chúa ban cho Hội Thánh Ngài để

xây dựng Hội Thánh. Công tác của giáo sư là giải thích cho

người khác những lẽ thật đã được bày tỏ cho mình, để dẫn dân

của Đức Chúa Trời đến chỗ hiểu biết Lời Ngài, khích lệ họ tự

tìm kiếm và nhận lãnh khải thị thần thượng qua Kinh Thánh.

Lãnh vực công tác của họ chính yếu ở giữa các con cái Đức

Chúa Trời, dầu nhiều lúc họ cũng dạy dỗ người chưa được cứu (1

Tim. 4:11; 6:2; 2 Tim. 2:2; Công 4:2-18; 5:21, 25, 28, 42). Công

tác của họ có tính cách giải nghĩa hơn là khải thị, trong khi

công tác của các tiên tri có tính cách khải thị hơn là giải nghĩa.

Họ tìm cách dẫn các tín đồ đến chỗ hiểu biết lẽ thật thần

thượng, và tìm cách dẫn người chưa tin đến chỗ hiểu biết

phúc-âm.

Những người rao giảng phúc-âm cũng là ân tứ Chúa ban cho

Hội Thánh Ngài, nhưng chúng ta không biết chính xác họ có

những ân tứ cá nhân gì. Lời Đức Chúa Trời không nói về ân tứ

rao giảng phúc-âm, nhưng nói đến Phi-líp là một người rao

giảng phúc-âm (Công 21:8), và Phao-lô vào một dịp đã khích lệ

Ti-mô-thê làm công tác của người rao giảng phúc-âm và lo tròn

chức dịch của mình (2 Tim. 4:5). Ngoài ba trường hợp này, danh

từ “người rao giảng phúc-âm” không tìm thấy trong Kinh

Thánh, dầu chúng ta thường gặp động từ ra từ cùng một gốc với

danh từ này.

Trong Lời Đức Chúa Trời, vị trí của các tiên tri được định

nghĩa rõ ràng hơn so với vị trí của các giáo sư và người rao

giảng phúc-âm. Nói tiên tri được đề cập giữa vòng các ân tứ ân

điển (Rô 12:6), và giữa vòng các ân tứ phép lạ chúng ta lại thấy

có ân tứ này (1 Côr. 12:10). Đức Chúa Trời đã đặt các tiên tri

trong Hội Thánh hoàn vũ (1 Côr. 12:28), nhưng Ngài cũng ban

các tiên tri cho chức vụ cung ứng (Êph. 4:11). Có ân tứ tiên tri

lẫn chức vụ tiên tri. Nói tiên tri vừa là ân tứ phép lạ, vừa là ân

tứ ân điển. Tiên tri vừa là người Đức Chúa Trời đặt trong Hội

Thánh Ngài để giữ chức vụ tiên tri vừa là người Chúa ban cho

Hội Thánh Ngài vì chức vụ cung ứng.

Trong bốn loại người có ân tứ mà Chúa ban cho Hội Thánh

để xây dựng Hội Thánh, các sứ đồ thật khác với ba loại người

kia. Vị trí đặc biệt của các sứ đồ là điều rõ ràng đối với tất cả

những người đọc Kinh Thánh. Họ được Đức Chúa Trời ủy

nhiệm cách đặc biệt để thành lập các hội thánh qua việc rao

giảng phúc-âm, để đem khải thị từ Đức Chúa Trời đến với dân

Ngài, để đưa ra các quyết định về những vấn đề liên quan đến

giáo lý và sự quản trị, để gây dựng các thánh đồ và phân phát

những gì các thánh đồ dâng hiến. Cả về mặt thuộc linh lẫn về

mặt địa lý, phạm vi của họ thật rộng lớn. Vị trí của họ vượt

trổi vị trí của tiên tri và giáo sư. Điều này thật sáng tỏ trong

Lời Chúa: “Đức Chúa Trời đã lập trong hội thánh: thứ nhất là

sứ đồ” (1 Côr. 12:28).

Các sứ đồ thuộc về chức vụ cung ứng, nhưng họ thật khác

với các tiên tri, những người rao giảng phúc-âm và giáo sư, vì

không như ba loại người ấy, không phải ân tứ của họ quyết

định chức vụ của họ; tức họ không trở nên sứ đồ nhờ nhận lãnh

ân tứ sứ đồ.

Điều quan trọng chúng ta phải lưu ý là sứ đồ là một chức vụ

hành chánh, không phải một ân tứ. Chức vụ hành chánh là

điều một người nhận được do kết quả của sự ủy nhiệm; ân tứ là

điều một người nhận được trên cơ sở ân điển. “Ta đã được lập

làm... sứ đồ” (1 Tim. 2:7). “Ta đã được lập làm... sứ đồ” (2 Tim.

1:11). Ở đây chúng ta thấy các sứ đồ được ủy nhiệm. Làm một

sứ đồ không tùy thuộc việc nhận lãnh ân tứ sứ đồ, mà tùy

thuộc việc nhận sứ mạng sứ đồ. Sứ đồ được kêu gọi cách đặc

biệt và mang một sứ mạng đặc biệt. Về điều này sứ đồ khác với

ba loại người cung ứng kia, dầu có thể sứ đồ nhận lãnh ân tứ

tiên tri và do đó vừa làm tiên tri vừa làm sứ đồ. Ân tứ cá nhân

của một người cấu tạo người ấy thành một tiên tri, nhưng sự ủy

nhiệm chứ không phải ân tứ khiến người ấy thành một sứ đồ.

Ba loại người cung ứng kia thuộc về chức vụ cung ứng do ân tứ

của họ; sứ đồ thuộc về chức vụ cung ứng không do ân tứ của họ,

mà do việc họ được sai đi. Điều kiện của ba loại người kia là sở

hữu các ân tứ; điều kiện của sứ đồ là sở hữu các ân tứ cộng với

sự kêu gọi và ủy nhiệm đặc biệt.

Một sứ đồ có thể là tiên tri hay giáo sư. Nếu sử dụng ân tứ

nói tiên tri hay dạy dỗ trong hội thánh địa phương, người ấy

làm như vậy với tư cách là tiên tri hay giáo sư, nhưng khi sử

dụng các ân tứ tại những nơi khác, người ấy làm như vậy với tư

cách là sứ đồ. Chức vụ sứ đồ nói lên việc được Đức Chúa Trời

sai đi để sử dụng các ân tứ của chức vụ cung ứng tại những nơi

khác nhau. Ân tứ cá nhân của một sứ đồ thì không quan trọng

cho chức vụ sứ đồ, nhưng điều thiết yếu cho chức vụ sứ đồ là

việc được Đức Chúa Trời sai đi. Một sứ đồ có thể sử dụng các

ân tứ thuộc linh tại bất cứ nơi nào, nhưng không thể sử dụng

các ân tứ sứ đồ của mình, vì một người là sứ đồ bởi chức vụ

hành chánh, chứ không phải bởi ân tứ.

Tuy nhiên các sứ đồ có các ân tứ cá nhân dành cho chức vụ

cung ứng của mình. “Vả, hội thánh tại An-ti-ốt có mấy tiên tri

và giáo sư, tức là Ba-na-ba, Si-mê-ôn gọi là Ni-giê, Lu-si-út quê

ở Sy-ren, Ma-na-hen là người đồng dưỡng với vua chư hầu

Hê-rốt, cùng Sau-lơ. Đương khi họ phụng sự Chúa và kiêng ăn,

Thánh Linh phán rằng: Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho

Ta để làm công việc Ta đã gọi họ làm” (Công 13:1-2). Năm

người này có ân tứ tiên tri và dạy dỗ, một là ân tứ phép lạ, và

một là ân tứ ân điển. Trong nhóm năm người ấy, hai người

được Linh sai đến những miền khác, và ba người được để lại tại

An-ti-ốt. Như chúng ta đã thấy, hai người được sai đi về sau

được gọi là sứ đồ. Họ không nhận lãnh ân tứ sứ đồ, nhưng họ

thật sự nhận lãnh sự ủy nhiệm để làm sứ đồ. Ân tứ của họ

khiến họ đủ điều kiện làm tiên tri và giáo sư, nhưng sự ủy

nhiệm họ nhận được khiến họ đủ điều kiện làm sứ đồ. Ba người

ở lại tại An-ti-ốt vẫn là các tiên tri và giáo sư chứ không phải

là sứ đồ, đơn giản là vì họ không được Linh sai đi. Hai người

trở thành sứ đồ, không phải vì họ nhận lãnh một ân tứ nào

khác thêm vào ân tứ tiên tri và dạy dỗ, mà vì họ nhận thêm

một chức vụ hành chánh là kết quả việc họ được ủy nhiệm. Các

ân tứ của cả năm người đều giống nhau, nhưng hai người nhận

được sự ủy nhiệm thần thượng thêm vào các ân tứ của mình, và

điều đó làm cho họ đủ điều kiện thi hành chức vụ sứ đồ.

Vậy thì tại sao Lời Đức Chúa Trời chép: “Ngài ban cho

người này làm sứ đồ”? Vấn đề ở đây không phải chức vụ sứ đồ

là ân tứ được ban cho một sứ đồ, mà là ân tứ được ban cho Hội

Thánh; không phải ân tứ thuộc linh được ban cho một người,

mà là một người có ân tứ được ban cho Hội Thánh. Ê-phê-sô

4:11 không nói Chúa ban ân tứ sứ đồ cho một người nào, mà

nói Ngài ban những người làm sứ đồ cho Hội Thánh của Ngài.

Người ta nhận được ân tứ của Linh để có đủ điều kiện trở

thành tiên tri và giáo sư, nhưng chưa từng có ai nhận lãnh ân

tứ thuộc linh để đủ điều kiện làm sứ đồ. Các sứ đồ là loại người

mà Hội Thánh nhận được như ân tứ của Chúa để xây dựng Hội

Thánh.

Các ân tứ được đề cập trong phân đoạn này không phải là

các ân tứ được ban cho con người cách cá nhân, mà là các ân tứ

Chúa ban cho Hội Thánh Ngài, và các ân tứ được đề cập ở đây

là những công tác viên có ân tứ mà Chúa của Hội Thánh ban

cho Hội Thánh Ngài để xây dựng Hội Thánh. Đầu ban cho Hội

Thánh là Thân Thể Ngài những con người để phục vụ Thân

Thể và xây dựng Thân Thể. Chúng ta phải phân biệt những ân

tứ được Thánh Linh ban cho các cá nhân với những ân tứ

Chúa ban cho Hội Thánh Ngài. Điều trước được ban cho tín đồ

cách cá nhân; điều sau được ban cho tín đồ cách tập thể. Điều

được đề cập trước là những ân tứ, điều được đề cập sau là

những con người. Ân tứ mà Linh ban cho các cá nhân là ân tứ

trang bị cho họ để phục vụ Chúa trong việc nói tiên tri, dạy dỗ,

nói các thứ tiếng và chữa bệnh; các ân tứ Chúa ban cho Hội

Thánh Ngài tức Thân Thể là những con người sở hữu các ân tứ

của Linh.

“Vậy, người này nhờ Thánh Linh ban cho lời khôn ngoan, kẻ

kia cũng nhờ một Thánh Linh ấy ban cho lời tri thức, kẻ khác

nữa cũng nhờ một Thánh Linh ấy mà được đức tin, kẻ khác nữa

cũng nhờ một Thánh Linh ấy mà được ân tứ chữa bệnh; còn

người này thì được làm việc quyền năng, kẻ kia thì được nói tiên

tri, người khác thì được phân biệt các linh, kẻ nọ thì được nói các

thứ tiếng, và người khác thì được thông dịch các thứ tiếng ấy” (1

Côr. 12:8-10). Phân đoạn này liệt kê cho chúng ta tất cả các ân

tứ mà Thánh Linh ban cho con người, nhưng không bao hàm ân

tứ sứ đồ. “Đức Chúa Trời đã lập trong hội thánh, thứ nhứt là sứ

đồ, thứ nhì là tiên tri, thứ ba là giáo sư, kế đến kẻ làm việc

quyền năng, rồi đến kẻ được ân tứ chữa bệnh, vùa giúp, quản lý,

nói các thứ tiếng” (1 Côr. 12:28). Phần đầu liệt kê các ân tứ ban

cho các cá nhân; phần hai liệt kê các ân tứ ban cho Hội Thánh.

Trong phần đầu không đề cập đến ân tứ sứ đồ; trong phần sau

chúng ta thấy các sứ đồ đứng đầu bản liệt kê các ân tứ được ban

cho Hội Thánh. Không phải Đức Chúa Trời ban cho Hội Thánh

ân tứ làm sứ đồ, nhưng Ngài đã ban cho Hội Thánh những con

người là sứ đồ; và Ngài không ban các ân tứ nói tiên tri và dạy

dỗ cho Hội Thánh Ngài, nhưng Ngài ban cho Hội Thánh một số

người là tiên tri và giáo sư. Đức Chúa Trời đã lập những loại

công tác viên khác nhau trong Hội Thánh Ngài để gây dựng Hội

Thánh, một trong số đó là các sứ đồ. Họ không đại diện cho một

loại ân tứ nào đó, mà đại diện cho một loại người nào đó.

Sự khác biệt giữa các sứ đồ, và các tiên tri và giáo sư là hai

loại người sau vừa đại diện cho các ân tứ được Linh ban cho các

cá nhân vừa đại diện cho các ân tứ được Chúa ban cho Hội Thánh

Ngài, trong khi các sứ đồ là những người được Chúa ban cho Hội

Thánh Ngài, nhưng họ không đại diện cho bất cứ ân tứ cá nhân,

đặc biệt nào của Linh cả.

“Đức Chúa Trời đã lập trong hội thánh, thứ nhứt là sứ đồ,

thứ nhì là tiên tri, thứ ba là giáo sư” (1 Côr. 12:28). Đây là hội

thánh nào? Hội thánh này bao hàm mọi con cái của Đức Chúa

Trời; vì vậy, đây là Hội Thánh hoàn vũ. Trong Hội Thánh này

Đức Chúa Trời đã lập “thứ nhứt là sứ đồ, thứ nhì là tiên tri, thứ

ba là giáo sư”. Trong 1 Cô-rin-tô 14:23 chúng ta đọc thấy “cả hội

thánh nhóm lại”. Đây là hội thánh nào? Hiển nhiên đây là hội

thánh địa phương, vì Hội Thánh hoàn vũ không thể nhóm lại

tại một địa phương. Trong hội thánh địa phương này các anh em

sử dụng các ân tứ thuộc linh của mình. Người này có thi thiên,

người khác có sự dạy dỗ, người khác nữa có sự khải thị, người

khác có tiếng lạ, người khác nữa thông dịch tiếng lạ (14:26),

nhưng quan trọng hơn tất cả các ân tứ này là ân tứ nói tiên tri

(14:1). Trong chương mười hai, các sứ đồ đứng trước những

người cung ứng khác, nhưng trong chương mười bốn, các tiên tri

đứng trước. Trong Hội Thánh hoàn vũ, các sứ đồ đứng đầu,

nhưng trong hội thánh địa phương, các tiên tri đứng đầu. Tại

sao các tiên tri đứng đầu trong hội thánh địa phương, nhưng

trong Hội Thánh hoàn vũ, họ chỉ giữ vị trí thứ hai? Vì trong Hội

Thánh hoàn vũ vấn đề không phải là ân tứ của Linh được ban

cho cá nhân riêng lẻ, mà là Đức Chúa Trời ban ân tứ là những

người cung ứng cho Hội Thánh, mà trong số đó, các sứ đồ đứng

đầu; còn trong hội thánh địa phương, vấn đề là ân tứ của Linh

ban cho cá nhân, và trong số các ân tứ ấy, nói tiên tri là chính,

vì nói tiên tri là quan trọng nhất. Chúng ta hãy ghi nhớ rằng

chức vụ sứ đồ không phải là ân tứ ban cho cá nhân.

 

 

LÃNH VỰC CÔNG TÁC CỦA CÁC SỨ ĐỒ

 

 

Lãnh vực công tác của sứ đồ hoàn toàn khác với lãnh vực

công tác của ba loại người cung ứng đặc biệt kia. Việc các tiên

tri và giáo sư vận dụng ân tứ của họ trong hội thánh địa

phương được thấy qua câu: “Vả, hội thánh tại An-ti-ốt có mấy

tiên tri và giáo sư”. Anh em có thể thấy các tiên tri và giáo sư

tại hội thánh địa phương, nhưng không thấy các sứ đồ, vì các

sứ đồ được kêu gọi để cung ứng tại những nơi khác, trong khi

chức vụ của tiên tri và giáo sư được giới hạn tại một địa phương

(1 Côr. 14:26, 29).

Về những người rao giảng phúc-âm, chúng ta không biết

lãnh vực đặc biệt của họ, vì Lời Đức Chúa Trời nói rất ít về họ,

nhưng câu chuyện về Phi-líp, người rao giảng phúc-âm, đem

đến ít nhiều ánh sáng về loại người cung ứng này. Phi-líp lìa

khỏi địa phương của mình và rao giảng tại Sa-ma-ri, nhưng

trong khi ông công tác tốt tại đó, Linh không ngự trên người

nào được ông hoán cải cả.

Mãi đến khi các sứ đồ từ

Giê-ru-sa-lem tới đặt tay trên họ Linh mới đổ ra. Điều này

dường như cho thấy rằng việc rao giảng phúc-âm tại địa

phương là công tác của người giảng phúc-âm, còn việc rao giảng

phúc-âm trên khắp thế giới là công tác của sứ đồ. Điều này

không hàm ý công tác của người giảng phúc-âm nhất thiết phải

giới hạn tại một nơi chốn, nhưng có nghĩa là địa phương là

phạm vi thường xuyên của họ. Tương tự như vậy, tiên tri

A-ga-bút nói tiên tri tại một nơi khác, nhưng phạm vi công tác

đặc biệt của ông là địa phương của mình.

 

 

BẰNG CHỨNG CỦA CHỨC VỤ SỨ ĐỒ

 

 

Bằng chứng gì cho thấy một người thật sự được Đức Chúa

Trời ủy nhiệm để làm sứ đồ? Trong 1 Cô-rin-tô 9:1-2, Phao-lô

bàn đến thắc mắc của chúng ta khi ông viết cho các thánh đồ

tại Cô-rin-tô, và qua lời tranh biện của ông, chúng ta thấy rõ

chức vụ sứ đồ có những thành tích của nó. “Vì chính anh em là

ấn chứng của chức nhiệm sứ đồ tôi trong Chúa”, dường như ông

viết điều này để nói rằng: “Nếu Đức Chúa Trời không sai tôi

đến Cô-rin-tô, thì ngày nay anh em không được cứu, và không

có hội thánh tại thành phố của anh em”. Nếu Đức Chúa Trời

đã kêu gọi một người làm sứ đồ, điều đó sẽ được bày tỏ qua

bông trái của công lao người ấy. Bất cứ nơi nào anh em có sự

ủy nhiệm của Đức Chúa Trời, nơi đó anh em có uy quyền của

Đức Chúa Trời; bất cứ nơi nào anh em có uy quyền của Đức

Chúa Trời, nơi đó anh em có quyền năng của Đức Chúa Trời;

và bất cứ nơi nào anh em có quyền năng của Đức Chúa Trời,

nơi đó anh em có bông trái thuộc linh. Bông trái công lao của

anh em chứng minh hiệu lực của sự ủy nhiệm mà anh em nhận

được. Tuy nhiên điều phải lưu ý là Phao-lô không có ý nói rằng

chức vụ sứ đồ hàm ý là qua đó phải có nhiều người hoán cải,

nhưng chức vụ sứ đồ nói lên giá trị thuộc linh đối với Chúa, vì

Ngài không bao giờ sai ai đi cho một mục đích kém hơn. Chúa

nhắm đến giá trị thuộc linh, và mục tiêu của chức vụ sứ đồ là

có được điều đó. Trong trường hợp này, người Cô-rin-tô tiêu

biểu cho những giá trị ấy. Tuy nhiên, không phải Phao-lô nói ở

đây: “Tôi há chẳng đã thấy Giê-su, Chúa chúng ta sao?” Như

vậy có phải chỉ những ai thấy Chúa Giê-su hiển lộ trong sự

phục sinh mới đủ điều kiện làm sứ đồ? Chúng ta hãy cẩn thận

theo sát hướng biện luận của Phao-lô. Trong câu 1 đặt ra bốn

câu hỏi: (1) “Tôi há chẳng được tự do sao?” (2) “Tôi há chẳng

phải là sứ đồ sao?” (3) “Tôi há chẳng đã thấy Giê-su, Chúa

chúng ta sao?” (4) “Anh em há chẳng phải là công việc tôi

trong Chúa sao?” Đương nhiên bốn câu hỏi này đều có câu trả

lời khẳng định, vì trường hợp của Phao-lô đòi hỏi một câu trả

lời như vậy. Xin lưu ý rằng khi tiếp tục sự biện luận của mình

trong câu 2, Phao-lô bỏ qua hai câu trong bốn câu hỏi của mình

và chỉ khai triển hai câu kia mà thôi. Ông bỏ qua câu hỏi thứ

nhất và thứ ba, chọn lấy câu hỏi thứ hai và thứ tư, liên kết

chúng lại với nhau. Vì mục đích ông đang nhắm tới trong sự

biện luận, ông bỏ qua hai câu hỏi: “Tôi há chẳng được tự do

sao?” và “Tôi há chẳng đã thấy Giê-su, Chúa chúng ta, sao?”,

và trả lời hai câu hỏi: “Tôi há chẳng phải là sứ đồ sao?” và

“Anh em há chẳng phải là công việc tôi trong Chúa sao?” Rõ

ràng Phao-lô tìm cách chứng minh rằng qua phước hạnh theo

sau công lao của ông mà sự ủy nhiệm của ông được tỏ ra là

thật, chứ không phải qua việc ông được tự do hay đã thấy

Chúa.

Trong bốn câu hỏi Phao-lô nêu lên, ba câu liên hệ đến con

người của ông, và một câu liên hệ đến công tác của ông. Ba câu

này ở trên cùng một bình diện, và tương đối độc lập với nhau.

Phao-lô không tranh luận rằng vì ông được tự do và vì ông là sứ

đồ, nên ông đã thấy Chúa. Ông cũng không lý luận rằng vì ông là

sứ đồ và vì ông đã thấy Chúa nên ông được tự do. Ông cũng

không tìm cách chứng minh rằng vì ông được tự do và ông đã

thấy Chúa, nên ông là sứ đồ. Ông được tự do, ông là sứ đồ và ông

đã thấy Chúa là những sự kiện. Các sự kiện ấy không có sự liên

kết thiết yếu nào với nhau, nên liên kết chúng lại là vô lý. Biện

luận rằng chức vụ sứ đồ của Phao-lô dựa trên sự việc ông được tự

do thì cũng phi lý như nói rằng chức vụ ấy dựa trên việc ông thấy

Chúa. Nếu ông không tìm cách chứng minh rằng ông có được

chức vụ sứ đồ nhờ sự kiện ông được tự do, thì ông cũng không tìm

cách chứng minh rằng ông có được chức vụ ấy nhờ ông đã thấy

Chúa. Chức vụ sứ đồ không dựa trên việc thấy Chúa khi Ngài

hiển lộ trong sự phục sinh.

Vậy thì ý nghĩa của 1 Cô-rin-tô 15:5-9 là gì? “Ngài đã hiện

ra cho Sê-pha, sau lại hiện ra cho mười hai sứ đồ. Rồi đó cùng

một lúc Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em,... rồi Ngài

hiện ra cho Gia-cơ, rồi cho hết thảy các sứ đồ. Rốt lại, Ngài

cũng hiện ra cho tôi”. Mục tiêu của phân đoạn này không phải

để đưa ra bằng chứng cho chức vụ sứ đồ, mà là đưa ra bằng

chứng cho sự phục sinh của Chúa. Phao-lô đang thuật lại sự

việc Chúa đã hiện ra cho nhiều người khác nhau chứ không

giảng dạy rằng việc Chúa hiện ra có tác động gì trên những

người ấy. Sê-pha và Gia-cơ đã thấy Chúa, nhưng trước khi thấy

Chúa họ như thế nào thì sau khi thấy Chúa họ vẫn y như vậy;

họ không trở nên Sê-pha và Gia-cơ nhờ thấy Ngài. Chính điều

này cũng áp dụng cho mười hai sứ đồ và năm trăm anh 

Việc nhìn thấy Chúa không khiến họ trở nên các sứ đồ. Họ là

mười hai sứ đồ trước khi thấy Chúa, và vẫn là mười hai sứ đồ

sau khi thấy Chúa. Lập luận này cũng áp dụng cho trường hợp

Phao-lô. Sự thật là ông đã thấy Chúa, và ông là người nhỏ

nhất trong các sứ đồ; nhưng không phải do thấy Chúa mà ông

trở nên người nhỏ nhất trong các sứ đồ. Năm trăm anh em

không phải là sứ đồ trước khi thấy Chúa, và cũng không phải

là sứ đồ sau khi thấy Chúa. Việc nhìn thấy Chúa trong sự hiển

lộ phục sinh của Ngài không khiến họ trở thành các sứ đồ.

Trước đó họ là các anh em, và sau đó cũng vậy. Không chỗ nào

trong Lời Đức Chúa Trời dạy rằng nhìn thấy Chúa là điều kiện

cho chức vụ sứ đồ.

Nhưng chức vụ sứ đồ có những thành tích của nó. Trong 2

Cô-rin-tô 12:11-12 Phao-lô viết: “Tôi... cũng chẳng thua kém

các sứ đồ hạng nhất kia chút nào. Thật, các dấu hiệu của một

sứ đồ đã được tỏ ra giữa anh em bằng sự nhẫn nại mọi đàng,

bằng các dấu kỳ phép lạ, và các việc quyền năng”. Có nhiều

bằng chứng cho thấy việc Phao-lô được ủy nhiệm làm sứ đồ là

thật; và nơi nào thực sự có sự kêu gọi làm sứ đồ thì nơi ấy sẽ

không bao giờ thiếu dấu hiệu của một sứ đồ. Từ phần trước

chúng ta có thể luận ra rằng bằng chứng cho chức vụ sứ đồ nằm

ở quyền năng nhị diện là quyền năng thuộc linh và quyền năng

phép lạ. Nhẫn nại là bằng chứng lớn nhất cho quyền năng

thuộc linh, và đó là một trong những dấu hiệu của một sứ đồ.

Khả năng bền bỉ chịu đựng dưới áp lực liên tục thử nghiệm

thực tại của sự kêu gọi làm sứ đồ. Một sứ đồ thật cần “nhờ cả

mọi quyền năng mà anh em được thêm lực lượng y theo đại

năng của vinh hiển Ngài hầu được đủ thứ nhẫn nại, kiên khổ

cách vui vẻ” (Côl. 1:11). Thật vậy, chức vụ sứ đồ phải có “cả

mọi quyền năng y theo đại năng của vinh hiển Ngài” mới sinh

ra “đủ thứ nhẫn nại, kiên khổ cách vui vẻ”. Nhưng thực tại của

chức vụ sứ đồ của Phao-lô không chỉ được chứng thực bởi sự

kiên nhẫn chịu đựng dưới áp lực mãnh liệt và dai dẳng, mà còn

được chứng thực bởi quyền năng làm phép lạ mà ông sở hữu.

Quyền năng làm phép lạ để thay đổi hoàn cảnh trong thế giới

vật lý là biểu hiện cần thiết cho thấy chúng ta có sự hiểu biết

về Đức Chúa Trời trong lãnh vực thuộc linh, và điều này không


NẾP SỐNG HỘI THÁNH CƠ-ĐỐC BÌNH THƯỜNG

 

chỉ áp dụng cho những xứ ngoại đạo mà còn cho mọi xứ sở.

Người nào tự xưng là người được Đức Chúa Trời toàn năng sai

đi mà bất lực trước hoàn cảnh thách thức quyền năng của Ngài

thì nơi người ấy có sự mâu thuẫn đáng buồn. Không phải tất cả

những người có thể làm việc quyền năng đều là sứ đồ, vì ân tứ

chữa bệnh và làm phép lạ được ban cho các chi thể của Thân

Thể (1 Côr. 12:28) là những người không có sự ủy nhiệm đặc

biệt, nhưng quyền năng làm phép lạ cũng như quyền năng

thuộc linh là một phần trang bị cho tất cả những ai thật được

ủy nhiệm làm sứ đồ.

CÁC NỮ SỨ ĐỒ

Phụ nữ có vị trí gì giữa vòng các sứ đồ không? Kinh Thánh

bày tỏ là có. Trong mười hai sứ đồ được Chúa sai đi không có

người nữ nào, nhưng có một người nữ được đề cập trong số các

sứ đồ được Linh sai đi sau khi Chúa thăng thiên. Rô-ma 16:7

nói về hai sứ đồ nổi bật là An-trô-ni-cơ và Giu-nia. Những

người có thẩm quyền đáng tin cậy đều đồng ý rằng “Giu-nia” là

tên của phụ nữ. Vì thế, ở đây chúng ta có một chị em làm sứ đồ

và là một sứ đồ nổi bật.



 



 

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2