lexapro side effects sleep
lexapro side effects anger
click lexapro side effects shaking
is there a generic viagra
generic viagra
LỜI TỰA CHO ẤN BẢN ANH NGỮ
|
Sau khi tôi xuất bản quyển sách này bằng tiếng Hoa, nhiều
|
giáo sĩ hỏi tôi bản tiếng Anh. Tôi thấy do dự không biết có nên
|
đáp ứng yêu cầu của họ không, vì cá nhân tôi muốn cho dịch
|
những quyển khác trình bày chức vụ của tôi cách tốt hơn là
|
quyển này, là quyển dễ bị hiểu lầm và gây ra nhiều tranh luận.
|
Nhưng tâm ý Chúa dường như rất sáng tỏ, và với lòng tin chắc
|
ấy tôi đã tiến hành dịch quyển này. Quyển sách hiện có đây đã
|
được rút gọn nhiều và được sửa chữa chút ít từ bản tiếng Hoa.
|
Văn thể và cách diễn đạt trong ấn bản Anh ngữ đều không
|
được như ý, nhưng tôi tin rằng về phương diện này tôi có thể
|
nương cậy vào lòng khoan dung của người đọc. Nếu tất cả
|
những gì chúng ta muốn là lẽ thật của Đức Chúa Trời, thì dầu
|
sách có khó hiểu cũng sẽ không tạo nên ngăn trở nào đáng kể
|
Vì tính cách rộng lớn của chủ đề và tầm quan trọng của các
|
vấn đề trong chủ đề ấy, tôi thấy viết hoặc dịch quyển này
|
không phải là dễ. Vì một vài điểm tương đồng đã phải được
|
bàn đến trong những phần khác nhau của quyển sách này, nên
|
cần phải đọc từ đầu đến cuối nếu chúng ta muốn có được sự
|
hiểu biết đầy đủ. Nếu bỏ ngang không đọc hết quyển do gặp
|
khó khăn dường như không thể khắc phục được, chúng ta sẽ có
|
quan điểm sai lầm; trong khi đó, bằng cách đọc trọn quyển,
|
nhiều nan đề, nếu không phải là tất cả, sẽ được sáng tỏ. Thông
|
thường các thắc mắc dấy lên ở những điểm nào đó sẽ được giải
|
đáp về sau — đôi khi là khá lâu sau đó. Vì vậy để đối xử công
|
bình với quyển sách này, xin người đọc hãy đọc trọn quyển
|
Chúng tôi không có ý định viết quyển sách này cho mọi
|
người. Quyển sách này chỉ dành cho những ai gánh vác trách
|
nhiệm trong sự phục vụ Chúa. Nhưng hơn thế nữa, nó được
|
dành cho những ai chân thành và thực sự hết lòng với Đức
|
Chúa Trời, cho những ai chịu mở lòng, không khép kín tâm trí
|
hay không có thành kiến. Quyển sách này thử nghiệm không ít
|
sự thành thật và chân thành của người đọc; nhưng lòng khao
|
khát thật và niềm ao ước được biết ý tưởng đầy trọn của Chúa
|
sẽ giúp chúng ta đọc kỹ càng đến trang cuối cùng. Tôi nhận
|
biết rất rõ quyển sách này có nhiều khiếm khuyết (đây không
|
phải là làm ra vẻ nhún nhường, nhưng là lời thú nhận thật sự);
|
nhưng dầu vậy, tôi tin rằng Chúa đã bày tỏ một điều thật quan
|
trọng cho toàn Thân Thể Đấng Christ.
|
Sau lần đọc thứ nhất, toàn bộ vấn đề sẽ dần dần hình
|
thành nơi người đọc và trở nên sáng tỏ hơn qua việc từ từ suy
|
gẫm. Đừng đóng sập cửa lại và nói: “Không thể có điều đó
|
được!” hay “Lý tưởng, nhưng không thực tế!” Với tấm lòng mở
|
ra trong tinh thần cầu nguyện, không bàn cãi hay tranh luận,
|
chúng ta hãy cho Linh của Lẽ thật một cơ hội, và rồi điều gì đó
|
của Ngài sẽ làm cho mọi phản ứng thiên nhiên của chúng ta
|
dần dần tiêu biến đi, và chúng ta sẽ biết lẽ thật và lẽ thật sẽ
|
Tôi xin nhắc nhở người đọc rằng sách này không phải để
|
nghiên cứu như một giả thuyết. Tôi có khá đông đồng công đã
|
được sai phái đi và đang công tác theo chiều hướng được bày tỏ,
|
và có nhiều hội thánh hơn nữa đã được thành lập và phát triển
|
trên nền tảng đề cập ở đây. Cho nên các vấn đề được đưa ra
|
trong những trang này không chỉ là lý thuyết hay sự dạy dỗ
|
suông, mà là điều chúng tôi đã thật sự thử nghiệm.
|
Một trong những lời cầu nguyện tôi dâng lên Chúa về quyển
|
sách này là xin Chúa giữ nó khỏi những người chống đối muốn
|
dùng nó làm cớ để công kích, và cũng xin Chúa giữ nó khỏi
|
những người đồng ý và muốn dùng nó làm cẩm nang để phục
|
vụ. Tôi sợ loại người thứ hai hơn loại người thứ nhất.
|
CẦN THIẾT ĐỂ HIỂU QUYỂN SÁCH NÀY
|
Những trang sau đây là nội dung của nhiều cuộc nói chuyện
|
với các đồng công trẻ tuổi trong những kỳ hội đồng gần đây tổ
|
chức tại Thượng Hải và Hán Khẩu. Khi chia sẻ những bài ấy,
|
tôi không nghĩ đến quyển sách này, mà chỉ nghĩ đến các thính
|
giả trực tiếp của mình lúc đó, và tôi định ý dùng những bài ấy
|
để hướng dẫn các đồng công trẻ tuổi của mình. Những sự kiện
|
ấy giải thích lý do vì sao các bài giảng này có tính chất vô cùng
|
thực tế, và giải thích tại sao tôi sử dụng văn thể đơn giản.
|
Trong hai hội đồng ấy trước hết chúng tôi nghiên cứu sự dạy dỗ
|
của Lời Đức Chúa Trời về các hội thánh và công tác của Ngài,
|
và thứ hai là xem lại các sứ mạng của chúng tôi trong quá khứ
|
dưới ánh sáng của những gì chúng tôi đã tìm thấy.
|
Các anh em trẻ tuổi nhận biết giá trị những bài nói chuyện
|
ấy và vì họ ghi chép lại, nên các bài ấy được chia sẻ với những
|
người khác. Kết quả là nhiều người yêu cầu cho in các bài ấy
|
thành sách. Vì thành phần tham dự hội đồng chính yếu là các
|
đồng công trẻ tuổi của tôi, nên tôi cảm thấy được tự do dạy dỗ,
|
hướng dẫn họ và thảo luận khá thoải mái về nhiều vấn đề thân
|
mật và có phần tế nhị. Nếu dự định phổ biến những bài chia sẻ
|
ấy cho một cử tọa rộng rãi hơn, hẳn tôi đã cảm thấy bắt buộc
|
phải bỏ đi nhiều vấn đề đã đề cập, và rao giảng theo một chiều
|
hướng hoàn toàn khác. Vì vậy, tự nhiên là tôi do dự khi người
|
ta đề nghị xuất bản những bài giảng này, nhưng Chúa đã tỏ rõ
|
đó là ý của Ngài, nên tôi không còn cách nào khác hơn là chấp
|
thuận. Tôi tự hỏi không biết có nên giữ văn thể ban đầu của
|
___________________________
|
Từ ngữ “chúng tôi” được sử dụng suốt quyển sách này như giữa vòng các
|
đồng công, vì từ ngữ này cũng được các sứ đồ sử dụng trong sách Công-vụ
|
bài nói chuyện, với ít nhiều những lời khuyên của “bậc đàn
|
anh” và chiều hướng riêng tư thân mật hay không; nhưng vì
|
nhiều bạn hữu làm chứng rằng họ được giúp đỡ đặc biệt nhờ
|
những phần nói chuyện có tính cách riêng tư hơn, nên tôi nhận
|
biết quyển sách này sẽ mất đi giá trị lớn nhất của nó nếu loại
|
bỏ các phần ấy đi. Vì vậy, dầu tôi cho phổ biến các bài nói
|
chuyện đã được sửa chữa phần nào, về cả nội dung lẫn về văn
|
thể, chúng vẫn còn rất giống như khi được chia sẻ lần đầu.
|
Chúng tôi tin rằng những người đọc quyển sách này sẽ ghi
|
nhớ rằng các bài chia sẻ ban đầu vốn không định dành cho họ.
|
Theo dự tính, những bài chia sẻ này chỉ dành riêng cho những
|
người thân cận của tôi trong công tác, nhưng theo yêu cầu,
|
chúng tôi chia sẻ những gì mình khám phá được với mọi anh
|
em. Quyển sách này vốn có tính cách riêng tư nhưng lại được
|
đem phổ biến, ban đầu dự định dành cho ít người bây giờ mở
|
rộng ra cho nhiều người; cho nên chúng tôi tin rằng người đọc
|
sẽ lượng thứ cho bất cứ điều gì dường như không thích hợp với
|
Chúng tôi muốn nêu lên ở đây rằng vị trí của những sự dạy
|
dỗ trong sách này thì nằm trong phần chủ yếu của lẽ thật thần
|
thượng, vì những sự dạy dỗ ấy chỉ có giá trị thuộc linh khi
|
chúng được giữ trong mối liên hệ với phần chủ yếu của lẽ thật
|
thần thượng. Suốt mười tám năm qua, Chúa đã dẫn dắt chúng
|
tôi qua những kinh nghiệm khác nhau để chúng tôi học tập
|
được một chút về nguyên tắc cũng như sự kiện về thập tự giá
|
và sự phục sinh, và học được ít nhiều về sự sống-Đấng Christ,
|
quyền làm Chúa của Giê-su, sự sống tập thể của Thân Thể, nền
|
tảng của vương quốc Đức Chúa Trời và mục đích đời đời của
|
Ngài. Vì vậy tự nhiên những điều đó đã và đang là gánh nặng
|
trong chức vụ chúng tôi. Nhưng rượu của Đức Chúa Trời phải có
|
bầu da để chứa. Trong khuôn mẫu thần thượng, không có gì
|
dành cho con người quyết định. Chính Đức Chúa Trời đã cung
|
ứng bầu da tốt nhất cho rượu của Ngài, là chiếc bình chứa đựng
|
và giữ gìn rượu không bị mất, bị cản trở hay không còn trình
|
bày sai [về chính Ngài]. Ngài không những bày tỏ cho chúng
|
tôi rượu của Ngài, mà còn bày tỏ cho chúng tôi bầu da nữa.
|
Suốt những năm qua, công tác của chúng tôi vẫn theo một
|
số nguyên tắc rõ ràng; nhưng cho đến nay chưa bao giờ chúng
|
tôi tìm cách định nghĩa hay dạy dỗ các nguyên tắc đó. Dầu vậy
|
trong quyền năng của Linh, chúng tôi tìm cách nhấn mạnh
|
những lẽ thật ấy, là những lẽ thật rất yêu dấu đối với lòng
|
chúng tôi và là những lẽ thật mà chúng tôi tin là có liên hệ
|
mật thiết đến đời sống thuộc linh của người tín đồ và mục đích
|
đời đời của Đức Chúa Trời. Nhưng thực hành các lẽ thật ấy
|
trong sự phục vụ Chúa không phải là không quan trọng. Không
|
có điều đó, mọi sự đều ở trong lãnh vực lý thuyết và không thể
|
nào có sự tăng trưởng thuộc linh. Cho nên nhờ ân điển của Đức
|
Chúa Trời, chúng tôi muốn tìm cách không những chuyển đạt
|
rượu ngon của Ngài, nhưng cả bầu da mà Ngài đã cung ứng để
|
bảo vệ rượu ngon. Vì vậy các lẽ thật được nêu lên trong quyển
|
sách này phải được suy xét trong mối liên hệ với các lẽ thật
|
được dạy dỗ suốt mười tám năm chức vụ của chúng tôi, và là sự
|
tiếp nối, chứ không phải là sự giới thiệu, của những năm ấy.
|
Trong phạm vi những trang sách này, tôi không thể nào
|
bàn về tất cả những vấn đề liên quan đến đề tài của sách. Một
|
số vấn đề đã được bàn đến ở những quyển khác, còn những vấn
|
đề khác tôi hi vọng sẽ bàn đến sau này. Tựa sách giải thích
|
bản chất của nó. Đây không phải là luận thuyết về các phương
|
pháp truyền giáo, nhưng là phần ôn lại công tác của chúng tôi
|
trong quá khứ dưới ánh sáng của ý muốn Đức Chúa Trời mà
|
chúng tôi đã khám phá được trong Lời Ngài. Bởi Linh của
|
Ngài, Chúa đã dẫn dắt chúng tôi cách đầy ân điển hơn hết
|
trong sự phục vụ Ngài trong quá khứ, nhưng chúng tôi muốn
|
được sáng tỏ về nền tảng mà mọi công tác thần thượng cần
|
nương dựa trên đó. Tôi nhận thức rằng nhu cầu chủ yếu của các
|
anh em trẻ tuổi là được Linh dẫn dắt và được nhận lãnh khải
|
thị từ Ngài, nhưng tôi không thể lơ là nhu cầu của họ về một
|
nền tảng vững chắc phù hợp với Kinh Thánh cho trọn cả chức
|
vụ của họ. Vì vậy, chúng tôi đã thẳng thắn đàm luận với nhau
|
về những gì chúng tôi đã làm, và phương cách chúng tôi đã
|
làm, và tìm cách so sánh công tác và phương pháp của chúng
|
tôi với điều Đức Chúa Trời đã đặt trước mặt chúng ta trong Lời
|
Ngài. Chúng tôi xem xét những lý do phù hợp với Kinh Thánh
|
cho các phương tiện chúng tôi sử dụng và sự biện minh phù hợp
|
với Kinh Thánh cho cứu cánh chúng tôi theo đuổi; và chúng tôi
|
ghi nhận những bài học mà mình đã học được nhờ quan sát
|
cũng như nhờ kinh nghiệm. Chúng tôi không có ý phê phán
|
công lao của người khác, thậm chí không hề gợi ý với họ là
|
công tác của Đức Chúa Trời cần phải được tiến hành theo cách
|
nào; chúng tôi chỉ tìm cách học hỏi từ Lời Đức Chúa Trời, từ
|
kinh nghiệm và từ sự quan sát cách tiến hành công tác trong
|
những ngày tới, để chúng tôi có thể là những người làm công
|
“được Đức Chúa Trời chấp thuận”.
|
Quyển sách này được viết theo quan điểm của một đầy tớ
|
nhìn từ công tác hướng về các hội thánh. Sách này không bàn
|
đến chức vụ cụ thể mà chúng tôi tin rằng Chúa đã kêu gọi
|
chúng tôi, nhưng chỉ bàn đến những nguyên tắc chung của công
|
tác; sách này cũng không bàn đến “hội thánh, là Thân Thể
|
Ngài”, nhưng bàn đến các hội thánh địa phương và mối liên hệ
|
của các hội thánh với công tác. Sách này không bàn đến các
|
nguyên tắc của công tác, hay nếp sống của các hội thánh, mà
|
chỉ ôn lại các sứ mạng của chúng tôi, như tựa đề sách nêu lên.
|
Các lẽ thật được nêu lên trong sách này đã dần dần được
|
học tập và thực hành suốt những năm qua. Có nhiều điều được
|
điều chỉnh khi chúng tôi nhận được ánh sáng lớn hơn, và nếu
|
chúng tôi tiếp tục khiêm nhường và Đức Chúa Trời vẫn bày tỏ
|
sự thương xót cho chúng tôi, chúng tôi tin rằng sẽ còn những
|
điều chỉnh thêm nữa trong tương lai. Trong ân điển của Ngài,
|
Chúa đã ban cho chúng tôi nhiều đồng công, tất cả những
|
người ấy đã được sai phái ra đi trên nền tảng đã được đề cập
|
trong sách này, và qua công lao của họ nhiều hội thánh đã được
|
thành lập ở những miền khác nhau tại Trung Quốc. Dầu tình
|
trạng những hội thánh này rất khác nhau, và các tín đồ liên hệ
|
đến các hội thánh ấy cũng rất khác nhau — về bối cảnh, học
|
vấn, địa vị xã hội và kinh nghiệm thuộc linh — nhưng chúng
|
tôi đã khám phá ra rằng dưới quyền làm Chúa tuyệt đối của
|
Giê-su, nếu chúng ta đến xem kiểu mẫu thiên thượng về sự
|
hình thành và quản trị hội thánh, thì những phương pháp của
|
Kinh Thánh vừa có thể áp dụng được trong thực tế, vừa rất kết
|
Dầu sách này dường như bàn đến phương diện kỹ thuật của
|
Đạo Đấng Christ, điều cần nhấn mạnh ở đây là chúng tôi
|
không chỉ nhắm đến sự đúng đắn về mặt kỹ thuật. Điều chúng
|
tôi theo đuổi là thực tại thuộc linh. Nhưng tính cách thuộc linh
|
không phải là vấn đề lý thuyết, mà luôn luôn dẫn đến sự thực
|
hành; sách này bàn đến tình trạng thuộc linh trong công tác
|
Đối với tôi, thật là mệt mỏi nếu không nói là kinh khủng
|
khi phải nói chuyện với những người chỉ nhắm đến sự đúng
|
đắn hoàn hảo bề ngoài, trong khi không mấy quan tâm đến
|
điều gì sống động và thuộc linh. Vì vậy, các phương pháp
|
truyền giáo không thu hút tôi chút nào. Thật ra, tôi cảm thấy
|
đau buồn sâu xa khi gặp những con cái của Đức Chúa Trời
|
không biết gì về tình trạng đáng ghét của một đời sống trong
|
năng lực thiên nhiên của con người và chỉ biết rất ít về kinh
|
nghiệm trọng yếu thuộc quyền làm đầu của Giê-su Christ, thế
|
mà lại cẩn thận từng li từng tí để đạt đến chỗ hoàn toàn chính
|
xác về phương pháp trong sự phục vụ Đức Chúa Trời. Nhiều lần
|
người ta nói với chúng tôi: “Chúng tôi đồng ý với các anh về
|
mọi sự”. Nhưng thật ra không phải như vậy! Trên thực tế
|
chúng ta không đồng ý với nhau chút nào! Chúng tôi hi vọng
|
quyển sách này sẽ không rơi vào tay những người muốn cải
|
thiện công tác của họ bằng cách cải tiến phương pháp mà
|
không điều chỉnh mối quan hệ của họ với Chúa; nhưng chúng
|
tôi thật hi vọng quyển sách này có một thông điệp cho những
|
người khiêm nhường muốn học tập sống trong quyền năng của
|
Linh và không tin cậy xác thịt chút nào.
|
Có bầu da mà không có rượu là chết, nhưng có rượu mà
|
không có bầu da thì cũng mất mát. Chúng ta phải có bầu da
|
sau khi có rượu. Phao-lô viết thư Ê-phê-sô, nhưng ông cũng viết
|
thư Cô-rin-tô; và thư Cô-rin-tô trình bày cho chúng ta các lẽ
|
thật của thư Ê-phê-sô trong biểu hiện thực tế. Phải, người viết
|
thư Ê-phê-sô cũng là người viết thư Cô-rin-tô! Thế thì tại sao
|
các con cái của Đức Chúa Trời chưa bao giờ tranh luận gay gắt
|
về các lẽ thật của thư Ê-phê-sô, nhưng lại luôn luôn tranh cãi
|
về các lẽ thật của thư Cô-rin-tô? Vì lãnh vực của thư Ê-phê-sô
|
là cõi thiên thượng và những lẽ thật ấy thuần thuộc linh, cho
|
nên nếu có sự bất đồng ý kiến nào về những lẽ thật ấy thì
|
không ai cảm nhận rõ; nhưng những sự dạy dỗ của thư
|
Cô-rin-tô thì thực tế và bàn đến lãnh vực thuộc đất, cho nên
|
nếu có ý kiến khác biệt một chút thì người ta phản ứng ngay
|
lập tức. Phải, thư Cô-rin-tô rất thực tế! Và thư này thử nghiệm
|
sự vâng phục của chúng ta nhiều hơn thư Ê-phê-sô!
|
Những người ít biết về sự sống và thực tại có hiểm họa chỉ
|
nhấn mạnh đến sự đúng đắn bề ngoài; nhưng những người kể
|
sự sống và thực tại là tối quan trọng lại bị cám dỗ ném bỏ
|
khuôn mẫu thần thượng của nhiều điều, nghĩ rằng khuôn mẫu
|
ấy là luật pháp và kỹ thuật. Họ cảm thấy họ có điều quan
|
trọng hơn và do đó không cần đến điều thấp kém hơn. Hậu quả
|
là càng thuộc linh, người ta càng cảm thấy mình được tự do hơn
|
để làm những gì mình nghĩ là thích hợp. Người ấy nghĩ rằng
|
mình có quyền định đoạt những sự việc bề ngoài, và cho rằng
|
bỏ qua những mạng lệnh của Đức Chúa Trời về những sự việc
|
bề ngoài là dấu chỉ mình đã được được giải cứu khỏi luật pháp
|
và đang bước đi trong sự tự do của Linh. Nhưng Đức Chúa Trời
|
không những bày tỏ các lẽ thật về sự sống bề trong của chúng
|
ta; Ngài cũng bày tỏ lẽ thật liên quan đến biểu hiện bề ngoài
|
của sự sống ấy. Đức Chúa Trời đánh giá cao thực tại bề trong,
|
nhưng Ngài không bỏ qua biểu hiện bề ngoài của thực tại ấy.
|
Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta Ê-phê-sô, Rô-ma và
|
Cô-lô-se, nhưng Ngài cũng ban cho chúng ta Công-vụ, các Thư
|
tín gửi cho Ti-mô-thê, và các Thư tín gửi cho người Cô-rin-tô.
|
Có lẽ chúng ta nghĩ rằng Đức Chúa Trời dùng Rô-ma, Ê-phê-sô
|
và Cô-lô-se dạy dỗ chúng ta về sự sống của mình trong Đấng
|
Christ là đủ rồi, nhưng Ngài cho rằng Ngài dùng Công-vụ,
|
Cô-rin-tô và Ti-mô-thê dạy dỗ chúng ta cách thi hành công tác
|
và cách tổ chức Hội Thánh là cần thiết. Đức Chúa Trời không
|
chừa điều gì cho sự tưởng tượng hay ý muốn của con người. Con
|
người sợ dùng những đầy tớ không biết suy nghĩ, nhưng Đức
|
Chúa Trời không muốn dùng những đầy tớ suy nghĩ quá nhiều;
|
tất cả những gì Ngài đòi hỏi con người là vâng phục cách đơn
|
sơ. “Ai đã làm mưu sĩ cho Ngài ư?” Phao-lô đã hỏi như vậy (Rô
|
11:34). Con người rất muốn giữ chức vụ ấy, nhưng Đức Chúa
|
Trời không cần cố vấn. Vị trí của chúng ta không phải là đề
|
nghị công tác thần thượng nên được thực hiện như thế nào, mà
|
là trong mọi sự chúng ta phải hỏi: “Ý muốn của Chúa là gì?”
|
Người Pha-ri-si rửa sạch ngoài mâm, nhưng trong mâm thì
|
đầy dẫy sự ô uế. Chúa chúng ta quở trách họ vì quá coi trọng
|
những điều bề ngoài và bỏ qua những điều bên trong; từ lời quở
|
trách của Chúa, nhiều con cái Chúa kết luận rằng mọi sự đều
|
tốt đẹp miễn là chúng ta chú trọng đến phương diện bề trong
|
của lẽ thật thuộc linh. Nhưng Đức Chúa Trời đòi hỏi sự tinh
|
sạch cả trong lẫn ngoài. Có bề ngoài mà không có bề trong là
|
chết thuộc linh, nhưng có bề trong mà không có bề ngoài thì
|
chỉ là sự sống thuộc linh hóa. Và thuộc linh hóa không phải là
|
thuộc linh. Chúa chúng ta phán: “Những điều này các ngươi cần
|
phải làm, mà những điều kia cũng không nên bỏ sót” (Math.
|
23:23). Dầu một mạng lệnh thiên thượng có vẻ kém quan trọng
|
đến đâu chăng nữa, mạng lệnh ấy vẫn nói lên ý muốn của Đức
|
Chúa Trời; vì vậy, chúng ta đừng bao giờ xem thường. Chúng ta
|
không thể bỏ qua mạng lệnh nhỏ nhất của Ngài mà không bị
|
trừng phạt. Những điều Ngài đòi hỏi có thể có tầm quan trọng
|
khác nhau, nhưng mọi sự thuộc về Đức Chúa Trời đều có mục
|
đích đời đời và giá trị đời đời. Dĩ nhiên, sự giữ hình thức bề
|
ngoài của sự phục vụ không có giá trị thuộc linh nào. Mọi lẽ
|
thật thuộc linh, dầu liên quan đến sự sống bề trong hay bề
|
ngoài, đều rất có thể bị luật pháp hóa. Mọi sự thuộc về Đức
|
Chúa Trời — dầu là bề trong hay bề ngoài — nếu ở trong Linh
|
đều là sự sống, nếu ở trong văn tự đều là sự chết. Cho nên vấn
|
đề không phải điều đó thuộc bề trong hay bề ngoài, nhưng điều
|
đó ở trong Linh hay trong văn tự. “Văn tự làm cho chết, còn
|
thần linh (RcV: Linh) làm cho sống” (2 Côr. 3:6).
|
Mong ước của chúng tôi là chấp nhận và công bố toàn bộ
|
Lời Đức Chúa Trời. Chúng tôi khao khát có thể cùng nói với
|
Phao-lô: “Vì tôi không tránh trút mà rao giảng cho anh em cả
|
chỉ định của Đức Chúa Trời” (Công 20:27). Chúng ta tìm cách
|
đi theo sự dẫn dắt của Linh Đức Chúa Trời, nhưng đồng thời
|
cũng chú tâm đến đến những gương mẫu được bày tỏ cho chúng
|
ta trong Lời Ngài. Sự dẫn dắt của Linh rất quí báu, nhưng nếu
|
không có gương mẫu nào trong Lời, chúng ta dễ thay thế sự
|
dẫn dắt của Linh bằng các tư tưởng sai lầm và cảm xúc vô căn
|
cứ của mình, trôi dạt vào lỗi lầm mà không biết. Nếu một
|
người không được chuẩn bị để vâng phục ý muốn của Đức Chúa
|
Trời trong mỗi một lời chỉ dẫn, thì rất dễ làm những điều trái
|
ngược với Lời Ngài mà vẫn tưởng mình đang được Linh Ngài
|
dẫn dắt. Chúng tôi nhấn mạnh tính cách thiết yếu của việc vừa
|
đi theo sự dẫn dắt của Linh vừa đi theo những gương mẫu trong
|
Lời, vì bằng cách so sánh đường lối của mình với Lời thành
|
văn chúng ta có thể khám phá ra nguồn dẫn dắt mình. Sự
|
hướng dẫn của Linh sẽ luôn luôn hòa hợp với Kinh Thánh.
|
Cách Đức Chúa Trời dẫn dắt con người trong sách Công-vụ
|
không thể khác với cách Ngài dẫn dắt con người ngày nay. Về
|
bề ngoài sự dẫn dắt có thể khác, nhưng theo nguyên tắc thì
|
luôn luôn giống nhau; vì ý muốn của Đức Chúa Trời là đời đời,
|
vì vậy ý muốn ấy không thay đổi. Đức Chúa Trời là Đức Chúa
|
Trời đời đời; Ngài không quan tâm đến thời gian, và ý muốn
|
cùng đường lối của Ngài đều mang dấu ấn đời đời. Do đó, Đức
|
Chúa Trời không bao giờ có thể hành động lúc như vầy lúc thế
|
khác. Hoàn cảnh có thể khác nhau và các trường hợp có thể
|
khác nhau, nhưng trên nguyên tắc thì ý muốn và đường lối của
|
Đức Chúa Trời ngày nay cũng như vào thời của sách Công-vụ
|
Đức Chúa Trời phán với người Y-sơ-ra-ên: “Ấy vì lòng cứng
|
cỏi của các ngươi nên Môi-se cho phép các ngươi để vợ” (Math.
|
19:8), nhưng Chúa Giê-su nói: “Những kẻ mà Đức Chúa Trời đã
|
phối hiệp, người ta chớ chia rẽ” (Math. 19:6). Ở đây có sự khác
|
biệt không? Không! “Ấy vì lòng cứng cỏi của các ngươi nên
|
Môi-se cho phép các ngươi để vợ, nhưng từ ban đầu không có
|
như vậy đâu” (Math. 19:8). Không phải ban đầu được phép rồi
|
về sau bị cấm, và về sau nữa lại được phép, dường như Đức
|
Chúa Trời thay đổi. Không, Chúa nói: “Từ ban đầu không có
|
như vậy đâu” bày tỏ rằng ý muốn của Đức Chúa Trời không bao
|
giờ thay đổi. Từ ban đầu cho đến ngày nay vẫn y nguyên. Đây
|
là nguyên tắc quan trọng nhất. Nếu muốn biết tâm trí của Đức
|
Chúa Trời, chúng ta phải nhìn vào các mạng lệnh của Ngài
|
trong Sáng-thế Ký và đừng nhìn vào những gì Ngài cho phép
|
về sau, vì mỗi một điều cho phép về sau có lời giải thích này:
|
“vì lòng cứng cỏi của các ngươi”. Chúng ta muốn khám phá ý
|
muốn trực tiếp của Đức Chúa Trời, không phải ý muốn cho
|
phép của Ngài. Chúng ta muốn thấy mục đích của Đức Chúa
|
Trời từ ban đầu. Chúng ta muốn thấy sự việc như thế nào khi
|
bắt nguồn trong sự thuần khiết trọn vẹn từ tâm trí của Đức
|
Chúa Trời, chứ không phải sự việc đã trở nên thế nào do sự
|
Nếu muốn hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời về Hội Thánh
|
Ngài, chúng ta không được nhìn xem cách Ngài dẫn dắt dân
|
Ngài năm ngoái, hay cách đây mười năm, hay cách đây một
|
trăm năm, nhưng chúng ta phải trở lại từ đầu, trở về với
|
“Sáng-thế Ký” của Hội Thánh, để xem khi ấy Ngài nói và làm
|
những gì. Tại đó chúng ta sẽ thấy biểu hiện cao nhất của ý
|
muốn Ngài. Công-vụ là “Sáng-thế Ký” của lịch sử Hội Thánh,
|
và Hội Thánh vào thời Phao-lô là “Sáng-thế Ký” về công tác
|
của Linh. Tình trạng trong Hội Thánh ngày nay rất khác với
|
tình trạng thời ấy, nhưng tình trạng ngày nay không thể là
|
khuôn mẫu của chúng ta, không thể là sự dẫn dắt có thẩm
|
quyền cho chúng ta. Chúng ta phải trở lại thuở ban đầu. Chỉ có
|
điều gì Đức Chúa Trời đưa ra làm khuôn mẫu cho chúng ta từ
|
đầu mới là ý muốn đời đời của Đức Chúa Trời. Đó là tiêu chuẩn
|
thần thượng và khuôn mẫu của chúng ta mãi mãi.
|
Có lẽ cần phải giải thích đôi lời về những khuôn mẫu Đức
|
Chúa Trời đã ban cho chúng ta trong Lời Ngài. Đạo Đấng
|
Christ không những được xây dựng trên các lời giáo huấn, mà
|
cũng trên những khuôn mẫu nữa. Đức Chúa Trời đã bày tỏ ý
|
muốn Ngài, không những bằng cách ban những huấn lệnh mà
|
cũng bằng cách cho những sự việc được thực hiện trong Hội
|
Thánh Ngài, để trong các thời đại về sau, những người khác có
|
thể chỉ nhìn vào khuôn mẫu mà biết ý muốn Ngài. Đức Chúa
|
Trời không chỉ hướng dẫn dân Ngài bằng những nguyên tắc
|
trừu tượng và những luật lệ khách quan, mà còn bởi những
|
gương mẫu cụ thể và kinh nghiệm chủ quan. Đức Chúa Trời
|
thật có dùng những lời giáo huấn để dạy dỗ dân Ngài, nhưng
|
một trong những phương pháp dạy dỗ chính yếu là qua lịch sử.
|
Đức Chúa Trời bày tỏ cho chúng ta những người khác đã biết
|
và thực hiện ý muốn Ngài như thế nào, để rồi bằng cách nhìn
|
vào đời sống họ, chúng ta không những biết ý muốn của Ngài,
|
mà còn thấy cách thực hiện ý muốn ấy nữa. Ngài hành động
|
trong đời sống họ, sản sinh ra trong họ những gì chính Ngài
|
mong muốn, và Ngài khuyên chúng ta nhìn vào họ, để có thể
|
biết những gì Ngài theo đuổi.
|
Như vậy, chúng ta có được nói rằng vì Đức Chúa Trời không
|
truyền lệnh phải làm một điều gì đó nên chúng ta không cần
|
làm? Nếu chúng ta đã thấy cách Ngài đối xử với loài người
|
trong quá khứ, nếu chúng ta đã thấy cách Ngài dẫn dắt dân
|
Ngài và xây dựng Hội Thánh Ngài, chúng ta vẫn có thể viện cớ
|
rằng mình không biết ý muốn của Ngài sao? Một đứa trẻ có cần
|
phải được chỉ bảo cách rõ ràng tường tận phải làm mọi chuyện
|
như thế nào không? Có cần phải cho nó biết từng điều một cái
|
nào được phép làm và cái nào không được phép làm không?
|
Không phải là có nhiều điều “đứa trẻ” có thể học tập chỉ bằng
|
cách quan sát cha mẹ hay anh chị mình sao? Chúng ta học nơi
|
những gì mình thấy nhanh chóng và dễ dàng hơn những gì
|
mình nghe, và ấn tượng do những gì chúng ta thấy cũng sâu
|
đậm hơn. Đó là lý do vì sao Đức Chúa Trời ban cho chúng ta
|
rất nhiều sự kiện lịch sử trong Cựu Ước và sách Công-vụ các Sứ
|
Đồ trong Tân Ước. Ngài biết chúng ta học qua gương mẫu dễ
|
dàng hơn là học qua lời giáo huấn. Các gương mẫu có giá trị
|
lớn hơn những lời giáo huấn, vì lời giáo huấn thì trừu tượng
|
trong khi gương mẫu là lời giáo huấn được thực hiện. Bằng
|
cách nhìn vào gương mẫu, không những chúng ta biết lời giáo
|
huấn của Đức Chúa Trời là gì, mà chúng ta còn có sự trình bày
|
cụ thể về việc thi hành lời giáo huấn. Nếu cố gắng loại bỏ các
|
gương mẫu khỏi Đạo Đấng Christ và chỉ để lại các lời giáo
|
huấn, thì chúng ta không còn lại bao nhiêu. Các lời giáo huấn
|
có chỗ của chúng, nhưng gương mẫu cũng có một vị trí không
|
kém quan trọng, tuy nhiên rõ ràng là nếu không có sự sống
|
tương hợp ở bên trong thì phỏng theo khuôn mẫu thần thượng
|
cách bề ngoài chỉ là hình thức mà thôi.
|
Để kết luận, tôi xin nhấn mạnh rằng đây không phải là một
|
quyển sách về các phương pháp truyền giáo. Chúng ta không
|
nên khinh thường phương pháp, nhưng trong sự phục vụ Đức
|
Chúa Trời, điều quan trọng nhất là con người chứ không phải
|
phương pháp của con người. Nếu một người không đúng đắn,
|
thì các phương pháp đúng đắn không ích lợi gì cho người ấy
|
hay cho công tác của người ấy. Phương pháp xác thịt thích hợp
|
với người xác thịt, và phương pháp thuộc linh thích hợp với
|
người thuộc linh. Người xác thịt mà dùng phương pháp thuộc
|
linh thì chỉ dẫn đến tình trạng rối loạn và thất bại. Quyển
|
sách này dành cho những ai đã học biết ít nhiều về thập tự giá,
|
biết sự bại hoại của bản chất con người, và tìm cách bước đi
|
theo Linh, không theo xác thịt. Mục tiêu của quyển sách này là
|
giúp những người thừa nhận quyền làm Chúa của Đấng Christ
|
trong mọi sự, và tìm cách phục vụ Ngài theo cách Ngài chỉ
|
định, chứ không theo cách họ chọn lựa. Nói cách khác, quyển
|
sách này được viết cho những người đã tiếp nhận những lẽ thật
|
trong Ê-phê-sô, để họ có thể biết cách bày tỏ sự phục vụ của
|
mình theo Cô-rin-tô. Mong rằng không một người đọc nào dùng
|
quyển sách này làm cơ sở để điều chỉnh công tác cách bề ngoài,
|
mà không để thập tự giá triệt để xử lý sự sống thiên nhiên của
|
Trong công tác của Đức Chúa Trời, mọi sự tùy thuộc vào loại
|
công tác viên được sai đi và loại người hoán cải được sinh ra.
|
Về phần người hoán cải, điều thiết yếu là phải có sự tân sinh
|
thật sự của Thánh Linh và mối liên hệ sống động với Đức Chúa
|
Trời. Về phần công tác viên, ngoài sự thánh khiết cá nhân và
|
sự ban cho ân tứ để phục vụ, điều thiết yếu là người ấy có sự
|
hiểu biết trong kinh nghiệm về ý nghĩa sự phó thác cho Đức
|
Chúa Trời và đức tin nơi sự quan phòng tể trị của Ngài. Nếu
|
không, dầu phương pháp được áp dụng có phù hợp với Kinh
|
Thánh đến đâu chăng nữa, kết quả vẫn là trống rỗng và thất
|
Tôi xin phó thác quyển sách này cho Chúa và dân Ngài, với
|
lời cầu nguyện là xin Ngài dùng nó cho vinh quang Ngài theo ý
|
Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời công tác. Chúa chúng ta
|
phán: “Cha Ta vẫn làm việc cho đến bây giờ”. Ngài có một mục
|
đích cụ thể, và toàn bộ công tác của Ngài đều nhắm vào việc
|
hoàn thành mục đích ấy. Ngài là Đức Chúa Trời “làm mọi sự
|
theo quyết nghị của ý chỉ Ngài”. Nhưng Đức Chúa Trời không
|
trực tiếp làm mọi sự. Ngài hành động qua các đầy tớ Ngài.
|
Giữa vòng các đầy tớ của Đức Chúa Trời các sứ đồ là những
|
người quan trọng nhất. Chúng ta hãy nghiên cứu kỹ Lời Đức
|
Chúa Trời để xem Lời dạy gì về các sứ đồ.
|
Khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến
|
thế gian để thực hiện công tác của Ngài. Ngài được biết đến là
|
Đấng Christ của Đức Chúa Trời, tức là “Đấng được xức dầu”. Từ
|
ngữ “Con” liên hệ đến Thân Vị của Ngài; danh hiệu “Christ”
|
liên hệ đến chức vụ của Ngài. Ngài là Con Đức Chúa Trời,
|
nhưng Ngài được sai đến để làm Đấng Christ của Đức Chúa
|
Trời. “Christ” là tên của Con Đức Chúa Trời trong chức vụ.
|
Chúa chúng ta không tự ý đến trên đất hay lên thập tự giá;
|
Ngài không tự chỉ định, mà được sai đi. Trong suốt Phúc-âm
|
Giăng, chúng ta thường thấy Ngài nói về Đức Chúa Trời là
|
“Đấng đã sai Ta”, chứ không là “Đức Chúa Trời” hay “Cha”.
|
Ngài nhận lấy vị trí của người được sai đi. Nếu Con Đức Chúa
|
Trời còn như vậy, thì các đầy tớ của Ngài lại càng nên áp dụng
|
thái độ ấy cho mình là dường nào! Nếu thậm chí Con còn
|
không thể khởi xướng trong công tác của Đức Chúa Trời, lẽ nào
|
chúng ta có thể khởi xướng? Nguyên tắc đầu tiên cần lưu ý
|
trong công tác của Đức Chúa Trời là tất cả các công tác viên
|
của Ngài đều là những người được sai đi. Nếu không có sự ủy
|
nhiệm thần thượng thì không thể có công tác thần thượng.
|
Kinh Thánh đặc biệt gọi người được sai đi là sứ đồ. Ý nghĩa
|
của từ ngữ Hi-lạp này là “người được sai đi”. Chính Chúa là vị
|
Sứ đồ đầu tiên vì Ngài là người đầu tiên được Đức Chúa Trời
|
sai phái cách đặc biệt; vì vậy, Lời Kinh Thánh nói Ngài là “Sứ
|
đồ (BNC: Sứ giả)” (Hê 3:1).
|
Đang khi Chúa thi hành chức vụ sứ đồ của Ngài trên đất,
|
Ngài luôn luôn nhận thức rằng sự sống của Ngài trong xác thịt
|
có giới hạn. Vì vậy, thậm chí đang khi theo đuổi công tác mà
|
Cha ủy nhiệm, Ngài chuẩn bị một nhóm người để tiếp tục công
|
tác sau khi Ngài ra đi. Những người này cũng là các sứ đồ được
|
chỉ định. Họ không phải là những người tình nguyện; họ là
|
những người được sai đi. Chúng ta không thể nhấn mạnh đủ sự
|
kiện là mọi công tác thần thượng đều do ủy nhiệm chứ không
|
Chúa chúng ta lựa chọn các sứ đồ này từ những ai? Họ được
|
lựa chọn từ trong các môn đồ Ngài. Tất cả những người được
|
Chúa sai đi vốn là các môn đồ. Không phải môn đồ nào cũng
|
nhất thiết phải là sứ đồ, nhưng tất cả các sứ đồ nhất thiết phải
|
là môn đồ; không phải tất cả môn đồ đều được lựa chọn cho
|
công tác, nhưng những ai được lựa chọn luôn luôn được lựa chọn
|
từ trong số các môn đồ của Chúa. Như vậy một sứ đồ phải có
|
hai sự kêu gọi; trước hết người ấy phải được gọi làm môn đồ, và
|
thứ hai người ấy phải được gọi làm sứ đồ. Trước hết người ấy
|
được kêu gọi từ giữa những con cái của thế gian để làm người
|
theo Chúa. Thứ hai người ấy được kêu gọi từ giữa những người
|
theo Chúa để làm người được Ngài sai đi.
|
Các sứ đồ được Chúa lựa chọn trong khi Ngài thi hành chức
|
vụ trên đất chiếm một vị trí đặc biệt trong Kinh Thánh, và họ
|
cũng chiếm một vị trí đặc biệt trong mục đích của Đức Chúa
|
Trời, vì họ ở với Con Đức Chúa Trời trong khi Ngài sống trong
|
xác thịt. Họ không chỉ là những sứ đồ được kêu gọi mà còn
|
được gọi là “mười hai sứ đồ.” Họ chiếm một vị trí đặc biệt trong
|
Lời Đức Chúa Trời, và họ chiếm một vị trí đặc biệt trong kế
|
hoạch của Đức Chúa Trời. Chúa chúng ta bảo Phi-e-rơ rằng một
|
ngày kia họ sẽ “ngồi trên ngôi mà xét đoán mười hai chi phái
|
Y-sơ-ra-ên” (Lu 22:30). Đấng là Sứ đồ có ngai của Ngài, và
|
mười hai sứ đồ cũng sẽ có ngai của họ nữa. Đó là đặc quyền
|
không được ban cho các sứ đồ khác. Khi Giu-đa mất chức vụ và
|
Đức Chúa Trời dẫn dắt mười một người còn lại chọn một người
|
để bù cho đủ số; chúng ta đọc thấy họ bắt thăm và thăm trúng
|
nhằm Ma-thia, “người bèn được liệt vào mười một sứ đồ” (Công
|
1:26). Trong chương tiếp theo chúng ta thấy Thánh Linh cảm
|
thúc người viết sách Công-vụ ghi rằng: “Bấy giờ Phi-e-rơ cùng
|
mười một sứ đồ đứng dậy” (Công 2:14), cho thấy Thánh Linh
|
thừa nhận Ma-thia là một trong mười hai sứ đồ. Ở đây chúng
|
ta thấy con số của các sứ đồ cố định; Đức Chúa Trời không
|
muốn nhiều hơn mười hai người, Ngài cũng không muốn ít hơn.
|
Trong sách Khải-thị chúng ta thấy sau cùng, một lần nữa, họ
|
giữ một địa vị đặc biệt — “Tường thành có mười hai nền, trên
|
đề mười hai danh của mười hai sứ đồ của Chiên Con” (Khải
|
21:14). Thậm chí trong trời mới và đất mới, mười hai sứ đồ sẽ
|
được hưởng địa vị đặc biệt mà các công tác viên khác của Đức
|
Chúa Trời không được hưởng.
|
CÁC SỨ ĐỒ VÀO THỜI KINH THÁNH
|
Chúa với tư cách là một sứ đồ thì độc nhất vô nhị, và mười
|
hai sứ đồ cũng độc nhất vô nhị; nhưng Đấng là Sứ đồ cũng như
|
mười hai sứ đồ không thể ở trên đất mãi mãi. Khi Chúa ra đi,
|
Ngài để lại mười hai người để tiếp tục công tác của Ngài. Nay
|
mười hai sứ đồ đã ra đi, vậy còn lại ai để tiếp tục thực hiện
|
Chúa đã ra đi, nhưng Linh đã đến. Thánh Linh phải đến để
|
chịu mọi trách nhiệm về công tác của Đức Chúa Trời trên đất.
|
Con làm việc cho Cha; Linh làm việc cho Con. Con đến để hoàn
|
thành ý muốn của Cha; Linh đến để hoàn thành ý muốn của
|
Con. Con đến để tôn vinh Cha; Linh đến để tôn vinh Con. Cha
|
chỉ định Đấng Christ làm Sứ đồ; Con cũng chỉ định mười hai
|
người làm các sứ đồ trong khi ở trên đất. Bây giờ Con đã trở về
|
với Cha, và Linh ở trên đất chỉ định con người làm sứ đồ. Các
|
sứ đồ được Thánh Linh chỉ định không thể xếp vào hàng những
|
người mà Con đã chỉ định; tuy nhiên, họ cũng là các sứ đồ. Các
|
sứ đồ mà chúng ta đọc thấy trong Ê-phê-sô chương 4 rõ ràng
|
không phải là mười hai người ban đầu, vì những người kia được
|
chỉ định khi Chúa còn ở trên đất, trong khi những người này
|
được chỉ định vào chức vụ sứ đồ sau khi Chúa thăng thiên — họ
|
là những ân tứ Chúa Giê-su ban cho Hội Thánh sau khi Ngài
|
vinh hóa. Mười hai sứ đồ khi ấy là những người đích thân theo
|
Chúa Giê-su, nhưng các sứ đồ bây giờ là những người cung ứng
|
để xây dựng Thân Thể Đấng Christ. Chúng ta phải phân biệt
|
rõ ràng giữa các sứ đồ là chứng nhân về sự phục sinh của Đấng
|
Christ (Công 1:22, 26) và các sứ đồ là những người cung ứng để
|
xây dựng Thân Thể Đấng Christ, vì Thân Thể Đấng Christ
|
hiện hữu sau thập tự giá. Chắc chắn về sau mười hai người ấy
|
cũng nhận được sự ủy nhiệm của Ê-phê-sô, nhưng thuộc nhóm
|
mười hai người, họ rất khác biệt với các sứ đồ được đề cập
|
trong thư Ê-phê-sô. Hiển nhiên khi ấy Đức Chúa Trời có những
|
sứ đồ khác ngoài mười hai sứ đồ ban đầu.
|
Ngay sau khi Linh đổ ra, chúng ta thấy mười hai sứ đồ thực
|
hiện công tác. Cho đến Công-vụ chương 12 chúng ta thấy họ là
|
những công tác viên chính yếu; nhưng với chương mười ba mở
|
ra chúng ta thấy Thánh Linh bắt đầu bày tỏ chính Ngài là Đại
|
Diện của Đấng Christ và là Chúa của Hội Thánh. Trong chương
|
ấy chúng ta thấy ở An-ti-ốt, khi một số tiên tri và giáo sư đang
|
phụng sự Chúa và kiêng ăn, thì Thánh Linh phán: “Hãy biệt
|
riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta để làm công việc Ta đã gọi họ
|
làm” (Công 13:2). Bấy giờ là thời điểm Linh bắt đầu sai phái
|
con người. Vào thời điểm ấy Thánh Linh đã ủy nhiệm hai công
|
Sau khi hai người này được Linh sai đi, họ được ban cho
|
danh hiệu gì? Khi Ba-na-ba và Phao-lô đang công tác tại
|
Y-cô-ni: “Dân chúng trong thành chia rẽ, kẻ thì theo người
|
Do-thái, người thì theo hai sứ đồ” (Công 14:4). Hai người được
|
sai đi trong chương trước được nhắc đến trong chương này như
|
những sứ đồ, và trong cùng một chương (c. 14), danh hiệu “hai
|
sứ đồ” được dùng thay thế cho “Ba-na-ba và Phao-lô”, chứng tỏ
|
rõ ràng hai người được Thánh Linh sai đi cũng là các sứ đồ. Họ
|
không ở trong nhóm mười hai người; nhưng họ cũng là các sứ
|
Như vậy ai là sứ đồ? Sứ đồ là công tác viên của Đức Chúa
|
Trời, được Thánh Linh sai đi để làm công tác Ngài kêu gọi họ.
|
Trách nhiệm công tác ở trong tay họ. Nói chung, tất cả tín đồ
|
đều chịu trách nhiệm về công tác của Đức Chúa Trời, nhưng các
|
sứ đồ là nhóm người đặc biệt được biệt riêng cho công tác. Theo
|
một ý nghĩa cụ thể, trách nhiệm công tác đặt trên họ.
|
Bây giờ chúng ta đã thấy sự dạy dỗ của Kinh Thánh khi bàn
|
đến các sứ đồ. Đức Chúa Trời chỉ định Con Ngài làm Sứ đồ;
|
Đấng Christ chỉ định các môn đồ của Ngài làm mười hai sứ đồ;
|
và Thánh Linh chỉ định một nhóm người (ngoài mười hai
|
người) làm các sứ đồ xây dựng Thân Thể. Vị sứ đồ đầu tiên là
|
độc nhất vô nhị; chỉ có một mình Ngài. Mười hai sứ đồ cũng
|
thuộc về một hàng ngũ riêng; chỉ có mười hai người. Nhưng có
|
một lớp sứ đồ khác được Thánh Linh lựa chọn, và bao lâu Hội
|
Thánh còn được xây dựng và Thánh Linh còn hiện diện trên
|
đất, thì việc lựa chọn và sai phái loại sứ đồ này cũng sẽ còn
|
Trong Lời Đức Chúa Trời, ngoài Ba-na-ba và Phao-lô chúng
|
ta còn thấy nhiều sứ đồ khác. Có nhiều người thuộc về hàng sứ
|
đồ mới được Linh của Đức Chúa Trời lựa chọn và sai đi. Trong
|
1 Cô-rin-tô 4:9 chúng ta đọc thấy: “Đức Chúa Trời đã phơi
|
chúng tôi là các sứ đồ ra sau rốt”. Những chữ “chúng tôi là các
|
sứ đồ” chỉ về ai? Đại từ “chúng tôi” ngụ ý có ít nhất một sứ đồ
|
nữa ngoài người viết. Nếu nghiên cứu văn mạch, chúng ta thấy
|
A-bô-lô ở với Phao-lô khi ông viết (c. 6) và Sốt-then là người
|
cùng viết các Thư tín với Phao-lô. Cho nên dường như sáng tỏ
|
rằng “chúng tôi” ở đây chỉ về hoặc A-bô-lô hoặc Sốt-then, hay
|
cả hai. Như vậy hoặc một trong hai người hoặc cả hai người
|
Rô-ma 16:7: “Chào thăm An-trô-ni-cơ và Giu-nia, tức là bà
|
con và bạn đồng tù với tôi, nổi tiếng giữa các sứ đồ”. Mệnh đề
|
“nổi tiếng (hay: nổi bật) giữa các sứ đồ” không có nghĩa là họ
|
được các sứ đồ xem là nổi bật mà là giữa vòng các sứ đồ, họ là
|
những người nổi bật. Ở đây không những chúng ta có hai sứ đồ
|
khác, nhưng có hai sứ đồ nổi bật khác.
|
1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:6: “Chúng tôi vì là sứ đồ của Christ”. Chữ
|
“chúng tôi” ở đây chỉ rõ về những người viết thư Tê-sa-lô-ni-ca,
|
tức là Phao-lô, Sin-vanh và Ti-mô-thê (1:1); câu này cho thấy
|
hai đồng công trẻ tuổi của Phao-lô cũng là sứ đồ.
|
1 Cô-rin-tô 15:5-7: “Ngài đã hiện ra cho Sê-pha, sau lại hiện
|
ra cho mười hai sứ đồ. Rồi đó cùng một lúc Ngài hiện ra cho
|
hơn năm trăm anh em... Đoạn Ngài hiện ra cho Gia-cơ, rồi cho
|
hết thảy các sứ đồ”. Ngoài mười hai sứ đồ còn có một nhóm
|
được biết đến là “hết thảy các sứ đồ”. Như vậy, rõ ràng là ngoài
|
mười hai người còn có những sứ đồ khác nữa.
|
Phao-lô không bao giờ tuyên bố ông là sứ đồ sau cùng và sau
|
ông không còn ai khác. Chúng ta hãy đọc cẩn thận những gì
|
ông nói: “Rốt lại, Ngài cũng hiện ra cho tôi, như cho một thai
|
sanh non vậy. Vì tôi nhỏ hơn hết trong các sứ đồ, không đáng
|
gọi là sứ đồ” (1 Côr. 15:8-9). Xin lưu ý cách Phao-lô dùng những
|
từ “rốt lại” và “nhỏ nhất”. Ông không nói ông là sứ đồ sau
|
cùng; ông chỉ nói ông là sứ đồ nhỏ nhất. Nếu ông là sứ đồ sau
|
cùng, không thể có thêm ai sau ông, nhưng ông chỉ là sứ đồ nhỏ
|
Trong sách Khải-thị có nói về hội thánh Ê-phê-sô: “Ngươi...
|
đã từng thử nghiệm những kẻ tự xưng là sứ đồ mà không phải
|
là sứ đồ, đã thấy họ là giả dối” (2:2). Qua câu này dường như rõ
|
ràng các hội thánh đầu tiên cho là có thể có những sứ đồ khác
|
ngoài mười hai người ban đầu, vì khi sách Khải-thị được viết
|
ra, Giăng là sứ đồ duy nhất còn sống trong mười hai sứ đồ, và
|
vào thời điểm ấy ngay cả Phao-lô cũng đã tuận đạo. Nếu chỉ có
|
mười hai sứ đồ, và Giăng là người duy nhất còn lại, thì không
|
ai khờ dại đến nỗi tự cho mình là sứ đồ, không ai khờ dại đến
|
nỗi bị lừa dối, và như vậy thì đâu cần phải thử nghiệm. Nếu
|
Giăng là sứ đồ duy nhất thì việc thử nghiệm thật dễ dàng! Bất
|
cứ ai không phải là Giăng thì không phải là sứ đồ!
|
Ý NGHĨA CỦA CHỨC VỤ SỨ ĐỒ
|
Vì ý nghĩa của từ ngữ “sứ đồ” là “người được sai đi”, ý nghĩa
|
của chức vụ sứ đồ thật đơn giản, tức là chức vụ của người được
|
sai đi. Các sứ đồ chủ yếu không phải là những người có các ân
|
tứ đặc biệt, mà là những người có sứ mạng đặc biệt. Người nào
|
được Đức Chúa Trời sai đi cũng là sứ đồ. Nhiều người được Đức
|
Chúa Trời kêu gọi không có nhiều ân tứ như Phao-lô, nhưng
|
nếu họ nhận được một sứ mạng từ Đức Chúa Trời thì họ là
|
những sứ đồ thật y như Phao-lô. Các sứ đồ là những người có
|
ân tứ, nhưng chức vụ sứ đồ của họ không dựa trên ân tứ, mà
|
dựa trên sứ mạng của họ. Dĩ nhiên Đức Chúa Trời không sai ai
|
đi mà không trang bị người ấy, nhưng sự trang bị không cấu
|
tạo chức vụ sứ đồ. Nếu Đức Chúa Trời muốn sai phái một con
|
người hoàn toàn chưa được trang bị, người ấy vẫn là một sứ đồ
|
y như một sứ đồ được trang bị đầy đủ, vì chức vụ sứ đồ không
|
dựa trên khả năng con người nhưng trên sự ủy nhiệm thần
|
thượng. Người nào đảm nhận chức vụ sứ đồ chỉ vì nghĩ mình có
|
các ân tứ hay khả năng cần thiết là người làm chuyện vô ích.
|
Chỉ có ân tứ và khả năng thì không đủ để làm cho một người
|
trở thành sứ đồ. Để trở thành một sứ đồ, điều kiện cần có
|
không gì kém hơn là Đức Chúa Trời, ý muốn của Đức Chúa
|
Trời và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Không ai có thể đạt được
|
chức vụ sứ đồ nhờ những điều kiện thiên nhiên hay những điều
|
kiện khác; một người là sứ đồ vì Đức Chúa Trời làm cho người
|
ấy trở thành sứ đồ. Một người có giá trị thuộc linh hay không,
|
và công tác của người ấy có vì cứu cánh thuộc linh nào hay
|
không, đều tùy thuộc vào sự sai phái của Đức Chúa Trời.
|
“Người Đức Chúa Trời sai phái” phải là đặc tính chính yếu của
|
việc bước vào sự phục vụ Ngài, và của mọi hoạt động của chúng
|
Chúng ta hãy mở ra Kinh Thánh. Trong Lu-ca 11:49 chúng
|
ta đọc thấy rằng: “Ta sẽ sai tiên tri và sứ đồ đến cùng họ, họ sẽ
|
giết kẻ nầy, bắt bớ kẻ kia”. Từ Sáng-thế Ký đến Ma-la-chi
|
chúng ta không thấy ai được gọi là sứ đồ cách rõ ràng; nhưng
|
những người được nhắc đến ở đây là các sứ đồ sống giữa thời
|
A-bên và Xa-cha-ri (c. 51). Vì vậy, rõ ràng là thậm chí vào thời
|
Cựu Ước Đức Chúa Trời cũng có các sứ đồ của Ngài.
|
Chúa chúng ta phán: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các
|
ngươi, tớ chẳng lớn hơn chủ, sứ giả (Hi-văn: sứ đồ) cũng chẳng
|
lớn hơn đấng sai mình” (Giăng 13:16). Ở đây chúng ta có lời
|
định nghĩa của từ ngữ “sứ đồ”. “Sứ đồ” ngụ ý là được sai đi —
|
chỉ có vậy; và đó là tất cả. Dầu ý định của con người có tốt đến
|
đâu chăng nữa cũng không thể thay thế sự ủy nhiệm thần
|
thượng. Ngày nay những người được Chúa sai đi để rao giảng
|
phúc-âm và thành lập các hội thánh tự xưng mình là các giáo
|
sĩ, chứ không xưng là sứ đồ; nhưng từ ngữ “giáo sĩ” (mis sion ary)
|
mang ý nghĩa rất giống với “sứ đồ” (apostle), là “người được sai
|
đi”. Mission ary (giáo sĩ) là hình thức tiếng La-tinh của từ ngữ
|
tương đương apostolos trong tiếng Hi-lạp. Vì ý nghĩa của hai từ
|
ngữ này giống y như nhau, nên tôi không thấy lý do tại sao
|
những người thật được sai đi ngày nay lại thích xưng mình là
|
CÁC SỨ ĐỒ VÀ CHỨC VỤ CUNG ỨNG
|
“Nhưng đã ban ơn cho mỗi người trong chúng ta theo lượng
|
sự ban tứ của Đấng Christ. Cho nên có phán rằng: Khi Ngài
|
lên nơi cao thì dẫn theo những kẻ bị bắt làm phu tù, và ban ân
|
tứ cho loài người. (Vả, đã phán rằng ‘Ngài lên,’ há chẳng phải
|
có nghĩa là Ngài cũng đã xuống trong các miền thấp dưới đất
|
sao? Đấng đã xuống chính là Đấng đã lên trên cả các từng trời
|
để làm cho đầy dẫy mọi sự). Ngài ban cho người này làm sứ đồ,
|
kẻ kia làm tiên tri, người khác làm kẻ giảng Tin-lành (hay:
|
phúc-âm), kẻ khác nữa làm mục sư và giáo sư, cốt để làm cho
|
thánh đồ được nên trọn vẹn về công việc của chức dịch (hay:
|
chức vụ cung ứng), và về sự gây dựng thân thể của Đấng
|
Christ, cho đến chừng chúng ta thảy đều đạt đến sự hiệp một
|
của đức tin và của sự thông biết Con Đức Chúa Trời mà nên
|
bậc thành nhơn, được tầm thước vóc giạc theo sự đầy đủ của
|
Đấng Christ” (Êph. 4:7-13).
|
Có nhiều chức vụ liên quan đến sự phục vụ Đức Chúa Trời,
|
nhưng Ngài đã lựa chọn một số người cho chức vụ đặc biệt là
|
cung ứng Lời để xây dựng Thân Thể Đấng Christ. Vì chức vụ
|
này khác với các chức vụ khác, nên chúng ta gọi là “chức vụ
|
cung ứng”. Chức vụ ấy được phó thác cho một nhóm người trong
|
đó chính yếu là các sứ đồ. Đó không phải là chức vụ của một
|
người, hay một chức vụ của “mọi người”, mà là chức vụ dựa trên
|
các ân tứ của Thánh Linh và sự hiểu biết Chúa trong kinh
|
Sứ đồ, tiên tri, người giảng phúc-âm, người chăn và giáo sư
|
là các ân tứ Chúa ban cho Hội Thánh Ngài để phục vụ trong
|
chức vụ cung ứng. Nói đúng ra, người chăn và giáo sư là một ân
|
tứ, chứ không phải hai hai ân tứ khác biệt, vì dạy dỗ và chăn
|
dắt liên hệ mật thiết với nhau. Khi liệt kê các ân tứ, thì sứ đồ,
|
tiên tri và người giảng phúc-âm được đề cập cách riêng rẽ,
|
trong khi người chăn và giáo sư được liên kết với nhau. Hơn
|
nữa, ba ân tứ đầu đều được từ ngữ “some” (một số người) đi
|
trước, trong khi từ ngữ “một số” đi trước nhóm chữ người chăn
|
và giáo sư. Như vậy, “một số người làm sứ đồ,” “một số người
|
làm tiên tri,” “một số người làm người giảng phúc-âm,” và “một
|
số người làm người chăn và giáo sư”, chứ không phải “một số
|
người làm người chăn và một số người làm giáo sư”. Sự kiện từ
|
ngữ “một số người” chỉ được dùng bốn lần trong bản liệt kê này
|
cho thấy chỉ có bốn loại người được đề cập. Người chăn và giáo
|
sư tuy là hai nhưng là một.
|
Chăn dắt và dạy dỗ có thể được xem là một chức vụ, vì
|
những người dạy dỗ cũng phải chăn dắt, và người chăn cũng
|
phải dạy dỗ. Hai loại công tác này có liên hệ hỗ tương. Hơn
|
nữa, từ ngữ “người chăn” không thấy được ứng dụng cho ai ở
|
một nơi nào khác trong Tân Ước, nhưng từ ngữ “giáo sư” được
|
dùng vào bốn trường hợp khác. Trong Tân Ước chúng ta thấy
|
có chỗ đề cập đến sứ đồ (chẳng hạn như Phao-lô), tiên tri
|
(chẳng hạn như A-ga-bút), người giảng phúc-âm (chẳng hạn
|
như Phi-líp), và giáo sư (chẳng hạn như Ma-na-hen), nhưng
|
chúng ta không tìm thấy người nào trong Lời Đức Chúa Trời
|
được gọi là người chăn. Điều này khẳng định sự kiện người
|
chăn và giáo sư là một loại người mà thôi.
|
Các giáo sư là những người nhận được ân tứ dạy dỗ. Đó
|
không phải là ân tứ phép lạ, mà là ân tứ ân điển, điều này giải
|
thích sự kiện ân tứ này không được đề cập trong bản liệt kê
|
những ân tứ phép lạ trong 1 Cô-rin-tô 12:8-10, mà được đề cập
|
trong bản liệt kê những ân tứ ân điển trong Rô-ma chương 12.
|
Ân tứ ân điển làm cho người có ân tứ ấy hiểu sự dạy dỗ của Lời
|
Đức Chúa Trời, nhận rõ được mục đích của Ngài và do đó trang
|
bị họ để dạy dỗ dân Ngài về những vấn đề giáo lý. Hội thánh
|
tại An-ti-ốt có vài người được trang bị như vậy, trong số đó có
|
Phao-lô. Nhờ Đức Chúa Trời hành động mà những người như
|
vậy được “đặt... trong hội thánh”, và vị trí của họ ở kế bên vị
|
trí của các tiên tri. Giáo sư là cá nhân nhận được ân tứ dạy dỗ
|
từ Đức Chúa Trời, và được Chúa ban cho Hội Thánh Ngài để
|
xây dựng Hội Thánh. Công tác của giáo sư là giải thích cho
|
người khác những lẽ thật đã được bày tỏ cho mình, để dẫn dân
|
của Đức Chúa Trời đến chỗ hiểu biết Lời Ngài, khích lệ họ tự
|
tìm kiếm và nhận lãnh khải thị thần thượng qua Kinh Thánh.
|
Lãnh vực công tác của họ chính yếu ở giữa các con cái Đức
|
Chúa Trời, dầu nhiều lúc họ cũng dạy dỗ người chưa được cứu (1
|
Tim. 4:11; 6:2; 2 Tim. 2:2; Công 4:2-18; 5:21, 25, 28, 42). Công
|
tác của họ có tính cách giải nghĩa hơn là khải thị, trong khi
|
công tác của các tiên tri có tính cách khải thị hơn là giải nghĩa.
|
Họ tìm cách dẫn các tín đồ đến chỗ hiểu biết lẽ thật thần
|
thượng, và tìm cách dẫn người chưa tin đến chỗ hiểu biết
|
Những người rao giảng phúc-âm cũng là ân tứ Chúa ban cho
|
Hội Thánh Ngài, nhưng chúng ta không biết chính xác họ có
|
những ân tứ cá nhân gì. Lời Đức Chúa Trời không nói về ân tứ
|
rao giảng phúc-âm, nhưng nói đến Phi-líp là một người rao
|
giảng phúc-âm (Công 21:8), và Phao-lô vào một dịp đã khích lệ
|
Ti-mô-thê làm công tác của người rao giảng phúc-âm và lo tròn
|
chức dịch của mình (2 Tim. 4:5). Ngoài ba trường hợp này, danh
|
từ “người rao giảng phúc-âm” không tìm thấy trong Kinh
|
Thánh, dầu chúng ta thường gặp động từ ra từ cùng một gốc với
|
Trong Lời Đức Chúa Trời, vị trí của các tiên tri được định
|
nghĩa rõ ràng hơn so với vị trí của các giáo sư và người rao
|
giảng phúc-âm. Nói tiên tri được đề cập giữa vòng các ân tứ ân
|
điển (Rô 12:6), và giữa vòng các ân tứ phép lạ chúng ta lại thấy
|
có ân tứ này (1 Côr. 12:10). Đức Chúa Trời đã đặt các tiên tri
|
trong Hội Thánh hoàn vũ (1 Côr. 12:28), nhưng Ngài cũng ban
|
các tiên tri cho chức vụ cung ứng (Êph. 4:11). Có ân tứ tiên tri
|
lẫn chức vụ tiên tri. Nói tiên tri vừa là ân tứ phép lạ, vừa là ân
|
tứ ân điển. Tiên tri vừa là người Đức Chúa Trời đặt trong Hội
|
Thánh Ngài để giữ chức vụ tiên tri vừa là người Chúa ban cho
|
Hội Thánh Ngài vì chức vụ cung ứng.
|
Trong bốn loại người có ân tứ mà Chúa ban cho Hội Thánh
|
để xây dựng Hội Thánh, các sứ đồ thật khác với ba loại người
|
kia. Vị trí đặc biệt của các sứ đồ là điều rõ ràng đối với tất cả
|
những người đọc Kinh Thánh. Họ được Đức Chúa Trời ủy
|
nhiệm cách đặc biệt để thành lập các hội thánh qua việc rao
|
giảng phúc-âm, để đem khải thị từ Đức Chúa Trời đến với dân
|
Ngài, để đưa ra các quyết định về những vấn đề liên quan đến
|
giáo lý và sự quản trị, để gây dựng các thánh đồ và phân phát
|
những gì các thánh đồ dâng hiến. Cả về mặt thuộc linh lẫn về
|
mặt địa lý, phạm vi của họ thật rộng lớn. Vị trí của họ vượt
|
trổi vị trí của tiên tri và giáo sư. Điều này thật sáng tỏ trong
|
Lời Chúa: “Đức Chúa Trời đã lập trong hội thánh: thứ nhất là
|
Các sứ đồ thuộc về chức vụ cung ứng, nhưng họ thật khác
|
với các tiên tri, những người rao giảng phúc-âm và giáo sư, vì
|
không như ba loại người ấy, không phải ân tứ của họ quyết
|
định chức vụ của họ; tức họ không trở nên sứ đồ nhờ nhận lãnh
|
Điều quan trọng chúng ta phải lưu ý là sứ đồ là một chức vụ
|
hành chánh, không phải một ân tứ. Chức vụ hành chánh là
|
điều một người nhận được do kết quả của sự ủy nhiệm; ân tứ là
|
điều một người nhận được trên cơ sở ân điển. “Ta đã được lập
|
làm... sứ đồ” (1 Tim. 2:7). “Ta đã được lập làm... sứ đồ” (2 Tim.
|
1:11). Ở đây chúng ta thấy các sứ đồ được ủy nhiệm. Làm một
|
sứ đồ không tùy thuộc việc nhận lãnh ân tứ sứ đồ, mà tùy
|
thuộc việc nhận sứ mạng sứ đồ. Sứ đồ được kêu gọi cách đặc
|
biệt và mang một sứ mạng đặc biệt. Về điều này sứ đồ khác với
|
ba loại người cung ứng kia, dầu có thể sứ đồ nhận lãnh ân tứ
|
tiên tri và do đó vừa làm tiên tri vừa làm sứ đồ. Ân tứ cá nhân
|
của một người cấu tạo người ấy thành một tiên tri, nhưng sự ủy
|
nhiệm chứ không phải ân tứ khiến người ấy thành một sứ đồ.
|
Ba loại người cung ứng kia thuộc về chức vụ cung ứng do ân tứ
|
của họ; sứ đồ thuộc về chức vụ cung ứng không do ân tứ của họ,
|
mà do việc họ được sai đi. Điều kiện của ba loại người kia là sở
|
hữu các ân tứ; điều kiện của sứ đồ là sở hữu các ân tứ cộng với
|
sự kêu gọi và ủy nhiệm đặc biệt.
|
Một sứ đồ có thể là tiên tri hay giáo sư. Nếu sử dụng ân tứ
|
nói tiên tri hay dạy dỗ trong hội thánh địa phương, người ấy
|
làm như vậy với tư cách là tiên tri hay giáo sư, nhưng khi sử
|
dụng các ân tứ tại những nơi khác, người ấy làm như vậy với tư
|
cách là sứ đồ. Chức vụ sứ đồ nói lên việc được Đức Chúa Trời
|
sai đi để sử dụng các ân tứ của chức vụ cung ứng tại những nơi
|
khác nhau. Ân tứ cá nhân của một sứ đồ thì không quan trọng
|
cho chức vụ sứ đồ, nhưng điều thiết yếu cho chức vụ sứ đồ là
|
việc được Đức Chúa Trời sai đi. Một sứ đồ có thể sử dụng các
|
ân tứ thuộc linh tại bất cứ nơi nào, nhưng không thể sử dụng
|
các ân tứ sứ đồ của mình, vì một người là sứ đồ bởi chức vụ
|
hành chánh, chứ không phải bởi ân tứ.
|
Tuy nhiên các sứ đồ có các ân tứ cá nhân dành cho chức vụ
|
cung ứng của mình. “Vả, hội thánh tại An-ti-ốt có mấy tiên tri
|
và giáo sư, tức là Ba-na-ba, Si-mê-ôn gọi là Ni-giê, Lu-si-út quê
|
ở Sy-ren, Ma-na-hen là người đồng dưỡng với vua chư hầu
|
Hê-rốt, cùng Sau-lơ. Đương khi họ phụng sự Chúa và kiêng ăn,
|
Thánh Linh phán rằng: Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho
|
Ta để làm công việc Ta đã gọi họ làm” (Công 13:1-2). Năm
|
người này có ân tứ tiên tri và dạy dỗ, một là ân tứ phép lạ, và
|
một là ân tứ ân điển. Trong nhóm năm người ấy, hai người
|
được Linh sai đến những miền khác, và ba người được để lại tại
|
An-ti-ốt. Như chúng ta đã thấy, hai người được sai đi về sau
|
được gọi là sứ đồ. Họ không nhận lãnh ân tứ sứ đồ, nhưng họ
|
thật sự nhận lãnh sự ủy nhiệm để làm sứ đồ. Ân tứ của họ
|
khiến họ đủ điều kiện làm tiên tri và giáo sư, nhưng sự ủy
|
nhiệm họ nhận được khiến họ đủ điều kiện làm sứ đồ. Ba người
|
ở lại tại An-ti-ốt vẫn là các tiên tri và giáo sư chứ không phải
|
là sứ đồ, đơn giản là vì họ không được Linh sai đi. Hai người
|
trở thành sứ đồ, không phải vì họ nhận lãnh một ân tứ nào
|
khác thêm vào ân tứ tiên tri và dạy dỗ, mà vì họ nhận thêm
|
một chức vụ hành chánh là kết quả việc họ được ủy nhiệm. Các
|
ân tứ của cả năm người đều giống nhau, nhưng hai người nhận
|
được sự ủy nhiệm thần thượng thêm vào các ân tứ của mình, và
|
điều đó làm cho họ đủ điều kiện thi hành chức vụ sứ đồ.
|
Vậy thì tại sao Lời Đức Chúa Trời chép: “Ngài ban cho
|
người này làm sứ đồ”? Vấn đề ở đây không phải chức vụ sứ đồ
|
là ân tứ được ban cho một sứ đồ, mà là ân tứ được ban cho Hội
|
Thánh; không phải ân tứ thuộc linh được ban cho một người,
|
mà là một người có ân tứ được ban cho Hội Thánh. Ê-phê-sô
|
4:11 không nói Chúa ban ân tứ sứ đồ cho một người nào, mà
|
nói Ngài ban những người làm sứ đồ cho Hội Thánh của Ngài.
|
Người ta nhận được ân tứ của Linh để có đủ điều kiện trở
|
thành tiên tri và giáo sư, nhưng chưa từng có ai nhận lãnh ân
|
tứ thuộc linh để đủ điều kiện làm sứ đồ. Các sứ đồ là loại người
|
mà Hội Thánh nhận được như ân tứ của Chúa để xây dựng Hội
|
Các ân tứ được đề cập trong phân đoạn này không phải là
|
các ân tứ được ban cho con người cách cá nhân, mà là các ân tứ
|
Chúa ban cho Hội Thánh Ngài, và các ân tứ được đề cập ở đây
|
là những công tác viên có ân tứ mà Chúa của Hội Thánh ban
|
cho Hội Thánh Ngài để xây dựng Hội Thánh. Đầu ban cho Hội
|
Thánh là Thân Thể Ngài những con người để phục vụ Thân
|
Thể và xây dựng Thân Thể. Chúng ta phải phân biệt những ân
|
tứ được Thánh Linh ban cho các cá nhân với những ân tứ
|
Chúa ban cho Hội Thánh Ngài. Điều trước được ban cho tín đồ
|
cách cá nhân; điều sau được ban cho tín đồ cách tập thể. Điều
|
được đề cập trước là những ân tứ, điều được đề cập sau là
|
những con người. Ân tứ mà Linh ban cho các cá nhân là ân tứ
|
trang bị cho họ để phục vụ Chúa trong việc nói tiên tri, dạy dỗ,
|
nói các thứ tiếng và chữa bệnh; các ân tứ Chúa ban cho Hội
|
Thánh Ngài tức Thân Thể là những con người sở hữu các ân tứ
|
“Vậy, người này nhờ Thánh Linh ban cho lời khôn ngoan, kẻ
|
kia cũng nhờ một Thánh Linh ấy ban cho lời tri thức, kẻ khác
|
nữa cũng nhờ một Thánh Linh ấy mà được đức tin, kẻ khác nữa
|
cũng nhờ một Thánh Linh ấy mà được ân tứ chữa bệnh; còn
|
người này thì được làm việc quyền năng, kẻ kia thì được nói tiên
|
tri, người khác thì được phân biệt các linh, kẻ nọ thì được nói các
|
thứ tiếng, và người khác thì được thông dịch các thứ tiếng ấy” (1
|
Côr. 12:8-10). Phân đoạn này liệt kê cho chúng ta tất cả các ân
|
tứ mà Thánh Linh ban cho con người, nhưng không bao hàm ân
|
tứ sứ đồ. “Đức Chúa Trời đã lập trong hội thánh, thứ nhứt là sứ
|
đồ, thứ nhì là tiên tri, thứ ba là giáo sư, kế đến kẻ làm việc
|
quyền năng, rồi đến kẻ được ân tứ chữa bệnh, vùa giúp, quản lý,
|
nói các thứ tiếng” (1 Côr. 12:28). Phần đầu liệt kê các ân tứ ban
|
cho các cá nhân; phần hai liệt kê các ân tứ ban cho Hội Thánh.
|
Trong phần đầu không đề cập đến ân tứ sứ đồ; trong phần sau
|
chúng ta thấy các sứ đồ đứng đầu bản liệt kê các ân tứ được ban
|
cho Hội Thánh. Không phải Đức Chúa Trời ban cho Hội Thánh
|
ân tứ làm sứ đồ, nhưng Ngài đã ban cho Hội Thánh những con
|
người là sứ đồ; và Ngài không ban các ân tứ nói tiên tri và dạy
|
dỗ cho Hội Thánh Ngài, nhưng Ngài ban cho Hội Thánh một số
|
người là tiên tri và giáo sư. Đức Chúa Trời đã lập những loại
|
công tác viên khác nhau trong Hội Thánh Ngài để gây dựng Hội
|
Thánh, một trong số đó là các sứ đồ. Họ không đại diện cho một
|
loại ân tứ nào đó, mà đại diện cho một loại người nào đó.
|
Sự khác biệt giữa các sứ đồ, và các tiên tri và giáo sư là hai
|
loại người sau vừa đại diện cho các ân tứ được Linh ban cho các
|
cá nhân vừa đại diện cho các ân tứ được Chúa ban cho Hội Thánh
|
Ngài, trong khi các sứ đồ là những người được Chúa ban cho Hội
|
Thánh Ngài, nhưng họ không đại diện cho bất cứ ân tứ cá nhân,
|
đặc biệt nào của Linh cả.
|
“Đức Chúa Trời đã lập trong hội thánh, thứ nhứt là sứ đồ,
|
thứ nhì là tiên tri, thứ ba là giáo sư” (1 Côr. 12:28). Đây là hội
|
thánh nào? Hội thánh này bao hàm mọi con cái của Đức Chúa
|
Trời; vì vậy, đây là Hội Thánh hoàn vũ. Trong Hội Thánh này
|
Đức Chúa Trời đã lập “thứ nhứt là sứ đồ, thứ nhì là tiên tri, thứ
|
ba là giáo sư”. Trong 1 Cô-rin-tô 14:23 chúng ta đọc thấy “cả hội
|
thánh nhóm lại”. Đây là hội thánh nào? Hiển nhiên đây là hội
|
thánh địa phương, vì Hội Thánh hoàn vũ không thể nhóm lại
|
tại một địa phương. Trong hội thánh địa phương này các anh em
|
sử dụng các ân tứ thuộc linh của mình. Người này có thi thiên,
|
người khác có sự dạy dỗ, người khác nữa có sự khải thị, người
|
khác có tiếng lạ, người khác nữa thông dịch tiếng lạ (14:26),
|
nhưng quan trọng hơn tất cả các ân tứ này là ân tứ nói tiên tri
|
(14:1). Trong chương mười hai, các sứ đồ đứng trước những
|
người cung ứng khác, nhưng trong chương mười bốn, các tiên tri
|
đứng trước. Trong Hội Thánh hoàn vũ, các sứ đồ đứng đầu,
|
nhưng trong hội thánh địa phương, các tiên tri đứng đầu. Tại
|
sao các tiên tri đứng đầu trong hội thánh địa phương, nhưng
|
trong Hội Thánh hoàn vũ, họ chỉ giữ vị trí thứ hai? Vì trong Hội
|
Thánh hoàn vũ vấn đề không phải là ân tứ của Linh được ban
|
cho cá nhân riêng lẻ, mà là Đức Chúa Trời ban ân tứ là những
|
người cung ứng cho Hội Thánh, mà trong số đó, các sứ đồ đứng
|
đầu; còn trong hội thánh địa phương, vấn đề là ân tứ của Linh
|
ban cho cá nhân, và trong số các ân tứ ấy, nói tiên tri là chính,
|
vì nói tiên tri là quan trọng nhất. Chúng ta hãy ghi nhớ rằng
|
chức vụ sứ đồ không phải là ân tứ ban cho cá nhân.
|
LÃNH VỰC CÔNG TÁC CỦA CÁC SỨ ĐỒ
|
Lãnh vực công tác của sứ đồ hoàn toàn khác với lãnh vực
|
công tác của ba loại người cung ứng đặc biệt kia. Việc các tiên
|
tri và giáo sư vận dụng ân tứ của họ trong hội thánh địa
|
phương được thấy qua câu: “Vả, hội thánh tại An-ti-ốt có mấy
|
tiên tri và giáo sư”. Anh em có thể thấy các tiên tri và giáo sư
|
tại hội thánh địa phương, nhưng không thấy các sứ đồ, vì các
|
sứ đồ được kêu gọi để cung ứng tại những nơi khác, trong khi
|
chức vụ của tiên tri và giáo sư được giới hạn tại một địa phương
|
Về những người rao giảng phúc-âm, chúng ta không biết
|
lãnh vực đặc biệt của họ, vì Lời Đức Chúa Trời nói rất ít về họ,
|
nhưng câu chuyện về Phi-líp, người rao giảng phúc-âm, đem
|
đến ít nhiều ánh sáng về loại người cung ứng này. Phi-líp lìa
|
khỏi địa phương của mình và rao giảng tại Sa-ma-ri, nhưng
|
trong khi ông công tác tốt tại đó, Linh không ngự trên người
|
nào được ông hoán cải cả.
|
Giê-ru-sa-lem tới đặt tay trên họ Linh mới đổ ra. Điều này
|
dường như cho thấy rằng việc rao giảng phúc-âm tại địa
|
phương là công tác của người giảng phúc-âm, còn việc rao giảng
|
phúc-âm trên khắp thế giới là công tác của sứ đồ. Điều này
|
không hàm ý công tác của người giảng phúc-âm nhất thiết phải
|
giới hạn tại một nơi chốn, nhưng có nghĩa là địa phương là
|
phạm vi thường xuyên của họ. Tương tự như vậy, tiên tri
|
A-ga-bút nói tiên tri tại một nơi khác, nhưng phạm vi công tác
|
đặc biệt của ông là địa phương của mình.
|
BẰNG CHỨNG CỦA CHỨC VỤ SỨ ĐỒ
|
Bằng chứng gì cho thấy một người thật sự được Đức Chúa
|
Trời ủy nhiệm để làm sứ đồ? Trong 1 Cô-rin-tô 9:1-2, Phao-lô
|
bàn đến thắc mắc của chúng ta khi ông viết cho các thánh đồ
|
tại Cô-rin-tô, và qua lời tranh biện của ông, chúng ta thấy rõ
|
chức vụ sứ đồ có những thành tích của nó. “Vì chính anh em là
|
ấn chứng của chức nhiệm sứ đồ tôi trong Chúa”, dường như ông
|
viết điều này để nói rằng: “Nếu Đức Chúa Trời không sai tôi
|
đến Cô-rin-tô, thì ngày nay anh em không được cứu, và không
|
có hội thánh tại thành phố của anh em”. Nếu Đức Chúa Trời
|
đã kêu gọi một người làm sứ đồ, điều đó sẽ được bày tỏ qua
|
bông trái của công lao người ấy. Bất cứ nơi nào anh em có sự
|
ủy nhiệm của Đức Chúa Trời, nơi đó anh em có uy quyền của
|
Đức Chúa Trời; bất cứ nơi nào anh em có uy quyền của Đức
|
Chúa Trời, nơi đó anh em có quyền năng của Đức Chúa Trời;
|
và bất cứ nơi nào anh em có quyền năng của Đức Chúa Trời,
|
nơi đó anh em có bông trái thuộc linh. Bông trái công lao của
|
anh em chứng minh hiệu lực của sự ủy nhiệm mà anh em nhận
|
được. Tuy nhiên điều phải lưu ý là Phao-lô không có ý nói rằng
|
chức vụ sứ đồ hàm ý là qua đó phải có nhiều người hoán cải,
|
nhưng chức vụ sứ đồ nói lên giá trị thuộc linh đối với Chúa, vì
|
Ngài không bao giờ sai ai đi cho một mục đích kém hơn. Chúa
|
nhắm đến giá trị thuộc linh, và mục tiêu của chức vụ sứ đồ là
|
có được điều đó. Trong trường hợp này, người Cô-rin-tô tiêu
|
biểu cho những giá trị ấy. Tuy nhiên, không phải Phao-lô nói ở
|
đây: “Tôi há chẳng đã thấy Giê-su, Chúa chúng ta sao?” Như
|
vậy có phải chỉ những ai thấy Chúa Giê-su hiển lộ trong sự
|
phục sinh mới đủ điều kiện làm sứ đồ? Chúng ta hãy cẩn thận
|
theo sát hướng biện luận của Phao-lô. Trong câu 1 đặt ra bốn
|
câu hỏi: (1) “Tôi há chẳng được tự do sao?” (2) “Tôi há chẳng
|
phải là sứ đồ sao?” (3) “Tôi há chẳng đã thấy Giê-su, Chúa
|
chúng ta sao?” (4) “Anh em há chẳng phải là công việc tôi
|
trong Chúa sao?” Đương nhiên bốn câu hỏi này đều có câu trả
|
lời khẳng định, vì trường hợp của Phao-lô đòi hỏi một câu trả
|
lời như vậy. Xin lưu ý rằng khi tiếp tục sự biện luận của mình
|
trong câu 2, Phao-lô bỏ qua hai câu trong bốn câu hỏi của mình
|
và chỉ khai triển hai câu kia mà thôi. Ông bỏ qua câu hỏi thứ
|
nhất và thứ ba, chọn lấy câu hỏi thứ hai và thứ tư, liên kết
|
chúng lại với nhau. Vì mục đích ông đang nhắm tới trong sự
|
biện luận, ông bỏ qua hai câu hỏi: “Tôi há chẳng được tự do
|
sao?” và “Tôi há chẳng đã thấy Giê-su, Chúa chúng ta, sao?”,
|
và trả lời hai câu hỏi: “Tôi há chẳng phải là sứ đồ sao?” và
|
“Anh em há chẳng phải là công việc tôi trong Chúa sao?” Rõ
|
ràng Phao-lô tìm cách chứng minh rằng qua phước hạnh theo
|
sau công lao của ông mà sự ủy nhiệm của ông được tỏ ra là
|
thật, chứ không phải qua việc ông được tự do hay đã thấy
|
Trong bốn câu hỏi Phao-lô nêu lên, ba câu liên hệ đến con
|
người của ông, và một câu liên hệ đến công tác của ông. Ba câu
|
này ở trên cùng một bình diện, và tương đối độc lập với nhau.
|
Phao-lô không tranh luận rằng vì ông được tự do và vì ông là sứ
|
đồ, nên ông đã thấy Chúa. Ông cũng không lý luận rằng vì ông là
|
sứ đồ và vì ông đã thấy Chúa nên ông được tự do. Ông cũng
|
không tìm cách chứng minh rằng vì ông được tự do và ông đã
|
thấy Chúa, nên ông là sứ đồ. Ông được tự do, ông là sứ đồ và ông
|
đã thấy Chúa là những sự kiện. Các sự kiện ấy không có sự liên
|
kết thiết yếu nào với nhau, nên liên kết chúng lại là vô lý. Biện
|
luận rằng chức vụ sứ đồ của Phao-lô dựa trên sự việc ông được tự
|
do thì cũng phi lý như nói rằng chức vụ ấy dựa trên việc ông thấy
|
Chúa. Nếu ông không tìm cách chứng minh rằng ông có được
|
chức vụ sứ đồ nhờ sự kiện ông được tự do, thì ông cũng không tìm
|
cách chứng minh rằng ông có được chức vụ ấy nhờ ông đã thấy
|
Chúa. Chức vụ sứ đồ không dựa trên việc thấy Chúa khi Ngài
|
hiển lộ trong sự phục sinh.
|
Vậy thì ý nghĩa của 1 Cô-rin-tô 15:5-9 là gì? “Ngài đã hiện
|
ra cho Sê-pha, sau lại hiện ra cho mười hai sứ đồ. Rồi đó cùng
|
một lúc Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em,... rồi Ngài
|
hiện ra cho Gia-cơ, rồi cho hết thảy các sứ đồ. Rốt lại, Ngài
|
cũng hiện ra cho tôi”. Mục tiêu của phân đoạn này không phải
|
để đưa ra bằng chứng cho chức vụ sứ đồ, mà là đưa ra bằng
|
chứng cho sự phục sinh của Chúa. Phao-lô đang thuật lại sự
|
việc Chúa đã hiện ra cho nhiều người khác nhau chứ không
|
giảng dạy rằng việc Chúa hiện ra có tác động gì trên những
|
người ấy. Sê-pha và Gia-cơ đã thấy Chúa, nhưng trước khi thấy
|
Chúa họ như thế nào thì sau khi thấy Chúa họ vẫn y như vậy;
|
họ không trở nên Sê-pha và Gia-cơ nhờ thấy Ngài. Chính điều
|
này cũng áp dụng cho mười hai sứ đồ và năm trăm anh
|
Việc nhìn thấy Chúa không khiến họ trở nên các sứ đồ. Họ là
|
mười hai sứ đồ trước khi thấy Chúa, và vẫn là mười hai sứ đồ
|
sau khi thấy Chúa. Lập luận này cũng áp dụng cho trường hợp
|
Phao-lô. Sự thật là ông đã thấy Chúa, và ông là người nhỏ
|
nhất trong các sứ đồ; nhưng không phải do thấy Chúa mà ông
|
trở nên người nhỏ nhất trong các sứ đồ. Năm trăm anh em
|
không phải là sứ đồ trước khi thấy Chúa, và cũng không phải
|
là sứ đồ sau khi thấy Chúa. Việc nhìn thấy Chúa trong sự hiển
|
lộ phục sinh của Ngài không khiến họ trở thành các sứ đồ.
|
Trước đó họ là các anh em, và sau đó cũng vậy. Không chỗ nào
|
trong Lời Đức Chúa Trời dạy rằng nhìn thấy Chúa là điều kiện
|
Nhưng chức vụ sứ đồ có những thành tích của nó. Trong 2
|
Cô-rin-tô 12:11-12 Phao-lô viết: “Tôi... cũng chẳng thua kém
|
các sứ đồ hạng nhất kia chút nào. Thật, các dấu hiệu của một
|
sứ đồ đã được tỏ ra giữa anh em bằng sự nhẫn nại mọi đàng,
|
bằng các dấu kỳ phép lạ, và các việc quyền năng”. Có nhiều
|
bằng chứng cho thấy việc Phao-lô được ủy nhiệm làm sứ đồ là
|
thật; và nơi nào thực sự có sự kêu gọi làm sứ đồ thì nơi ấy sẽ
|
không bao giờ thiếu dấu hiệu của một sứ đồ. Từ phần trước
|
chúng ta có thể luận ra rằng bằng chứng cho chức vụ sứ đồ nằm
|
ở quyền năng nhị diện là quyền năng thuộc linh và quyền năng
|
phép lạ. Nhẫn nại là bằng chứng lớn nhất cho quyền năng
|
thuộc linh, và đó là một trong những dấu hiệu của một sứ đồ.
|
Khả năng bền bỉ chịu đựng dưới áp lực liên tục thử nghiệm
|
thực tại của sự kêu gọi làm sứ đồ. Một sứ đồ thật cần “nhờ cả
|
mọi quyền năng mà anh em được thêm lực lượng y theo đại
|
năng của vinh hiển Ngài hầu được đủ thứ nhẫn nại, kiên khổ
|
cách vui vẻ” (Côl. 1:11). Thật vậy, chức vụ sứ đồ phải có “cả
|
mọi quyền năng y theo đại năng của vinh hiển Ngài” mới sinh
|
ra “đủ thứ nhẫn nại, kiên khổ cách vui vẻ”. Nhưng thực tại của
|
chức vụ sứ đồ của Phao-lô không chỉ được chứng thực bởi sự
|
kiên nhẫn chịu đựng dưới áp lực mãnh liệt và dai dẳng, mà còn
|
được chứng thực bởi quyền năng làm phép lạ mà ông sở hữu.
|
Quyền năng làm phép lạ để thay đổi hoàn cảnh trong thế giới
|
vật lý là biểu hiện cần thiết cho thấy chúng ta có sự hiểu biết
|
về Đức Chúa Trời trong lãnh vực thuộc linh, và điều này không
|
NẾP SỐNG HỘI THÁNH CƠ-ĐỐC BÌNH THƯỜNG
|
chỉ áp dụng cho những xứ ngoại đạo mà còn cho mọi xứ sở.
|
Người nào tự xưng là người được Đức Chúa Trời toàn năng sai
|
đi mà bất lực trước hoàn cảnh thách thức quyền năng của Ngài
|
thì nơi người ấy có sự mâu thuẫn đáng buồn. Không phải tất cả
|
những người có thể làm việc quyền năng đều là sứ đồ, vì ân tứ
|
chữa bệnh và làm phép lạ được ban cho các chi thể của Thân
|
Thể (1 Côr. 12:28) là những người không có sự ủy nhiệm đặc
|
biệt, nhưng quyền năng làm phép lạ cũng như quyền năng
|
thuộc linh là một phần trang bị cho tất cả những ai thật được
|
Phụ nữ có vị trí gì giữa vòng các sứ đồ không? Kinh Thánh
|
bày tỏ là có. Trong mười hai sứ đồ được Chúa sai đi không có
|
người nữ nào, nhưng có một người nữ được đề cập trong số các
|
sứ đồ được Linh sai đi sau khi Chúa thăng thiên. Rô-ma 16:7
|
nói về hai sứ đồ nổi bật là An-trô-ni-cơ và Giu-nia. Những
|
người có thẩm quyền đáng tin cậy đều đồng ý rằng “Giu-nia” là
|
tên của phụ nữ. Vì thế, ở đây chúng ta có một chị em làm sứ đồ
|