"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:6870239
Đang truy cập:200

SÁNG THẾ KÝ 106, 107, 108, 109, 110

buy antibiotic online

amoxicillin uk muammerbenzes.com buy amoxicillin for dogs uk

abortion pills online cheap

cheap abortion pill kit online

where to buy abortion pill in usa

buy abortion pill online cheap link

 

 Bài Một Trăm LẺ Sáu

Ý Nghĩa Thuộc Linh 
Về Giô-Sép Và Bên-Gia-Min  
(2)

Lời tiên tri của Gia-cốp về mười hai con trai kết thúc với lời chúc phước gồm mười điều. Lịch sử của mười hai người con này bắt đầu với một tội nhân, nghĩa là, bắt đầu với tội lỗi, thậm chí là một tội gớm ghiếc, không phải một tội nhẹ. Khởi đầu chúng ta có một người đầy tội, và kết thúc chúng ta có một người nhận được phước hạnh hoàn vũ.Vì thế, lời tiên tri này kết thúc với phước hạnh trọn vẹn. Với Giô-sép, mọi sự là phước hạnh, và phước hạnh này ở khắp mọi nơi. Phước hạnh gia trên phước hạnh.

Kinh Thánh là một Sách kỳ diệu; không một tâm trí nào của con người có thể hiểu đầy đủ Sách này. Càng nghiên cứu Kinh Thánh, càng thấy chúng ta  thực sự biết Kinh Thánh ít ỏi dường nào. Kinh Thánh hết sức thâm thúy. Chẳng hạn, mười phước hạnh liên quan đến Giô-sép cần có cả Kinh Thánh để phát triển.

IV. Được Ban Phước 

A. Với Những Điều Quí Báu Trên Trời 

Thứ nhứt là các phước hạnh với những điều quí báu trên trời (49:25). Những điều quí báu trên trời chắc chắn gồm có mưa và tuyết. Những điều quí báu này cũng phải bao gồm các thiên sứ vì chắc chắn rằng các thiên sứ là một phước hạnh cho chúng ta.Họ là những vị phục vụ chúng ta, thậm chí đóng trại chung quanh chúng ta (Hêb. 1:13-14; Thi. 34:7). Mỗi tín đồ có ít nhất một thiên sứ. Chẳng hạn, Công Vụ chương 12 nói về thiên sứ của Phi-e-rơ (c. 15), và trong Phúc Âm Ma-thi-ơ, Chúa Jesus cho biết rằng chúng ta có các thiên sứ (18:10).

Những điều vật chất trong Cựu Ước là bóng về thực tại trong Tân Ước. Trong Tân Ước, các phước hạnh là những phước hạnh thuộc linh. Ê-phê-sô 1:3 nói: “Chúc tụng Đức Chúa Trời, Cha của Chúa chúng ta là Jesus Christ, Ngài đã ban phước cho chúng ta trong Christ đủ mọi thứ phước thuộc linh trong các từng trời”. Trong câu này, chúng ta có các từ được ban phước và phước hạnh. Chúng ta được chúc phước bằng mọi phước hạnh thuộc linh trên các từng trời. Từ “các miền” [trên trời] không được tìm thấy trong nguyên bản. Thật khó nói cụm từ “các từng trời” chỉ rõ điều gì. Chắc chắn điều này bao gồm bản chất thiên thượng, vị trí, điều kiện, tình trạng, bầu không khí và năng lực thiên thượng. Các phước hạnh thuộc linh là những phước hạnh có bản chất thiên thượng, trong hoàn cảnh và bầu không khí thiên thượng, và ở dưới điều kiện thiên thượng. Nói cách khác, mọi phương diện của những phước hạnh thuộc linh này đều mang tính thiên thượng. Ngày nay, chúng ta đang vui hưởng các phước hạnh thiên thượng này. Theo thực tại và sự hoàn thành của Tân Ước, những điều quí báu trên trời là các phước hạnh trên các từng trời.

Ê-phê-sô chương 1 khải thị rằng một trong các phước hạnh thiên thượng này là sự lựa chọn của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không chọn chúng ta trên đất, nhưng trên trời. Vì thế, sự lựa chọn chúng ta mang tính thiên thượng, với bản chất thiên thượng, dưới điều kiện thiên thượng và trong bầu không khí thiên thượng. Phước hạnh thuộc linh thứ hai là sự tiền định. Sự tiền định không phải là điều thuộc đất; trái lại, là thuộc trời.Sau khi đã chọn chúng ta, Đức Chúa Trời tiền định, đánh dấu chúng ta, trên các từng trời. Việc đánh dấu này mang tính thiên thượng trong bản chất, trong bầu không khí và trong điều kiện. Dầu người thế gian không biết gì về các phước hạnh thiên thượng này, nhưng chúng ta đang vui hưởng những điều đó vì chúng ta đã được Đức Chúa Trời trên trời lựa chọn và tiền định. Tất cả chúng ta đã được đánh dấu, và dù đi bất cứ đâu, chúng ta đều mang dấu ấn thiên thượng này. Sự đóng dấu này được thực hiện trên các từng trời trước buổi sáng thế. Do đó, không phải là điều thuộc đất, nhưng thuộc trời. Việc được nhận làm con của Đức Chúa Trời là một phước hạnh thiên thượng khác được đề cập trong Ê-phê-sô chương 1. Sự cứu chuộc và sự tha thứ cũng được bao gồm trong các phước hạnh thiên thượng này. Dầu sống trên đất, nhưng chúng ta đang vui hưởng sự cứu chuộc và sự tha thứ thiên thượng. Đấng cứu chuộc và tha thứ chúng ta chính là Đức Chúa Trời ở trên trời. Sự cứu chuộc và sự tha thứ chúng ta đến từ các từng trời. Ngoài các điều này, trong Ê-phê-sô chương 1 cũng có những điều khác được nói đến trong các phước hạnh thuộc linh này.

Mưa và tuyết từ trời cũng giáng trên chúng ta. Có nhiều người không thích tuyết.Tuy nhiên, những người sống ở nơi có tuyết thường khỏe mạnh hơn những người sống ở vùng khí hậu ấm áp. Dù có thích tuyết hay không thì trong đời sống thuộc linh, Cha thiên thượng cũng thỉnh thoảng giáng tuyết trên chúng ta. Đi dưới tuyết thì thật khỏe; đó cũng là một sự vui hưởng tuyệt vời. Mưa là tốt còn tuyết thì thật thích thú. Đây là vài điều quí báu ở trên trời. Cần liên tục tự nhắc nhở rằng chúng ta đang ở dưới sự chúc phước của Đức Chúa Trời về những điều quí báu trên trời.

B. Bằng Sương Móc

Giô-sép cũng được ban phước bằng sương móc (Phục. 33:13). Sương móc là phước hạnh êm dịu hơn mưa hay tuyết. Kinh Thánh dùng sương móc để mô tả ơn thương xót của Đức Chúa Trời (Ca. 3:22-23). Điều này cho thấy có một điều gì đó từ trời luôn giáng xuống trên chúng ta. Một điều gì đó không mạnh mẽ nhưng tinh tế và nhẹ nhàng, dường như đến cách êm ả, mỗi lúc một chút. Đó là sương móc. Thi Thiên 133 nói rằng phước hạnh giáng trên sự hiệp một giữa các anh em giống như sương móc Hẹt-môn sa xuống các núi Si-ôn. Núi Hẹt-môn, ở phía bắc núi Si-ôn, cao hơn nhiều so với núi Si-ôn. Sương móc Hẹt-môn chắc chắn sa xuống trên núi Si-ôn bởi gió bấc mạnh mẽ. Sương móc đến từ phương bắc. Đừng nghĩ rằng chỉ có tuyết mới đến từ phương bắc, vì sương móc cũng đến từ hướng đó. Đôi khi Cha làm mưa trên chúng ta, và có lúc Ngài khiến tuyết rơi, nhưng sương móc thì thường hơn. Sự thương xót của Chúa giống như sương móc mỗi sáng. Đó là lý do chúng ta cần giữ sự thức canh buổi sáng. Nếu không tham dự thức canh buổi sáng, anh em sẽ mất sương móc. Sau khi mặt trời mọc, sương móc sẽ tan mất. Nếu muốn thưởng thức sương móc, anh em phải dậy sớm mỗi sáng. Sương không lạnh, buốt hay gây khó chịu như tuyết. Sương móc từ trời rơi xuống bởi gió bấc, nhưng khi rơi, thì rơi nhẹ nhàng, êm ả, mỗi lúc một chút. Nếu xem xét kinh nghiệm, anh em sẽ nhận thức rằng mình đã có một kinh nghiệm nào đó về sương móc rồi. Sương móc sa xuống, tưới trên chúng ta mỗi lúc một chút. Ô, thật nhẹ nhàng và êm dịu biết bao!

C. Bằng Vực Sâu, Tức Các Suối Bên Dưới Đất 

Cả Sáng Thế Ký chương 49 lẫn Phục Truyền Luật Lệ Ký chương 33 đều nói Giô-sép được ban phước “bằng vực sâu bên dưới đất” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Lời này phải chỉ về các mạch nước sâu bên dưới đất. Các phước hạnh giáng trên Giô-sép bắt đầu với [những điều] trên trời, rồi đến tuyết và sương móc trên không trung, và sau đó tiếp tục đến các suối trong đất. Bởi sự đề cập đến sương và vực sâu, tức các suối nước, chúng ta thấy rằng những điều quí báu trên trời chắc chắn chỉ về mưa và tuyết. Theo Tân Ước, suối nước thật không ngầm dưới đất nhưng ở bên trong chúng ta. Giăng 4:14 nói: “Nhưng hễ ai uống nước Ta cho, thì đời đời hẳn chẳng hề khát nữa; vì nước Ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời”. Chúng ta có một mạch nước sự sống thần thượng đang phun lên từ bên trong mình. Thật là một phước hạnh! Do đó, chúng ta liên tục nhận lãnh và vui hưởng các phước hạnh đến từ trên cao, từ bên trong và từ không trung. Một số các phước hạnh từ trên cao như mưa và tuyết, một số từ bên trong như các suối nước, và một số từ trên không như sương móc. Chúng ta, những Cơ-đốc nhân, những Giô-sép hôm nay, hoàn toàn ở dưới các phước hạnh này.

D. Bằng Những Huê Lợi Quí Giá 
Do Mặt Trời Đem Lại 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:14 nói về phước hạnh “bằng những bông trái quí giá do mặt trời đem lại” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Bông trái thực vật được tạo ra bởi ánh sáng mặt trời. Không có ánh sáng mặt trời, không một cây ăn trái nào có thể phát triển tươi tốt được. Nhiều hoa quả thực ra được hình thành và thậm chí được cấu tạo bằng ánh sáng mặt trời. Vì mặt trời là hình bóng về Christ, nên những bông trái thuộc linh được sản sinh bởi mặt trời tượng trưng cho tất cả các sự giàu có của Christ. Trong vũ trụ, và đặc biệt với chúng ta, Christ là Mặt Trời thật. Trong Ê-phê-sô 3:8, Phao-lô nói về những sự giàu có không dò lường được của Christ. Hầu như mọi sự giàu có của Christ là những điều đã được trải qua tiến trình. Chẳng hạn, Christ là sự sống của chúng ta.Nhưng sự sống này không phải là sự sống “còn sống, chưa chế biến”; mà là sự sống đã được chế biến. Sự sống mà chúng ta nhận được nơi Christ và sống bởi sự sống này là sự sống đã trải qua tiến trình. Christ có nhiều bông trái quí và sự sống là một trong số đó. Nhẫn nại là một bông trái khác. Tuy nhiên, sự nhẫn nại này là sự nhẫn nại đã trải qua tiến trình. Christ cũng là sự thuận phục của chúng ta, nhưng đó là sự thuận phục đã trải qua tiến trình. Nói rằng Christ là mọi sự cho chúng ta thì dễ; tuy nhiên, để gọi tên từng điều trong tất cả các phương diện của những gì Ngài là cho chúng ta thì không dễ.Chúng ta cần đến với nhau vì mục đích tương giao về các sự giàu có của Christ và gọi tên từng điều này. Nhưng đừng nói về những điều đó cách khách quan. Thay vào đó, hãy đưa ra từng điều trong tất cả các phương diện chủ quan của Christ.

Bông trái là điều gì đó được hình thành sau khi đã trải qua quá trình cụ thể. Tất cả những sự giàu có của Christ là những bông trái, và mỗi bông trái này đã trải qua một tiến trình. Tất cả những sự giàu có của Christ là những phước hạnh, và ngày nay, chúng ta đang ở dưới những phước hạnh này. Ở đây, tôi không chỉ nói về các sự giàu có của Christ, mà còn nói về các sự giàu có của Christ như là những phước hạnh đối với chúng ta. Mỗi một điều trong sự giàu có của Christ là một phước hạnh. Ở dưới sự nhẫn nại của Christ thật là một phước hạnh! Và ở dưới sự khích lệ của Christ cũng thật là một phước hạnh! Tôi được khích lệ bởi Christ, và Christ là sự khích lệ của tôi. Sự khích lệ này là một bông trái đã trải qua tiến trình mà ngày nay tôi vui hưởng. Kinh Thánh cũng nói rằng Christ là đường lối của chúng ta (Giăng 14:6). Thường chúng ta cảm thấy không biết cách để xử lý một tình huống nào đó. Nhưng kinh nghiệm của chúng ta chứng tỏ rằng Christ là phương cách của mình. Chúng ta cần tin cậy Ngài, sống bởi Ngài, và nhận Ngài là mọi sự. Khi cần một phương cách để ra khỏi sự khó khăn, thì Christ là chính phương cách. Ngài cũng là cách để chúng ta xử lý các tình huống. Đây không phải là phước hạnh cho chúng ta sao? Bất cứ điều gì Christ là, thì đó là một phước hạnh. Sự giàu có của Ngài là những bông trái quí sản sinh bởi mặt trời.

E. Bằng Những Điều Quí Báu Ra Từ Mặt Trăng 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:14 cũng nói về “những điều quí ra từ mặt trăng”. Trong Kinh Thánh, Thánh Linh không bao giờ dùng sai từ. Xin lưu ý câu này nói rằng mặt trời đã sản sinh, còn mặt trăng làm lộ ra. Mặt trời mới sản sinh, còn mặt trăng thì không. Do đó, bông trái do mặt trời sinh ra, nhưng những điều quí thì do mặt trăng làm lộ ra. Thực ra, Christ là Mặt Trời và Hội Thánh là mặt trăng. Trái được sản sinh bởi Christ, nhưng được làm lộ ra bởi Hội Thánh. Một trong những trái này là sự tha thứ, và một trái khác là sự xưng công chính. Những trái khác được Hội Thánh làm lộ ra là sự phục hòa, sự cứu chuộc, và sự sống đời đời. Chúng ta nhận được sự tha thứ, sự xưng công chính, sự phục hòa, sự cứu chuộc và sự sống đời đời không trực tiếp từ Christ, nhưng gián tiếp qua các Hội Thánh.

1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:14 chép: “Hỡi anh em, anh em đã trở nên người bắt chước các Hội Thánh của Đức Chúa Trời trong Christ Jesus tại Giu-đê…” Câu này cho thấy rằng các Hội Thánh Ngoại Bang đã bước theo các Hội Thánh tại Giu-đê. Các Hội Thánh tại Giu-đê đã được thiết lập lâu hơn, và họ đã học tập, kinh nghiệm nhiều điều. Hễ điều gì họ học tập và kinh nghiệm thì được lộ ra cho các Hội Thánh Ngoại Bang, và các Hội Thánh Ngoại Bang đã vui hưởng bông trái của họ. Hầu như mọi sự giàu có của Christ mà chúng ta vui hưởng từng ngày không trực tiếp đến từ Christ mà gián tiếp qua các Hội Thánh. Hễ điều gì Hội Thánh tại Anaheim vui hưởng và kinh nghiệm sẽ được lộ ra cho tất cả các Hội Thánh khác, và điều mà các Hội Thánh khác kinh nghiệm sẽ được lộ ra cho Hội Thánh tại Anaheim. Gần đây, các Hội Thánh tại Đài Loan đã giúp chúng ta ăn và tiêu hóa các sứ điệp Nghiên Cứu Sự Sống. Đây là một kết quả mà các Hội-thánh ở Đài Loan đã lộ ra. Các phước hạnh giáng trên chúng ta bao gồm tất cả các kinh nghiệm của Hội Thánh.

F. & G. Bằng Những Điều Tốt Nhứt 
Của Các Núi Cổ 
Và Bằng Những Điều Quí Báu Của Đồi Đời Đời 

Sáng Thế Ký 49:26 nói về phước hạnh cho đến “các chót núi đời đời [ranh giới cao nhất của những ngọn đồi đời đời]”, và Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:15 nói: “Những điều tốt nhất của những ngọn núi xưa,/ Và những điều quý báu của những ngọn đồi đời đời”(Theo Bản Hê-bơ-rơ). Các từ “xưa” và “đời đời” cho thấy rằng phước hạnh này chỉ về thời gian, còn các từ “các núi,” “các đồi,” và “giới hạn cao nhất” cho thấy rằng phước hạnh này chỉ về không gian. Cả thời gian lẫn không gian là tương đương với vũ trụ. Do đó, câu này cho thấy phước hạnh mà chúng ta đang hưởng mang tính hoàn vũ, từ quá khứ đời đời đến tương lai đời đời, và từ các núi xưa đến những đồi đời đời, thậm chí đến giới hạn cao nhất. Tất nhiên, đây là ngôn ngữ thi ca. Điều này ngụ ý rằng các phước hạnh mà chúng ta đang hưởng thì mang tính hoàn vũ, bao trùm toàn cõi thời gian và không gian. Sự đề cập đến các núi và đồi bao gồm cả đồng bằng vì không thể nào ở trên một ngọn núi mà không trải qua đồng bằng. Vì thế, các núi, các đồi và giới hạn cuối cùng hàm ý đến toàn bộ không gian, gồm cả phòng nhóm và nơi ở của anh em.Phước hạnh hoàn vũ này thì dài và rộng, đi từ quá khứ đời đời đến tương lai đời đời, rộng lớn đến nỗi chúng ta không thể đi hết. Phước hạnh mà chúng ta đang hưởng ở khắp mọi nơi. Từng giây phút, sáng, trưa, chiều, ngày và đêm, đều là thời điểm phước hạnh.

Khi bước vào Trời Mới Đất Mới, anh em sẽ thấy mọi lúc và mọi nơí đều là phước hạnh. Bấy giờ, sẽ không còn biển nữa, nghĩa là sẽ không có sự rủa sả. Toàn thể vũ trụ sẽ là phước hạnh. Trong không gian sẽ có phước hạnh, và trong thời gian cũng có phước hạnh. Trời Mới Đất Mới sẽ không gì khác hơn là một phước hạnh. Bấy giờ, anh em sẽ hiểu phước hạnh của chúng ta là từ quá khứ đời đời đến tương lai đời đời và từ các núi cổ đến các ngọn đồi đời đời, thậm chí đến giới hạn cuối cùng. Vào mọi lúc và trong mọi nơi, chúng ta đều ở dưới phước hạnh này.

H. Bằng Những Vật Quí Và Sự Sung Mãn Của Đất

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:16 nói về “những vật quí và sự sung mãn của đất”(Theo Bản Hê-bơ-rơ). Trong 1Cô-rin-tô 3:21-22, chúng ta tìm thấy một từ của Tân Ước tương ứng với điều này: “Vì mọi sự đều thuộc về anh em, hoặc Phao-lô, hoặc A-bô-lô, hoặc Sê-pha, hoặc thế gian, hoặc sự sống, hoặc sự chết, hoặc những sự bây giờ, hoặc những sự hầu đến, thảy đều thuộc về anh em”. Theo những câu này, “mọi điều” bao hàm cả sự chết. Vì thế, ngay cả sự chết là điều gồm mọi điều tiêu cực, cũng là một phước hạnh. Chúng ta, con cái Đức Chúa Trời, là những người được phước. Chúng ta là những Giô-sép đang hưởng phước hạnh của Đức Chúa Trời.

Khi còn trẻ, tôi có nhiều lựa chọn. Chẳng hạn, tôi nói với Chúa rằng tôi muốn được khỏe mạnh, không bệnh tật, và không muốn đau khổ về những sự việc nào đó. Tôi muốn có mọi điều tốt đẹp. Tuy nhiên, cuối cùng sự lựa chọn không tùy thuộc nơi tôi. Sự việc đã không theo sự chọn lựa của tôi. Khi lần đầu bước vào chức vụ của Chúa, tôi đã cầu nguyện rất nhiều, xin Chúa ban cho tôi một đồng công luôn tử tế, một người không quá mạnh cũng không quá yếu. Tôi đã cầu nguyện: “Chúa ôi, Ngài biết con và điều con cần. Con cần một đồng công tử tế, một người không quá nhanh cũng không quá chậm”.Nhưng ngày nay, tôi không thích có bất cứ sự lựa chọn nào. Đôi khi các đồng công, người mà theo cái nhìn của tôi thì không được tử tế lắm, lại là người trở thành phước hạnh lớn nhất cho tôi.

Điều này cũng đúng trong đời sống hôn nhân và gia đình. Thật khó để tôi nói với bất cứ ai loại người vợ như thế nào là tốt nhứt. Khi còn trẻ, tôi có thể nói, nhưng ngày nay thì không. Có lẽ người vợ dường như tệ nhất sẽ trở thành phước hạnh lớn nhất cho anh em. Anh em cần tin rằng mọi điều, kể cả người vợ khó tính, đều là những phước hạnh.Hơn nữa, dù con cái anh em ngoan ngoãn hay hư hỏng, chúng cũng là phước hạnh.Nhiều lúc, những đứa hư hỏng trở thành phước hạnh lớn hơn những đứa ngoan. Anh em có thể xin Chúa cho những đứa con ngoan, nhưng Ngài có thể ban cho anh em những đứa hư hỏng. Tuy nhiên, ngay cả những đứa con hư này cũng là một phước hạnh.

Thậm chí việc chúng ta bị mất cắp cũng là một phước hạnh. Lúc trẻ, khi một vật gì của tôi bị lấy cắp, tôi trở nên giận dữ. Nhưng ngày nay hoặc anh em cho tôi điều gì hay lấy đi điều gì, đều không thành vấn đề. Dù được hay mất một ngàn đô-la, với tôi, điều đó không thành vấn đề. Có lẽ mất đi một số tiền lớn sẽ là phước hạnh lớn hơn là nhận được cùng số tiền đó. Nhưng có một điều tôi biết –mọi sự là phước hạnh; mọi sự là lợi.Nhưng, khi còn trẻ, tôi đã mất bình an trong nhiều giờ dù chỉ là mất một chiếc khăn tay.Nhưng ngày nay, nếu mất điều gì đó trị giá một ngàn đô-la, tôi vẫn bình an ngủ ngon.Đau khổ vì mất mát điều gì đó cho thấy anh em đang ở dưới sự rủa sả. Khi người thế giới mất mát dù chỉ là một món tiền nhỏ, họ cũng không thể ngủ được. Nhưng nếu mất một số tiền lớn, chúng ta vẫn có thể ngợi khen Chúa về phước hạnh mà sự mất mát ấy đem lại. Hễ khi nào tôi không bị ảnh hưởng bởi một sự mất mát nào đó, tôi được phước. Vì chúng ta ở dưới sự ban phước nên không có sự mất mát nào thực sự là mất mát cả. Dù chưa ở trong Trời Mới Đất Mới, nhưng ngày nay chúng ta đang nếm tiền vị của điều này. Chúng ta cần có khải tượng để thấy rằng chúng ta là Giô-sép hôm nay, và mọi sự đều là phước hạnh cho chúng ta.

Tôi không thích những tin đồn đang lan tràn về chúng ta. Nhưng người khác có thể làm chứng cho tôi rằng tôi ngợi khen Chúa vì tất cả tin đồn này là những phước hạnh cho chúng ta. Chúng là một hình thức quảng cáo miễn phí. Do những tin đồn này, tên tuổi tôi trở thành nổi tiếng khắp thế giới. Tôi không phải chi trả gì cho toàn bộ việc quảng cáo này. Tôi chưa hề đến Trung Mỹ hay Phi Châu, nhưng tên tuổi tôi được nhiều người ở đó biết đến. Vì thế, ngay cả những tin đồn cũng là một phước hạnh.

Mọi sự có là những phước hạnh hay không, không tùy thuộc vào những gì xảy ra mà tùy thuộc vào chúng ta là ai. Nếu là Giô-sép, mọi sự là phước hạnh, nhưng nếu là Ru-bên, mọi điều là rủa sả. Gánh nặng của tôi trong sứ điệp này là ghi khắc cho anh em một vấn đề: đối với chúng ta, mọi sự là phước hạnh. Không cần phải liệt kê chi tiết tất cả phước hạnh hoàn vũ này. Mọi điều là phước hạnh. Đây không chỉ là giáo lý mà là điều tôi đã kinh nghiệm.

Không điều gì có thể quấy rối tôi vì tôi nhận thức rằng mọi sự đều đến từ Cha. Mọi sự, dù tốt hoặc xấu, tích cực hay tiêu cực, đều là phước hạnh. Tất cả chúng ta phải tin như vậy. Dù có mất mát điều gì, sự mất mát đó cũng là một phước hạnh. Phao-lô nói rằng mọi sự thuộc về chúng ta, hoặc Phao-lô, Phi-e-rơ, A-bô-lô, sự sống, sự chết, hoặc bất cứ điều gì khác. Trước đây, chúng ta là những Ru-bên, nhưng bây giờ là những Giô-sép. Hễ khi nào là Giô-sép thì dù việc gì xảy ra cũng là phước hạnh. Nếu anh em ghét tôi, đó là một phước hạnh. Nếu anh em yêu mến tôi, đó cũng là một phước hạnh. Nếu anh em lấy trộm của tôi, đó là một sự phước hạnh. Nếu anh em cho tôi điều gì, đó cũng là một phước hạnh. Dù đối xử với tôi như thế nào, yêu hoặc ghét, thì những gì anh em làm cho tôi đều là một phước hạnh. Nếu anh em không làm bất cứ điều gì, đó cũng là một phước hạnh. Tôi hoàn toàn được ban phước. Vì tôi không phải là Ru-bên, nhưng là Giô-sép, nên tôi là người được phước. Ngợi khen Chúa vì trong Hội Thánh, chúng ta là những Giô-sép!

Hãy xem kinh nghiệm của Giô-sép. Ông bị các anh ghen ghét, phản bội và bị đặt vào một số hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, mọi điều xảy đến cho ông là một phước hạnh.Những gì các anh làm cho Giô-sép đã hóa thành một phước hạnh. Khi tỏ mình ra cho các anh tại Ai-cập, Giô-sép nói: “Bây giờ, đừng sầu não và cũng đừng tiếc chi về điều các anh đã bán tôi đặng bị dẫn đến xứ này; vì để giữ gìn sự sống các anh, nên Đức Chúa Trời đã sai tôi đến đây trước các anh” (Sáng. 45:5). Giô-sép cũng nói: “Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi” (50:20). Dường như Giô-sép nói: “Các anh không cần phải sợ tôi hay lo lắng về điều tôi sẽ làm cho các anh, vì mọi điều các anh đã làm cho tôi là một phước hạnh”. Mọi điều trong vũ trụ là một phước hạnh cho chúng ta. Thời gian, không gian, các từng trời, trái đất, không trung, những điều ở bên dưới trái đất, mọi người, mọi vấn đề và mọi sự vật –thảy đều là một phước hạnh cho chúng ta. Ô, chúng ta phải tin như vậy! Những ngày đầu, tôi nghĩ điều này chỉ là một niềm tin. Nhưng bây giờ, tôi có thể làm chứng với lòng thành thật rằng trong kinh nghiệm của tôi, điều đó thật như vậy. Mọi điều xảy đến cho chúng ta là phước hạnh.

Trong lời tiên tri bằng sự chúc phước của Gia-cốp, có một điều kiện cho việc chúc phước mười con trai đầu, nhưng không có điều kiện nào đối với Giô-sép. Phước hạnh của Giô-sép là vô điều kiện. Nếu thấy điều này, chúng ta sẽ đơn sơ cầu nguyện: “Chúa ôi, con không biết điều gì tốt hay điều gì xấu. Thưa Chúa, con chỉ cầu xin cho ý Ngài được nên”. Mọi sự đều  tùy thuộc vào việc chúng ta là Ru-bên hoặc là Giô-sép mà không tùy thuộc vào các từng trời, trái đất, không trung hay bất cứ điều gì khác. Nếu là Ru-bên, mọi điều sẽ là sự rủa sả và mất mát. Nhưng nếu là Giô-sép, mọi điều sẽ là phước hạnh và sinh lợi. Không điều gì ở trên trời, dưới đất hay bên dưới đất có thể là sự mất mát cho anh em. Trái lại, mọi sự hiệp lại làm ích cho anh em hễ khi nào anh em yêu Chúa (La. 8:28). Ngay cả điều vô nghĩa nhất cũng hiệp lại làm ích cho anh em.Những người hàng xóm, bố mẹ chồng hay vợ, và bạn bè thảy đều hiệp lại làm ích cho anh em vì anh em là người được ban phước.

Tất cả tín đồ Tân Ước đều là những Giô-sép. Có thể anh em không cảm thấy mình là Giô-sép, nhưng Chúa nói rằng anh em là Giô-sép. Hễ khi nào là tín đồ, anh em không còn là Ru-bên nữa mà là Giô-sép. Vì là Giô-sép, nên mọi điều xảy đến cho anh em đều là phước hạnh. Trời, đất, tuyết, mưa, sương móc và mọi sự dưới đất đều là phước hạnh cho anh em. Đây là lý do Tân Ước bảo chúng ta hãy cảm tạ Chúa trong mọi sự (Êph. 5:20; 1Tês. 5:18). Tôi tự hỏi không biết những người cha, người mẹ của những đứa con hư có bao giờ cám ơn Chúa về chúng không. Nếu có một đứa con hư, anh em phải cảm tạ Chúa rằng: “Chúa ôi, con cảm tạ Ngài biết bao vì đứa con hư này. Chúa ôi, con cám ơn Ngài về đứa con hay bất đồng ý kiến, hay chống đối này. Đứa con này thật là một phước hạnh cho con!” Nếu đứa trẻ ấy cứ mãi là Ru-bên, mọi điều sẽ là sự rủa sả cho nó. Nhưng nếu tin Chúa, nó sẽ trở thành một Giô-sép, và khi đó bất cứ điều gì xảy đến cho nó sẽ là phước hạnh. Nếu đọc Tân Ước cẩn thận, anh em sẽ thấy tín đồ Tân Ước là những người được ban phước. Chúng ta là những người ở dưới phước hạnh hoàn vũ.Đây là lý do vì sao chúng ta không nên rủa sả ai (La. 12:14). Vì mọi điều là phước hạnh cho chúng ta, nên chúng ta không thể không chúc phước người khác. Dù người khác làm điều xấu cho chúng ta, thì điều xấu đó cũng là một phước hạnh. Vì thế, rủa sả họ là không cần thiết; thay vì rủa sả, chúng ta sẽ chúc phước. Chúng ta có thể nói: “Cảm ơn anh vì đã ghét tôi. Cầu xin Đức Chúa Trời ban phước cho anh. Sự ghen ghét của anh là một phước hạnh cho tôi. Tôi có thể chúc phước cho anh trong mọi tình huống. Nếu anh cư xử tốt với tôi, tôi sẽ chúc phước cho anh. Nếu anh ngược đãi tôi, tôi vẫn chúc phước cho anh”. Ngợi khen Chúa vì chúng ta là người được phước!

Nếu thấy điều này, anh em sẽ nhận thức rằng mình đang ở dưới phước hạnh của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thường nói theo cách thiên nhiên. Khi nhận được điều gì, chúng ta cảm ơn Chúa về phước hạnh của Ngài. Nhưng khi mất mát điều gì, thường chúng ta không cảm tạ Ngài. Cần thấy khải tượng rằng chúng ta là những Giô-sép, là những người được ban phước và đang ở dưới sự chúc phước của Đức Chúa Trời. Bất cứ điều gì xảy đến, hoặc tốt hoặc xấu, chúng ta nên nói: “Ha-lê-lu-gia! Ngợi khen Chúa! Đây thật là một phước hạnh”.

Chúng ta thường hỏi nhiều người: “Anh được cứu chưa?” Nhưng bây giờ, chúng ta nên học tập hỏi họ rằng: “Anh có được ban phước không?” Hễ khi nào được hỏi câu này, chúng ta nên đáp: “Thưa có; chúng tôi đang được phước”. Những Cơ-đốc nhân chính thống thường nói về tín đồ là người được huyết cứu chuộc và được Linh tái sinh.Cần học tập để nói rằng chúng ta là những người được ban phước hoàn vũ. Nhà cửa, gia đình và mọi điều của chúng ta là một phước hạnh, dù đôi khi chúng có thể xấu đến đâu. Chúng ta không bao giờ biết được kết quả của một điều nào đó sẽ là gì. Ngày nay, một điều gì đó dường như tốt, nhưng lại có thể hóa thành xấu. Tuy nhiên, một điều nào đó dường như rất xấu, lại có thể trở thành tốt. Chỉ có Chúa mới biết. Dù tốt hay xấu, kết quả đều như nhau. Việc con chúng ta ngoan hay hư, vợ chồng chung sống dễ hay khó, đều không có gì khác cả. Với Giô-sép, mọi sự đều là phước hạnh. Nếu thấy điều này, anh em sẽ vui hưởng sự yên nghỉ và bình an. Anh em sẽ nói: “Ha-lê-lu-gia! Chúng tôi đã được chọn, được tiền định, được kêu gọi, được cứu và bây giờ, chúng tôi đang được ban phước”. Chúng ta là những người được ban phước, những người hưởng phước hạnh của Đức Chúa Trời, và mọi sự đều là phước hạnh cho chúng ta. Mọi sự đều thuộc về chúng ta.

Bài Một Trăm LẺ Bảy

Ý Nghĩa Thuộc Linh 
Về Giô-Sép Và Bên-Gia-Min

(3) 

Như đã lưu ý nhiều lần, phần ký thuật về việc chúc phước của Gia-cốp được tìm thấy trong Sáng Thế Ký chương 49 bắt đầu với một tội nhân và kết thúc với phước hạnh hoàn vũ và nơi ở đời đời. Nếu có sự hiểu biết đúng đắn về Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy cả Kinh Thánh đều dẫn đến phước hạnh hoàn vũ của Đức Chúa Trời và nơi ở đời đời của Ngài. Trong cõi đời đời, chúng ta sẽ ở dưới phước hạnh hoàn vũ để là nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời. Đây là Trời Mới Đất Mới với Giê-ru-sa-lem Mới. Trời Mới Đất Mới sẽ là lãnh vực của phước hạnh hoàn vũ. Chúng ta sẽ ở dưới phước hạnh này để có thể là Giê-ru-sa-lem Mới. Theo bức tranh trong Khải Thị chương 21 và 22, trong môi trường Trời Mới Đất Mới không có gì khác ngoài phước hạnh, phước hạnh gia trên phước hạnh. Mọi sự trong môi trường đó sẽ là phước hạnh cho Giê-ru-sa-lem Mới, nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời. Chúng ta, tuyển dân của Đức Chúa Trời, sẽ là nơi ở đó, ở trong và dưới phước hạnh hoàn vũ. Đây là sự tổng kết chung cuộc của sự khải thị trong Kinh Thánh.

Thật hết sức thú vị khi thấy phần ký thuật ngắn gọn về sự chúc phước mang tính tiên tri của Gia-cốp dẫn đến cùng một kết luận như toàn bộ Kinh Thánh được kết luận. Dầu trong hai chương đầu của Sáng Thế Ký chưa có vấn đề tội lỗi, nhưng tội đã xuất hiện trong chương ba. Tội nhân trong Sáng Thế Ký chương 3 là một Ru-bên thật. Tuy nhiên, trong hai chương cuối của Kinh Thánh, sẽ có Giô-sép và Bên-gia-min thật. Chúng ta có thể nói rằng Giô-sép là dấu hiệu của phước hạnh hoàn vũ. Tất cả phước hạnh đều giáng trên người được biệt riêng khỏi các anh em. Bên-gia-min là biểu tượng về nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời. Ha-lê-lu-gia! Hội Thánh trong sự khôi phục của Chúa ngày nay là bức tranh thu nhỏ về phước hạnh hoàn vũ và nơi ở đời đời! Trong các Hội Thánh, chúng ta có phước hạnh gia trên phước hạnh. Ở dưới một phước hạnh như thế, chúng ta là nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời.

Hai vấn đề này, phước hạnh và nơi cư ngụ, đều được tìm thấy trong các Thư Tín Tân Ước. Có lẽ không nhiều Cơ-đốc nhân chú tâm đến hai vấn đề này trong các Thư Tín. Nhưng hai từ này tạo nên dàn bài cho các Thư Tín, vì tất cả các Thư Tín đều nói về phước hạnh của Đức Chúa Trời. Hãy lấy Ê-phê-sô làm minh họa đại diện. Ê-phê-sô 1:3 chép: “Chúc tụng Đức Chúa Trời, Cha của Chúa chúng ta là Jesus Christ, Ngài đã ban phước cho chúng ta trong Christ, đủ mọi thứ phước thuộc linh ở trên trời”. Ở đây, chúng ta có vấn đề về các phước hạnh. Ê-phê-sô 1:23 nói về Thân Thể, và Ê-phê-sô 2:22 nói về nơi cư ngụ, cả hai đều là biểu tượng về nơi ở của Đức Chúa Trời. Trong Ê-phê-sô 3:16-17, sứ đồ Phao-lô đã cầu xin Cha bởi Linh Ngài làm chúng ta mạnh mẽ trong người bề trong hầu cho Đấng Christ có thể lập cư trong lòng chúng ta (Theo BảnTheo Bản Hi-lạp). Vì thế, trong Sách Ê-phê-sô ngắn ngủi này, cả phước hạnh lẫn nơi cư ngụ đều được nói đến. Đức Chúa Trời đã ban phước cho chúng ta đủ mọi thứ phước thuộc linh trên các từng trời với mục đích chúng ta trở nên nơi cư ngụ của Ngài.

Nếu hỏi các Thư Tín này bày tỏ điều gì, tôi sẽ nói là bày tỏ các vấn đề về phước hạnh và nơi cư ngụ. Tuy nhiên, để thấy điều này, chúng ta cần ánh sáng và khải tượng. Chúng ta có thể đọc các Thứ Tín này nhiều lần, nhưng nếu không có ánh sáng và khải tượng thì chỉ thấy những điều như khuyên vợ hãy thuận phục chồng, chồng hãy thương yêu vợ, hãy chuộc thì giờ, hãy siêng năng và hãy thương yêu người lân cận. Nếu đọc các Thư Tín này bằng quan điểm thiên nhiên, không có ánh sáng và khải tượng, chúng ta chỉ thấy những điểm nhỏ nhặt và bỏ qua phước hạnh và nơi cư ngụ trong các Thư đó. Tân Ước quan tâm đến các vấn đề về phước hạnh và nơi cư ngụ.

Có rất nhiều điểm tuyệt diệu và lạ lùng được đề cập đến trong Sáng Thế Ký chương 49. Tôi cảm tạ Chúa biết bao vì con đầu lòng của Gia-cốp là Ru-bên và hai người con cuối là Giô-sép và Bên-gia-min! Nếu Giô-sép và Bên-gia-min là hai người con đầu và Ru-bên là người cuối, mọi sự sẽ đảo lộn. Ngợi khen Chúa vì trước đây chúng ta là những Ru-bên, nhưng ngày nay là những Giô-sép và Bên-gia-min! Tôi có thể làm chứng rằng ngày nay tôi là Giô-sép và Bên-gia-min. Ngày đêm, tôi ở dưới phước hạnh của Đức Chúa Trời và tôi là nơi cư ngụ của Ngài. Ngay cả những người trẻ ở trường cấp hai và cấp ba cũng phải là những Giô-sép và Bên-gia-min. Trước khi bước vào Hội Thánh, chúng ta chưa bao giờ nhận biết ý nghĩa của Giô-sép và Bên-gia-min. Nhưng nếu ở trong sự khôi phục của Chúa, chúng ta không phải là những Giô-sép và Bên-gia-min, thì là ai? Anh em không phải là Giô-sép và Bên-gia-min sao? Anh em không ở dưới phước hạnh hoàn vũ của Đức Chúa Trời và không phải là nơi ở đời đời của Ngài sao? Là những Bên-gia-min ngày nay, Đức Chúa Trời đang ở trong tôi, mà không chỉ trong tôi, Ngài còn ở giữa hai vai tôi nữa.

I. Bằng các phước hạnh của vú và tử cung 

Trong sứ điệp trước, chúng ta đề cập tám phương diện đầu của phước hạnh hoàn vũ. Trong lời chúc phước cho Giô-sép, Gia-cốp đã dùng cách diễn đạt đầy thi vị như các núi cổ, các đồi đời đời và giới hạn cuối cùng của các đồi đời đời. Những cách diễn đạt đặc biệt này ngụ ý đến thời gian và không gian, toàn cõi thời gian từ thời xa xưa đến cõi đời đời, và toàn bộ không gian từ trên trời đến bên dưới đất. Vì thế, cách diễn đạt theo thể thơ này chỉ về phước hạnh hoàn vũ, vì thời gian cộng với không gian bằng cả vũ trụ. Chúng ta có một phước hạnh lấp đầy cả vũ trụ. Chúng ta ở dưới sự chúc phước này cả về không gian lẫn thời gian. Phước hạnh của Đức Chúa Trời đầy dẫy cả vũ trụ, từ quá khứ đời đời đến tương lai đời đời và từ các từng trời xuống các vực sâu bên dưới đất. Mọi nơi và mọi lúc không có điều gì khác ngoài phước hạnh. Ô, tất cả chúng ta phải thấy khải tượng và có sự nhận thức này! Không cần phải chờ sự hiện đến của Trời Mới Đất Mới, vì trong nếp sống Hội Thánh hôm nay, chúng ta đang nếm tiền vị của phước hạnh hoàn vũ này.

Dầu tám điều đầu trong phước hạnh ban cho Giô-sép có tính chất hoàn vũ, nhưng khá chung chung. Nếu xem xét chúng, anh em sẽ thấy không có điều gì thuộc sự sống cũng không có điều gì về sự cư ngụ được đề cập đến. Do đó, chúng ta cần xem xét hai điều cuối, một điều quan hệ đến sự sống và điều kia là sự cư ngụ. Xin nhớ rằng phần ký thuật trong Sáng Thế Ký chương 49 theo thể thơ, và thơ ca thường dùng các biểu tượng. Một bức tranh hay một biểu tượng có thể thay cho ngàn từ. Dưới sự cảm thúc của Đức Chúa Trời, trong 49:25, Gia-cốp nói về “phước hạnh của vú và của tử cung”.Trong cách nói theo thể thơ, tử cung tượng trưng cho sự sản sinh của sự sống, việc sinh sản của sự sống. Trong sự sáng tạo, Đức Chúa Trời chỉ ban phước cho cho các sinh vật và con người (1:22,28). Ngài đã không chúc phước cho công việc Ngài vào bốn ngày đầu. Ngài đã không chúc phước cho mặt trời, mặt trăng, các vì sao, hay thực vật trên đất. Nhưng vào ngày thứ năm, Đức Chúa Trời đã ban phước cho các sinh vật trong biển và những loài chim trên không; và vào ngày thứ sáu, Ngài đã chúc phước cho con người. Do đó, trong tất cả những công tác của Ngài khi sáng tạo, Đức Chúa Trời chỉ ban phước cho các vật sống và con người. Điều này tạo cho chúng ta ấn tượng là Đức Chúa Trời chỉ vì sự sống. Ý định của Đức Chúa Trời là có sự sống sản sinh. Sự kiện Giô-sép được ban phước với các phước hạnh của tử cung và của vú ngụ ý rằng ông được ban phước bằng sự sống sinh sản và nuôi dưỡng. Những hình ảnh này không nên áp dụng cho sự sống động vật, thậm chí cũng không cho sự sống con người, mà cho sự sống đời đời. Sự sống đời đời là sự sống cao nhất, sự sống sinh sản nhiều nhất.Trong Tân Ước, chúng ta thấy rằng sự sống sản sinh không phải là sự sống động vật hay sự sống con người mà là sự sống đời đời. Ngày nay trong Hội Thánh, chúng ta đang kinh nghiệm sự sống đời đời là sự sống sản sinh. Nhiều điều thuộc phước hạnh trong Hội Thánh bao gồm vú và tử cung, tức sự sống sản sinh và nuôi dưỡng.

Hãy xem bức tranh trong Khải Thị chương 21 và 22. Trong các chương này, chúng ta có trời mới, đất mới và Giê-ru-sa-lem Mới. Trong Giê-ru-sa-lem Mới có Sông Nước Sự Sống. Trong con sông sự sống này mọc lên Cây Sự Sống. Trong khắp Trời Mới Đất Mới với Giê-ru-sa-lem Mới, yếu tố trung tâm là sự sống tuôn chảy. Rõ ràng, mọi phương diện khác của phước hạnh hoàn vũ đều có ở đây, như phước hạnh của trời, phước hạnh của sương móc, phước hạnh của đất, và phước hạnh của những điều bên dưới đất. Nhưng Khải Thị chương 21 và 22 không đề cập đến những điều khác. Những chương này chỉ đề cập đến sự tuôn chảy của sự sống với Cây Sự Sống, một điều gì đó cung ứng sự nuôi dưỡng. Nếu chỉ đọc Sáng Thế Ký chương 49 theo văn tự, anh em sẽ không thấy vấn đề về sự sống sản sinh và nuôi dưỡng. Anh em phải bước vào ý nghĩa thuộc linh của cách diễn đạt thi ca được dùng trong chương này. Ha-lê-lu-gia! trongnếp sống Hội Thánh, chúng ta có phước hạnh của sự sống, phước hạnh của vú và tử cung, phước hạnh của con sông tuôn chảy!

Nếu có mọi phước hạnh ngoại trừ phước hạnh của vú và tử cung, điều này có nghĩa là chúng ta không có sự sống sinh sản và nuôi dưỡng. Nếu vậy, chúng ta là một Hội Thánh nghèo nàn. Nếu động vật sinh sản và con người bị cất khỏi trái đất, toàn bộ ý nghĩa của vũ trụ sẽ mất. Ý nghĩa của toàn bộ vũ trụ tùy thuộc vào sự sống động vật và đặc biệt là sự sống con người. Giả sử miền nam California chỉ có cỏ, hoa và cây mà không có động vật hay con người. Khi thiên sứ thấy tình trạng như vậy, họ sẽ nói nơi đây thật đầy phước hạnh, mà lại thiếu sự sống. Nhưng các thiên sứ sẽ vui mừng khi thấy vô số những sinh vật trên đất. Trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta vui hưởng [phước hạnh của] tử cung và vú, sự sinh sản và nuôi dưỡng. Trong nếp sống Hội Thánh ngày nay, chắc chắn chúng ta có sự sống tuôn chảy. Trong Giê-ru-sa-lem Mới, chúng ta sẽ có sự sống này thậm chí nhiều hơn.

J. Bằng Niềm Vui Thỏa Tốt Lành 
Của Đấng Ơ Trong Bụi Gai 

Sau cùng, Giô-sép được ban phước với “ý muốn tốt lành của Đấng đã ở trong bụi gai” (Phục. 33:16). Điều cuối cùng trong phước hạnh hoàn vũ là sự cư ngụ của Đức Chúa Trời. Đấng ở trong bụi gai có một ý chỉ tốt lành và một niềm vui thỏa tốt lành. Bất cứ ai sống trong bụi gai sẽ mong ước có một ngôi nhà tốt hơn. Nếu đang ở trong bụi gai thì ý muốn tốt lành của anh em là có được một ngôi nhà tốt hơn. Tôi không thích sống trong bụi gai với anh em, nhưng tôi thích sống với anh em trong một ngôi nhà tốt hơn.Giả sử một thanh niên đang sống trong bụi mà muốn kết hôn với một bạn gái. Ý muốn tốt lành của người đang sống trong bụi cây này là được sống với vợ trong một ngôi nhà đẹp sau khi kết hôn. Trước khi Đền Tạm được dựng lên, Chúa ở trong bụi gai (Xuất. 3:4). Đức Chúa Trời giải cứu dân Ngài, con cái Ítx-ra-ên, ra khỏi Ai-cập với ý định là trước hết họ dựng Đền Tạm và sau đó là một Đền Thờ cho Ngài. Môi-se thấy khải tượng về Đức Chúa Trời trong bụi gai và Đức Chúa Trời từ trong bụi gai đã phán với ông. Nhưng trong Lê-vi Ký 1:2, Đức Chúa Trời từ trong Đền Tạm phán với Môi-se. Đức Chúa Trời đã chúc phước cho con cái Ítx-ra-ên bằng ý chỉ tốt lành này. Đây là ý chỉ tốt nhất của Đức Chúa Trời mà với ý chỉ đó, Ngài đã chúc phước cho tuyển dân Ngài. Đức Chúa Trời đã chúc phước cho con cái Ítx-ra-ên bằng phước hạnh tốt nhứt –có nơi cư ngụ của Ngài. Có phước hạnh nào lớn hơn phước hạnh này? Cuối cùng, A-rôn, một tội nhân, có thể bước vào hiện diện của Đức Chúa Trời trong Nơi Chí Thánh.Phước hạnh nào có thể lớn hơn điều này? Phước hạnh cao trọng nhất là bước vào nơi ở của Đức Chúa Trời và ở trong sự hiện diện Ngài. Thậm chí, chính chúng ta được trở nên nơi cư ngụ này.

Về điểm này, tôi muốn chỉ ra rằng chúng ta không thể hiểu Kinh Thánh theo quan niệm thiên nhiên. Dầu đã đọc Kinh Thánh và có thể thuộc nhiều câu, anh em vẫn không thể thấy bất cứ điều gì cho đến khi khải tượng đến. Nếu nghe những lời nói về nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời, thì Xuất Ai-cập Ký sẽ là một Sách mới mẻ đối với anh em.Sách Xuất Ai-cập Ký bắt đầu với khải tượng về Đức Chúa Trời trong bụi gai đang phán cùng Môi-se với ý định rằng một ngày nào đó, Môi-se sẽ dẫn con cái Ítx-ra-ên ra khỏi Ai-cập vào trong đồng vắng để dựng một Đền Tạm cho Đức Chúa Trời. Thật là một phước hạnh! Trong cả Cựu Ước, không có phước hạnh nào cao hơn, lớn hơn hay ngọt ngào hơn phước hạnh về nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Thường các tác giả Thi Thiên bày tỏ khát vọng là được ở trong đền của Đức Chúa Trời. Thi Thiên 84:10 nói: “Vì một ngày trong hành lang Chúa đáng hơn một ngàn ngày khác,/ Thà tôi làm kẻ giữ cửa trong Nhà Đức Chúa Trời tôi,/ Hơn là ở trong trại kẻ dữ”. Không phước hạnh nào ngọt ngào hay cao cả bằng phước hạnh về sự cư ngụ của Đức Chúa Trời. Đây là phước hạnh tối hậu.

Giê-ru-sa-lem Mới được gọi là Đền Tạm của Đức Chúa Trời. Khi Chúa Jesus trở nên xác thịt, Ngài là một Đền Tạm của Đức Chúa Trời (Giăng 1:1,14, Theo Bản Hi-lạp). Ngài cũng là Đền Thờ của Đức Chúa Trời (Giăng 2:19,21). Bước theo Ngài, Hội Thánh được xây dựng thành Đền Thờ của Đức Chúa Trời (1Côr. 3:16). Cuối cùng, toàn thể Giê-ru-sa-lem Mới sẽ là Đền Tạm Đời Đời, phước hạnh trung tâm giữa các phước hạnh của Đức Chúa Trời. Trời Mới Đất Mới sẽ là một phước hạnh, nhưng trung tâm của phước hạnh đó sẽ là Giê-ru-sa-lem Mới, Đền Tạm của Đức Chúa Trời.Trong Giê-ru-sa-lem Mới, Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng ta và chúng ta sẽ ở với Ngài.

V. Được Cư Ngụ 

A. Được Chúa Ở Giữa Hai Vai Của Bên-gia-min 

Sáng Thế Ký 49:27 nói rằng Bên-gia-min là một con sói hay cắn xé (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Nhưng Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:12 nói về ông rằng: “Người mà Đức Giê-hô-va yêu mến,/ Sẽ được ở yên gần bên Ngài. / Hằng ngày Đức Giê-hô-va sẽ che chở người,/ Lập nơi ở Ngài giữa hai vai người”. Đối với kẻ thù, Bên-gia-min là một con sói hay cắn xé. Tuy nhiên, theo Phục Truyền Luật Lệ Ký, Bên-gia-min là người được Chúa yêu mến. Làm thế nào một con sói hay cắn xé lại là người được Chúa yêu mến? Chúa yêu Bên-gia-min, con sói hay cắn xé, vì nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời nằm trong lãnh thổ của Bên-gia-min. Nhiều Cơ-đốc nhân nghĩ rằng Giê-ru-sa-lem, nơi đặt Đền Thờ, nằm trong lãnh thổ của Giu-đa. Tuy nhiên, Giê-ru-sa-lem Mới nằm trong lãnh thổ của Bên-gia-min, rất gần với Giu-đa. Các vua ra từ Giu-đa, nhưng thủ đô Giê-ru-sa-lem, ở trong lãnh thổ Bên-gia-min. Thủ đô là nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Theo địa lý, lãnh thổ của Bên-gia-min có hình dạng giống như đôi vai, và Giê-ru-sa-lem nằm giữa đôi vai ấy. Do đó, Chúa lập nơi ở Ngài giữa hai vai của Bên-gia-min.

Tất nhiên, đầu ở giữa hai vai của thân thể chúng ta. Điều này ngụ ý rằng người cư ngụ trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:12 chính là Đầu. Chính Đức Chúa Trời ngự trong Đền Thờ là Đầu. Điều này có nghĩa là trong nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời có quyền làm đầu, quyền làm Chúa. Ngôn ngữ của Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:12 là ngôn ngữ thơ ca. Cách đây nhiều năm, câu này hoàn toàn là một điều bí ẩn đối với tôi. Tôi không biết câu này muốn nói gì khi nói rằng Đức Chúa Trời ở giữa hai vai của Bên-gia-min. Nhưng sau những năm nghiên cứu Kinh Thánh và kinh nghiệm với Chúa, tôi bắt đầu hiểu ra. Nếu xem xét kinh nghiệm của mình, anh em sẽ nhận thức rằng việc Đức Chúa Trời ở giữa hai vai chúng ta là Đầu của chúng ta, là điều có thật! Hễ khi nào có sự cư ngụ của Đức Chúa Trời, chúng ta có quyền làm đầu. Vì vậy, có một ngai bên trong Thành Giê-ru-sa-lem Mới.

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:12 cũng nói rằng Chúa sẽ che chở Bên-gia-min suốt ngày. Chúa đã che chở Bên-gia-min như thế nào? Đền Tạm là sự che phủ vì Khải Thị 7:15 nói: “Đấng ngự trên ngai sẽ giăng trại mình trên chúng”. Kiến ốc của Đức Chúa Trời là một nhà trại và nhà trại này là bóng che chở. Nhà trại này vừa là Christ vừa là Hội Thánh. Ngày nay chúng ta đang ở dưới sẽ che chở của Christ và sự che phủ của Hội Thánh, vì cả Christ và Hội Thánh là nơi cư ngụ phủ che của Đức Chúa Trời mà chúng ta đang ở dưới đó.

B. Bên-gia-min Ở Bình Yên Gần Bên Chúa 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:12 nói rằng Bên-gia-min sẽ ở bình yên gần bên Chúa. Bên-gia-min sẽ là người láng giềng của Chúa. Vì ở sát bên Chúa, nên ông ở trong sự an toàn. Cũng vậy, hễ khi nào ở sát bên Chúa, chúng ta được an toàn. Dầu có thể chưa kinh nghiệm nhiều, nhưng chúng ta có thể làm chứng rằng chúng ta là Bên-gia-min ngày nay, rằng Đức Chúa Trời lập nơi ở Ngài giữa hai vai chúng ta, và rằng toàn bản thể chúng ta ở dưới sự phủ che của Ngài. Ngài là Chúa, và ngai vua của Ngài ở với chúng ta. Chúng ta có chỗ cư ngụ, Ngài đang ở đây và chúng ta đang ở bên cạnh Ngài. Đức Chúa Trời và chúng ta là láng giềng. Ồ, thật là một phước hạnh!

Nếu anh em nhận lấy quan niệm về sự cư ngụ của Đức Chúa Trời được tìm thấy trong Sách đầu tiên của Kinh Thánh và đọc Thi Thiên trong ánh sáng này, thì Thi Thiên sẽ tươi mới với anh em. Cả Thi Thiên nói đến vấn đề về sự cư ngụ của Đức Chúa Trời. Có nhiều câu nói về thành phố, Đền Thờ, nhà, nơi cư ngụ hay nhà trại. Nếu đặt tất cả những câu này lại với nhau, chúng ta thấy rằng Thi Thiên hoàn toàn nói về sự cư ngụ của Đức Chúa Trời. Trong một Thi Thiên, Môi-se nói: “Lạy Chúa, từ đời này qua đời kia Chúa là nơi ở của chúng tôi” (Thi. 90:1). Nếu muốn nhận lấy Chúa làm nơi ở của mình, trước hết chúng ta phải là nơi ở của Ngài. Nếu Đức Chúa Trời không có nơi ở của Ngài được xây trên đất, chúng ta không thể nào có Ngài làm nơi ở mình. Nhưng khi Ngài có một nơi ở trên đất, Ngài trở nên nơi ở của chúng ta và chúng ta trở thành nơi ở của Ngài. Đây là điều được gọi là nơi ở lẫn nhau, được bày tỏ trong Giăng chương 14 và 15, đặc biệt trong những lời: “Hãy cứ ở trong Ta, Ta cũng ở trong các ngươi” (Giăng 15:4). “Hãy cứ ở trong Ta” –đây là nơi cư ngụ của chúng ta; “và Ta ở trong các ngươi” –đây là nơi ở của Ngài. Trong Giăng 14:23, Chúa Jesus phán rõ rằng: “Nếu ai thương yêu Ta, thì giữ Lời Ta, Cha Ta sẽ thương yêu người, Chúng Ta đều đến cùng người và lập cư với người”. Chúng ta sẽ là chỗ ở của Đức Chúa Trời và Ngài sẽ là nơi ở của chúng ta. Nếu tất cả chúng ta ngợi khen Chúa về điều này, chúng ta sẽ ở với Ngài trong chỗ ở của Ngài.

Phương diện sau cùng trong mười phương diện của phước hạnh hoàn vũ là vấn đề về nơi ở. Vì thế, cuối cùng tất cả các phước hạnh được tổng kết trong nơi ở. Lý do Đức Chúa Trời ban cho chúng ta nhiều điều trong phước hạnh là để chúng ta có thể là nơi ở của Ngài. Vì sao Đức Chúa Trời cứu anh em? Đó là vì nơi ở của Ngài. Vì sao Ngài ban cho anh em ân điển gia trên ân điển? Vì nơi ở của Ngài. Tại sao Đức Chúa Trời thực hiện mọi điều cho chúng ta ngày nay? Tất cả đều vì nơi ở của Ngài. Tất cả các phước hạnh đều dẫn đến nơi ở của Ngài. Đây là ý muốn tốt lành của Đức Chúa Trời, khát vọng của lòng Ngài. Điều Đức Chúa Trời muốn là nơi ở của Ngài.

Điều này được bày tỏ trong Ê-sai 66:1-2. Trong Ê-sai 66:1, chúng ta thấy trời là ngai của Đức Chúa Trời và đất là bệ chân Ngài, nhưng Đức Chúa Trời chưa có một nơi yên nghỉ. Nhiều Cơ-đốc nhân nghĩ đến việc lên thiên đàng. Với họ, thiên đàng là một nơi đáng yêu. Nhưng Đức Chúa Trời không yêu thích thiên đàng như những Cơ-đốc nhân này. Ngài muốn có một nơi yên nghỉ. Ê-sai 66:2 bày tỏ rằng nơi yên nghỉ của Đức Chúa Trời không phải là trời cũng không phải là đất, mà là con người. Đức Chúa Trời đang tìm kiếm một người. Câu này nói: “Này là kẻ mà Ta đoái đến, tức là kẻ nghèo khó và ăn năn trong linh, là kẻ run rẩy khi nghe Lời Ta” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Câu này tương ứng với Ma-thi-ơ 5:3 “Phước cho kẻ nghèo khó trong linh, vì Vương Quốc Các Từng Trời là của họ”. Loại người là sự yên nghỉ của Đức Chúa Trời là người nghèo khó và ăn năn trong linh. Ý muốn tốt lành của Đức Chúa Trời là có được loại người này. Ý muốn của Đức Chúa Trời là chúng ta sẽ nghèo khó và ăn năn trong linh, trống không cho Ngài. Tuy nhiên, nếu linh đầy dẫy những điều khác hơn Đức Chúa Trời, chúng ta không nghèo khó trong linh. Nếu vậy, Đức Chúa Trời không thể có nơi ở của Ngài trong chúng ta. Nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay đã đầy trong linh. Họ đã đầy quá nhiều điều, ngay cả những điều chính thống đến nỗi không có chỗ cho Chúa trong linh họ. Đức Chúa Trời cần một linh trống không. Người nghèo khó trong linh là người mà linh của họ trống không, không bị chiếm hữu, sẵn sàng cho Chúa bước vào.

Theo Ê-sai 66:1-2, những người nghèo khó và ăn năn trong linh mới là nơi yên nghỉ của Đức Chúa Trời. Không một chỗ nào khác trong cả vũ trụ, trên trời hay dưới đất, là nơi yên nghỉ của Đức Chúa Trời. Là những người nghèo khó và ăn năn trong linh, chúng ta có thể nói: “Chúa ôi, xin ngự vào. Chúa ôi, con trống không, không bị [điều gì] chiếm hữu, con sẵn sàng cho Ngài. Xin ngự vào lập nơi ở của Ngài trong con, và chính Ngài hãy định cư trong con”. Anh em đã ở trong nếp sống Hội Thánh bao lâu, không thành vấn đề, anh em vẫn cần cầu nguyện như vậy, xin Chúa lập nơi ở Ngài trong anh em. Trong Ê-phê-sô 3:16-17, sứ đồ Phao-lô xin Cha lấy quyền năng bởi Linh Ngài mà làm cho chúng ta mạnh mẽ trong người bề trong để Christ có thể lập Nhà Ngài trong người bề trong, để Christ lập cư trong lòng chúng ta. Phao-lô cầu nguyện để Christ có thể ở trong chúng ta. Đó không chỉ là vấn đề yêu Chúa hay phụng sự Ngài; đó là vấn đề Ngài lập cư trong chúng ta. Sự phụng sự mà chúng ta dâng cho Chúa sẽ không làm thỏa lòng Ngài nhiều bằng việc chúng ta trở nên nơi cư ngụ của Ngài. Tất cả chúng ta phải là nơi ở của Chúa. Đây là điều Ngài khao khát, và đây là điều Ngài đang tìm kiếm. Đây là ý chỉ tốt lành của Đức Chúa Trời. Phước hạnh tột cùng là trở nên nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Nơi cư ngụ của Ngài cũng là nơi ở của chúng ta. Khi Đức Chúa Trời của chúng ta được yên nghỉ, chúng ta cũng tìm được yên nghỉ trong sự cư ngụ của Ngài.

Quan niệm về sự cư ngụ của Đức Chúa Trời và việc chúng ta ở với Ngài như thế này được tìm thấy khắp Cựu Ước và Tân Ước. Trải qua nhiều thế kỷ và các thời đại, Đức Chúa Trời hằng khao khát có một nơi ở. Thật đáng tiếc mà nói, hầu hết dân Đức Chúa Trời đã không thấy điều này. Nhưng ngày nay trong sự khôi phục của Chúa, Ngài đến với chúng ta nhiều lần về nơi ở của Ngài. Tôi không nói điều mà chính mình chưa kinh nghiệm. Suốt hai mươi lăm năm hay ba mươi năm qua, hễ khi nào tôi mở Kinh Thánh, tôi thấy chỉ một vấn đề –nơi ở của Đức Chúa Trời. Trong nhiều chương của Kinh Thánh, khát vọng của Đức Chúa Trời về một nơi ở được nói đến. Đây là khát vọng của lòng Đức Chúa Trời, ý muốn tốt lành của Ngài. Nếu được ban phước với ý muốn tốt lành của Đấng ở trong bụi gai, anh em là người phước hạnh nhất.

Trong một ý nghĩa, thậm chí ngày nay Chúa vẫn còn ở trong bụi gai. Hãy nhìn tình trạng trên khắp đất. Có điều gì khác ngoài bụi gai? Đền Tạm ở đâu? Nhiều người thậm chí không thể thấy cái bóng của đền Tạm đó huống chi là thực tế. Nhưng chúng ta phải thờ phượng Chúa dường bao vì trong sự khôi phục của Ngài, chúng ta không những thấy cái bóng mà còn đang ở trong nơi cư ngụ này. Chúng ta có thể nói: “Chúa ôi, ngợi khen Ngài! Đối với chúng con, Ngài không ở trong bụi gai. Ngài đang ở trong nơi cư ngụ của Ngài”.

Chúng ta đã thấy Chúa ban phước cho Giô-sép với ý muốn tốt lành của Đấng ở trong bụi gai. Đấng ở trong bụi gai này là ai và ý muốn tốt lành của Ngài là gì? Nếu không giải thích câu này theo cách chúng ta đã giải thích, thì giải thích như thế nào? Bằng cách đọc cả Kinh Thánh, chúng ta có thể khám phá ra Đấng ở trong bụi gai là aivà ý muốn tốt lành của Ngài là gì. Rõ ràng Đấng ở trong bụi gai là Đấng đã kêu gọi Môi-se dựng Đền Tạm cho Ngài. Ngài đã sống trong bụi gai, nhưng Ngài mong đợi có một Đền Tạm được xây bằng các vật liệu quí. Đó là ý muốn tốt lành của Ngài. Con cái Ítx-ra-ên đã được chúc phước bằng ý muốn tốt lành này. Anh em có tin rằng Chúa giải cứu con cái Ítx-ra-ên ra khỏi Ai-cập là chỉ để họ được cứu? Sự giải cứu này không chỉ để họ được cứu rỗi, mà cũng để Đức Chúa Trời có nơi cư ngụ. Mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho họ và vì họ đều nhằm mục đích để Đền Tạm có thể được dựng lên giữa họ. Sau khi Đền Tạm được dựng lên, vinh quang của Đức Chúa Trời giáng xuống và đầy dẫy Đền ấy (Xuất. 40:34). Khi đó, con cái Ítx-ra-ên là những người được phước nhất trên đất, được ban phước với ý muốn tốt lành của Đấng ở trong bụi gai, là Đấng mà bấy giờ đã ngự trong Đền Tạm. Do đó, Đền Tạm đã trở thành phước hạnh lớn nhất đối với con cái Ítx-ra-ên.

Ngày nay cũng vậy, ý muốn tốt lành của Chúa là có được Hội Thánh. Vì đang ở trong Hội Thánh, chúng ta là những người phước hạnh nhất. Trước khi Hội Thánh hiện hữu, chắc chắn Chúa đã ở trong bụi gai. Nói cách thiết thực, trước khi Hội Thánh đến với địa phương này, Chúa đã ở trong bụi gai. Chắc chắn Ngài không ở trong Đền Tạm. Nhưng ngày nay, Hội Thánh có ở đây và chúng ta có thể nói: “Ngợi khen Chúa! Ngài không còn ở trong bụi gai. Bây giờ, Ngài đang ở trong Đền Tạm, và chúng con đang ở đây với Ngài. Chúng con và Đức Chúa Trời là người lân cận. Chúng con là Bên-gia-min ngày nay đang ở trong sự an toàn gần bên Chúa. Ha-lê-lu-gia!” Có gì tốt hơn điều này? Hễ khi nào tôi có nơi ở của Chúa và tôi ở trong đó, thì đủ rồi. Đây là kinh nghiệm về Bên-gia-min, em Giô-sép.

Bên-gia-min là người thật xứng hợp với Giô-sép. Cũng vậy, Hội Thánh thật xứng hợp với phước hạnh của Đức Chúa Trời. Trải qua nhiều năm, Đức Chúa Trời đã ban phước cho anh em. Anh em hoàn toàn không thể phủ nhận rằng anh em vẫn đang ở dưới phước hạnh của Ngài. Nhưng mục đích của việc Ngài ban phước là vì ý muốn tốt lành của Đấng ở trong bụi gai, và ý muốn tốt lành này là có được nếp sống Hội Thánh, là nơi ở của Ngài. Ngày nay, Đức Chúa Trời có thể khoe khoang với kẻ thù là Sa-tan rằng: “Ớ Sa-tan, ngươi hãy nhìn kìa, ngày nay Ta đã có một nơi yên nghỉ. Nơi yên nghỉ của Ta là Hội Thánh. Trước đây Ta nói rằng trời là ngai Ta và đất là bệ chân Ta, nhưng Ta phải hỏi sự yên nghỉ Ta ở đâu. Này Sa-tan, Ta nói với ngươi rằng, ngày nay, Hội Thánh là nơi yên nghỉ của Ta. Ta thỏa lòng và những người được chọn của Ta cũng thỏa lòng”.

Nhiều người trong chúng ta có thể làm chứng rằng kể từ ngày được cứu, chúng ta chưa bao giờ được vui thỏa trong linh bằng lúc ở trong nếp sống Hội Thánh ngày nay. Điều này không [có ý] nói rằng nếp sống Hội Thánh là hoàn hảo. Không phải vậy, Hội Thánh chưa hoàn hảo. Nhưng ở đây, trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta được thỏa lòng. Chúng ta đã trải qua nhiều nơi mà không có sự thỏa lòng. Chúng ta đã không tìm thấy sự thỏa lòng cho đến khi bước vào Hội Thánh. Vào ngày đó, chúng ta đã nói: “Đây là Nhà. Tôi thỏa lòng”. Lý do chúng ta cảm nhận mình là Ngôi Nhà và được thỏa lòng là vì Hội Thánh là Đền Tạm của Đức Chúa Trời, nơi ở của Đức Chúa Trời. Chúa không còn ở trong bụi gai, nhưng trong Đền Tạm. Tôi vui mừng biết bao khi chúng ta ở dưới phước hạnh hoàn vũ và chúng ta là nơi ở của Đức Chúa Trời!

Phước hạnh này mang tính hoàn vũ, và nơi ở này là đời đời. Nếp sống Hội Thánh sẽ kéo dài đến đời đời. Trời cũ và đất cũ, bao gồm môi trường cũ, sẽ bị kết liễu; nhưng nếp sống Hội Thánh mà ngày nay chúng ta đang ở sẽ còn mãi mãi. Đây là nơi ở đời đời. Tôi bảo đảm với anh em rằng khi bước vào cõi đời đời, anh em sẽ nhớ lại kinh nghiệm của mình trong nếp sống Hội Thánh. Có lẽ anh em sẽ nói: “Ô, tôi không thể quên những gì mình đã kinh nghiệm trong nếp sống Hội Thánh”. Hãy chờ và anh em sẽ khám phá ra điều này là đúng. Sâu xa bên trong, chúng ta có sự biết chắc đầy đủ rằng nếp sống Hội Thánh là đời đời.


Bài Một Trăm Lẻ Tám

Sự Tổng Kết Chung Cuộc 
Về Sự Vận Hành Của Đức Chúa Trời Trong Kinh Thánh

Với sứ điệp này, chúng ta sẽ đúc kết loạt bài gồm các sứ điệp của chương 49.Chương 49 là phần ký thuật về sự chúc phước mang tính tiên tri cho các con của Gia-cốp. Các phước hạnh này được bằng những hình ảnh, các dấu hiệu và biểu tượng mà tất cả đều cần được hình bóng hoá. Chúng ta đã thấy những hạt giống của hầu hết các lẽ thật trong Kinh Thánh đều được gieo trong Sáng Thế Ký. Các hạt giống được gieo trong Sách này sẽ phát triển trong các Sách tiếp theo và được thu hoạch trong Khải Thị. Vì Sáng Thế Ký là Sách của những hạt giống về các lẽ thật chứa đựng trong Kinh Thánh, nên kết luận của chương 49 phải tương ứng với kết luận của cả Kinh Thánh. Hai chương cuối của Sách Khải Thị có hai điều chính: phước hạnh hoàn vũ và nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời với loài người.

Trước khi xem xét phước hạnh hoàn vũ này và nơi ở đời đời, chúng ta cần xem lại chương 49. Bốn người con đầu của Gia-cốp là Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa.Theo ký thuật của Cựu Ước, bốn người con này thì gian ác. Con đầu và con thứ tư, Ru-bên và Giu-đa thì đầy tham dục. Con thứ hai và thứ ba, Si-mê-ôn và Lê-vi, thì đầy hung dữ. Tham dục và hung dữ biểu thị đặc điểm của con người gian ác. Trong hiến pháp của Vương Quốc Các Từng Trời được ban hành trong Ma-thi-ơ chương 5, 6 và 7,Chúa Jesus đề cập đến sự tham dục và hung dữ cách mạnh mẽ. Nếu một người được gìn giữ khỏi hai điều này, người ấy sẽ không có tội. Một người có tội phần lớn do người đó đầy tham dục và hung dữ. Chúng ta ngợi khen Chúa vì trong ân điển Ngài, Ngài đã cứu bốn người con đầu của Gia-cốp. Hơn nữa, hai người trong họ đã được biến đổi thành một điều gì đó tuyệt diệu. Lê-vi được biến đổi thành thầy tế lễ, và Giu-đa được biến đổi thành vua. Những tội nhân đã trở thành các thầy tế lễ và các vua. Điều này được hoàn thành bởi sự cứu rỗi của Vua.

Sự cứu rỗi này được phân phát đến thế giới Ngoại Bang bởi Sa-bu-lôn, con thứ năm của Gia-cốp. Sau khi Phúc Âm được xuất cảng bởi Sa-bu-lôn, Y-sa-ca xuất hiện như một sự yên nghỉ, sự yên nghỉ trong Phúc Âm được hoàn thành bởi Giu-đa và được rao giảng bởi Sa-bu-lôn. Người được cứu yên nghỉ trong sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.Sau Y-sa-ca có Đan, và với ông, có hình thức của sự bội đạo. Dầu Đan lệch khỏi con đường của Đức Chúa Trời, nhưng Gát đã xuất hiện để khôi phục tình trạng đó. Vì thế, với Đan, chúng ta có sự bội đạo, và với Gát, chúng ta có sự khôi phục. Sự khôi phục với Gát dẫn đến sự sung túc về các sự giàu có của Christ được A-se làm biểu tượng. Nép-ta-li, người theo sau A-se, tượng trưng cho sự phục sinh mà trong đó là sự giàu có của Christ.

Sau mười người con đầu, chúng ta đến với Giô-sép và Bên-gia-min, hai người con cuối. Nếu đọc cẩn thận phần ký thuật về hai người con này, anh em sẽ thấy không có bất cứ lời nào nói về sự bất toàn hay thất bại trong họ. Dầu có phần ký thuật dài về Giô-sép trong Kinh Thánh, nhưng không một hàm ý nào cho thấy rằng ông đã sai phạm hay đã thất bại trong bất cứ điều gì. Giô-sép là người hoàn hảo. Dầu chúng ta không thể nói Bên-gia-min là hoàn hảo, nhưng không có lời nào ghi về sự bất toàn trong đời sống ông.Giô-sép được gọi là chồi (con trai) của cây sai quả, và Bên-gia-min, con trai của tayhữu. Việc Giô-sép kết quả nhiều, và Bên-gia-min ở bên hữu Đức Chúa Trời là điều rất có ý nghĩa. Cả hai đều ở trong sự phục sinh. Hai đặc điểm này có thể dễ dàng áp dụng cho Chúa Jesus Christ. Christ là Chồi duy nhất của cây sai quả, và Ngài cũng là Con Một ở bên hữu Đức Chúa Trời. Do đó, cả Giô-sép lẫn Bên-gia-min là hình bóng về Christ. Giô-sép là hình bóng về Christ dẫn đến phước hạnh không giới hạn, vô tận, hoàn vũ, của Đức Chúa Trời. Đấng Christ hoàn hảo này được tiêu biểu bởi Giô-sép đã dẫn đến phước hạnh vô hạn của Đức Chúa Trời. Bên-gia-min là hình bóng về Christ là Đấng đem nơi cư ngụ đời đời của Đức Chúa Trời đến.

Sáng Thế Ký 49:22-26 và Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:13-16 cho thấy phước hạnh ban cho Giô-sép mang tính hoàn vũ và đời đời. Đó là từ các núi cổ cho đến các đồi đời đời. Điều này ngụ ý đến không gian và thời gian. Phước hạnh mà Christ đem đến đầy dẫy mọi phần của vũ trụ. Khi Trời Mới Đất Mới hiện đến, sẽ không có điều gì khác ngoài phước hạnh trong cả vũ trụ. Sẽ có phước hạnh gia trên phước hạnh. Đây là đời sống của Giô-sép, đời sống dẫn đến phước hạnh.

Phần ký thuật về Bên-gia-min trong Sáng Thế Ký chương 49 và Phục Truyền Luật Lệ Ký chương 33 thì rất ngắn. Nhưng phần ký thuật ngắn ngủi này cho chúng ta một bức tranh rõ ràng về đời sống của Bên-gia-min. Đời sống ông dẫn đến nơi ở của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, nơi ở này trở thành nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời. Trong phần ký thuật về Giô-sép và Bên-gia-min, chúng ta thấy một hàm ý rõ ràng về khát vọng của lòng Đức Chúa Trời là gì. Trong lời nói về Giô-sép, Môi-se nói về “ý muốn tốt lành của Đấng ở trong bụi gai” (Phục. 33:16) Khi Đức Chúa Trời kêu gọi Môi-se, ông nhìn thấy một bụi gai đang cháy. Từ trong bụi gai cháy đó, Đức Chúa Trời phán với ông. Về sau, Môi-se đến chỗ nhận thức rằng Đức Chúa Trời, Đấng ở trong bụi gai, khao khát có một nơi ở trên đất. Đây là lý do Ngài kêu gọi con cái Ítx-ra-ên ra khỏi Ai-cập, dẫn họ vào đồng vắng và truyền cho họ dựng một Đền Tạm. Khi Đức Chúa Trời kêu gọi Môi-se, Ngài phán với ông từ trong bụi gai. Nhưng sau khi Đền Tạm được dựng lên, Đức Chúa Trời từ trong Đền Tạm mà phán (Lêv. 1:1). Điều này bày tỏ ý định của Đức Chúa Trời là có một nơi ở với con người trên đất.

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:12 chép: “Người chúc về Bên-gia-min rằng: Người mà Đức Giê-hô-va yêu mến,/ Sẽ được ở yên gần bên Ngài. / Hằng ngày Đức Giê-hô-va sẽ che chở người,/ lập nơi ở Ngài giữa hai vai người”. Câu này nói rằng Đức Chúa Trời sẽ ở giữa hai vai Bên-gia-min và Bên-gia-min sẽ ở trong sự an toàn gần bên Chúa. Nói cách khác, Bên-gia-min sẽ là người lân cận của Chúa. Nhiều người nghĩ rằng Giê-ru-sa-lem ở trong Giu-đa, nhưng thực ra ở trong Bên-gia-min. Dầu các vua ra từ Giu-đa, nhưng thủ đô lại ở trong Bên-gia-min. Thủ đô Giê-ru-sa-lem là nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Nói theo địa lý, nó nằm giữa hai vai của Bên-gia-min. Vì Chúa lập Nhà Ngài tại đó, và Bên-gia-min sống lân cận với Chúa, nên Bên-gia-min ở trong sự an toàn.

Khái niệm về phước hạnh và nơi ở rất rõ nét trong sự chúc phước mang tính tiên tri của Gia-cốp về mười hai con trai ông. Hai điều này dẫn đến phước hạnh hoàn vũ và nơi ở đời đời. Như chúng tôi đã chỉ ra, sự tổng kết chung cuộc của Kinh Thánh chính xác là hai điều này. Trong Sáng Thế Ký chương 3, con người là một tội nhân. Từ trong tất cả những tội nhân này, nhiều người đã được cứu. Nhiều người trong số những người đã được cứu này được biến đổi thành những thầy tế lễ và các vua. Sự cứu rỗi đã được rao giảng như Phúc Âm của Vương Quốc và những người được cứu này đến với sự yên nghỉ trong Phúc Âm này. Sau sự bội đạo và sự phục hưng, chúng ta có vấn đề về sự giàu có trong sự sống phục sinh. Do đó, tất cả những gì được đề cập trong Kinh Thánh đều được đại diện bởi lời chúc phước mang tính tiên tri của Gia-cốp

Cả trong Kinh Thánh lẫn trong lịch sử đều có nhiều Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa. Hơn nữa, nhiều người được cứu đã được biến đổi thành những thầy tế lễ và các vua. Từ trong vương quyền có sự cứu rỗi được rao giảng như sự cứu rỗi hoàng gia.Những người được cứu, như được biểu tượng bởi Y-sa-ca, yên nghỉ trong sự cứu rỗi này. Nhưng Đan, kẻ rơi vào sự bội đạo, đã xuất hiện. Sau sự bội đạo, có sự khôi phục, sự phục hồi với Gát, là điều dẫn đến sự giàu có của A-se và sự phục sinh của Nép-ta-li. Cuối cùng, Giô-sép và Bên-gia-min xuất hiện, cả hai tiêu biểu cho Christ. Đây là bố cục tổng quát của Kinh Thánh. Tuy nhiên, bố cục này phần nào mang tính giáo lý; vì thế, bây giờ chúng ta cần đến với vấn đề kinh nghiệm.

Chúng ta là những Ru-bên và Si-mê-ôn, là người đã được cứu và được biến đổi thành Lê-vi và Giu-đa. Trong nếp sống Hội Thánh ngày nay, chúng ta là những thầy tế lễ và các vua. Tuy nhiên, Đan, Hội Thánh bội đạo, xuất hiện. Nhưng sau Đan có Gát tượng trưng cho sự khôi phục, là điều dẫn đến sự sung túc của A-se. A-se ở trong Nép-ta-li, trong sự phục sinh. Toàn bộ điều này dẫn đến Giô-sép và Bên-gia-min. Vì thế, ngày nay chúng ta không phải là những Ru-bên và Si-mê-ôn, nhưng là những Lê-vi, Giu-đa, Giô-sép và Bên-gia-min. Từ lương tâm mình, tôi có thể làm chứng rằng [trước đây] tôi từng là Ru-bên và Si-mê-ôn đầy tham dục và hung dữ. Nhưng qua nhiều năm, tôi đã được biến đổi thành một Lê-vi, thầy tế lễ, và Giu-đa, vua. Hơn nữa, tôi đã được biến đổi trở nên một Giô-sép, người đầy dẫy phước hạnh, và thành Bên-gia-min, một người đã trở nên nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Còn anh em thì sao? Anh em có là Giô-sép và Bên-gia-min không?

Bây giờ, chúng ta hãy xem xét phước hạnh hoàn vũ và nơi ở đời đời cách chi tiết hơn.

I. Phước Hạnh Hoàn Vũ –Trời Mới Đất Mới

A. Mọi Sự Được Làm Nên Mới

Trong Khải Thị 21:1, Giăng thấy Trời Mới và Đất Mới, vì trời thứ nhứt và đất thứ nhứt đã qua rồi. Khải Thị 21:5 nói: “Đấng ngự trên ngai phán rằng: Này, Ta làm mới lại mọi sự”. Phước hạnh hoàn vũ có một đặc điểm đặc biệt và khác thường: muôn vật được làm nên mới. Phước hạnh của Đức Chúa Trời không tương xứng với bất cứ điều gì cũ kỹ. Nói đúng hơn, phước hạnh của Ngài tương xứng với những điều đã được đổi mới. Nếu muốn nhận phước hạnh từ Đức Chúa Trời về đời sống thuộc linh, sức khỏe, gia đình, nơi ở, thì mọi điều này phải nên mới. Chúng ta cần được đổi mới, và gia đình, nơi ở cũng cần được đổi mới. Theo Kinh Thánh, bất cứ điều gì bị xa cách Đức Chúa Trời đều là cũ; nhưng bất cứ điều gì được đem trở lại với Đức Chúa Trời thì là mới. Chẳng hạn, anh em có một người vợ mới cưới. Tuy nhiên, nếu vợ anh em xa cách Đức Chúa Trời, cô ấy là người vợ cũ dù anh em vưa mới kết hôn với cô ấy hôm nay. Nhưng nếu một người đã lập gia đình với vợ năm mươi năm và vợ anh đã trở lại với Đức Chúa Trời, cô ấy là người vợ mới.

Việc một người hay một điều nào đó là mới hay cũ tùy thuộc vào mối quan hệ của người đó, điều đó, với Đức Chúa Trời. Chỉ có Đức Chúa Trời là mới. Trong Kinh Thánh, không có một ẩn ý nào cho thấy Đức Chúa Trời của chúng ta cần phải được đổi mới. Chúng ta là những người cần sự đổi mới. Trời, đất, cùng mọi sự trong đó cần được đổi mới, nhưng Đức Chúa Trời thì luôn tươi mới và mới mẻ. Ngài là Đấng Thượng Cổ, nhưng Ngài là Đấng mới nhất, Đấng tươi mới nhất. Cách nhận thức của chúng ta về sự cũ kỹ thì khác với cách của Đức Chúa Trời. Cách của chúng ta là tính theo tuổi. Nhưng cách của Đức Chúa Trời là căn cứ trên mối quan hệ của ai đó hay điều gì đó với Ngài. Nếu một người vợ gần gũi với Đức Chúa Trời, cô ấy là mới. Nếu gần với Đức Chúa Trời hơn, cô ấy trở nên mới hơn. Và nếu là một với Đức Chúa Trời, được hòa lẫn với Ngài, cô ấy là người vợ mới nhất. Điều này nghe có vẻ kỳ lạ, ngay cả bàn viết, bàn ăn hay cái ghế, nếu được dâng cho Chúa, chúng có thể trở nên mới. Chẳng hạn, một chị em có thể nói: “Chúa ôi, sáng nay con dâng cho Ngài nhà bếp của con và mọi dụng cụ, đồ dùng và thiết bị trong đó”. Nếu làm như vậy, nhà bếp của chị và mọi thứ trong đó sẽ trở nên mới. Có thể anh em có một ngôi nhà mới toanh. Nhưng nếu ngôi nhà này xa cách Đức Chúa Trời, nó sẽ trở thành một ngôi nhà cũ kỹ. Có thể anh em có một chiếc xe cũ, xấu; nhưng nếu nói: “Chúa ôi, đây là chiếc xe của Ngài; xin lái nó với con”, thì lập tức xe của anh em trở thành mới. Trái lại, có thể anh em có một chiếc xe mới mà lại chở hai ngôi sao điện ảnh trong đó, thì xe của anh em trở nên rất cũ kỹ.

Trời Mới và Đất Mới sẽ đầy dẫy phước hạnh của Đức Chúa Trời vì trời thứ nhứt và đất thứ nhứt đã qua rồi. Cách đây nhiều năm, tôi nghĩ rằng Trời Mới và Đất Mới thì tuyệt đối mới. Về sau, tôi học được rằng Trời Mới và Đất Mới sẽ là trời cũ và đất cũ được làm cho mới lại. Điều này tương tự với chúng ta. Khi được tái sinh, chúng ta đã được đổi mới. Được đổi mới có nghĩa là trở lại với Đức Chúa Trời và có điều gì đó của Đức Chúa Trời được đặt vào bên trong chúng ta. Trời thứ nhứt và đất thứ nhứt trở thành cũ vì chúng bị xa cách Đức Chúa Trời bởi Sa-tan, một thiên sứ trưởng, và sau đó bởi A-đam là đầu của nhân loại, cả hai đã phản loạn chống lại Đức Chúa Trời. Vì các thiên sứ và nhân loại đã xa cách Đức Chúa Trời nên cả trời và đất trở thành cũ kỹ. Ngợi khen Chúa vì trong Christ, chúng ta đã trở lại với Đức Chúa Trời và đã nhận điều gì đó của Đức Chúa Trời vào trong! Vì thế, chúng ta được đổi mới.

Tất cả chúng ta đều mong đợi nhận được phước hạnh nào đó từ Đức Chúa Trời. Bí quyết để nhận phước hạnh của Đức Chúa Trời là đem mọi sự đến với Đức Chúa Trời và để cho Ngài vào trong mọi sự đó. Ví dụ, hãy dâng nhà bếp của anh em cho Đức Chúa Trời và để Ngài bước vào. Hãy làm như vậy với con cái, thậm chí với tài khoản ngân hàng của anh em. Nếu dâng con cái và tài khoản ngân hàng của anh em cho Đức Chúa Trời, sẽ có phước hạnh. Dầu thực ra chưa ở trong Trời Mới Đất Mới ngày nay, nhưng chúng ta có thể nếm được tiền vị này. Nhiều lần tôi có nhận thức rằng tôi đã nếm tiền vị của Trời Mới Đất Mới vì phước hạnh bao quanh tôi. Mọi sự quanh tôi đều là phước hạnh.

B. Không Còn Biển Nữa

Khi Trời Mới Đất Mới xuất hiện, sẽ không còn biển nữa (Khải. 21:1). Biển là nguồn của các quỉ, nơi ngăn nhiều điều cách xa Đức Chúa Trời. Do sự phản loạn của Sa-tan, Đức Chúa Trời đã liên tục hành động để loại trừ biển. Trong Sáng Thế Ký chương 1, Đức Chúa Trời đã giới hạn nước biển. Trải qua nhiều thế kỷ, Đức Chúa Trời đã thực hiện nhiều điều để giảm thiểu biển. Mỗi khi một tội nhân được cứu, biển bị giới hạn thêm một chút. Nếu hôm nay một trăm tội nhân được cứu, biển sẽ bị giới hạn lại nhiều hơn. Cuối cùng, trong Trời Mới Đất Mới, biển sẽ bị giảm thiểu đến chỗ không còn nữa. Nguồn của những điều đã ngăn giữ trời và đất cách xa Đức Chúa Trời sẽ không còn nữa.

C. Không Còn Nước Mắt, Sự Chết, Buồn Rầu, 
Kêu Khóc Và Đau Đớn Nữa

Khải Thị 21:4 chép: “Ngài sẽ lau ráo mọi giọt lệ khỏi mắt họ, sự chết không còn nữa, cũng chẳng có buồn rầu, hoặc kêu khóc, hoặc đau đớn nữa; vì những sự đầu tiên đã qua rồi”. Khi biển không còn, cũng sẽ không còn nước mắt. Nước mắt ra từ biển. Sau khi biển đã khô đi, chúng ta không thể nào rơi lệ.

Hơn nữa, sẽ không có sự chết bao gồm bệnh tật và yếu đuối. Theo 1Cô-rin-tô chương 11, trước hết chúng ta có sự yếu đuối, kế đến bệnh tật, và cuối cùng là sự chết. Nói rằng sẽ không sự còn chết nữa cũng có nghĩa là sẽ không còn sự yếu đuối và bệnh tật nữa. Biển là nguồn của sự chết, yếu đuối và bệnh tật. Khi biển đã bị loại trừ, sẽ không còn nước mắt, không còn sự chết, không còn yếu đuối và không còn bệnh tật nữa. Hơn nữa, sẽ không còn buồn rầu, kêu khóc hay đau đớn nữa. Dầu có thể đã đọc Kinh Thánh trong nhiều năm, có lẽ anh em chưa bao giờ nhận thức rằng nguồn của buồn rầu, kêu khóc và đau đớn là biển. Nói cách thuộc linh, biển gây ra tất cả những điều này. Khi biển không còn nữa, những điều này cũng sẽ không còn.

D. Không Còn Sự Rủa Sả

Khải Thị 22:3 chép: “Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa”. Ngày nay trên đất, sự rủa sả hầu như ở khắp mọi nơi. Nhưng ngày hầu đến là khi không còn sự rủa sả nữa, vì nguồn của sự rủa sả –biển– sẽ bị khô cạn.

E. Không Còn Đêm Nữa

Khải Thị 22:5 chép: “Đêm không còn có nữa”. Nói rằng đêm không còn nữa nghĩa là không còn sự tối tăm nữa. Dưới phước hạnh hoàn vũ của Đức Chúa Trời, mọi sự sẽ rực rỡ và trong như pha-lê. Sẽ không có sự tối tăm, không có sự mờ đục. Đây là tình trạng của Trời Mới Đất Mới.

Chúng ta cần áp dụng tất cả các phương diện của phước hạnh hoàn vũ này cho chính mình. Trong đời sống anh em, có còn biển không? Có còn nước mắt, sự chết, yếu đuối và bệnh tật không? Có buồn rầu, kêu khóc, đau đớn, rủa sả và bóng tối không? Nếu những điều này có trong đời sống anh em, điều đó cho thấy rằng anh em đang thiếu phước hạnh. Khi đạt đến đời sống của Giô-sép, chúng ta sẽ thấy trong đời sống ông không có bóng tối, không có sự mờ đục hay rủa sả. Ngay cả việc bị giam trong ngục cũng không phải sự rủa sả mà là phước hạnh. Dầu bị các anh bắt bớ nhưng kết quả của sự bắt bớ đó là phước hạnh.

Ngày nay, chúng ta có thể nếm tiền vị của Trời Mới Đất Mới, trong đó không có sự rủa sả, chỉ toàn là phước hạnh. Nếu vẫn còn cãi nhau với vợ hay chồng, chúng ta đang ở dưới biển, sự chết, yếu đuối, bệnh tật và bóng tối. Chúng ta đang ở trong đêm dày không ánh sáng. Nhưng giả sử trong đời sống hôn nhân của chúng ta không có sự cãi nhau cũng không có phàn nàn, nhưng có nhiều lời ngợi khen Chúa, điều này cho thấy biển trong đời sống hôn nhân của chúng ta đã khô cạn.

Có đặc điểm của Giô-sép rất nổi bật. Dầu chịu khổ rất nhiều, nhưng ông không bao giờ than phiền. Khi tỏ mình ra trước anh em, dường như ông nói: “Không phải các anh đưa tôi đến đây, mà chính là Đức Chúa Trời. Tôi không oán trách các anh, tôi ngợi khen Đức Chúa Trời”. Với Giô-sép, không có sự phàn nàn, mà chỉ có ngợi khen, vì ông ở dưới phước hạnh, không ở dưới sự rủa sả. Nếu than phiền, đó là dấu hiệu cho thấy anh em còn ở dưới sự rủa sả. Anh em có thể có nhiều lý do để than phiền, nhưng mỗi lý do là một sự rủa sả. Nếu là người ở dưới phước hạnh của Đức Chúa Trời, sẽ không có sự than phiền. Thay vì than phiền, anh em sẽ nói: “Ngợi khen Chúa! Mọi sự hiệp lại làm ích cho tôi!”

Đọc Kinh Thánh cách khách quan, giáo lý thì dễ. Nhưng chúng ta cần thấy rằng những điều được chép trong Kinh Thánh là lời dành cho chúng ta ngay hôm nay. Đừng đợi đến Trời Mới Đất Mới. Ngày nay, chúng ta có thể sống trong tiền vị của môi trường Trời Mới Đất Mới. Chúng ta có thể sống mà không phàn nàn, đổ lỗi, rủa sả hay tối tăm. Chúng ta có thể có một đời sống đầy dẫy phước hạnh. Mọi giọt lệ của chúng ta có thể là những giọt lệ vui mừng, không phải giọt lệ đau buồn. Đây là bức tranh thu nhỏ của phước hạnh hoàn vũ mà ngày nay chúng ta có thể vui hưởng.

Từ “hoàn vũ” có nghĩa là phước hạnh ở khắp mọi nơi. Điều đó không có nghĩa là tôi được phước khi vợ đối xử tốt với tôi và tôi bị rủa sả khi vợ không tốt với tôi. Một điều gì đó có là phước hạnh hay không thì không tùy thuộc nơi vợ anh em, mà tùy thuộc nơi anh em. Nếu anh em phàn nàn, thì cách cư xử của vợ sẽ là một sự rủa sả. Nếu anh em ngợi khen Chúa, điều đó sẽ là phước hạnh.

Tôi xin cho anh em một bí quyết: Sự ngợi khen của chúng ta biến điều rủa sả thành phước hạnh. Đây là lý do Tân Ước bảo chúng ta hãy cảm tạ Chúa trong mọi sự (Êph. 5:20). Điều này bao gồm những tin đồn, sự bắt bớ, sự phỉ báng, chống đối và kết tội. Chúng ta cần ngợi khen Chúa trong mọi sự. Khi chúng ta ngợi khen Ngài trong mọi sự thì ngay cả những điều khó chịu cũng trở thành những điều ích lợi. Khi chúng ta cảm tạ Chúa về sự chống đối, điều đó trở thành một phước hạnh. Đây là bí quyết vui hưởng phước hạnh hoàn vũ ngay hôm nay. Dầu đang sống trong thời đại tối tăm, nhưng chúng ta có thể nếm tiền vị trong Trời Mới Đất Mới. Tất cả tùy thuộc vào sự nhận thức và thực hành của chúng ta. Nếu thực hành ngợi khen thay vì đổ lỗi, chúng ta sẽ ở dưới phước hạnh. Bằng không, chúng ta sẽ ở dưới sự rủa sả. Ha-lê-lu-gia! Trong Hội Thánh, chúng ta đang ở trong mô hình thu nhỏ của Trời Mới Đất Mới! Mọi sự ở đây đều là phước hạnh.

II. Nơi Ở Đời Đời –Giê-Ru-Sa-Lem Mới 

A. Nhà Trại Của Đức Chúa Trời Ơ Với Con Người

Bây giờ, chúng ta tiếp tục xem xét nơi ở đời đời. Khải Thị 21:3 chép: “Tôi nghe một tiếng lớn ra từ ngai nói rằng: Kìa, Nhà Trại của Đức Chúa Trời ở giữa loài người, Ngài sẽ đóng trại giữa họ, và họ sẽ làm dân Ngài, chính Đức Chúa Trời sẽ ở với họ”. Theo Tân Ước, dân của Đức Chúa Trời là nơi cư ngụ của Ngài. Một số Cơ-đốc nhân nghĩ rằng nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời ở giữa chúng ta không theo cách bề trong nhưng theo cách bên ngoài. Nếu có một ngàn thánh đồ và Đức Chúa Trời ở giữa họ, họ sẽ xem Đức Chúa Trời là số một ngàn lẻ một. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời ở bên trong chúng ta, và nơi cư ngụ của Ngài ở giữa chúng ta theo cách bề trong. Nếu một ngàn thánh đồ nhóm lại và Đức Chúa Trời ở giữa họ, thì Ngài không phải là số một ngàn lẻ một; đúng ra, Ngài đang ở trong một ngàn thánh đồ.

Một số Cơ-đốc nhân không tin vấn đề về sự hòa lẫn của Đức Chúa Trời với con người. Tuy nhiên, Kinh Thánh đầy dẫy tư tưởng Đức Chúa Trời được hòa lẫn với dân Ngài, vì dân Đức Chúa Trời trở nên nơi cư ngụ của Ngài. Nơi ở của Đức Chúa Trời vừa nhỏ lại vừa lớn. Khi nhóm với nhau, tất cả chúng ta là một nơi ở tập thể. Tuy nhiên, nếu tôi ở nhà thì bản thân tôi là nơi ở của Đức Chúa Trời. Nếu tôi cùng đến với người khác và khăng khăng rằng chính tôi là nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời và tất cả những người còn lại là những nơi cư ngụ riêng lẻ của Ngài, thì thật sai lầm. Khi nhóm với nhau, chúng ta không phải là nhiều nơi ở; chúng ta là một nơi ở của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, khi ở nhà một mình, mỗi chúng ta là một nơi ở của Đức Chúa Trời. Vào lúc đó, Đức Chúa Trời có nhiều nơi ở. Khi ở một mình, tôi có thể nói: “Chúa ôi, bây giờ Ngài có một ngôi nhà. Con là ngôi nhà, nơi ở của Ngài”. Nhưng khi đến với buổi nhóm của Hội Thánh, tôi không nên đến như một ngôi nhà cá thể của Chúa, tách rời khỏi người khác. Nếu làm vậy trong buổi nhóm, tôi sẽ không còn là nơi ở của Đức Chúa Trời nữa. Khi ở một mình, tôi có cảm nhận tôi là nơi ở của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời ở cùng tôi. Nhưng nếu cứ nắm giữ quan niệm này trong buổi nhóm Hội Thánh, tôi sẽ cảm nhận rằng tôi không còn là Nhà của Đức Chúa Trời nữa. Khi nhóm với nhau, chúng ta chỉ là một ngôi nhà, một nơi ở của Đức Chúa Trời. Đây là vấn đề thuộc kinh nghiệm, không phải vấn đề thuộc giáo lý.

Khi Đức Chúa Trời ở trong chúng ta, chúng ta vui hưởng Ngài là Người Láng Giềng. Đức Chúa Trời là Người Lân Cận tốt nhất. Vì thế, chúng ta không bao giờ cô đơn vì Ngài hằng ở với chúng ta. Vì Đức Chúa Trời ở bên chúng ta, chúng ta có sự an toàn. Ngày nay, mọi người, đặc biệt là trẻ em, đều muốn sự an toàn. Khi các cháu tôi ở với bà của chúng, chúng cảm thấy an toàn. Nhưng trước sự có mặt của người lạ, chúng cảm thấy bất an. Khi Đức Chúa Trời, Người Lân Cận tốt nhất, ở với chúng ta, chúng ta được an toàn.

B. Được Cấu Thành Bởi 
Những Người Được Chuộc Của Đức Chúa Trời

Nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời bao gồm những người được chuộc của Ngài, cả những người thuộc Cựu Ước được đại diện bởi tên của mười hai chi phái Ítx-ra-ên và những người thuộc Tân Ước được đại diện bởi tên của mười hai sứ đồ của Chiên Con. Trong sự cứu chuộc của Ngài, Đức Chúa Trời cư ngụ bên trong và ở trong dân Ngài. Vì thế, chúng ta sẽ là nơi ở đời đời của Ngài.

C. Đức Chúa Trời Và Chiên Con Là Đền Thờ 

Đừng chú ý đến sự dạy dỗ lầm lạc, nói rằng không có sự hòa lẫn giữa Đức Chúa Trời với con người, và chúng ta không có bản chất thần thượng bên trong. Những gì Đức Chúa Trời ban cho và truyền vào trong chúng ta còn lớn hơn điều này nhiều. Cuối cùng, chúng ta trở thành nhà của Đức Chúa Trời, nơi ở của Ngài, và Đức Chúa Trời cùng Chiên Con trở nên Đền Thờ (Khải. 21:22). Giê-ru-sa-lem Mới sẽ là Nhà Trại của Đức Chúa Trời, nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời, bao gồm: một mặt là tất cả những người được chuộc, và mặt khác, Đức Chúa Trời và Chiên Con. Trong nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời sẽ không có Đền Thờ nào vì Đức Chúa Trời và Chiên Con sẽ là Đền Thờ. Trong Cựu Ước, Đền Thờ không những là nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời mà còn là nơi các thầy tế lễ phụng sự Đức Chúa Trời. Là dân được chuộc của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ cư ngụ trong Đức Chúa Trời đời đời. Chúng ta sẽ là nơi ở của Ngài (Giăng 14:23), và Ngài sẽ là nơi ở của chúng ta (Thi. 90:1). Vì vậy, sẽ có một nơi ở hỗ tương. Đức Chúa Trời sẽ ở trong chúng ta và chúng ta sẽ ở trong Ngài. Ngài sẽ trở nên sự vui hưởng của chúng ta và chúng ta sẽ trở thành sự vui hưởng của Ngài. Nhìn thấy mặt Chúa là niềm vui thỏa của chúng ta và nhìn thấy mặt chúng ta là niềm vui của Ngài.

D. Đức Chúa Trời Là Sự Sáng 
Và Chiên Con Là Đèn 

Trong nơi ở đời đời này, Đức Chúa Trời bên trong sẽ là sự sáng của chúng ta và Christ sẽ là đèn của chúng ta để biểu lộ chính Đức Chúa Trời là Đấng ở bên trong chúng ta (Khải. 21:11,23; 22:5).

E. Ngai Của Đức Chúa Trời Là Nguồn Cung Ưng

Khải Thị chương 22 nói rằng chúng ta có thể vui hưởng ngai của Đức Chúa Trời. Khi Ngài ngự trong chúng ta, ngai Ngài ở với chúng ta, ngay bên trong chúng ta. Do đó, chúng ta có ngai, uy quyền của Đức Chúa Trời, là Nguồn Cung Ứng.

F. Sông Nước Sự Sống 
Với Cây Sự Sống Là Sự Cung Ứng

Từ ngai Đức Chúa Trời tuôn tràn Sông Nước Sự Sống với Cây Sự Sống là sự cung ứng (Khải. 22:1-2). Nếu có Đức Chúa Trời ở bên trong, chúng ta có sự cung ứng sự sống.

G. Uy Quyền, Vẻ Mặt Và Danh

Của Đức Chúa Trời Là Sự Vui Hưởng Chính Yếu

Trong Giê-ru-sa-lem Mới, chúng ta sẽ tham dự vào uy quyền của Ngài và vui hưởng mặt Ngài và danh Ngài (Khải. 22:3-4). Chúng ta sẽ thấy mặt Ngài luôn luôn và danh Ngài sẽ ở trên trán chúng ta mãi mãi. Đây sẽ là sự vui hưởng chính yếu trong Giê-ru-sa-lem Mới.

Đây là những phương diện khác nhau về nơi ở của Đức Chúa Trời trong chúng ta. Chúng ta không cần chờ đến Giê-ru-sa-lem Mới để kinh nghiệm. Ngay hôm nay, chúng ta có thể kinh nghiệm tất cả những điều này. Tuy nhiên, khi bước vào Giê-ru-sa-lem Mới, chúng ta sẽ khám phá một điều gì đó mới. Chúng ta có thể nói: “Ô, chúng tôi chưa hề kinh nghiệm những điều này theo cách như vậy. Bây giờ, chúng tôi đang khám phá điều gì đó mà chúng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng chúng tôi có thể kinh nghiệm được”.

Vào cuối chương 49, không còn tội nhân nữa, không còn Ru-bên và Si-mê-ôn nữa. Thay vào đó, có Giô-sép, ngụ ý rằng Đức Chúa Trời đã trở nên phước hạnh của chúng ta; và Bên-gia-min, ngụ ý rằng chúng ta đã trở thành nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Vì là nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời, nên Bên-gia-min đã vui hưởng sự hiện diện của Ngài. Bên-gia-min vui hưởng sự an toàn còn Đức Chúa Trời vui hưởng Bên-gia-min là nơi ở của Ngài. Đức Chúa Trời đã trở nên phước hạnh của chúng ta, và chúng ta đã trở thành nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Bất cứ điều gì Đức Chúa Trời là, có và có thể làm, đều trở thành sự vui hưởng và phước hạnh của chúng ta; và bất cứ điều gì chúng ta là, có, đều đã trở thành nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, Đức Chúa Trời và chúng ta, chúng ta và Đức Chúa Trời, trở nên một. Trong Trời Mới Đất Mới với Giê-ru-sa-lem Mới, không còn tội nhân, không còn biển, sự chết, sự yếu đuối, bệnh tật, nước mắt, buồn rầu, đau đớn hay ban đêm nữa. Mọi sự là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là phước hạnh cho chúng ta và chúng ta là nơi cư ngụ của Ngài. Chúng ta vui hưởng Ngài và Ngài vui hưởng chúng ta. Đây là sự tổng kết chung cuộc của lời chúc phước mang tính tiên tri của Gia-cốp trên mười hai con trai ông. Ngày nay, chúng ta là mười hai người con này đang vui hưởng Đức Chúa Trời đến tột đỉnh và trở thành nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Do đó, chúng ta có thể vui hưởng Đức Chúa Trời và Ngài có thể ở trong chúng ta để vui hưởng tất cả những gì chúng ta là đối với Ngài.

Bài Một Trăm LẺ Chín

Được Trưởng Thành
Biểu Lộ Sự Trưởng Thành
(7)

h) Qua Đời Cách Tuyệt Diệu 

Trong sứ điệp này, chúng ta đến với sự qua đời của Gia-cốp, là điều chúng ta sẽ xem xét trong vài chi tiết.

Sáng Thế Ký là một Sách dài, gồm năm mươi chương. Phần ký thuật về đời sống Gia-cốp chiếm hơn phân nửa sách, khoảng 25 chương rưỡi. Trong các sứ điệp vừa qua, chúng ta đã thấy Gia-cốp được sinh ra, được Đức Chúa Trời tuyển chọn trước khi ra đời, và tranh đấu ngay khi còn trong bụng mẹ là như thế nào. Ông đã liên tục tranh đấu trải suốt phần lớn đời sống mình. Gia-cốp thọ 147 tuổi. Trong Sáng Thế Ký chương 49 chúng ta đọc về sự qua đời của Gia-cốp. Phẩm chất và kết quả của đời sống một người được quyết định chủ yếu bởi giai đoạn cuối chứ không bởi giai đoạn đầu. Điều này có thể được so sánh với những người đang chạy đua. Chạy nhanh lúc bắt đầu cuộc đua thì không có ý nghĩa nhiều. Kết quả sau cùng mới đáng kể. Trong bài này, chúng ta đến giai đoạn cuối trong đời sống của con người kỳ diệu này, Gia-cốp. Chúng ta cần thấy ông đã cư xử với chính mình như thế nào vào lúc sắp qua đời.

Trong Kinh Thánh, ngoài Chúa Jesus, thì sự qua đời tốt đẹp nhất là của sứ đồ Phao-lô. Khi sắp qua đời, Phao-lô đã công bố: “Ta đã đánh trận tốt đẹp, ta đã chạy xong cuộc đua, ta đã giữ được đức tin. Từ rày về sau, mão miện công nghĩa đã để dành cho ta, Chúa là Quan Án công nghĩa sẽ ban mão ấy cho ta trong ngày đó…” (2Tim. 4:7-8).Đây là sự qua đời tuyệt diệu! Tôi hi vọng tất cả chúng ta sẽ tuyên bố như vậy vào cuối cuộc đua. Dầu sự qua đời của sứ đồ Phao-lô là tuyệt diệu nhứt, nhưng tôi vẫn thích sự qua đời của Gia-cốp, vì sự qua đời của ông thật dễ chịu và thoải mái. Sự qua đời của Phao-lô thì đơn giản. Ông không vợ, không con. Vào lúc qua đời, ông chỉ có một mình trong tù, không có nhiều điều phức tạp. Tuy nhiên, với Gia-cốp, có rất nhiều điều liên quan.

Do sự sắp đặt của Đức Chúa Trời và do nỗ lực riêng của ông, Gia-cốp đã vướng mắc đến nhiều vấn đề và nhiều con người. Chẳng hạn, Gia-cốp có bốn người vợ: Lê-a, Ra-chên và hai nàng hầu. Dầu lòng ông đặt nơi Ra-chên, nhưng bị La-ban lừa [bằng cách] giao Lê-a thay vì Ra-chên. Tất nhiên, Ra-chên [sau đó] cũng được giao cho ông.Thực ra, ai là vợ chính của Gia-cốp: Ra-chên hay Lê-a? Theo sự ghi lại của Sáng Thế Ký, Gia-cốp đã đối xử với cả Lê-a lẫn Ra-chên như người vợ chính của mình. Ông đã chôn Lê-a trong hang đá Mặc-bê-la là nơi đã chôn Áp-ra-ham và Sa-ra, Y-sác và Rê-bê-ca. Bởi việc chôn Lê-a trong hang đá Mặc-bê-la, nơi chôn cất những người vợ chính thức của các tổ phụ, Gia-cốp cho thấy rằng ông đã công nhận Lê-a là vợ thật. Tuy nhiên, sau đó, khi sắp qua đời, ông đã có một sự sắp đặt tuyệt hảo cho Ra-chên. Bởi làm điều này, ông cũng đang nói với hậu tự mình rằng ông cũng xem Ra-chên là vợ thật. Đời sống Gia-cốp rối rắm đến nỗi khó mà quyết định ai thật sự là vợ của ông.

Bốn người vợ của Gia-cốp đã sanh cho ông mười hai con trai mà mỗi người thuộc một dạng nào đó của chính ông. Nếu không có nhiều dạng như thế trong các con của Gia-cốp, thì chắc hẳn không thể có lịch sử của Ítx-ra-ên, lịch sử Hội Thánh và ngay cả lịch sử cá nhân chúng ta mà họ đã đại diện. Trong lời chúc phước mang tính tiên tri được công bố trên mười hai con trai của Gia-cốp trong chương 49, chúng ta thấy sự tượng trưng cho lịch sử Ítx-ra-ên, lịch sử Hội Thánh và lịch sử của cá nhân chúng ta.Để có một bức tranh bao-hàm-tất-cả như thế, cần có nhiều mối liên hệ phức tạp. Trải qua cả đời sống, Gia-cốp không những chỉ vướng mắc đến vợ, con mà cũng trải qua các vùng địa lý khác nhau. Ông được sanh ra trong miền đất tốt lành, nhưng đã đến Pha-đan A-ram, rồi sau đó, trở về miền đất tốt lành. Trong những năm dưỡng già, ông cùng với gia đình đi xuống Ai-cập. Mỗi cuộc hành trình đó đã tạo ra nhiều mối liên hệ hơn. Thậm chí Gia-cốp cũng có liên quan đến Pha-ra-ôn, người có quyền lực nhất trên đất vào thời đó. Gia-cốp dính díu hết điều này đến điều khác, kể cả đến người A-ram và người Ai-cập. Mối quan hệ này cũng được thấy trong việc chôn cất ông trong miền đất tốt lành. Dân Ca-na-an nghĩ rằng đó là đám tang của một người Ai-cập, trong khi thực tế đó là đám tang của một người Hê-bơ-rơ. Một đoàn lính kỵ và xe ngựa của người Ai-cập tham dự đám tang của một người thượng lưu Hê-bơ-rơ. Ngoài tất cả điều này, Gia-cốp còn dính dáng đến Đức Chúa Trời. Gia-cốp có quá nhiều dây mơ rể má! Nếu đặt tất cả các phân đoạn Lời nói về những mối quan hệ của Gia-cốp lại với nhau, chúng ta sẽ vui mừng trước mặt Chúa và nói: “Ngợi khen Chúa! Ha-lê-lu-gia! vì Lời phong phú của Chúa!”

Dầu Gia-cốp có quá nhiều điều vướng bận như vậy, nhưng ông đã qua đời cách tuyệt diệu. Sự qua đời của ông không chỉ đắc thắng mà còn nhẹ nhàng và tuyệt diệu.Không ai muốn đối diện với sự chết. Một người qua đời luôn là điều đau buồn. Tuy nhiên, tôi thích phần ký thuật về sự qua đời của Gia-cốp. Trong phần ký thuật này, chúng ta không có một bức tranh u sầu nhưng là một bức tranh rất vui thỏa, dễ chịu.Sau khi đọc bài này, tôi tin nhiều người sẽ được thuyết phục rằng, trong những phương diện nào đó, sự qua đời của Gia-cốp cảm đông hơn là của sứ đồ Phao-lô. Hơn ba chương được dùng để thuật lại sự qua đời của Gia-cốp, nhưng chỉ vài câu dành cho sự qua đời của Phao-lô. Bây giờ, chúng ta hãy xem chi tiết về sự qua đời của Gia-cốp, từng điều một.

(1) Xin Giô-sép Để Tay Dưới Đùi Mình

Sáng Thế Ký 47:29 nói: “Khi ngày gần chết, Ítx-ra-ên gọi Giô-sép, con trai mình, mà nói rằng: Nếu cha được ơn trước mặt con, xin hãy để tay dưới đùi cha”. Việc để tayGiô-sép dưới đùi Gia-cốp đã tạo nan đề cho nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh. Gia-cốp không nói với Giô-sép rằng: “Hãy cố gắng tìm một thầy thuốc chữa bệnh cho cha”. Trái lại, ông đã xin con để tay dưới đùi mình. Ý nghĩa của điều này là gì? Rõ ràng, điều đó có nghĩa là thề nguyện. Nhưng tại sao Gia-cốp không bảo Giô-sép giơ tay thề nếu ý nghĩa của hành động này chỉ là để thề? Thay vì suy đoán, chúng ta nên hiểu Kinh Thánh theo những sự kiện hàm chứa trong đó. Dưới sự dẫn dắt của Thánh Linh, chúng ta có thể lần theo những gì đã xảy ra cho đùi của Gia-cốp trong suốt cuộc đời ông. Vào ngày thứ tám sau khi được sanh ra, Gia-cốp đã chịu cắt bì ở một phần thân thể gần đùi.Và rồi sau khi Gia-cốp liên tục tranh đấu trong hơn chín mươi lăm năm, Đức Chúa Trời đã đến đánh vào đùi ông. Vì thế, Gia-cốp đã kinh nghiệm sự cắt bì và sự đụng chạm thần thượng. Trước hết, một điều gì đó đã bị cắt bỏ ở chỗ rất gần đùi. Đó là sự cắt bì.Nhiều năm sau, Gia-cốp kinh nghiệm sự đụng chạm thần thượng khiến ông đi khập khiễng. Nếu nhìn sâu xa vào ý nghĩa của hai điều này, anh em sẽ thấy cả hai có cùng một ý nghĩa. Chịu cắt bì là để cho xác thịt, sự sống thiên nhiên bị cắt bỏ. Gia-cốp đã được chọn để thừa hưởng giao ước của Đức Chúa Trời. Nhưng xác thịt ông, sự sống thiên nhiên của ông không có ích cho điều này. Trái lại, đó là một sự cản trở.

Hãy xem trường hợp của Áp-ra-ham. Giao ước của Đức Chúa Trời được lập với Áp-ra-ham trong Sáng Thế Ký chương 15. Tuy nhiên, Áp-ra-ham đã dùng sức mạnh thiên nhiên của ông với A-ga để hoàn thành lời hứa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời bị xúc phạm bởi điều này và đã ẩn mình khỏi ông trong mười ba năm. Sau mười ba năm, Đức Chúa Trời trở lại với Áp-ra-ham và dường như Ngài phán: “Áp-ra-ham, Ta là Đức Chúa Trời Toàn Túc. Ta sẽ giữ lời hứa. Vì Ta đã hứa thực hiện điều đó cho ngươi, Ta không cần ngươi dùng sức mạnh thiên nhiên để hoàn thành điều Ta đã hứa.Những gì ngươi làm với A-ga đã xúc phạm Ta rất nhiều. Vì cớ đó, Ta đã vắng mặt khỏi ngươi trong mười ba năm qua. Bây giờ Ta đến để nói với ngươi rằng trong sự hiện diện của Ta, ngươi phải cắt đứt sức mạnh thiên nhiên của ngươi”. Từ ngày đó trở đi, giao ước ân điển của Đức Chúa Trời trở thành giao ước của sự cắt bì. Giao ước của sự cắt bì có nghĩa là giao ước ân điển không thể được hoàn thành hay được thừa hưởng qua sức mạnh thiên nhiên của con người. Nếu muốn thừa thọ lời hứa ân điển của Đức Chúa Trời, sức mạnh thiên nhiên của chúng ta phải bị cắt bì. Về phía Đức Chúa Trời, giao ước này là giao ước ân điển, nhưng về phía con người, giao ước đó trở thành giao ước cắt bì. Đức Chúa Trời vẫn còn ý định ban ân điển cho con người. Tuy nhiên, để nhận được ân điển theo giao ước của Đức Chúa Trời, chúng ta phải để sức mạnh thiên nhiên bị cắt bỏ.

Sự cắt bì của Gia-cốp là một dấu hiệu cho thấy ông không có ý định sống bởi xác thịt hay sức mạnh thiên nhiên. Tuy nhiên, sau khi chịu cắt bì, Gia-cốp đã tiếp tục tranh đấu trong xác thịt. Dầu đã chịu cắt bì, ông vẫn sống như một người không cắt bì. Ông đã dùng sức mạnh để thừa hưởng lời hứa của Đức Chúa Trời nhiều biết bao! Ông đã dùng khả năng để tiếm vị và lập mưu như thể ông chưa bao giờ chịu cắt bì. Về bên ngoài, Gia-cốp đã chịu cắt bì nhưng trên thực tế thì chưa cho đến khi ông bị Đức Chúa Trời xử lý trải nhiều năm và lúc đã ở tuổi chín mươi. La-ban gần như là người vắt kiệt sức lực của Gia-cốp trong hai mươi năm. Cuối cùng, Gia-cốp buộc phải rời khỏi La-ban và trở về miền đất của cha mình. Trên đường về lại quê nhà, Đức Chúa Trời đã dấy lên các hoàn cảnh để ép ông đến với Ngài. Phía sau La-ban đang đuổi theo, phía trước Ê-sau đang chờ, vì vậy, Gia-cốp ở trong thế tiến thoái lưỡng nan, tự hỏi không biết phải làm gì. Dường như ông tự nhủ: “Ta sẽ làm gì đây? Nếu lui, sẽ gặp La-ban. Nếu tiến, sẽ gặp Ê-sau. Ta không còn chỗ trốn”. Tại Phê-ni-ên, ông cho những người vợ và con cái đi trước, một mình ở lại để thương lượng với Đức Chúa Trời. Đêm đó, Gia-cốp mạnh mẽ trong xác thịt đến nỗi ông đã vật lộn với Đức Chúa Trời. Chúa đánh vào bắp đùi ông. Đó là sự cắt bì thật của Gia-cốp. Từ đó về sau, Gia-cốp đi khập khiễng.

Khi sắp lìa đời, Gia-cốp không còn sức thậm chí để đi; ông chỉ có thể nằm trên giường. Như chúng ta đã thấy, sự cắt bì thật của Gia-cốp xảy ra khi Đức Chúa Trời đánh vào đùi ông. Bây giờ, việc ông nằm trên giường là một sự đụng chạm khác thật sự của Đức Chúa Trời. Sau lần đụng chạm thứ nhứt, Gia-cốp không còn đi bình thường nữa, còn bây giờ thậm chí ông không thể rời khỏi giường. Sức mạnh thiên nhiên của ông thực sự đã bị kết liễu. Vì thế, chúng ta có thể xem điều này là sự cắt bì thứ ba của Gia-cốp. Ở lần cắt bì thứ nhứt, hầu như ông không bị ảnh hưởng chút nào. Sau lần cắt bì thứ hai, đùi ông bị đánh và ông đi khập khiễng; tuy nhiên, ông vẫn có thể di chuyển. Nhưng bây giờ, ở lần cắt bì thứ ba, ông không còn khả năng để di chuyển nữa. Đây là thời điểm để ông tin cậy tuyệt đối vào ân điển của Đức Chúa Trời. Khi không thể làm bất cứ điều gì, khi không thể di chuyển và khi không có sức mạnh, đó là lúc để anh em tin cậy Đức Chúa Trời.

Vì Gia-cốp không còn tin cậy chính mình, ông đã xin Giô-sép để tay dưới đùi ông. Điều này cho thấy rằng Gia-cốp nhìn nhận ông không có sức mạnh để làm bất cứ gì cho chính mình. Điều duy nhất ông có thể làm là tin cậy Đức Chúa Trời. Giô-sép, con ông, người đứng đầu một nước hàng đầu trên đất, chắc chắn có thể làm điều gì đó cho ông. Bất cứ điều gì được làm cho ông sau khi ông qua đời thì chắn chắn đều do Giô-sép thực hiện. Vì thế, Gia-cốp đã yêu cầu con đặt tay dưới đùi ông, và bởi điều này, ông nhìn nhận rằng mình đã bị Đức Chúa Trời xử lý đến cực điểm. Gia-cốp đang tuyên bố trước cả vũ trụ rằng ông không còn sức mạnh để làm bất cứ điều gì cho chính mình nữa. Trái lại, ông chỉ có thể bám chặt lời hứa về ân điển của Đức Chúa Trời. Trọn đời ông, Gia-cốp đã học được một điều là không thể làm bất cứ gì cho chính mình. Tất cả những gì ông đã làm đều hư không. Do đó, ông đến chỗ tin cậy lời hứa về ân điển của Đức Chúa Trời. Với ông, lời hứa đó là lời hứa của sự cắt bì, của việc kết liễu sức mạnh thiên nhiên để thừa hưởng lời hứa của Đức Chúa Trời.

Phương diện thứ nhứt này về sự ra đi của Gia-cốp thật sống động và đẹp đẽ biết bao! Đây là một người mà bởi kinh nghiệm, đã học tập được rằng vấn đề hoàn toàn là ân điển của Đức Chúa Trời, không phải việc làm. Ông nhận thức rằng mình đã được cắt bì, đã được Đức Chúa Trời đụng chạm và không thể làm bất cứ điều gì. Tôi xin lặp lại, khi Gia-cốp được tám ngày tuổi, ông đã chịu cắt bì. Khi hơn chín mươi tuổi, ông được Đức Chúa Trời đụng đến và đi khập khiễng. Bây giờ, ở tuổi 147, ông nằm liệt giường, không thể làm điều gì. Chắc chắn rằng ông cần ân điển của Đức Chúa Trời, là điều mà lúc đó được đại diện bởi Giô-sép và tập trung nơi Giô-sép. Giô-sép là hình bóng về Đấng Christ. Sự tin cậy của Gia-cốp đặt vào ân điển của Đức Chúa Trời, là điều tập trung trong Đấng Christ. Sự tin cậy của ông không còn ở nơi đùi ông. Đùi là phần mạnh nhất của bản thể chúng ta, vì bởi sức mạnh của đùi mà chúng ta đi đứng và giữ cho cơ thể đứng vững. Đùi của Gia-cốp đã bị cắt bì và bị đánh. Vì đã bị kết liễu hoàn toàn, ông đã hoàn toàn xoay khỏi sức mạnh thiên nhiên để hướng đến ân điển của Đức Chúa Trời trong Christ. Bàn tay của Giô-sép, tượng trưng cho bàn tay ân điển Đức Chúa Trời, đã không đặt trên đùi Gia-cốp nhưng đặt dưới. Điều này cho thấy bàn tay mạnh mẽ của ân điển Đức Chúa Trời đã nâng đỡ Gia-cốp để hoàn thành giao ước về lời hứa của Đức Chúa Trời. Không phải bởi sức mạnh của Gia-cốp nhưng bởi bàn tay của Giô-sép, mà Gia-cốp được đem vào miền đất tốt lành là cơ nghiệp thực tế của ông. Không phải bởi sức lực của chúng ta, nhưng bởi ân điển của Christ mà chúng ta thừa hưởng lời hứa của Đức Chúa Trời.

(2) Xem Cái Chết Như Giấc Ngủ 

Nói theo con người, không ai muốn chết. Tuy nhiên, Gia-cốp, đã xem cái chết như giấc ngủ (47:30, Theo Bản Hê-bơ-rơ). Dầu không ai muốn chết, nhưng mọi người đều thích ngủ. Ngủ thì hết sức dễ chịu, đặc biệt khi kiệt sức. Trong 147 năm, Gia-cốp đã liên tục mang gánh nặng và có nhiều mối quan hệ. Sau khi chịu đựng rất nhiều nan đề, đã đến lúc để ông yên nghỉ, ngủ. Vì thế, ông xem cái chết như giấc ngủ. Có lẽ ông nói: “Áp-ra-ham, ông nội tôi đang yên nghỉ. Tại sao tôi vẫn còn tranh đấu và gánh nặng? Tôi cũng muốn đi ngủ”.

Bởi xem cái chết như giấc ngủ, Gia-cốp cho thấy rằng ông tin vào sự phục sinh(1Tês. 4:13-16). Ông không là người Sa-đu-sê, người theo chủ nghĩa hiện đại thời đó không tin có sự sống lại. Những người ngủ sẽ thức dậy sau khi đã nghỉ ngơi đủ. Khi thức dậy sau một giấc ngủ ngon, tôi khỏe lại. Gia-cốp đã ngủ 3. 700 năm. Khi Chúa Jesus sống trên đất, một số hậu tự của Gia-cốp, những người Pha-ri-si và Sa-đu-sê, đang tranh luận liệu Gia-cốp có thức dậy không, nghĩa là, liệu ông có được sống lại không. Những người Pha-ri-si, người theo trào lưu chính thống thời đó, tin có sự sống lại, nhưng người Sa-đu-sê thì không. Tất nhiên, Chúa Jesus tin nơi sự phục sinh. Thậm chí Ngài bảo người Sa-đu-sê rằng Đức Chúa Trời đã được gọi là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp, ngụ ý rằng Ngài không phải là Đức Chúa Trời của kẻ chết, mà là của kẻ sống (Mat. 22:32). Gia-cốp vẫn đang yên nghỉ, chờ lúc phục sinh. Có lẽ khi thấy Gia-cốp, chúng ta sẽ nói: “Chào ông buổi sáng”.

(3) Truyền Cho Giô-sép Không Chôn Ông Tại Ai-cập 
Nhưng Tại Miền Đất Tốt Lành 

Gia-cốp truyền cho Giô-sép không chôn ông tại Ai-cập, nhưng tại miền đất tốt lành(47:29-30). Dầu đã có được nhiều điều tại Ai-cập, nhưng lòng ông không để nơi đó. Lòng ông ở nơi miền đất tốt lành. Vì thế, ông truyền cho Giô-sép phải chôn ông trong miền đất tốt lành, trong hang đá Mặc-bê-la, nơi chôn các tổ phụ, để ông có thể thừa thọ miền đất. Bằng cách truyền cho Giô-sép như vậy, Gia-cốp cho thấy ông có đức tin nơi lời hứa của Đức Chúa Trời. Ông tin một ngày kia, miền đất tốt lành mà Đức Chúa Trời đã hứa sẽ là phần ban, là cơ nghiệp của dòng dõi ông. Khi sắp qua đời, ông là người đầy dẫy đức tin. Tôi hi vọng khi qua đời, chúng ta cũng sẽ là những người đầy đức tin, không phải đức tin nơi điều gì đó hư không, nhưng đức tin nơi những gì Đức Chúa Trời đã hứa trong Lời Ngài. Có nhiều lời hứa trong Kinh Thánh để chúng ta tin. Khi qua đời, chúng ta phải qua đời trong đức tin nơi lời đáng tin cậy của Đức Chúa Trời được chép trong Kinh Thánh.

Phần ký thuật về sự qua đời của Gia-cốp không đề cập đến sự đau yếu, ý muốn của ông hay cách ông phân chia tài sản cho các con. Miền đất tốt lành là cơ nghiệp của họ và lời hứa của Đức Chúa Trời là di chúc mà Gia-cốp muốn để lại cho các con. Dầu phần ghi lại về sự qua đời của Gia-cốp không nói gì về sự đau yếu hay những di sản để lại, nhưng vẫn cho một bức tranh đẹp đẽ, sống động về đời sống ông trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Gia-cốp thật là người của Đức Chúa Trời. Khi đang hấp hối, ông không bị sự chết đe dọa. Trái lại, vì đầy dẫy đức tin và hi vọng nên ông vui hưởng sự ra đi của mình.

(4) Nương Trên Đầu Gậy Mà Thờ Phượng Đức Chúa Trời 

Khi đang hấp hối, Gia-cốp đã thờ phượng Đức Chúa Trời (47:31, theo Bản Bảy Mươi; Hêb. 11:21). Việc một người hấp hối thờ phượng Đức Chúa Trời không phải là vấn đề tầm thường. Gia-cốp thờ phượng Đức Chúa Trời nơi đầu giường mình. Như đã thấy, việc ông nằm liệt giường bày tỏ rằng ông không còn sức mạnh thiên nhiên nữa, rằng ông không thể di chuyển và rằng ông hoàn toàn tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Vì thế, ông đã thờ phượng Đức Chúa Trời tại đó.

Bản Bảy Mươi dịch phần cuối của 47:31 là “trên đầu cây gậy của ông”. Trong khi viết Hê-bơ-rơ 11:21, Phao-lô đã không trích dẫn nguyên bản Hê-bơ-rơ, nhưng từ Bản Bảy Mươi. Vì vậy, Hê-bơ-rơ 11:21 chép: “Bởi đức tin, Gia-cốp, lúc gần chết …nương trên gậy mình mà thờ phượng”. Nói cách thuộc linh, điều này rất có ý nghĩa. Cái giường có nghĩa là Gia-cốp không còn sức mạnh con người, nhưng gậy có nghĩa là ông là người đầy kinh nghiệm về Đức Chúa Trời trong đời sống. Gậy là biểu tượng về đời sống lữ hành của Gia-cốp. Trong Sáng Thế Ký 32:10, Gia-cốp nói: “Vì với cây gậy tôi, tôi đã vượt qua sông Giô-đanh này”. Suốt cuộc sống lữ hành của ông, Đức Chúa Trời hằng ở với ông. Vì thế, vào cuối đời, Gia-cốp đã thờ lạy Đức Chúa Trời trên giường, có nghĩa là ông không còn sức mạnh; và nương trên gậy, có nghĩa là Đức Chúa Trời mà ông thờ phượng đã chăn dắt ông suốt đời.

Việc Gia-cốp thờ phượng Đức Chúa Trời không phải là không có kinh nghiệm cá nhân. Ông không đang thờ phượng một Đức Chúa Trời khách quan. Khi hấp hối, ông đang thờ phượng Đức Chúa Trời mà ông đã kinh nghiệm cách đầy đủ trong đời sống lữ hành. Đây là kết cuộc thánh của một lữ khách trưởng thành như vậy. Tôi hi vọng khi qua đời, chúng ta sẽ thờ phượng Đức Chúa Trời theo cách này, không thờ phượng Đấng mà mình không kinh nghiệm, nhưng thờ phượng Đấng mà mình đã kinh nghiệm trong cả cuộc đời. Gia-cốp đã không nói về Đức Chúa Trời theo cách giáo lý hay thờ phượng Ngài theo nghi thức. Ông đã thờ phượng Đức Chúa Trời theo kinh nghiệm. Đức Chúa Trời mà Gia-cốp thờ phượng có quan hệ mật thiết với cây gậy của ông, một chứng cớ rằng Gia-cốp là một lữ khách trên đất (Hêb. 11:13) và luôn ở dưới sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời (Sáng. 48:15). Theo Hê-bơ-rơ 11:13, ông ở giữa những người đã chết trong đức tin, trông đợi một ngày kia sẽ bước vào những gì Đức Chúa Trời đã hứa.

Thờ phượng nương trên đầu gậy đòi hỏi phải đặt hai tay trên gậy. Gia-cốp đã xin Giô-sép đặt tay dưới đùi ông, cho thấy rằng ông hoàn toàn đặt sự tin cậy của mình vào bàn tay ân điển của Đức Chúa Trời. Nhưng Gia-cốp đã đặt hai tay trên cây gậy, có nghĩa là ông thừa nhận rằng mình đã luôn ở dưới sự chăm sóc ân điển của Đức Chúa Trời suốt cả cuộc đời.

(5) Nhớ Lại Cái Chết Đau Buồn Của Ra-chên 

Trong 48:7, chúng ta thấy khi gần chết, Gia-cốp đã nhớ lại cái chết đau buồn của Ra-chên. Ông đã trung tín với bà khi ban cho Giô-sép, con của Ra-chên, hai phần đất(48:5-8,20,22). Điều Gia-cốp đã làm đối với Ép-ra-im và Ma-na-se, trong chương 48, được thực hiện trong sự tưởng nhớ Ra-chên. Con đầu của Gia-cốp là Ru-bên và con thứ hai là Si-mê-ôn. Con thứ mười một của ông là Giô-sép, con đầu lòng của Ra-chên. Con thứ mười hai của Gia-cốp, Bên-gia-min, cũng được sanh bởi Ra-chên. Hai con đầu của ông được sanh bởi Lê-a. Tuy nhiên, Gia-cốp muốn làm cho hai con trai của Giô-sép, con của Ra-chên, thành hai con đầu của ông thay thế cho Ru-bên và Si-mê-ôn. Trong lòng của Gia-cốp, hai con trai của Giô-sép đã trở thành hai con đầu của ông. Trong chương 48, Giô-sép đưa hai con trai mình đến cho Gia-cốp, và Gia-cốp nói: “Bây giờ hai đứa con trai đã sanh cho con tại xứ Ai-cập trước khi cha đến, là Ép-ra-im và Ma-na-se, cũng sẽ thuộc về cha như Ru-bên và Si-mê-ôn vậy” (c. 5). Nói cách khác, chúng sẽ thay thế Ru-bên và Si-mê-ôn. Dường như Gia-cốp nói: “Giô-sép, các con của con là Ép-ra-im và Ma-na-se không còn cho con nữa nhưng cho cha, còn cha là vì Ra-chên”. Quyền trưởng nam giữa vòng các con của Gia-cốp đã chuyển từ Ru-bên sang Giô-sép vì Gia-cốp muốn nhớ đến Ra-chên, người luôn ở trong lòng ông. Bởi làm như vậy, tự nhiên Gia-cốp làm cho Ra-chên thành người vợ thật sự của mình. Đức Chúa Trời tôn trọng điều Gia-cốp đã làm và làm cho điều này thành sự thật bằng việc chia đất vào lúc con cái Ítx-ra-ên bước vào miền đất tốt lành.

Ngày nay, trong nhân loại không có sự chung thủy giữa người nam và người nữ. Nhưng trong trường hợp của Gia-cốp, chúng ta thấy sự chung thủy và chân thật của Gia-cốp đối với Ra-chên. Từ ngày đầu gặp Ra-chên, ông đã yêu bà, và lòng ông không hề thay đổi. Gia-cốp chung thủy và Đức Chúa Trời tôn trọng sự chung thủy này. Gia-cốp đã lập các con của Giô-sép là Ép-ra-im và Ma-na-se, làm hai con đầu của ông sau cái chết của Ra-chên. Suốt những năm này, Gia-cốp không hề quên bà. Ông vẫn chung thủy trong tình yêu đối với bà. Tình yêu chân thật giữa một người nam và một người nữ luôn được Đức Chúa Trời tôn trọng. Nếu không yêu một người nữ, anh em không nên cưới cô ấy. Nhưng nếu cưới cô ấy, anh em phải yêu cô ấy, và yêu bằng tình yêu chung thủy và chân thật. Trong xã hội loài người ngày nay, loại tình yêu này đã bị mất. Hôm nay, một người nam có thể yêu một người nữ nào đó, nhưng một thời gian ngắn sau đó đã thay đổi. Không gì xúc phạm sự ấn định của Đức Chúa Trời hơn tình yêu không chung thủy. Nếu kết hôn với một người nào đó, anh em phải yêu người ấy đến cùng. Thật tốt đẹp làm sao khi thấy một người sắp chết mà vẫn còn nhớ đến người mình yêu! Tình yêu của Gia-cốp không hề thay đổi. Một số người có thể nói: “Gia-cốp ơi, ông đã 147 tuổi và [bây giờ] sắp chết rồi. Ra-chên đã chết 40 năm rồi. Ông không cần quan tâm về điều này. Sao ông phải gọi Giô-sép đến và xin hai cháu nội để thay thế hai con đầu của ông? Gia-cốp ơi, hãy đơn sơ nằm nghỉ cho đến khi chết”. Tuy nhiên, sự chung thủy của Gia-cốp đối với Ra-chên trong việc lập hai con của Giô-sép làm hai con đầu của mình để Giô-sép là con trưởng hầu có thể thừa hưởng hai phần đất, được ghi lại trong Lời Thánh của Đức Chúa Trời. Bởi sự tể trị, khi Giô-suê chia các phần đất (Giô-suê 24), thì phần Gia-cốp ban cho Giô-sép được chia cho Ép-ra-im và Ma-na-se. Điều này có nghĩa là những gì Gia-cốp đã làm được Đức Chúa Trời tôn trọng. Người chồng đừng bao giờ thay đổi tình yêu đối với vợ. Nếu anh em chung thủy trong tình yêu với vợ, Đức Chúa Trời sẽ tôn trọng sự chung thủy đó. Đây là đạo đức cao nhất.

(6) Nhận Thức Rằng 
Đức Chúa Trời Đã Chăn Dắt Ông Trọn Cuộc Đời 

Trong 48:15, Gia-cốp nói về Đức Chúa Trời là Đấng “đã chăn dắt tôi từ khi lọt lòng cho đến ngày nay” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Tôi hi vọng tất cả chúng ta khi sắp qua đời đều sẽ nói rằng cuộc đời chúng ta đã ở dưới sự chăn dắt của Đức Chúa Trời. Nguyện chúng ta đều có thể nói: “Tôi không phải là chiên không có Người Chăn. Chúa là Đấng Chăn Dắt tôi trọn đời. Bây giờ tôi sắp qua đời, tôi vẫn đang ở dưới sự chăn dắt của Ngài. Tôi không chọn đường riêng của mình. Ngài đang dẫn dắt tôi và tôi ở dưới sự chăn dắt của Ngài”.

(7) Nói Tiên Tri Về Mười Hai Con Trai 

Khi sắp qua đời, Gia-cốp đã nói tiên tri về mười hai con trai (49:1-2). Gia-cốp không nói tiên tri bằng cách: “Chúa có phán như vầy”. Trái lại, ông đã nói tiên tri bằng cách là một với Đức Chúa Trời để nói cho Đức Chúa Trời. Hễ điều gì Gia-cốp nói đã trở thành Lời của Đức Chúa Trời. Gia-cốp là miệng của Đức Chúa Trời. Đây là loại nói tiên tri mà chúng ta thấy trong Tân Ước. Chẳng hạn, trong 1Cô-rin-tô chương 7, Phao-lô nói rằng ông không có mạng lịnh nào của Chúa, dầu vậy, ông tỏ ý kiến của ông như kẻ đã được Chúa thương xót để làm người đáng tin. Tuy nhiên, điều Phao-lô nói là Lời của Đức Chúa Trời vì ông hoàn toàn là một với Đức Chúa Trời; và điều ông nói là Lời Đức Chúa Trời. Sự kiện Gia-cốp có thể nói tiên tri theo cách như thế là dấu hiệu và sự biểu lộ mạnh mẽ rằng ông đã trưởng thành trong sự sống. Vì đã là một với Đức Chúa Trời nên ông đã trưởng thành trong sự sống. Do đó, bất cứ điều gì ông nói đều là Lời của Đức Chúa Trời phán. Ông không tuyên bố rằng Đức Chúa Trời bảo ông nói những điều nào đó; ông cũng không công bố: “Chúa phán như vầy”. Ông chỉ nói và hễ điều gì ông nói thì đó là Lời của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tôn trọng và làm ứng nghiệm lời đó. Chắc chắn Đức Chúa Trời đã làm ứng nghiệm lời chúc phước mang tính tiên tri mà Gia-cốp đã chúc trên mười hai con trai của mình. Điều này chứng tỏ ông qua đời trong sự trưởng thành của sự sống. Sự ra đi của ông bày tỏ sự trưởng thành của ông.

(8) Được Chôn Cất Với Sự Tôn Trọng Rất Cao Quý 

Trong 50:1-13, chúng ta có phần ký thuật về việc chôn Gia-cốp, thật trang trọng hơn cả quốc tang. Khi Giô-sép đi đưa tang cha mình, thì “cùng đi với ông là toàn thể quần thần Pha-ra-ôn, các bực trưởng lão trong đền, và các bực trưởng lão trong xứ Ai-cập… Lại cũng có đem ngựa và xe theo lên nữa: thật là một đám tang trọng thể thay!”(50:7,9). Điều này cho thấy Gia-cốp được chôn cất theo nghi thức quốc gia, đầy sự kính trọng. Vì Gia-cốp đầy hi vọng, trông đợi được phục sinh nên đã truyền cho Giô-sép, con mình, thực hiện sự chôn cất ông theo cách tương ứng với lời hứa của Đức Chúa Trời. Chỉ những người vô tín, những người không có đức tin nơi Đức Chúa Trời, mới coi thường vấn đề chôn cất của họ. Nếu có đức tin nơi sự phục sinh, chúng ta nên chuẩn bị tốt cho sự chôn cất của mình, một sự chuẩn bị để cho người khác thấy rằng chúng ta không phải là không có hi vọng. Chúng ta mong được phục sinh theo cách vinh hiển để gặp Chúa.

Sự qua đời của sứ đồ Phao-lô thật khải hoàn. Tuy nhiên, sự qua đời của Phao-lô là sự ra đi của một người tuận đạo, trong khi sự qua đời của Gia-cốp thì bình thường. Sự tuận đạo không bày tỏ sự qua đời bình thường của một người yêu mến Đức Chúa Trời. Chúng ta thấy sự ra đi bình thường như vậy trong phần ký thuật về Gia-cốp. Vì lý do này, dầu tôi đánh giá cao sự qua đời của Phao-lô như một người tuận đạo, nhưng tôi yêu thích sự qua đời của Gia-cốp hơn vì nó cho một bức tranh về sự ra đi bình thường của một con cái Đức Chúa Trời. Về sự qua đời của Gia-cốp, không có gì buồn bã hay ưu sầu. Trái lại, mọi sự thật khích lệ và gây dựng. Hễ khi nào đọc những chương mô tả sự qua đời của Gia-cốp, tôi được soi sáng và nói: “Chúa ôi, xin ban ân điển cho con để không bao giờ sợ chết. Khi sự chết đến theo sự sắp đặt của Ngài, con muốn nhận lấy như Gia-cốp đã nhận lấy”. Tuy nhiên, thái độ này đòi hỏi sự trưởng thành trong sự sống. Gia-cốp, người trở thành Ítx-ra-ên, đã trưởng thành trong sự sống. Do đó, ông có thể qua đời theo cách tuyệt diệu như vậy.

Bài Một Trăm Mười

Được Trưởng Thành
Phương Diện Cai Trị 
Của Ítx-Ra-Ên Trưởng Thành  
(1)

Sáng Thế Ký là một sách kỳ diệu. Càng nghiên cứu, chúng ta càng nhận thức rằng không một bàn tay con người nào có thể viết nên. Nhìn bên ngoài, Sáng Thế Ký chỉ là một sách về các câu chuyện; tuy nhiên, khi dò đến các chiều sâu của sách này qua sự dẫn dắt của Thánh Linh, chúng ta nhận thấy sách chứa đựng điều gì đó sâu nhiệm có quan hệ đến kinh nghiệm sự sống của chúng ta. Nếu đọc hời hợt, chúng ta sẽ không thể hiểu lý do vì sao những sự kiện của chương 38 lại đặt sau các sự kiện trong chương 37. Mãi đến khi khám phá ý nghĩa thuộc linh của các chương này, chúng ta mới có thể đánh giá cao ý nghĩa sâu xa của thứ tự đó.

Theo phần ký thuật của sách Sáng Thế Ký và theo kinh nghiệm thuộc linh, chúng ta không nên xem Giô-sép là một người tách khỏi Gia-cốp, mà đúng ra là một phương diện [khác] thuộc tiểu sử của Gia-cốp. Khi lần đầu đến với Áp-ra-ham trong loạt bài Nghiên Cứu Sự Sống này, chúng tôi đã chỉ ra rằng, trong kinh nghiệm thuộc linh, Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp không phải là ba người riêng lẻ. Thay vì thế, họ đại diện cho ba phương diện trong kinh nghiệm của một thánh đồ. Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp đại diện cho ba phương diện của một người thuộc linh, và tiểu sử của họ mô tả các phương diện khác nhau về đời sống trọn vẹn của một thánh đồ. Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp là ba phương diện của một con người, phần nào giống với Cha, Con và Linh là Ba Thân Vị của Thần Cách. Trong phần ghi lại của Sáng Thế Ký, Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Nhưng Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp không phải là ba Đức Chúa Trời riêng biệt; Ngài là Đức Chúa Trời Tam Nhất duy nhất. Cũng vậy, nói cách thuộc linh, Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp không phải là ba người riêng biệt, nhưng là ba phương diện của một người trọn vẹn. Do đó, chúng ta không những có Đức Chúa Trời Tam-Nhất mà còn có một người trọn vẹn gồm ba phương diện.

Thật khó quyết định Áp-ra-ham hay Gia-cốp đến trước. Theo lời ghi lại của lịch sử, Áp-ra-ham là ông nội, còn Gia-cốp là cháu nội. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm thuộc linh, Gia-cốp phải đến trước. Gia-cốp đã được chọn trước khi được sanh ra (La. 9:11-13). Điều này có nghĩa là một thánh đồ trọn vẹn đã được chọn trước khi ra đời giống như Gia-cốp. Sách Ê-phê-sô bày tỏ rằng sự lựa chọn này xảy ra trước khi lập nền thế giới (Êph. 1:4). Vì thế, người trọn vẹn đã được chọn là Gia-cốp. Người đã sa ngã cũng là Gia-cốp. Sau đó, người được chọn và sa ngã này đã được kêu gọi là Áp-ra-ham. Với Áp-ra-ham, ông không chỉ được kêu gọi mà còn được xưng công chính và sống đời sống bởi đức tin. Hơn nữa, người đã thừa thọ và vui hưởng mọi sự giàu có của Christ là Y-sác. Sau khi được kêu gọi và được xưng công chính, và trong khi sống đời sống bởi đức tin, người này thừa thọ mọi sự giàu có của Christ và vui hưởng những sự giàu có đó. Nhưng đây không phải là tất cả. Như Gia-cốp, người này cũng tranh đấu và đau khổ do những nỗ lực của mình. Hơn nữa, người này bị xử lý và được trưởng thành. Toàn bộ điều này là kinh nghiệm của Gia-cốp. Vì tất cả những kinh nghiệm này –sự chọn lựa, sự sa ngã, kêu gọi, xưng công chính bởi đức tin, sống bởi đức tin, thừa thọ và vui hưởng các sự giàu có của Christ, sự tự tranh đấu, các nỗi khổ, các sự xử lý và sự trưởng thành– nên cần có ba con người, cần có Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.

Ba người này đại diện cho anh em và tôi. Chúng ta là những người được chọn và đã sa ngã như Gia-cốp. Chúng ta được kêu gọi, được xưng công chính bởi đức tin và sống bởi đức tin như Áp-ra-ham. Chúng ta thừa hưởng các sự giàu có của Christ và vui hưởng chúng như Y-sác. Chúng ta tranh đấu, đau khổ, được xử lý và trưởng thành như Gia-cốp. Khi Gia-cốp đã trưởng thành, ông được đổi tên. Không những tính khí đã được biến đổi, mà tên ông cũng được thay đổi từ Gia-cốp, kẻ tiếm vị, thành Ítx-ra-ên, một hoàng tử trưởng thành của Đức Chúa Trời, là người có thể cai trị cho Đức Chúa Trời.

3) Phương Diện Cai Trị Của Ítx-ra-ên Trưởng Thành 

Ítx-ra-ên trưởng thành này có phương diện cai trị. Chúng ta đã thấy quá trình trưởng thành của Gia-cốp và sự biểu lộ của sự trưởng thành này. Sự trưởng thành của ông được thể hiện trọn vẹn trong sự qua đời cách tuyệt diệu của ông. Bây giờ, chúng ta cần thấy phương diện cai trị của đời sống trưởng thành này. Vì vậy, trong bài này, chúng ta đề cập phương diện cai trị của Ítx-ra-ên trưởng thành, một phương diện được mô tả đầy đủ trong tiểu sử của Giô-sép.

Vì Giô-sép tiêu biểu cho một phương diện của Gia-cốp nên chúng ta không nên xem Giô-sép là một người tách biệt với Gia-cốp. Đây là lý do vì sao mười bốn chương cuối của Sáng Thế Ký kết hợp phần ký thuật về đời sống của Giô-sép với phần ký thuật về đời sống của Gia-cốp. Sáng Thế Ký hòa lẫn tiểu sử của Giô-sép với Gia-cốp, vì thực ra, đó không phải là tiểu sử của hai người, mà là của một người. Sự hòa lẫn giữa hai phần ký thuật này cho thấy Giô-sép là một phương diện của Gia-cốp. Nếu đọc phần ký thuật trong Sáng Thế Ký từ chương 37 đến 50, anh em sẽ thấy Giô-sép là một phương diện, một phần của Gia-cốp. Ông là sự biểu lộ của Gia-cốp. Ở đâu có Giô-sép, ở đó cũng có Gia-cốp. Khi Giô-sép nắm quyền lực, thực ra đó là Gia-cốp đang cai trị. Do đó, hai tiểu sử này hòa lẫn vào nhau thành tiểu sử của một người.

Trong nhiều năm, tôi cố gắng chia mỗi sách của Kinh Thánh thành nhiều phần. Nhưng khi đến các chương cuối của Sáng Thế Ký, tôi không thể nói đó là phần thuộc về Gia-cốp hay thuộc về Giô-sép. Cuối cùng, tôi bỏ việc chia Sáng Thế Ký thành nhiều phần. Vì lúc đó, tôi không thấy vấn đề của sự sống nên không đánh giá cao sự tuyệt hảo về cách sắp xếp của Sáng Thế Ký. Nhưng chúng ta cần biết rằng các chương này là phần của một tiểu sử có hai phương diện. Ngày nhìn thấy ánh sáng này, tôi rất vui mừng. Nói cách thuộc linh, Giô-sép không tách biệt với Gia-cốp. Đúng ra, ông tiêu biểu cho phương diện cai trị của một thánh đồ trưởng thành.

a) Đời Sống Của Giô-sép –Là Dòng Dõi Của Gia-cốp 

Sáng Thế Ký 37:2 chép: “Đây là các dòng dõi của Gia-cốp”. Sau đó, sách tiếp tục cho chúng ta biết về đời sống của Giô-sép. Điều này chứng tỏ đời sống Giô-sép là một phần trong dòng dõi của Gia-cốp. Tiểu sử của Giô-sép là một phương diện thuộc lịch sử của Gia-cốp.

b) Giô-sép Là Hình Bóng Về Christ 

Tiểu sử của Giô-sép cho thấy ông không có sự bất toàn. Theo ký thuật, ông là người trọn vẹn hoàn toàn. Trong Kinh Thánh, Giô-sép là người trọn vẹn trong Cựu Ước, và Jesus là Người trọn vẹn trong Tân Ước. Bốn tiểu sử của Jesus trong Tân Ước bày tỏ rằng Ngài thật hoàn hảo, không một khuyết điểm. Phần ký thuật về Giô-sép trong Cựu Ước bày tỏ ông cũng thật hoàn hảo. Có thể một số người nói rằng để là hình bóng về Christ, Giô-sép phải hoàn hảo. Thế thì, Đa-vít không phải là hình bóng về Christ sao? Chắc chắn là phải. Nhưng Đa-vít, hình bóng về Christ, thì lại phạm một tội gớm ghiếc. Sa-lô-môn cũng là hình bóng về Christ, nhưng ông phạm tội quá mức. Trừ Giô-sép ra, tất cả những hình bóng cá nhân về Christ trong Cựu Ước đều có một số khuyết điểm nào đó.

Là hình bóng về Christ, Giô-sép tượng trưng cho phương diện cai trị của một thánh đồ trưởng thành, Ítx-ra-ên trưởng thành. Chắc chắn rằng, phương diện cai trị của một người như vậy phải hoàn hảo. Tất nhiên, không ai trong chúng ta là hoàn hảo. Tuy nhiên, trong phương diện cai trị, chúng ta là hoàn hảo. Hễ khi nào cai trị trong linh, chúng ta hoàn hảo. Tuy nhiên, anh em có thể nói: “Tôi không hoàn hảo. Trái lại, tôi giống như Giu-đa”. Tuy nhiên, phương diện mà anh em giống như Giu-đa không phải là phương diện cai trị, mà là phương diện sa ngã. Đúng vậy, theo phương diện sa ngã, anh em giống như Giu-đa trong chương 38. Cả hai chương 37 và 39 là các chương về sự hoàn hảo. Trái lại, chương 38 là chương về sự trụy lạc. Vì thế, phương diện cai trị nằm trong chương 37, và phương diện sa ngã trong chương 38. Có thể hôm qua anh em đang cai trị cho Đức Chúa Trời, nhưng hôm nay anh em có thể đã phạm tội, thậm chí tội gớm ghiếc. Điều này bày tỏ sự thật rằng chúng ta có nhiều phương diện khác nhau. Trong bài này, chúng tôi chỉ nói đến phương diện cai trị.

Tôi hi vọng tất cả chúng ta sẽ thấy rằng Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp cùng với Giô-sép là một người. Giô-sép không phải là phương diện tách rời khỏi một người thuộc linh trọn vẹn là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Trái lại, như đã thấy, Giô-sép là một phương diện của Gia-cốp. Kinh Thánh không nói rằng Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp và Đức Chúa Trời của Giô-sép. Điều này sẽ làm Đức Chúa Trời thành bốn thay vì ba-một. Chỉ có ba. Nhưng khi đến với Gia-cốp ở giai đoạn trưởng thành, chúng ta thấy rằng với sự sống trưởng thành, có phương diện cai trị. Không phải Áp-ra-ham cũng không phải Y-sác mà là Giô-sép cai trị đại diện cho Gia-cốp. Nói cách khác, Gia-cốp cai trị qua Giô-sép.

Trong 1:26, khi Đức Chúa Trời tạo dựng con người, Ngài phán: “Chúng Ta hãy làm nên loài người theo hình của Chúng Ta; theo hình dạng của Chúng Ta; để họ quản trị…” Trong vài chương cuối của Sáng Thế Ký, chúng ta thấy một Ítx-ra-ên biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời và thi hành sự quản trị của Ngài. Việc thi hành sự quản trị của Đức Chúa Trời trên muôn vật được biểu lộ trong đời sống của Giô-sép, trong khi hình ảnh của Đức Chúa Trời được biểu lộ trong Ítx-ra-ên. Giô-sép không tách rời khỏi Gia-cốp, mà là một phương diện của cuộc đời biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời. Hai phương diện –biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời và thi hành sự quản trị của Ngài phải được tìm thấy trong một người. Do đó, điều được tìm thấy trong đời sống Giô-sép có thể được gọi là phương diện cai trị của Ítx-ra-ên trưởng thành. Không có ánh sáng này, anh em không thể hiểu phân đoạn Lời ở đây. Thật đáng tiếc, hầu hết các Cơ-đốc nhân không có ánh sáng này.

Mục tiêu của chúng ta phải là biểu lộ Đức Chúa Trời bằng hình ảnh của Ngài và đại diện Ngài bằng sự quản trị của Ngài. Vì điều này, chúng ta được chọn và đã sa ngã như Gia-cốp; được kêu gọi, được xưng nghĩa và sống bởi đức tin như Áp-ra-ham; thừa hưởng các sự giàu có của Christ và vui hưởng những điều đó như Y-sác; và cuối cùng, chúng ta tranh đấu, đau khổ, được xử lý và đạt đến sự trưởng thành như Gia-cốp. Tất cả chúng ta đều có bản chất tranh đấu “của Gia-cốp” trong mình. Nếu được bảo rằng đừng tranh đấu, chúng ta vẫn tranh đấu giống như vậy. Tuy nhiên, tranh đấu không nhất thiết là sai. Nếu ai đó là một Cơ-đốc nhân trong nhiều năm mà chưa bao giờ tranh đấu, điều đó có nghĩa người đó không phải là người tìm kiếm Chúa. Điều này cũng có nghĩa là người đó không quan tâm đến việc chiếm được quyền trưởng nam. Nhưng một khi nhận thức điều gì đó về quyền trưởng nam, chúng ta sẽ tranh đấu để được nên thánh, thuộc linh; và bản chất tranh đấu “của Gia-cốp” trong chúng ta sẽ lộ ra. Khi anh em tranh đấu, hãy chuẩn bị để chịu khổ. Cùng với sự chịu khổ, anh em sẽ ở dưới bàn tay xử lý của Đức Chúa Trời. Anh em có thể khôn lanh, nhưng Đức Chúa Trời có một La-ban khôn lanh hơn. Hãy sẵn sàng chịu khổ và chịu xử lý bởi bàn tay của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, anh em sẽ đạt đến sự trưởng thành, và phương diện cai trị của một Ítx-ra-ên trưởng thành sẽ được nhìn thấy trong đời sống anh em. Đây là phương diện cai trị được tiêu biểu bởi Giô-sép.

Một lần nữa tôi nói rằng, Giô-sép không phải là người trọn vẹn, mà chỉ là phương diện của một thánh đồ trưởng thành, là người đã trải qua các kinh nghiệm được tiêu biểu bởi các đời sống của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Sau khi trải qua tất cả những kinh nghiệm này, thánh đồ trưởng thành đó có một phương diện mà chỉ được cấu tạo bằng Christ. Vì phương diện này của người đó là sự cấu tạo của Christ, nên được hoàn hảo. Giô-sép tiêu biểu cho phương diện được cấu tạo này của một thánh đồ trưởng thành. Trong mỗi chúng ta, có một phần được cấu tạo bằng Christ. Dù vừa mới được tái sinh, nhưng một phần của anh em, linh được tái sinh của anh em, đã được cấu tạo bằng Christ. Đây là khởi đầu của sự cấu tạo Christ trong anh em. Tiến trình được cấu tạo bằng Christ sẽ tiếp diễn cho đến khi đạt đến đỉnh điểm là khi phương diện cai trị được lộ ra trong anh em. Khi trưởng thành hoàn toàn, anh em sẽ có phần ban cao nhất này, phương diện cao nhất này. Đây là sự cấu tạo của Christ, một phương diện của đời sống trưởng thành được cấu tạo bằng Christ.

Rõ ràng, Giô-sép là hình bóng trọn vẹn về Christ vì ông mô tả phương diện được cấu tạo của một thánh đồ trưởng thành. Nếu phương diện này của anh em là phương diện được cấu tạo bằng Christ, chưa hoàn hảo, thì chắc chắn không một phần nào của anh em có thể được hoàn hảo. Trong chúng ta, những người sa ngã, được cứu, được kêu gọi, được chuộc và được tái sinh, không có gì là hoàn hảo ngoài Đấng Christ cấu tạo. Ha-lê-lu-gia! chúng ta có sự cấu tạo Christ bên trong! Tôi xin lặp lại, Giô-sép tiêu biểu cho sự cấu tạo Christ trong đời sống trưởng thành của Gia-cốp. Phương diện này, tức Christ được cấu tạo trong những thánh đồ trưởng thành, thì hoàn hảo. Do đó, tượng trưng cho Christ cách trọn vẹn.

(1) Người Chăn 

Phương diện hoàn hảo này là một người chăn. Như A-bên, Giô-sép là một người chăn (37:2). Điều này tượng trưng cho phương diện về sự cấu tạo Christ trong đời sống trưởng thành, đó là đời sống chăn dắt để chăm sóc người khác. Trong chương 37, Giô-sép không những cho bầy chiên ăn và chăn bầy; mà dầu là em áp út, ông cũng được cha sai đi để chăn dắt các anh. Vì thế, Giô-sép không những chăn bầy chiên của cha mà còn chăn dắt các con trai của cha. Chúa Jesus cũng đến như một Người Chăn (Giăng 10:11).

Dầu có thể là mới mẻ trong nếp sống Hội Thánh, nhưng anh em có sự cấu tạo Christ bên trong. Christ đã được cấu tạo vào trong anh em và điều này trở nên sự cấu tạo Christ trong đời sống thuộc linh của anh em. Đây là điều đã tạo cho anh em gánh nặng chăm sóc người khác. Đây là sự chăn dắt. Sự cấu tạo của Christ trong đời sống thuộc linh có phương diện chăn dắt. Khuyến khích nhiều người chăn dắt người khác là vô ích. Tôi càng buộc anh em chăn dắt người khác, anh em sẽ càng ít chăn dắt họ. Chăn dắt không phải là vấn đề xúi giục người khác làm điều gì đó, nhưng là về sự cấu tạo Christ bên trong họ. Phần trong bản thể chúng ta được cấu tạo bằng Christ là phần chăn dắt người khác. Tôi hoàn toàn tin cậy vào phần đó của anh em. Chúng ta không thể chăn dắt ai, ngoại trừ Christ là Người Chăn được cấu tạo vào trong chúng ta.

Phương diện cai trị trước hết là phương diện chăn dắt. Nếu không có gánh nặng chăn dắt và nuôi dưỡng người khác, anh em sẽ không bao giờ có thể cai trị. Uy quyền cai trị xuất phát từ sự sống chăn dắt. Cuối cùng, Giô-sép đã cai trị trên anh em mình. Nhưng ông đã không cai trị họ cho đến khi đã chăn dắt họ rồi. Ông được cha sai đi để coi sóc và nuôi dưỡng các anh. Cũng vậy, Jesus đã không đến như một vị Vua để cai trị người khác; Ngài đến như một Người Chăn.

Là Người Chăn, Christ đã bị dân mình giết đi. Điều này được bày tỏ trong Giăng chương 10, tại đó, chúng ta được biết rằng Người Chăn tốt vì chiên phó mạng sống Mình. Jesus đã đến như như một Người Chăn, và đã bị giết, phó sự sống Ngài vì bầy chiên. Về nguyên tắc, điều tương tự đã xảy ra với Giô-sép trong chương 37. Dầu được cha sai đi để chăn dắt các anh, nhưng họ gần như đã giết ông. Giô-sép đã bỏ sự sống ông để thực hiện loại chăn dắt này. Thật tốt đẹp vì chúng ta có sự sống chăn dắt bên trong. Nhưng nếu muốn chăn dắt người khác, anh em phải sẵn sàng chịu giết bởi những người mình đang chăm sóc. Chính những người anh em ước ao chăn dắt sẽ không đánh giá cao sự chăn dắt của anh em. Thay vào đó, họ sẽ giết anh em. Họ có thể nghĩ anh em là một kẻ xa lạ, khác thường, và họ có thể gọi anh em là anh “thánh”. Nhiều người đã nói với tôi: “Anh Lý ơi, nếu tôi ở một mình mà không yêu hội thánh và không chăm sóc các thánh đồ, thì chẳng có vấn đề gì. Nhưng khi tôi bắt đầu yêu hội thánh và chăm sóc các thánh đồ, thì các thánh đồ giết tôi”. Họ giết anh em vì anh em chăn dắt họ.

                        (2) Con Yêu Dấu Của Cha 

Giô-sép, người có phương diện chăn dắt, cũng là con yêu dấu của cha mình (37:3-4). Cũng vậy, Christ là Con yêu dấu của Cha (Mat. 3:17; 17:5). Chỉ phương diện đó của chúng ta tức là phương diện được cấu tạo bằng Christ, mới đáng yêu trong cách nhìn của Đức Chúa Trời. Ngợi khen Chúa vì chúng ta có sự cấu tạo của Christ bên trong! Phần này của chúng ta là phần được Cha yêu. Có thể đôi khi anh em làm chứng rằng anh em có cảm nhận sâu xa là Cha đang hiện diện với anh em và anh em có thể cảm nhận Ngài đang phán: “Đây là con yêu dấu của Ta”. Những lời phán về Chúa Jesus vào lúc báp têm và trên núi hóa hình cũng được phán cho anh em. Anh em có cảm nhận sâu xa rằng Đức Chúa Trời Cha đang hiện diện. Hễ khi nào có cảm nhận này, đó là bằng chứng anh em có sự cấu tạo Christ, là điều đẹp lòng Cha. Cha sẽ luôn nói về phần này anh em: “Đây là con yêu dấu của Ta”.

Dù có thể anh em có thể còn non trẻ trong Chúa, nhưng tôi tin rằng anh em đã kinh nghiệm Đức Chúa Trời Cha trên trời đang rất vui và hài lòng về anh em. Tuy nhiên, có thể lúc này anh em không vui về chính mình, đang nghĩ đến những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Lý do cho điều này là vì anh em có hai sự cấu tạo, sự cấu tạo của Christ và sự cấu tạo của A-đam cũ. Khi ở với sự cấu tạo của Christ, anh em có thể nghe tiếng phán từ trời rằng: “Đây là con yêu dấu của Ta,” vì Đức Chúa Trời Cha đẹp lòng anh em. Nhưng khi ở với sự cấu tạo cũ, sự cấu tạo của A-đam, anh em không vui ngay cả với chính mình. Đúng ra, anh em ghét phương diện này của bản thể mình. Giô-sép đại diện cho chính sự cấu tạo của Christ trong đời sống trưởng thành của Ítx-ra-ên, mà phần này được Cha gọi là “con yêu dấu của Ta”.

(3) Cung Ứng Cho Các Anh Em Theo Ý Muốn Của Cha 

Trong 37:12-17, chúng ta thấy Giô-sép cung ứng cho các anh em theo ý muốn của cha. Trong vấn đề này, Giô-sép cũng là hình bóng về Christ vì Christ từ trời đến để làm theo ý chỉ của Đấng đã sai Ngài (Giăng 6:38).

Không có lời nào trong Kinh Thánh nói rằng Giô-sép là hình bóng về Christ. Tuy nhiên, nếu đọc phần Lời này, anh em sẽ thừa nhận rằng Giô-sép không những là hình bóng về Christ mà tiểu sử ông gần như là tiểu sử của Christ. Đời sống của Giô-sép là bản sao đời sống của Christ.

Về điểm này, tôi muốn nói đôi lời về việc nói bóng Kinh Thánh. Một số giáo sư Kinh Thánh nói rằng chúng ta chỉ nên xem là hình bóng những điều trong Cựu Ước mà Tân-ước cụ thể nói là hình bóng. Tôi đã theo sự dạy dỗ này trong nhiều năm, nhưng cuối cùng tôi được giải thoát khỏi điều đó, sau khi nhận thức rằng nó đi quá xa. Dù trong Tân Ước không có lời nào nói rằng Giô-sép là hình bóng về Christ, nhưng trong Cựu Ước, không ai là hình bóng về Christ chính xác hơn Giô-sép. Điều này cho thấy sự thật là một số điều trong Cựu Ước là hình bóng mà trong Tân Ước không đề cập đến là hình bóng. Do sự kiện này, tôi không còn giữ theo sự dạy dỗ đó nữa. Giô-sép là người chăn chiên, con yêu dấu của cha và là người được cha sai đi để cung ứng cho các anh em. Trong tất cả các phương diện này, ông giống như Christ.

{4) Bị Các Anh, Những Người Mà Ông Phục Vụ, 
Ghét Bỏ Và Gây Rắc Rối

Dù Giô-sép là người chăn và là con yêu dấu của cha, và dù ông cung ứng cho các anh em theo ý chỉ của cha, nhưng ông đã bị các anh, những người mà ông cung ứng, ghét bỏ và gây rắc rối (37:4-5,8,11,18-36). Điều này đúng với Christ (Công. 10:38-39). Christ được sai đến để cung ứng cho con cái của Đức Chúa Trời, nhưng họ đã ghét Ngài. Theo các Sách Phúc Âm, các lãnh đạo người Do-thái đã ghét bỏ Christ, hiệp lực chống lại Ngài và âm mưu giết Ngài. Đây cũng là kinh nghiệm của Giô-sép với các anh. Trong 37:19 và 20, các anh đã nói: “Kìa, thằng nằm mộng đến kia. Bây giờ, nào! chúng ta hãy giết nó đi…” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Vậy, họ đã hiệp lực và mưu hại Giô-sép, em mình.

Các anh của Giô-sép đã gây rắc rối cho ông qua việc bán ông cho người Ích-ma-ên, vốn là người Ma-đi-an (37:25,28). Cả dân Ích-ma-ên và Ma-đi-an đều là hậu tự của Áp-ra-ham. Áp-ra-ham có ba vợ: Sa-ra, A-ga và Kê-tu-ra. Qua Sa-ra, vợ thật của ông, Áp-ra-ham sanh ra Y-sác. Qua A-ga, nàng hầu của Sa-ra, ông sanh Ích-ma-ên, sản phẩm của xác thịt Áp-ra-ham. Cuối cùng, qua Kê-tu-ra, Áp-ra-ham sanh Ma-đi-an. Chỉ có Y-sác là được sanh ra bởi ân điển. Cả Ích-ma-ên và Ma-đi-an được sanh ra qua xác thịt. Vì thế, trong Cựu Ước, cả Ích-ma-ên và Ma-đi-an đều tượng trưng cho xác thịt, sức mạnh thiên nhiên. Giô-sép, hậu tự của Y-sác, đã bị bán cho hậu tự của Ích-ma-ên và Ma-đi-an, cho dân Ích-ma-ên, dân Ma-đi-an. Dường như Kinh Thánh dùng các từ dân Ích-ma-ên và Ma-đi-an hoán chuyển với nhau cách lầm lẫn. Trong chương 37, câu 25 nói về dân Ích-ma-ên và câu 28, nói về dân Ma-đi-an. Vậy, Giô-sép bị bán cho dân Ích-ma-ên hay dân Ma-đi-an? Theo Kinh Thánh, cả hai giống dân Ích-ma-ên và Ma-đi-an đều thuộc cùng một loại. Trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, dân Ích-ma-ên và dân Ma-đi-an, cả hai đều tượng trưng cho xác thịt. Vì thế, Giô-sép bị bán bởi xác thịt. Điều tương tự đã xảy ra cho Chúa Jesus. Nếu các nhà lãnh đạo Do-thái ở trong linh, hẳn họ sẽ chẳng bao giờ nộp Jesus Christ cho Phi-lát. Christ bị nộp cho Phi-lát bởi các nhà lãnh đạo Do-thái qua xác thịt. Khi các nhà lãnh đạo Do-thái giao nộp Jesus cho Phi-lát, họ không còn là người Ítx-ra-ên nữa; họ là người Ích-ma-ên và Ma-đi-an. Việc họ giao nộp Chúa Jesus được thực hiện trong xác thịt.

Bởi xác thịt, Giô-sép bị bán cho Ai-cập (37:28,36), tượng trưng cho thế giới. Sự kiện Giô-sép bị bán bởi xác thịt cho thế giới ngụ ý rằng xác thịt liên kết với thế giới. Tương tự với trường hợp của Chúa Jesus. Bởi xác thịt, các lãnh đạo Do-thái đã giao nộp Christ cho Phi-lát, chính quyền La-mã, chắc chắn là ở trong Ai-cập, tức thế giới.

(5) Thấy Dân Mình Là Những Bó Lúa Của Sự Sống, 
Và Là Mặt Trời, Mặt Trăng Và Các Vì Sáng 

(a) Là Những Bó Lúa Của Sự Sống 

Bây giờ, tôi có gánh nặng chia sẻ với anh em một điều rất có ý nghĩa. Nếu là Giô-sép, anh em có xem các anh em mình là thiên thượng, đầy dẫy sự sống và sự sáng không? Trong 37:2, chúng ta được biết rằng Giô-sép thuật lại cho cha các chuyện xấu của các anh. Hơn nữa, theo chương 37, các anh của Giô-sép đầy sự ganh ghét và giận dữ; theo chương 38, họ đầy sự tham muốn. Trong chương 37, chúng ta thấy sự ganh ghét và giận dữ của các anh Giô-sép, còn trong chương 38, chúng ta thấy sự tham muốn của Giu-đa. Giô-sép thấy việc ác của các anh và đem thuật lại cho cha . Nhưng Giô-sép có hai chiêm bao (37:5-9). Trong chiêm bao thứ nhứt, ông thấy những bó lúa trên đồng ruộng. Chiêm bao này bày tỏ rằng, dù tốt nhất, Giô-sép cũng chỉ là một bó lúa, và dù tệ nhất, các anh ông cũng là những bó lúa. Đức Chúa Trời đã ban cho Giô-sép chiêm bao này, và trong đó, ông có cái nhìn của Đức Chúa Trời về anh em mình. Có thể Giô-sép đã nói với cha rằng: “Cha ơi, các anh hết sức tệ. Con đã phải chịu khổ về việc ác của họ! Ôi, họ đầy hung dữ và tham muốn!” Nhưng Đức Chúa Trời đã đến ban cho ông một chiêm bao, dường như Ngài nói: “Giô-sép, trong mắt Ta, ngươi cũng giống như các anh và họ cũng tốt như ngươi. Ngươi là bó lúa và họ cũng là những bó lúa. Sự khác nhau duy nhất giữa ngươi với họ là Ta đã chọn ngươi để cai trị. Nhưng điều này không có nghĩa là ngươi tốt hơn họ”.

Nếu không có kinh nghiệm, chúng ta sẽ không hiểu phần Kinh Thánh nói đến chiêm bao về các bó lúa của Giô-sép. Khi bước vào nếp sống Hội Thánh lần đầu, anh em có thể nói: “Nếp sống Hội Thánh kỳ diệu biết bao! Tất cả các anh chị em đều tuyệt vời làm sao! Tôi yêu Hội Thánh biết bao!” Tuy nhiên, càng yêu Hội Thánh và quan tâm đến các thánh đồ, anh em sẽ thấy càng nhiều “chuột túi,” “rùa,” và “bọ cạp”. Khi đó, anh em sẽ nói: “Chúa ôi, đây là gì? Chúa ôi, tình trạng trong Hội Thánh thật đáng thương. Ngay cả các trưởng lão cũng chẳng tốt gì. Và hãy nhìn xem tất cả các chị em! Tôi không muốn ngồi gần họ trong các buổi nhóm”. Vào lúc đó, anh em cần có một chiêm bao thiên thượng. Khi chiêm bao này đến, Chúa sẽ nói với anh em: “Ngươi chẳng tốt hơn gì và người khác không tệ hơn ngươi đâu. Tất cả các ngươi đều là những bó lúa sự sống trong Ta. Giữa vòng dân Ta, không có “chuột túi,” “bọ cạp,” hay “rùa”. Tất cả đều là những bó lúa đầy dẫy sự sống”. Nếu không thấy một chiêm bao thiên thượng như vậy, tôi đã bỏ cuộc lâu rồi. Nhưng tôi đã thấy chiêm bao này. Tôi đã thấy mình là một bó lúa và tất cả những người mà trong mắt tôi là “chuột túi” cũng là những bó lúa. Trong cái nhìn của Đức Chúa Trời, họ là những bó lúa.

Cách đây nhiều năm, tôi đã cầu nguyện với Chúa bằng những lời kiện cáo. Tôi thuật lại cho Ngài những việc xấu mà tôi đã thấy. Trong lời cầu nguyện đó, tôi nói: “Chúa ôi, con đã bỏ nghề nghiệp, dâng đời sống và tương lai con cho công tác này. Nhưng Chúa hãy xem những người này!” Dầu vậy, cuối cùng chiêm bao đến và Chúa phán với tôi: “Ngươi không tốt hơn họ đâu. Cao lắm thì ngươi cũng chỉ là một bó lúa, và tệ mấy, họ cũng là những bó lúa”. Ban đầu, tôi băn khoăn và tranh luận với Chúa rằng: “Chúa ôi, Ngài không triệt để. Ngài hời hợt quá. Ngài không thấy lòng họ sao?” Nhưng Chúa phán: “Ta không nhìn họ theo cách nhìn của con. Ta nhìn họ theo cái nhìn của Ta. Trong Giê-ru-sa-lem Mới không có ‘chuột túi; và ‘bọ cạp’”.

Một ngày nọ, tôi nhận được sự giúp đỡ lớn qua việc đọc lời tiên tri của Ba-la-am trong Dân Số Ký chương 23. Theo sách Dân Số Ký, con cái Ítx-ra-ên đã làm nhiều điều ác. Ba-la-am được một vua ngoại đạo mướn để rủa sả Ítx-ra-ên và phơi bày điều ác trong Ítx-ra-ên. Nhưng Đức Chúa Trời đã phán qua Ba-la-am, và Ba-la-am đã nói: “Ngài chẳng xem tội ác nơi Gia-cốp,/ Và không thấy tà-vạy trong Ítx-ra-ên” (Dân. 23:21). Dường như Đức Chúa Trời đang phán: “Ta không chú ý đến tội ác nào trong dân Ta. Ta không thấy điều ngang ngạnh sai lầm nào trong họ”.

Ê-li đã than phiền nghịch cùng Ítx-ra-ên rằng: “Con cái Ítx-ra-ên đã bội giao ước Ngài, phá hủy các bàn thờ Ngài, dùng gươm giết các tiên tri Ngài; chỉ một mình tôi còn lại, và họ cũng kiếm thế cất mạng sống tôi” (1Các Vua 19:10). Ê-li đang kiện cáo Ítx-ra-ên trước mặt Đức Chúa Trời. Không vui với điều này, Chúa phán: “Nhưng Ta đã để dành lại cho Ta trong Ítx-ra-ên bảy ngàn người không quì gối xuống trước mặt Ba-anh, và môi họ chưa hôn nó” (1Các Vua 19:18). Đừng đến với Chúa theo cách kiện cáo người khác trước mặt Ngài. Thay vì thế, anh em nên nói với Ngài: “Chúa ôi, vì Ngài không nhìn thấy tội ác nên con cũng không muốn thấy. Tất cả ‘những chuột túi’ và ‘bọ cạp’ đều là những bó lúa, và con yêu họ”.

Tuy nhiên, điều này không dễ làm. Thậm chí anh em có thể nghĩ rằng tôi đang dạy anh em nói dối, vì anh em có thể nói: “Anh A, anh B nào đó thật tồi tệ. Tôi không thể nói anh ta là bó lúa”. Nhưng ai hợp lý Đức Chúa Trời hay anh em? Còn chiêm bao thì sao? Nếu đã thấy chiêm bao thiên thượng, thì anh em cũng thấy rằng trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, toàn thể dân Ngài đều là những bó lúa đầy dẫy sự sống để sản sinh lương thực dùng làm của lễ chay hầu làm vui thỏa Đức Chúa Trời và con người.

(b) Là Mặt Trời, Mặt Trăng Và Các Vì Sao Sáng 

Trong Kinh Thánh, có nguyên tắc xác quyết bởi hai người làm chứng. Vì thế, Giô-sép có hai chiêm bao. Trong chiêm bao thứ hai của Giô-sép, ông thấy mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao đều sấp mình xuống trước ông (37:9). Điều này cho thấy rằng trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, tất cả những người bị định tội và bị kiện cáo đều đầy ánh sáng. Hãy cẩn thận để không kiện cáo anh chị em mình. Phương diện cai trị trong sự trưởng thành của sự sống không bao giờ định tội người khác; trái lại, là chăn dắt và đánh giá cao họ, rằng: “Ô, nếp sống Hội Thánh và tất cả các thánh đồ đều thật kỳ diệu! Các thánh đồ là những bó lúa đầy dẫy sự sống. Họ có đầy dưỡng chất và thật thỏa mãn làm sao! Hơn nữa, họ là những vì sáng trên trời dẫy dẫy sự sáng”. Nếu anh em nói rằng như vậy là nói dối và anh em không thể làm việc đó, điều này có nghĩa là anh em đã không thấy chiêm bao, không thấy khải tượng này. Anh em đang thiếu cái nhìn thiên thượng.

Cho tôi hỏi câu này với những người đã ở trong nếp sống Hội Thánh một thời gian dài: Anh em có còn cảm thấy Hội Thánh là hết sức tốt đẹp và mọi thánh đồ đều kỳ diệu không? Nếu thành thật, anh em phải thừa nhận rằng mình đã chỉ trích những thánh đồ nào đó với vợ hay chồng mình. Có lẽ cách đây vài năm, anh em có cảm nhận tích cực về tất cả các anh chị em, nhưng hiện nay thì không. Cách đây vài năm, theo cái nhìn thiên nhiên của anh em, mọi thánh đồ đều hết sức tốt đẹp. Nhưng ngày nay, anh em cần thấy chiêm bao thiên thượng. Trong Sáng Thế Ký chương 37 có hai chiêm bao. Một là những bó lúa đầy dẫy sự sống và một là các thiên thể đầy dẫy sự sáng. Đây là cách nhìn của Đức Chúa Trời, cái nhìn thiên thượng về dân Ngài. Vì có cái nhìn thiên thượng này nên tôi được khích lệ rất nhiều. Tôi không làm việc với “những chuột túi” và “những bọ cạp”. Tôi đang phục vụ những bó lúa, tôi đang ở dưới mặt trời và mặt trăng, và tôi đang bước đi giữa những vì sao. Chiêm bao Giô-sép đã thấy giống như khải tượng trong Khải Thị chương 12, tại đó dân Đức Chúa Trời được biểu tượng bởi người đàn bà mình mặc mặt trời, chơn đạp mặt trăng, đầu đội mão miện bằng mười hai ngôi sao. Chúng ta cần một khải tượng như vậy để thấy dân Đức Chúa Trời từ quan điểm thiên thượng.

Một điều chắc chắn là: Hễ ai chỉ trích Hội Thánh hay đổ lỗi cho các thánh đồ sẽ bị mất sự sống. Không có trường hợp ngoại lệ. Có thể anh em đúng và Hội Thánh thật sự là sai. Tình trạng của các thánh đồ có thể là tình trạng của “những chuột túi” và “bọ cạp”. Nhưng nếu định tội họ, anh em sẽ bị tổn thất sự sống. Tuy nhiên, nếu nói: “Chúa ôi, con ngợi khen Ngài vì dân Ngài đầy dẫy sự sống và ánh sáng,” thì anh em sẽ là người đầu tiên dự phần trong sự sống. Vì lý do này, tôi không dám nói các anh chị em là không tốt. Trái lại, tôi luôn nói: “Ngợi khen Chúa! Các thánh đồ tốt đẹp dường bao!” Khi làm điều này, tôi vui hưởng sự sống. Nhưng nếu tôi chỉ trích anh chị em, lập tức tôi bị chết. Không ai nói tiêu cực về Hội Thánh hay các thánh đồ mà hưởng được sự sống. Trái lại, tất cả những ai nói tiêu cực phải gánh chịu sự chết. Chúng ta cần nói: “Ngợi khen Chúa, anh em con chắc chắn là một vì sáng trên trời! Nếu hôm nay, anh ấy chưa là như thế, thì tương lai anh ấy sẽ là”. Với Đức Chúa Trời, không có yếu tố thời gian. Trên trời không có đồng hồ mà chỉ có cõi sự đời đời. Vì Đức Chúa Trời nhìn dân Ngài theo quan điểm đời đời, nên Ngài nhìn tất cả họ là những bó lúa đầy dẫy sự sống và như mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao đầy dẫy ánh sáng.

(c) Được Đặt Ở Trên Trời, Nhưng Sống Ở Trên Đất 

Mặc dù dân Ngài được đặt ở trên trời như mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, nhưng họ sống trên đất như những bó lúa (Phi. 3:20; 2:15), vì lúa mọc trên đồng. Ngày nay, chúng ta là dân thiên thượng đang sống trên đất.

Chúng ta là dân của Đức Chúa Trời. Nhờ điều này mà tôi được khích lệ, được mạnh mẽ và được soi sáng. Tôi có đức tin trọn vẹn nơi tất cả anh em và mong mỏi được thấy tất cả anh em trong Giê-ru-sa-lem Mới. Tôi thích có cái nhìn đời đời, không phải cái nhìn từ đất này. Tôi không muốn nhìn mọi điều theo tầm nhìn giới hạn của mình. Trái lại, tôi muốn dùng viễn vọng kính thần thượng. Nếu nói rằng các anh chị em rất xấu, có nghĩa anh em bị cận thị nặng. Nhưng nếu dùng viễn vọng kính thần thượng để nhìn xuyên qua thời gian, anh em sẽ ngắm nhìn Giê-ru-sa-lem Mới là nơi không có gì ngoài những bó lúa và ngôi sao. Trong Giê-ru-sa-lem Mới, không có “những chuột túi” hay “bọ cạp”. Mọi sự ở đó đầy tràn sự sống và ánh sáng. Khi xem xét các chiêm bao của Giô-sép, chúng ta nhận thức rằng không một tâm trí con người nào có thể viết nên sách Sáng Thế Ký. Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể khiến Giô-sép có những chiêm bao này.

(d) Thực Ra Là Đầy Tội 

Mặc dầu thấy hai chiêm bao đó, nhưng Giô-sép vẫn bị các anh ghét bỏ và mưu hại ngay trong chương này. Hơn nữa, trong chương tiếp theo, chúng ta thấy sự tham dục của Giu-đa. Điều này cho thấy trên thực tế, các con của Gia-cốp vẫn đầy tội. Tuy nhiên, trong cái nhìn thiên thượng, họ không gian ác; họ là những bó lúa đầy dẫy sự sống và những ngôi sao đầy dẫy ánh sáng. Lý do hai chương này được đặt với nhau là để chúng ta có thể có sự đối chiếu. Trong cái nhìn của Đức Chúa Trời, các con của Gia-cốp là sáng chói, nhưng thực ra họ thật tối tăm. Trên thực tế, họ đầy dẫy tội. Bây giờ chúng ta có thể hiểu vì sao chương 38 tiếp theo chương 37.

(e) Christ Vẫn Đến Qua Họ 

Dầu các con của Gia-cốp đầy tội, nhưng Christ vẫn đến qua họ (38:27-30; Mat. 1:3). Do tội gớm ghiếc đã phạm trong chương 38, hai người con trai được sanh ra, mà người con đầu là tổ phụ của Christ. Pha-rê, người được nhắc đến trong gia phổ của Christ ở Ma-thi-ơ chương 1, là một trong các tổ phụ của Christ. Theo Lời Kinh Thánh, Christ đã đến qua các con trai đầy tội của Gia-cốp. Điều này tương tự với việc Đa-vít phạm tội với Bát-sê-ba. Hậu quả của tội phạm đó là Sa-lô-môn, cũng là một tổ phụ của Christ, mà qua ông, Christ đã đến (Mat. 1:6).

Đừng nghĩ rằng Hội Thánh là không tốt đẹp và đừng chê trách các thánh đồ hay nói rằng họ là “những bọ cạp”. Từ trong một Hội Thánh dường như vô vọng, đầy những thánh đồ, mà theo mắt anh em là những “bọ cạp”, thì Christ sẽ đến. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ làm điều ác để điều thiện có thể đến. Trái lại, đó là chứng cớ về ân điển tể trị của Đức Chúa Trời. Dầu tín đồ tốt hay xấu, chúng ta phải cẩn thận để không nói nghịch lại họ. Nếu làm như vậy, Đức Chúa Trời sẽ phán: “Ta không thấy bất cứ tội ác hay điều ngang ngạnh sai lầm nào ở giữa họ. Đấng Christ của Ta sẽ đến qua họ. Các ngươi không được lên án họ”. Tất cả chúng ta cần thấy một khải tượng thiên thượng như thế.

Đời sống trưởng thành có phương diện cai trị. Càng trưởng thành trong sự sống, anh em sẽ càng ít nói tiêu cực về các thánh đồ hay Hội Thánh. Khi bước vào Hội Thánh, chúng ta hưởng được tuần trăng mật của nếp sống Hội Thánh. Tuy nhiên, tuần trăng mật này không bao giờ kéo dài. Sau khi tuần trăng mật của nếp sống Hội Thánh không còn nữa, anh em có thể nói: “Tôi nghĩ Hội Thánh lẽ ra rất tốt. Nhưng thực tế, chẳng tốt đẹp gì. Nếu tìm thấy nơi nào tốt hơn, chắc chắn tôi sẽ không ở lại đây nữa. Nhưng thật tiếc mà nói, tôi không thể tìm ra nơi nào tốt hơn. Dầu vậy, tôi vẫn đang tìm kiếm. Thậm chí tôi có thể đến nơi nào đó để bắt đầu điều gì đó của riêng mình. Bất kể tôi làm gì, thì Hội Thánh ở đây chắc chắn là không tốt lắm”. Hễ khi nào nói như vậy, anh em sẽ chết. Nhưng đến một ngày, chiêm bao thiên thượng sẽ đến và cách nhìn của anh em sẽ được cách mạng hóa. Anh em sẽ nhận thức rằng mình không dám nói bất cứ điều tiêu cực nào về Hội Thánh hay các thánh đồ. Trái lại, anh em sẽ nói: “Đây là Hội Thánh, và đây là dân của Đức Chúa Trời. Trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, những người tin đều là các bó lúa. Họ cũng là mặt trời, mặt trăng và những vì sao”. Khi đạt đến giai đoạn này, anh em sẽ không dám nói bất cứ điều gì tiêu cực về Hội Thánh.

Sau khi thấy một khải tượng như thế, đôi lúc tôi vẫn nói: “Vâng, tôi thấy Hội Thánh là kỳ diệu, nhưng thực tế thì không”. Khi nói như vậy, “cái đuôi” lòi ra. Ngay cả “cái đuôi” này cũng khiến tôi phải chết. Cuối cùng, tôi bị khuất phục và được thuyết phục hoàn toàn, và thưa: “Chúa ôi, con đã quên rằng mình bị cận thị và phải dùng đến viễn vọng kính thần thượng. Không có gì sai với Hội Thánh. Hội Thánh là hoàn hảo và trọn vẹn”. Khi nói lời này, tôi lại đầy sự sống và vui hưởng sự sống. Đối với tôi, mỗi anh chị em đều kỳ diệu, và tôi thương yêu hết thảy, kể cả những người sa bại. Càng nói theo cách này về anh chị em, tôi càng đầy dẫy sự sống. Tôi tin rằng nhiều người trong chúng ta đã kinh nghiệm điều này. Chúng ta không phải là thẩm phán. Đức Chúa Trời là Thẩm Phán. Và Ngài không xét xử các thánh đồ, nhưng đang hành động trên họ để biến đổi “những bọ cạp” trở thành những bó lúa, “những chuột túi” trở thành những vì sao. Cuối cùng, tất cả chúng ta sẽ là những bó lúa và những vì sao. Nguyện tất cả chúng ta đều có cái nhìn đời đời này.

(6) Dân Ngài Ở Dưới Sự Cai Trị Của Ngài 

Cuối cùng, tất cả những người thuộc Giô-sép đều ở dưới sự cai trị của ông (37:8). Giô-sép tượng trưng cho phương diện cai trị của đời sống trưởng thành. Chỉ có đời sống trưởng thành mới có thể cai trị, giống như Christ cai trị dân Do-thái (Mat. 27:11; Giăng 19:19).

 

Witness Lee





 

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2