"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:6870189
Đang truy cập:163

Sáng Thế Ký 101, 102, 103, 104, 105

lav dosis naltrexon

naltrexon

naltrexone buy uk

buy naltrexone online cheap

ciproxin torrino

ciproxin sciroppo

  

Bài Một Trăm LẺ Một

Ý Nghĩa Thuộc Linh 
Của Lời Chúc Phước Tiên Tri Về 
Giu-Đa, Sa-Bu-Lôn Và Y-Sa-Ca
 (2)

Theo Cựu Ước, mười hai con trai của Gia-cốp được xếp thành bốn nhóm, mỗi nhóm ba người. Lời chúc phước mang tính tiên tri của Gia-cốp trong chương 49 dựa trên các nhóm này. Chúng ta đã đề cập nhóm thứ nhứt, gồm có Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi.Nhóm này hoàn toàn xấu xa trong cách nhìn của Đức Chúa Trời. Ru-bên thì ô uế, còn Si-mê-ôn và Lê-vi thì hung dữ. Lời chép về nhóm thứ nhứt là khởi đầu phần ký thuật về mười hai con trai của Gia-cốp. Một khởi đầu thật đáng tiếc! Dầu vậy, điều này nên là sự khích lệ cho chúng ta vì khởi đầu của chúng ta cũng rất đáng chê trách.

Nhóm thứ hai bao gồm Giu-đa, Sa-bu-lôn và Y-sa-ca. Vì Christ đến với nhóm này nên đây là nhóm của sự chiến thắng. Trong nhóm này, chúng ta có Phúc Âm, sự rao giảng Phúc Âm và nếp sống Hội Thánh.

Một số người nghĩ rằng [nếu] nói chúng ta tìm thấy trong Sáng Thế Ký chương 49 sự rao giảng Phúc Âm và nếp sống Hội Thánh là kết quả của sự rao giảng đó, là nói quá. Xin nhớ rằng chi phái thứ nhứt trong nhóm thứ hai là Giu-đa, và phương diện có ý nghĩa nhất của phần ký thuật về Giu-đa là sư tử. Câu 9 nói: “Giu-đa là một sư tử tơ;/Hỡi con, con đã bắt được mồi rồi đem lên,/ Nó sụm gối, nằm khác nào sư tử đực, như sư tử cái” (theo Bản Hê-bơ-rơ). Câu này được giải thích bởi Khải Thị 5:5, tại đó Christ được gọi là Sư Tử thuộc chi phái Giu-đa. Không có Khải Thị 5:5, sẽ khó mà giải thích Sáng Thế Ký 49:9. Nhưng với Khải Thị 5:5, không ai có thể phủ nhận rằng Giu-đa tiêu biểu cho Christ.

Dầu Tân Ước thường giải thích các dấu hiệu và biểu tượng trong Cựu Ước nhưng không luôn luôn đưa ra chi tiết cho những lời giải thích này. Sáng Thế Ký chương 49 có ba phương diện về Giu-đa là một sư tử: sư tử tơ, sư tử nằm nghỉ và sư tử cái. Tuy nhiên, Khải Thị chỉ nói về Sư Tử thuộc chi phái Giu-đa cách tổng quát, không nói gì về các phương diện chi tiết này. Những người quá cứng nhắc sẽ nói: “Bây giờ đừng đi quá xa. Chúng ta chỉ có thể nói những gì Tân Ước nói, không được nói thêm điều gì”. Điều này là đúng. Sáng Thế Ký chương 49 bày tỏ rằng Giu-đa là một sư tử trong ba phương diện, nhưng Tân Ước chỉ cho lời giải thích cách tổng quát. Vậy tại sao chúng ta không nên tiếp tục đưa ra các lời giải thích chi tiết?

Trong Tân Ước, có ít nhất hai hay ba chỗ cho thấy Tân Ước không cho chúng ta biết mọi điều (Hêb. 5:11; 9:5; 11:32). Hãy xem Hê-bơ-rơ 11:32: “Tôi còn nói chi nữa?Vì nếu tôi nói về Ghê-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn. Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên và các tiên tri, thì không đủ thì giờ”. Ở đây dường như tác giả Hê-bơ-rơ muốn nói: “Tôi không có thì giờ để nói mọi điều. Tôi chỉ nói đến một phần của những gì Cựu Ước nói. Còn nhiều điều tôi chưa đụng đến”. Thế thì về điều này chúng ta nên làm gì? Đích thân chúng ta phải đến với Chúa và cầu hỏi Ngài. Tác giả Sách Hê-bơ-rơ đã đi đầu trong việc cho chúng ta cách giải thích Cựu Ước. Ông không có thì giờ để giải thích mọi điều. Ông để lại điều gì đó để chúng ta phát triển bằng cách chính chúng ta trực tiếp đến với Chúa.Không ai không tán thành nguyên tắc này. Tuy nhiên, một số giáo sư Cơ-đốc biện luận rằng nếu Tân Ước không nói về một điều nào đó, thì chúng ta cũng không nên nói bất cứ gì về điều đó.

Dầu có lời giải thích rất rõ ràng về Giu-đa trong Khải Thị chương 5, nhưng Tân Ước nói gì về Sa-bu-lôn và Y-sa-ca? Có sự giải thích phần nào về Sa-bu-lôn trong Ma-thi-ơ 4:15, nhưng không có sự giải thích gì về Y-sa-ca. Theo những người cứ khăng khăng cho rằng nên yên lặng khi Tân Ước yên lặng, thì chúng ta không nên nói bất cứ điều gì về Y-sa-ca. Nhưng chúng tôi không đồng ý với quan niệm thiển cận như thế. Sự kiện chi phái Giu-đa có một ý nghĩa thuộc linh hoàn toàn được chứng minh trong Khải Thị chương 5. Chi phái Sa-bu-lôn và Y-sa-ca không nên có ý nghĩa thuộc linh có được không? Có ý nghĩa thuộc linh cho Giu-đa, nhưng không có ý nghĩa thuộc linh cho các chi phái còn lại trong cùng nhóm sao? Nói như vậy là không lô-gíc, là vô lý.

Như đã chỉ ra trong sứ điệp trước, với Giu-đa có ba điểm chính: chiến thắng của Christ, Vương Quốc của Christ và yên nghỉ trong sự vui hưởng những sự giàu có của Christ trong sự sống. Chúng ta thấy chiến thắng của Christ trong các câu 8 và 9, Vương Quốc của Christ trong câu 10 và sự yên nghỉ cùng sự vui hưởng các phong phú của Christ trong sự sống ở các câu 11 và 12. Ba điểm này không phải là sự giải thích tùy tiện về các câu này. Nếu cho rằng tôi giải thích tùy tiện, thì xin hỏi tại sao trong câu 9, sư tử tơ được đề cập trước rồi mới đến sư tử nằm nghỉ và sư tử cái. Vì sao có thứ tự này? Tại sao không đặt sư tử cái trước? Theo sự đề cập tam diện về sư tử, trong câu 10 chúng ta có quyền trượng và cây phủ việt của kẻ lập pháp, chỉ về vương quyền và Vương Quốc. Tại sao Vương Quốc lại tiếp theo sư tử? Tại sao không đề cập Vương Quốc trước? Sau vương quyền, chúng ta có điều thứ ba là sự yên nghỉ trong sự vui hưởng các phong phú của Christ trong sự sống. Nếu không theo sự giải thích được bày tỏ trong sứ điệp trước về việc buộc lừa vào cây nho, anh em sẽ giải thích những từ này như thế nào? Chúng có nghĩa gì? Hơn nữa, giặt sạch áo xống mình trong rượu nghĩa là gì? Cũng vậy, mắt đỏ vì rượu và răng trắng vì sữa nghĩa là gì? Vì Tân Ước chỉ cho lời giải thích câu 9 trong Khải Thị 5:5, nên cần có một số lời giải thích cho các câu 11 và 12. Những lời giải thích này là gì? Về tất cả những điểm trong câu 9 đến 12, chúng ta cần dành nhiều thì giờ yên lặng trong hiện diện của Chúa và nói: “Chúa ơi, Ngài nói gì về điều này? Buộc lừa vào cây nho nghĩa là gì?” Chúa sẽ phán: “Nếu xem Kinh Thánh, con sẽ thấy lừa được dùng để đi đến một mục tiêu nào đó. Con lừa đang đi như vậy phải làm việc luôn”. Khi ấy, anh em sẽ nói: “Chắc chắn rằng con là một con lừa như thế. Con cần buộc con lừa này vào cây nho”. Cây nho được nói đến trong câu 11 là Đấng Christ. Trong Giăng 15:1, Christ phán: “Ta là Cây Nho thật”. Vì thế, buộc lừa vào cây nho có nghĩa là buộc lừa mình vào Christ. Đây chính là minh họa duy nhất về cách hiểu đúng đắn phân đoạn Lời này.

II. Về Sa-Bu-Lôn 
–Rao Giảng Tin Mừng VỀ Christ 

A. Xuất Cảng Các Sự Giàu Có Của Christ 

Câu 13 nói: “Sa-bu-lôn sẽ ở nơi gành biển,/ Và người sẽ làm chỗ ẩn náu của các tàu”. Câu này không nói: “Sa-bu-lôn sẽ ở trong chuồng đầy những ngựa và lừa”. Hơn nữa, câu này không nói Sa-bu-lôn sẽ ở trên núi. Chi phái Giu-đa ở trong vùng đồi núi, khu vực quanh núi Si-ôn, nơi đặt thủ đô của nước này. Tuy nhiên, Sa-bu-lôn ở nơi cảng biển. Điều này rất có ý nghĩa.

Giu-đa tiêu biểu cho Đấng Christ đắc thắng, Đấng đã giành chiến thắng cho Vương Quốc để dân Ngài có thể yên nghỉ trong Ngài. Chắc chắn Giu-đa phải cư ngụ trên núi.Nhưng Sa-bu-lôn ở nơi gành biển, hải cảng. Cảng là nơi để xuất khẩu hàng hóa, để những chuyến tàu ra khơi. Vì thế, đến phân đoạn Lời này, chúng ta thấy có hai cách vận chuyển là bằng lừa và bằng tàu. Những hình ảnh như vậy thường được dùng trong Kinh Thánh. Chẳng hạn như Giăng 1:29 chép: “Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời!” Hình ảnh đơn sơ về Chiên Con của Đức Chúa Trời mô tả nhiều điều. Cũng vậy, có nhiều điều được mô tả qua hình ảnh về con lừa và các tàu buồm trong chương 49. Lừa là loài thú dùng để chuyên chở hàng hóa bằng sức lao động của nó. Nhưng thời xưa, tàu buồm chạy bằng sức gió. Rõ ràng điều này chỉ về sự chuyên chở Phúc Âm về Christ. Giu-đa là nhà máy sản xuất Phúc Âm và Sa-bu-lôn là hải cảng xuất khẩu Phúc Âm do Giu-đa sản xuất.

Ma-thi-ơ 4:15 cho thấy Sa-bu-lôn là phần đất thuộc Ga-li-lê. Chúa Jesus bắt đầu chức vụ rao giảng Phúc Âm Vương Quốc của Ngài từ Ga-li-lê. Sau khi Ngài phục sinh, thiên sứ đã truyền cho những người nữ đến báo tin cho môn đồ Ngài rằng: “Kìa, Ngài đi qua Ga-li-lê trước các ngươi; tại đó các ngươi sẽ thấy Ngài” (Mat. 28:7). Và tại Ga-li-lê, Đấng Christ phục sinh đã gặp các môn đồ và truyền cho họ phải rao giảng Phúc Âm. Các môn đồ “đi qua Ga-li-lê, đến núi mà Jesus đã hẹn,” và chính tại đó, Ngài phán với họ rằng: “Hãy đi, khiến muôn dân trở nên môn đồ Ta” (Mat. 28:16,19, Theo Bản Hi-lạp). Sa-bu-lôn là phần đất thuộc Ga-li-lê. Công Vụ 1:11 bày tỏ rằng những người giảng Phúc Âm đầu tiên là người Ga-li-lê. Trong Công Vụ 1:8, Chúa phán với những người Ga-li-lê này rằng: “Nhưng khi Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lãnh quyền năng, rồi làm chứng nhân cho Ta tại Giê-ru-sa-lem, cả Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến cùng trái đất”. Bởi tất cả điều này, chúng ta thấy Sa-bu-lôn tiêu biểu cho sự rao giảng Phúc Âm. Giu-đa tiêu biểu cho Phúc Âm bao gồm Đấng Christ đắc thắng, Vương Quốc của Christ và sự yên nghỉ trong sự vui hưởng các phong phú của Christ.Đây là Phúc Âm mà Giu-đa đại diện. Vì thế, Giu-đa là chi phái sản sinh Phúc Âm. Sau khi Phúc Âm được sản sinh thì cần có sự rao giảng. Do đó, Sa-bu-lôn đến để thực hiện sứ mạng này, bốc dỡ gánh nặng xuất cảng Phúc Âm.

Cách đúng đắn để Phúc Âm được xuất cảng không phải bằng những con lừa vận chuyển bởi sức lao động cực nhọc của chúng. Cách đúng đắn là xuất khẩu Phúc Âm bằng tàu chạy sức gió thiên thượng. Trong Công Vụ 1:8, Chúa dặn những người Ga-li-lê rao giảng Phúc Âm này hãy chờ cho đến khi nhận được quyền năng từ trên cao, và Công Vụ 2:2 chép: “Thình lình có tiếng từ trời đến như gió lốc thổi ào ào”. Từ lúc đó trở đi, nhiều tàu buồm bắt đầu ra khơi. Một trong những tàu buồm sống động này mang tên Phi-e-rơ. Vào ngày Ngũ Tuần, Phi-e-rơ không phải là một con lừa đang hành trình và lao nhọc, nhưng đang nói với người khác rằng Jesus là Cứu Chúa và họ phải tin nơi Ngài, bằng không, họ sẽ hư mất. Ông là một tàu buồm đang chạy bằng sức gió ào ào.Sự rao giảng Phúc Âm trong Cơ-đốc giáo ngày nay chủ yếu được thực hiện bởi những con lừa lao khổ. Nhưng khi đọc lời giảng của Phi-e-rơ trong Công Vụ chương 2, anh em thấy vào Lễ Ngũ Tuần, ông đang như một tàu buồm lướt gió chứ không như một con lừa di chuyển chậm chạp.

Tôi cũng muốn chỉ ra rằng Phúc Âm được xuất cảng bằng tàu buồm, không bằng tàu hơi nước chạy bằng động cơ nhân tạo. Đừng dùng bất cứ mánh lới quảng cáo nào trong việc rao giảng Phúc Âm. Rao giảng Phúc Âm bằng mánh lới quảng cáo là thay đổi từ tàu buồm sang tàu chạy bằng hơi nước. Lịch sử chứng tỏ rằng Phúc Âm không bao giờ được xuất cảng bởi những con lừa hoặc tàu chạy bằng hơi nước. Theo lịch sử Hội Thánh, hễ khi nào Phúc Âm được tiến hành, thì phải được tiến hành bởi những tàu buồm, bởi những thánh đồ chuyển động như những tàu buồm chạy bằng sức gió thiên thượng.

Nếu không giải thích câu 13 theo cách này, anh em sẽ giải thích như thế nào? Sa-bu-lôn có phải là hải cảng để chuyên chở khoai tây, cam hay ô-liu không? Đừng bỏ qua văn mạch của cả Kinh Thánh. Sự giải thích về nhóm thứ hai, gồm ba chi phái, được chi phối bởi Giu-đa. Ý nghĩa về Giu-đa chi phối sự giải thích này. Giu-đa tiêu biểu cho Christ là Phúc Âm. Theo lịch sử thuộc linh, Sách Công Vụ tiếp theo bốn Sách Phúc Âm, và Công Vụ là Sách của những người truyền giáo Ga-li-lê. Những người truyền giáo Ga-li-lê này là những tàu buồm chạy bằng sức gió thiên thượng. Vì Giu-đa sản xuất các sự giàu có của Christ nên cần Sa-bu-lôn xuất khẩu những sự phong phú này đến các nước khác.

B  Đến Thế Giới Dân Ngoại 

Câu 13 cũng chép: “Bờ cõi người chạy về hướng Si-đôn”. Câu này không nói bờ cõi người chạy về hướng Giê-ru-sa-lem. Si-đôn là một thành Ngoại Bang bên ngoài Đất Thánh, nằm ven biển, và từ đó, có đường hàng hải đi đến tận cùng trái đất. Vì câu 13 là thể thơ nên cần được giải thích theo cách nói bóng. Trong câu này chúng ta có bến tàu và bờ cõi thế giới dân Ngoại. Lịch sử rao giảng Phúc Âm trong Công Vụ tương ứng với điều này. Trong Công Vụ, những người rao giảng Phúc Âm đầu tiên đã đi thuyền từ Đất Thánh đến Tiểu Á rồi băng qua Biển Ê-giê để đến Hi-lạp, La-mã và Tây-ban-nha.Trước hết sứ đồ Phao-lô đã từ Đất Thánh đi tàu đến Si-đôn, và sau cùng, đến La-mã (Công. 27:3; 28:14). Do đó, câu 13 được ứng nghiệm trong lịch sử rao giảng Phúc Âm đã được ghi lại trong Sách Công Vụ.

Một ngày nọ, tôi nghiên cứu cuốn Synopsis (Phúc Âm nhất lãm) của Darby để xem ông nói gì về Sa-bu-lôn. Ông nói rằng việc bờ cõi chạy đến Si-đôn cho thấy sự pha trộn với thế giới dân Ngoại. Ngay cả một học giả Kinh Thánh lớn như Darby còn phạm sai lầm trong việc giải thích về Sa-bu-lôn. Khi tìm cách giải thích ý nghĩa của Sa-bu-lôn, chắc ông đã quên Giu-đa, chi phái đầu tiên trong nhóm này. Hơn nữa, hẳn ông đã không xem ý nghĩa của Sa-bu-lôn như được bày tỏ trong Tân Ước. Trong Tân Ước, chúng ta thấy Sa-bu-lôn ở trong Ga-li-lê của các dân, từ nơi đó, những người truyền giáo Ga-li-lê đã được sai đi. Vì thế, chúng ta phải cẩn thận khi chấp nhận ý kiến của người khác. Dầu bước theo một số giáo sư Kinh Thánh nào đó, nhưng chúng ta không nên theo ai một cách mù quáng. Trái lại, chúng ta nên kiểm tra từng điểm cách kỹ lưỡng và cẩn thận bằng Kinh Thánh. Theo lịch sử, sau khi Phúc Âm được sản sinh trong Giu-đa thì việc rao giảng Phúc Âm được Sa-bu-lôn thực hiện.

Trong phần ký thuật về Giu-đa, từ quan trọng là sư tử, và trong phần ký thuật về Sa-bu-lôn, từ quan trọng là những tàu buồm. Sư tử ở số ít trong khi những tàu buồm ở số nhiều. Chỉ có một Christ nhưng có nhiều người truyền giáo Ga-li-lê. Có một Phúc Âm, nhưng có nhiều tàu buồm. Hội Thánh tại Anaheim là một bến tàu. Chúng ta là những con tàu trong cảng đang sửa soạn ra khơi với Christ là Phúc Âm. Thưa các bạn trẻ, anh em có phải là những tàu buồm Ga-li-lê sẵn sàng ra khơi không? Là tàu buồm, anh em phải sẵn sàng ra khơi. Nhưng đừng ra khơi để khởi xướng một phong trào.

C. Vui Mừng Đi Ra 

Hàng trăm năm sau khi Gia-cốp nói lời chúc phước mang tính tiên tri được ghi lại trong Sáng Thế Ký chương 49, thì Môi-se, người ban hành luật pháp lão luyện, nói rằng: “Hỡi Sa-bu-lôn, khá vui mừng về việc mình đi ra” (Phục. 33:18). Sự đi ra được đề cập trong câu này chỉ về sự xuất cảng. Vì thế, lời của Môi-se tương ứng với lời của Gia-cốp. Gia-cốp ví Sa-bu-lôn với những tàu buồm, tất nhiên là dùng để ra khơi, và Môi-se bảo Sa-bu-lôn hãy vui mừng trong sự đi ra. Nếu đi ra để rao giảng Phúc Âm, chúng ta sẽ vui mừng. Người vui mừng và hạnh phúc nhất là người rao giảng Phúc Âm. Nếu là tàu buồm chạy bằng sức gió thiên thượng, anh em sẽ vui mừng, hân hoan, vui mừng cực độ. Tiếp theo Giu-đa, Sa-bu-lôn xuất hiện như sự rao giảng Phúc Âm. Ha-lê-lu-gia! Chúng ta có Giu-đa như bốn Sách Phúc Âm và Sa-bu-lôn như Sách Công Vụ!

III. Về Y-Sa-Ca – Nếp Sống Hội Thánh 

Bây giờ chúng ta đến với Y-sa-ca. Thật quan trọng khi Y-sa-ca không xếp trước Sa-bu-lôn. Ý nghĩa thuộc linh của Y-sa-ca là gì? Câu 14-15 nói: “Y-sa-ca là một con lừa mạnh mẽ,/ Nằm nghỉ giữa các chuồng;/ Thấy rằng sự yên nghỉ là tốt lành,/ Và đất đai thật thoải mái” (theo Bản Hê-bơ-rơ). Sau bốn Sách Phúc Âm và Công Vụ, chúng ta có các Thư Tín, đề cập đến vấn đề nếp sống Hội Thánh. Do đó, Y-sa-ca tượng trưng và đại diện cho nếp sống Hội Thánh.

A. Yên Nghỉ Trong Hội Thánh 

Y-sa-ca được ví như con lừa mạnh mẽ nằm nghỉ giữa các chuồng (c. 14). Việc đề cập đến con lừa trong câu 14 nối câu này với câu 11, là câu nói về việc buộc lừa tơ vào cây nho. Do đó, con lừa nối kết Y-sa-ca với Giu-đa. Trong Giu-đa, trong Phúc Âm, chúng ta có lừa tơ buộc vào Christ là Cây Nho. Trong Y-sa-ca, trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta có con lừa mạnh mẽ nằm nghỉ giữa các chuồng. Trong Sáng Thế Ký chương 49, nằm nghỉ có nghĩa là yên nghỉ trong sự thỏa mãn. Sau khi Christ, Sư Tử Tơ, bắt được mồi và vui hưởng, Ngài nằm nghỉ, yên nghỉ trong sự thỏa lòng. Ở đây, trong câu 14, có con lừa mạnh mẽ nằm nghỉ giữa các chuồng. Trong Giu-đa, chúng ta là những con lừa tơ, nhưng ở đây, trong Y-sa-ca, chúng ta là những con lừa mạnh mẽ. Những con lừa mạnh mẽ này không đang lao nhọc cũng không đang hành trình, nhưng đang nằm nghỉ. Ban đầu khi bước vào nếp sống Hội Thánh, có lẽ anh em là một lừa tơ.Nhưng bây giờ, sau một số năm trong Hội Thánh, anh em có thể là một con lừa mạnh mẽ đang nằm nghỉ.

Xin lưu ý rằng con lừa nằm nghỉ này không đang yên nghỉ trong các chuồng; trái lại, nó đang yên nghỉ giữa các chuồng. Mỗi giáo phái và tôn giáo là một chuồng. Ngày nay, chúng ta không yên nghỉ trong bất cứ chuồng giáo phái nào. Thay vì thế, chúng ta yên nghỉ bên ngoài các chuồng này. Trong Giăng chương 10, Chúa nói rõ rằng Do-thái giáo là một chuồng đang giam giữ bầy của Đức Chúa Trời, và Ngài đã vào chuồng này để dẫn bầy Ngài ra khỏi. Trong Giăng 10:16, Chúa phán: “Ta còn nhiều chiên khác chẳng thuộc về chuồng này; Ta cũng cần dẫn nó về nữa, chiên đó sẽ nghe tiếng Ta, rồi chỉ có một bầy, và một người chăn mà thôi”. Ha-lê-lu-gia! Con lừa nằm nghỉ này không đang yên nghỉ trong bất cứ chuồng nào; mà đang nằm nghỉ giữa các chuồng. Dầu không ở xa các chuồng nhưng nó không ở trong bất cứ chuồng nào. Điều này chính xác là tình trạng của chúng ta ngày nay. Chúng ta không ở xa các chuồng giáo phái nhưng đang ở giữa vòng họ.

Anh em có thể tự hỏi làm thế nào một con lừa có thể ở giữa vòng các chuồng. Trong một ý nghĩa, chúng ta thảy đều là chiên của bầy. Nhưng theo người thiên nhiên, tất cả chúng ta đều là lừa. Nhiều lúc tôi khá vui với chính mình trước mặt Chúa và ngợi khen Ngài rằng: “Chúa ơi, cảm tạ Ngài vì con được ở trong Hội Thánh của Ngài. Con là một trong nhiều chiên của bầy Ngài”. Tuy nhiên, những lúc khác, tôi nhìn mình và nói: “Ngươi không giống một con chiên, có lẽ là một con lừa, con ngựa hay con bò. Đôi khi thậm chí ngươi giống như con trâu”. Ban đêm, khi mọi công việc đã xong và ngồi yên lặng trong hiện diện Chúa, anh em có thể nói: “Chúa ơi, con ngợi khen và cảm tạ Ngài biết bao vì con được ở trong bầy Ngài”. Nhưng đồng thời anh em có thể nhìn vào chính mình và nói: “Thật tội nghiệp, tôi không giống như chiên mà giống như ngựa hay bò”.Theo bản chất của mình, không ai trong chúng ta là chiên cả. Thay vì thế, chúng ta là lừa hay ngựa, bò hay trâu. Tuy nhiên, chúng ta cũng là những người được biến đổi. Dầu là một người Hoa điển hình nhưng tôi đã được biến đổi. Sanh ra là người Hoa, nhưng tôi đã trở thành một Cơ-đốc nhân qua sự tái sinh. Nguyên thủy, tôi là con lừa, nhưng bởi sự tái sinh, bây giờ tôi là chiên nằm nghỉ giữa các giáo phái. Do đó, chúng ta là một bầy lừa được biến đổi ở giữa các chuồng chiên. Chúng ta thừa nhận rằng mình không được sanh ra là chiên. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta là bầy nằm nghỉ giữa các chuồng chiên.

Khi Y-sa-ca nằm nghỉ giữa các chuồng chiên, “ông thấy sự yên nghỉ là tốt lành” (c. 15). Tất cả chúng ta đã thấy sự yên nghỉ tốt lành này. Thật có sự yên nghỉ tốt lành giữa các chuồng! Đây là sự yên nghỉ trong nếp sống Hội Thánh, làm chúng ta ngưng laonhọc, và yên nghỉ trong Christ (Mat. 11:28). Khi nằm nghỉ ở đây, chúng ta thấy sự yên nghỉ này là tốt lành.

B. Vui Hưởng Đấng Christ Thoải Mái

Câu 15 cũng nói Y-sa-ca thấy “miền đất thật thoải mái”. Khi yên nghỉ trong nếp sống Hội Thánh giữa các chuồng giáo phái, chúng ta vui hưởng sự yên nghỉ tốt lành và miền đất thoải mái, phong phú. Miền đất này là Christ. Nếu xem xét trong kinh nghiệm, anh em sẽ thấy điều này đúng. Khi yên nghỉ trong nếp sống Hội Thánh giữa các giáo phái, chúng ta thấy sự yên nghỉ tốt lành và miền đất thoải mái này là chính Đấng Christ như đồng cỏ xanh tươi. Nếu không giải thích như vậy, những câu này chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng nếu giải thích theo cách đó, các câu này sẽ đầy ý nghĩa và làm mạnh mẽ kinh nghiệm của chúng ta.

C. Dẫn Đến Công Tác 
Như Một Của Dâng Cho Chủ 

Câu 15 cũng nói: “Người đã kê vai gánh vác và trở thành tôi tớ đang làm việc”(Theo Bản Hê-bơ-rơ). Điều này đúng với kinh nghiệm chúng ta. Khi yên nghỉ trong nếp sống Hội Thánh, nằm nghỉ giữa các giáo phái, nhận thức được sự yên nghỉ và vui hưởng miền đất thoải mái, chúng ta sẵn sàng kê vai để phục vụ và gánh một trách nhiệm nào đó. Chúng ta trở nên một tôi tớ chịu làm việc. Sự làm việc này không chỉ về công việc theo sự lựa chọn của chúng ta, mà là một công việc nào đó đã được ấn định.Đó không phải là công việc chúng ta chọn nhưng là công việc được Chúa ấn định. Đó là nhiệm vụ được Đầu ấn định cho chúng ta là những Chi Thể của Thân. Bất cứ điều gì chúng ta làm như một phần được ấn định trong sự phục vụ Thân Thể thì đó là công tác.Cuối cùng, công tác này trở thành của dâng cho Chủ chúng ta. Sau khi sản sinh Phúc Âm, chúng ta có sự rao giảng. Kết quả của sự rao giảng Phúc Âm, chúng ta có nếp sống Hội Thánh. Trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta đều là những con lừa nằm nghỉ giữa các sự chia rẽ; thấy sự yên nghỉ tốt lành và vui hưởng Christ là miền đất thoải mái. Khi nằm nghỉ, tự phát chúng ta nói: “Chúa Jesus ôi, con yêu Ngài. Con muốn mang gánh nặng của công tác mà Ngài đã định cho con. Con sẵn sàng mang một gánh nặng như vậy dưới sự giao khoán của Ngài để con có thể có điều gì đó dâng cho Ngài làm Ngài thỏa lòng”. Đây là của dâng mà chúng ta dâng lên cho Vua mình. Thật kỳ diệu dường bao!

D.  Vui Mừng Trong Nếp Sống Hội Thánh

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:18 nói: “Hỡi Sa-bu-lôn, khá vui mừng về việc mình đi ra,/ Còn ngươi, Y-sa-ca, hãy hớn hở trong các trại mình”. Chúng ta thấy Môi-se bảo Sa-bu-lôn hãy vui mừng trong việc đi ra. Bây giờ, chúng ta thấy Y-sa-ca hớn hở trong trại mình. Chắc chắn rằng trại ở đây chỉ về nếp sống Hội Thánh. Về sự rao giảng Phúc Âm, chúng ta phải vui mừng trong việc ra đi. Nhưng về nếp sống Hội Thánh, chúng ta phải hớn hở trong việc cứ ở trong các Hội Thánh địa phương.

IV. Tổng Kết

A. Các Dân 
Được Mời Đến Núi Của Đức Chúa Trời

Sau việc sản sinh Phúc Âm, rao giảng Phúc Âm và kết quả của việc rao giảng Phúc Âm, tức nếp sống Hội Thánh, chúng ta đến phần tổng kết được tìm thấy trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:19. Câu này nói: “Họ sẽ mời các dân tộc lên núi, tại đó họ sẽ dâng các sinh tế của sự công chính, vì họ sẽ hút sự dư dật của biển và những bửu vật ẩn dưới cát”. (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Trước hết, lúc kết cuộc, các dân sẽ được mời đến núi của Đức Chúa Trời. Trong nếp sống Hội Thánh ngày nay, chúng ta đang mời người khác đến núi của Đức Chúa Trời, tức đến Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Tất nhiên, sự mời gọi này sẽ được ứng nghiệm hoàn toàn trong thời đại Vương Quốc Ngàn Năm. Trong Vương Quốc Ngàn Năm, qua sự rao giảng [Phúc Âm], tất cả các dân, các nước sẽ được mời đến Vương Quốc Đức Chúa Trời trên núi Si-ôn. Nhưng ngày nay, chúng ta có một bức tranh thu nhỏ về điều này trong nếp sống Hội Thánh. Do việc rao giảng Phúc Âm và nếp sống Hội Thánh, tức là do Sa-bu-lôn và Y-sa-ca, các dân được mời đến Vương Quốc của Đức Chúa Trời, đến núi của Đức Chúa Trời. Trong câu này, từ “các dân” được mời gọi đã nối kết Y-sa-ca với Giu-đa, tức Đấng “mà các dân sẽ vâng phục” (c. 10, Theo Bản Hê-bơ-rơ).

B. Các Sinh Tế Của Sự Công Chính Được Dâng Cho Đức Chúa Trời 

Thứ hai, trên núi này các dân sẽ dâng các sinh tế của sự công chính cho Đức Chúa Trời. Trong Vương Quốc Đức Chúa Trời, trong nếp sống Hội Thánh ngày nay, các của lễ công chính như vậy đang được dâng lên cho Ngài (1Phi. 2:5; Hêb. 13:15-16; Phi. 4:18). Tất cả các sinh tế chúng ta dâng cho Đức Chúa Trời trong nếp sống Hội Thánh đều thuộc về sự công chính, theo sự đòi hỏi công chính của Đức Chúa Trời. Trong Vương Quốc hầu đến, điều này cũng sẽ như vậy (Mal. 3:3).

C. Hội Thánh Và Vương Quốc
 Trở Nên Sự Vui Hưởng Của Chúng ta 

Thứ ba, Hội Thánh và Vương Quốc trở nên sự vui hưởng của chúng ta. Điều này được biểu hiện qua những từ: “Họ sẽ hút sự dư dật của biển và của những bửu vật ẩn trong cát”. Để giải thích câu này, chúng ta cần xem các dụ ngôn về báu vật và ngọc châu trong Ma-thi-ơ 13:44-46. Trong Ma-thi-ơ chương 13, báu vật chỉ về Vương Quốc và ngọc châu chỉ về Hội Thánh. Tôi tin sự dư dật của biển trong câu 19 là Hội Thánh.Chắc chắn rằng, biển tượng trưng cho các nước, thế giới dân Ngoại. Từ trong thế giới dân Ngoại, Hội Thánh được sản sinh như sự dư dật. Tất cả tín đồ dân Ngoại là sự dư dật của biển, sự dư dật của các nước. Đây là Hội Thánh. Vương Quốc là báu vật giấu trong cát, hay trong đất. Nếu áp dụng sự giải thích đúng đắn của hai dụ ngôn trong Ma-thi-ơ chương 13 vào Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:19, chúng ta sẽ thấy kết quả của Phúc Âm, của việc rao giảng Phúc Âm và của nếp sống Hội Thánh như kết quả của Phúc Âm, là sự vui hưởng nếp sống Hội Thánh và Vương Quốc. Thậm chí ngày nay, chúng ta đang hút sự dư dật của biển và của những bửu vật giấu trong cát. Chúng ta đang hút nếp sống Hội Thánh và nếp sống Vương Quốc. Nếp sống Hội Thánh là sự dư dật ra từ các nước và nếp sống Vương Quốc là báu vật giấu trong đất. Thậm chí ngày nay nó vẫn còn bị giấu kín. Những người ngoài cuộc không hiểu điều chúng ta đang làm gì trong Hội Thánh. Họ có thể nói: “Tôi không thể hiểu những người đó. Dường như mọi buổi tối họ đều nhóm với nhau. Họ đang làm gì?” Chúng ta đang hút sự dư dật của biển và của những bửu vật giấu trong cát.

Trong nhóm thứ hai này về các con trai Gia-cốp, chúng ta có Phúc Âm được tiêu biểu bởi Giu-đa và được chép đầy đủ trong bốn Sách Phúc Âm; sự rao giảng Phúc Âm được tiêu biểu bởi Sa-bu-lôn và được chép đầy đủ trong Sách Công Vụ; nếp sống Hội Thánh được tiêu biểu bởi Y-sa-ca và được chép đầy đủ trong các Sách còn lại của Tân Ước, bắt đầu từ Sách La-mã. Kết quả là sự vui hưởng nếp sống Hội Thánh và nếp sống Vương Quốc. Để hiểu Sáng Thế Ký chương 49, phải dùng cả Kinh Thánh. Để giải thích dù chỉ một nhóm thứ hai cũng phải dùng cả Tân Ước. Trong bốn Sách Phúc Âm, chúng ta thấy Giu-đa là Phúc Âm, trong Sách Công Vụ chúng ta thấy Sa-bu-lôn là sự rao giảng Phúc Âm, và trong các Thư Tín và Sách Khải Thị chúng ta thấy Y-sa-ca là nếp sống Hội Thánh. Tổng kết của toàn bộ điều này là việc chúng ta vui hưởng, hút lấy nếp sống Hội Thánh phong phú và Vương Quốc. Ha-lê-lu-gia! Ngày nay chúng ta có Giu-đa, Sa-bu-lôn, Y-sa-ca và sự tổng kết! Với Giu-đa, chúng ta có Sư Tử, Đấng Christ duy nhất và Phúc Âm duy nhất; với Sa-bu-lôn, chúng ta có nhiều tàu buồm và nhiều người Ga-li-lê; và với Y-sa-ca, chúng ta có các trại, tức nhiều hội thánh địa phương.Chúng ta có Christ là Phúc Âm, có sự rao giảng Phúc Âm và có nếp sống Hội Thánh.Bây giờ chúng ta là bầy nằm nghỉ giữa các chuồng chiên, vui hưởng nếp sống Hội Thánh và nếp sống Vương Quốc.

Một số Cơ-đốc nhân ngày nay chỉ quan tâm đến Giu-đa, chỉ quan tâm đến đời sống đắc thắng trong Christ, trong khi người khác lại quan tâm đến Sa-bu-lôn, sự rao giảng Phúc Âm. Nhưng rất ít người quan tâm đến Y-sa-ca, nếp sống Hội Thánh. Tuy nhiên, trong sự khôi phục của Chúa, chúng ta phải quan tâm đến cả ba người trong nhóm này: với Giu-đa, có sự sống đắc thắng; với Sa-bu-lôn, có sự rao giảng Phúc Âm; và với Y-sa-ca, có nếp sống Hội Thánh, để chúng ta có thể có sự vui hưởng đầy trọn trong Christ.



Bài Một Trăm Lẻ Hai

Được Trưởng Thành
Biểu Lộ Sự Trưởng Thành 
(5)

Trong bài này, chúng ta đến với nhóm thứ ba về các con trai Gia-cốp. Như đã thấy rõ, lời tiên tri với sự chúc phước trong Sáng Thế Ký chương 49 không những mô tả đời sống của mười hai chi phái Ítx-ra-ên trong Cựu Ước mà còn mô tả đời sống thuộc linh của Cơ-đốc nhân trong Tân Ước. Điều này dựa trên nguyên tắc mười hai chi phái Ítx-ra-ên là hình bóng về Hội Thánh với mọi tín đồ. Do đó, mọi điều trong chương 49 là hình bóng, bức tranh; còn sự kinh nghiệm của chúng ta hôm nay là thực tại, sự ứng nghiệm lời tiên tri bằng sự chúc phước của Gia-cốp.

Lời tiên tri bằng sự chúc phước được Gia-cốp nói theo thể thơ ca. Thật khó để hiểu ngôn ngữ thơ ca. Ngôn ngữ thơ ca thật đầy ý nghĩa và mang tính mô tả, nhưng để dò tìm ý nghĩa sâu xa trong đó là không dễ. Nếu có thể dò ra các chiều sâu của ngôn ngữ thơ ca trong chương này, anh em sẽ thấy nó đầy ý nghĩa, phong phú và sâu sắc biết bao.

Một lý do khác khiến nhiều người đọc chương 49 thấy khó hiểu vì họ thiếu kinh nghiệm Cơ-đốc. Dù có khả năng hiểu được ngôn ngữ thơ ca trong chương này nhưng chúng ta vẫn có thể thiếu kinh nghiệm cần thiết để biết cách áp dụng. Để hiểu lời tiên trinhư thế, chúng ta phải biết ngôn ngữ trên văn tự, biết lịch sử của mười hai chi phái Ítx-ra-ên, biết ý nghĩa của những hình bóng thi ca và phải có kinh nghiệm. Gia-cốp dùng nhiều hình bóng thi ca trong chương này: sư tử tơ, sư tử nằm nghỉ, sư tử cái, lừa con, lừa tơ, rượu, cây nho, áo xống, bến cảng, tàu buồm, con rắn và rắn độc. Để biết ý nghĩa của những hình ảnh này, biết cách giải thích tất cả những hình bóng này và áp dụng chúng vào hoàn cảnh, chúng ta cần kinh nghiệm. Lý do chương này bị đóng lại trong nhiều thế kỷ là vì thiếu kinh nghiệm.

Cách đây hơn năm mươi năm, tôi ngồi dưới chân một giáo sư lớn thuộc Hội Anh Em. Ông đã giảng nhiều bài giảng giải nghĩa Sáng Thế Ký chương 49, cho chúng tôi thấy các lời tiên tri này được ứng nghiệm trong các Sách tiếp theo của Kinh Thánh là như thế nào. Tuy nhiên, ông có một thiếu hụt lớn trong vấn đề kinh nghiệm. Tất cả những gì ông có chỉ là kiến thức ngôn ngữ theo văn tự. Nhưng vì không biết ý nghĩa thuộc linh của các hình ảnh này, ông đã không áp dụng gì cho kinh nghiệm Cơ-đốc ngày nay. Do đó, tôi không nhận được sự giúp đỡ nào từ ông trong sự sống hay kinh nghiệm thuộc linh. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm tạ Đức Chúa Trời vì được nghe từ ông sự giải thích và trình bày chương này theo cách lịch sử và Kinh Thánh. Về sau, bằng cách đặt chương này cùng với kinh nghiệm thuộc linh, tôi đã có thể bước vào ý nghĩa sâu nhiệm của lời tiên tri bằng sự chúc phước này.

Phần ký thuật về mười hai con trai của Gia-cốp bắt đầu với Ru-bên, một tội nhân.Không ai tội lỗi hơn Ru-bên. Dầu Phao-lô nói ông là tội khôi, nhưng tôi xin nói, thực ra Ru-bên là tội khôi, tội lỗi hơn cả Sau-lơ, người Tạt-sơ. Tội ông phạm thật kinh khủng!Khởi đầu kinh nghiệm Cơ-đốc của mình, chúng ta cũng là tội nhân. Chúng ta cảm tạ Chúa biết bao về sự thương xót của Ngài! Dầu từng là một Ru-bên, nhưng bây giờ tôi đã được cứu. Dầu lời tiên tri bằng sự chúc phước này bắt đầu với một tội nhân, nhưng đã kết thúc với hai con trai yêu dấu của Gia-cốp là Giô-sép và Bên-gia-min. Lời tiên tri này bắt đầu bằng một tội nhân và kết thúc bằng một vị vua, người cai trị, người có quyền lực. Giữa Ru-bên và Giô-sép, chúng ta có Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Sa-bu-lôn, Y-sa-ca, Đan, Gát, A-se, và Nép-ta-li.

Chúng ta đã thấy lời tiên tri này bắt đầu bằng một nhóm tội nhân là Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi. Tội của Ru-bên là tham dục, tội của Si-mê-ôn và Lê-vi là sự hung dữ do tính khí của họ. Ma-thi-ơ chương 5 cũng nói về tội tham muốn và nóng giận. Sau nhóm tội nhân này, những người đầy sự tham dục và nóng giận, Christ hiện đến như Sư Tử.Giu-đa là Christ, tức là tin mừng của chúng ta. Tiếp theo là Sa-bu-lôn, bến cảng để xuất cảng Phúc Âm, và Y-sa-ca là sự vui hưởng nếp sống Hội Thánh. Thật kỳ diệu thay! Ngày nay, có còn một số Ru-bên giữa chúng ta không? Chúng ta phải tuyên bố rằng trong Hội Thánh, không có Ru-bên, không có Si-mê-ôn, còn tất cả những Lê-vi đã trở thành thầy tế lễ. Do đó, không còn tội nhân nữa. Christ ở đây và Ngài là mọi sự. Vì Christ ở đây nên chúng ta có tin mừng được xuất cảng qua sự rao giảng Phúc Âm, và có nếp sống Hội Thánh. Ha-lê-lu-gia! Chúng ta không còn là tội nhân nữa! Chúng ta đang ở trong nếp sống Hội Thánh. Một mặt, chúng ta là bến cảng để xuất cảng Christ, mặt khác, chúng ta là những trại để ở với Christ trong sự vui hưởng Ngài

9) Về Đan

a) Sư Tử Tơ Chiến Đấu Để Chiếm Nhiều Đất Hơn

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:22 chép: “Người chúc về Đan rằng: Đan là một sư tử tơ,/ Từ Ba-san nhảy xông đến” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Việc đề cập đến sư tử tơ trong câu này nối nhóm thứ hai với nhóm thứ ba trong số mười hai con trai, cho thấy nhóm thứ ba là sự nối tiếp của nhóm thứ hai. Hình ảnh quan trọng trong nhóm hai là sư tử; và Đan, người đầu tiên trong nhóm thứ ba, cũng được gọi là sư tử. Là sư tử tơ, Đan không chiến đấu để bắt mồi nhưng để chiếm nhiều đất hơn (Giô-suê 19:47; Các Quan Xét 18:27-29). Do câu này chúng ta thấy rằng sư tử tơ đã tiến triển từ chỗ chiến đấu để bắt mồi đến chiến đấu để chiếm đất. Theo hình bóng, chiến đấu để chiếm nhiều đất hơn có nghĩa là chiến đấu để chiếm nhiều Christ hơn. Sư tử tơ trong Giu-đa là để bắt mồi. Nhưng sư tử ở đây đang chiến đấu để chiếm nhiều đất hơn, để chiếm nhiều Christ hơn. Trong Các Quan Xét chương 18, chúng ta thấy Đan là một sư tử tơ, chiến đấu để chiếm nhiều đất hơn.

b) Một Con Rắn, Rắn Lục Trên Đường, 
Cắn Vó Ngựa Làm Cho Kẻ Cỡi Phải Té Nhào 

Sau khi Đan nhận được thành Đan trong Các Quan Xét 18, thì có một hình tượng do Mi-ca làm ra, được dựng lên trong thành (Các Quan Xét 17:4-5; 18:30-31). Lúc đó, Đền Tạm của Đức Chúa Trời ở Si-lô. Nhưng trong thành của Đan có một hình tượng. Ngày nay, chúng ta có ánh sáng để hiểu ý nghĩa thuộc linh của điều này. Điều đó có nghĩa là một số Cơ-đốc nhân có khả năng chiếm hữu Christ nhiều hơn. Nhưng sau khi có Christ nhiều rồi, họ dựng lên một trung tâm thờ phượng khác. Theo Phục Truyền Luật Lệ Ký, trong miền đất tốt lành chỉ nên có một trung tâm thờ phượng duy nhất cho dân Đức Chúa Trời (Phục. 12:11,13-14,21; 14:23-26). Tại trung tâm duy nhất này có danh của Đức Chúa Trời và nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Trong suốt thời kỳ của Sách Các Quan Xét, trung tâm thờ phượng này ở Si-lô, nơi có Đền Tạm của Đức Chúa Trời và các thầy tế lễ. Dầu Đan đã giành chiến thắng, nhưng chiến thắng này làm cho ông trở nên độc lập. Mọi sự độc lập đều xuất phát từ lòng kiêu ngạo. Đừng nghĩ rằng sự thành đạt thuộc linh không thể làm anh em kiêu ngạo. Ngay cả sự đạt được Christ cũng có thể làm anh em kiêu ngạo. Đây là điều được gọi là kiêu ngạo thuộc linh. Những ai kiêu ngạo thuộc linh sẽ không chịu phục người khác. Trái lại, họ nói: “Sao chúng tôi phải đến Si-lô? Chúng tôi có thể dựng một điều gì đó cho chính mình chứ”. Ngay sau chiến thắng của Đan, một trung tâm thờ phượng khác, với hình tượng do Mi-ca làm ra, đã được thiết lập trong thành của Đan

Nếu xem xét lịch sử Cơ-đốc giáo, anh em sẽ thấy loại sự việc này đã xảy ra nhiều lần. Một cá nhân hay một nhóm tín đồ nào đó đã chiến thắng trong việc đạt được Christ nhiều hơn. Nhưng sự đạt được Christ này làm họ kiêu ngạo và độc lập. Vì không muốn thuận phục người khác, họ dựng lên một trung tâm thờ phượng khác. Lẽ ra họ phải đến trung tâm thờ phượng tại Si-lô vì các thầy tế lễ do Đức Chúa Trời chỉ định ở tại Si-lô. Nhưng họ đã dựng lên một điều gì đó do con người tạo ra và qui định. Đây là hành động lẻn vào của con rắn, kẻ quỉ quyệt.

Con rắn trong Sáng Thế Ký chương 3 lại xuất hiện trong Các Quan Xét chương 18. Bằng cách này, Đan, sư tử tơ trở thành con rắn. Sáng Thế Ký 49:17 chép: “Đan sẽ là một con rắn trên đường,/ Một con rắn độc trong chốn nẻo cùng,/ Cắn gót ngựa,/ làm cho kẻ cỡi phải té nhào” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Con rắn ở đây thì độc hơn con rắn trong Sáng Thế Ký chương 3, vì ở đây nó là một rắn độc. Nếu không biết lịch sử trong Cựu Ước, ý nghĩa thuộc linh và cách ứng dụng thực tế, thật khó hiểu được câu này. Tuy nhiên, nếu biết tất cả những điều này, chúng ta thấy đã có những Đan trong lịch sử Cơ-đốc giáo. Ban đầu, những Đan này là những sư tử tơ đạt được nhiều Christ hơn, nhưng cuối cùng lại trở thành con rắn, thậm chí là rắn độc, dựng lên các trung tâm thờ phượng khác nhau. Ngay cả ngày nay, nhiều người thuộc linh, là những người đã đạt được điều gì đó của Christ; đã dựng lên một trung tâm thờ phượng khác ngoài trung tâm duy nhất do Đức Chúa Trời chỉ định và thiết lập. Chúng ta cần áp dụng điều này cho chính mình và tự hỏi mình có đang dựng một trung tâm thờ phượng khác hay không. Thật hổ thẹn và đau khổ khi nói rằng trong mười lăm năm qua, giữa vòng chúng ta có ít nhất hai hay ba người đã làm điều này. Họ đã đạt được điều gì đó, nhưng sự thành đạt này khiến họ kiêu ngạo và độc lập, không muốn phục tùng điều Chúa đã chỉ định. Kết quả là, những trung tâm khác được dựng lên. Điều này khiến một số người té ngã.

Trong Sáng Thế Ký chương 49, đây là lời tiên tri. Nhưng ngày nay chúng ta thấy lời tiên tri này đã ứng nghiệm trong lịch sử trước đây và trong hoàn cảnh hiện nay. Một lần nữa, điều này thuyết phục chúng ta rằng Kinh Thánh thực sự được Đức Chúa Trời cảm thúc. Bức tranh về Đan ở đây thật ấn tượng biết bao! Ngày nay, chúng ta thấy các trung tâm thờ phượng với những hình tượng thuộc linh, với cái gọi là những hình ảnh thuộc linh. Hình tượng và các trung tâm thờ phượng riêng biệt đã trở thành đá vấp chân lớn nhất cho nước Ítx-ra-ên. Bằng cách đọc các Sách lịch sử trong Cựu Ước, chúng ta thấy rằng do việc đem hình tượng này vào, Đan thực sự đã trở thành một con rắn độc. Con rắn này cắn gót chân ngựa và làm cho kẻ cưỡi ngựa phải té nhào. Điều này có nghĩa là con rắn này đã trở thành một sự cản trở lớn kìm giữ dân Ngài. Khi họ cỡi [ngựa], Đan đã cắn những gót chân ngựa và làm họ phải té nhào; nghĩa là, ông cản trở họ tiến lên.

c) Gia-cốp Trông Đợi Sự Cứu Rỗi Của Chúa 

Về điểm này, Gia-cốp nói: “Hỡi Giê-hô-va, tôi trông đợi ơn chửng cứu của Ngài” (c. 18). Sau khi nói về Đan là một con rắn bên đường và một rắn độc trên chốn nẻo cùng, cắn gót ngựa, Gia-cốp đã kêu xin sự cứu rỗi của Chúa. Nếu thấy tình trạng của những Đan ngày nay, chúng ta cũng phải kêu: “Chúa ơi, xin cứu chúng con. Chúa ơi, hãy cứu chúng con khỏi những Đan, khỏi những hình tượng và khỏi những trung tâm thờ phượng khác. Chúa ơi, cứu chúng con khỏi con rắn và rắn độc này. Ôi Chúa, xin cứu chúng con đừng bị rắn cắn”. Không chỉ cầu nguyện, Gia-cốp còn kêu cầu danh Chúa. Câu này không chép: “Tôi đang trông đợi sự cứu rỗi của Ngài,” hay “Tôi sẽ trông đợi sự cứu rỗi của Ngài”. Nhưng chép: “Tôi đang trông đợi sự cứu rỗi của Ngài”. Dường như Gia-cốp muốn nói: “Chúa ơi, với tình trạng này của Đan, không gì có thể giải cứu ngoài sự cứu rỗi của Ngài. Chỉ sự cứu rỗi của Ngài mới có thể cứu chúng con khỏi điều tai hại, sự thiệt hại này. Chúa ơi, con đã và đang trông đợi sự cứu rỗi của Ngài. Ôi Chúa, con kêu gào với Ngài. Con kêu cầu Ngài. Thưa Chúa, chúng con cần sự cứu rỗi của Ngài”.

Trải suốt lịch sử, nhiều Đan đã trở thành con rắn dựng lên những hình tượng để ngăn cản người khác. Lòng chúng ta đã bị tổn thương cách sâu xa bởi điều này. Năm 1969, một trung tâm thờ phượng khác được dựng lên, và những người trẻ đã bị nó gây cản trở. Nhiều gót ngựa đã bị cắn và nhiều người trẻ cỡi chúng đã té nhào. Điều duy nhất chúng ta có thể làm trước tình trạng như vậy là kêu cầu Chúa và nói: “Chúa ơi, con trông đợi sự cứu rỗi của Ngài”. Trước đây chúng ta đã thấy sự cứu rỗi của Chúa, và ngày nay, chúng ta vẫn còn thấy. Tôi có thể làm chứng rằng nhiều người đã được cứu không bị rắn cắn.

Chúng ta đã thấy Đan trước hết là sự nối tiếp của Giu-đa, sự nối tiếp chiến thắng của Christ. Sau đó, Đan sa vào việc thờ lạy hình tượng. Hễ khi nào sự thờ lạy hình tượng được đưa vào, nơi đó có con rắn. Đàng sau mỗi hình tượng có một ác linh. Đàng sau mỗi hình tượng là kẻ quỉ quyệt tìm kiếm sự thờ lạy của con người. Vì thế, khi hình tượng được dựng lên, Đan trở thành một con rắn. Nói cách khác, vì Đan là một với hình tượng, nên ông trở thành Sa-tan. Sau sự sa ngã đáng sợ này, sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời đã đến. Ngợi khen Chúa vì sự cứu rỗi của Ngài! Lịch sử làm chứng điều này, môi trường và tình hình hiện nay chứng thực điều này. Chúng ta đã thấy sự sa ngã và đã thấy tình trạng có con rắn xuất hiện. Nhưng chúng ta cũng thấy sự cứu rỗi của Chúa. Ha-lê-lu-gia! Nhiều người đã được cứu! Ôi Chúa, chúng con trông đợi sự cứu rỗi của Ngài.

d) Vẫn Còn Là Một Trong Các Chi Phái (Quyền Trượng) 
Xét Đoán Dân Mình 

Gia-cốp nói tiên tri rằng Đan sẽ xét đoán dân mình như một trong các chi phái Ítx-ra-ên (c. 16). Lời tiên tri bằng sự chúc phước này cho thấy Gia-cốp lo lắng Đan sẽ bị dứt bỏ. Theo luật pháp Môi-se, bất cứ ai dựng một hình tượng hay thờ lạy hình tượng phải bị dứt khỏi dân sự (Phục. 13: 5-18). Giữa mười hai chi phái, Đan đã đem hình tượng vào. Vì vậy, theo luật pháp, Đan sẽ bị kết liễu không còn là một chi phái nữa. Do đó, vì không muốn thấy một trong các con trai mình bị dứt bỏ nên bởi lòng thương yêu, Gia-cốp đã chúc phước cho Đan theo cách tiên tri. Đây là lý do vì sao Gia-cốp nói rằng Đan vẫn sẽ là một chi phái xét đoán dân mình. Lời này đặc biệt được ứng nghiệm nơi Sam-sôn, người thuộc chi phái Đan (Các Quan Xét 13:2,24; 15:20).

Gia-cốp nói rằng Đan sẽ xét đoán dân mình như một trong các chi phái Ítx-ra-ên. Từchi phái theo tiếng Hê-bơ-rơ trước hết có nghĩa là nhánh, sau đó là gậy, quyền trượng. Quyền trượng tượng trưng cho uy quyền. Do đó, từ chi phái theo tiếng Hê-bơ-rơ thực ra có nghĩa là cây phủ việt (vương trượng). Mỗi chi phái có một vương trượng, một uy quyền nào đó. Mười hai chi phái là mười hai vương trượng, mười hai quyền lực, mười hai uy quyền. Trong thời Sam-sôn, chắc chắn chi phái Đan đã trở thành một vương trượng. Với Sam-sôn, chi phái Đan là một quyền lực, uy quyền thật sự. Đây là ý nghĩa của lời chúc phước mang tính tiên tri của Gia-cốp về Đan trong câu 16. Lời của Gia-cốp không chỉ có nghĩa là Đan sẽ còn là một chi phái mà còn là một vương trượng, một uy quyền. Lời tiên tri này đã được ứng nghiệm.

e) Chi Phái Đan Bị Bỏ Qua Trong Sách 1Sử Ký Và Khải Thị
Nhưng Được Kể Là Một Chi Phái Trong Thiên Hi Niên

Trong 1Sử Ký chương 2 đến 9, chi phái Đan bị bỏ ra khỏi sổ bộ dân thánh của Đức Chúa Trời. Trong 1Sử Ký 2:2, tên của Đan được đề cập, nhưng trong phần ký thuật sau đó, chi phái của ông bị gạt bỏ ra. Hơn nữa, chi phái Đan cũng không được nói đến trong phần ký thuật ở Khải Thị chương 7. Bị gạt bỏ khỏi sổ bộ dân Ngài là một vấn đề nghiêm trọng. Chúng ta thấy lời cảnh báo này trong Tân Ước, trong Khải Thị 3:5, rằng kẻ đắc thắng sẽ không bị xóa tên khỏi Sách Sự Sống. Điều này hàm ý rằng tên của những tín đồ thất bại sẽ bị xóa khỏi Sách Sự Sống trong thời đại Vương Quốc hầu đến. Điều này không có nghĩa là những tín đồ thất bại này sẽ hư mất. Chi phái Đan đã không hư mất. Nhưng vì Đan đã sa ngã và trở nên một với kẻ thù của Đức Chúa Trời, trở thành rắn, và đem đá vấp chân đến cho dân Đức Chúa Trời, nên tên ông bị gạt bỏ khỏi sổ bộ trong 1Sử Ký và Khải Thị.

Nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay đã trở thành Đan. Dầu đã trở nên một với Sa-tan trong việc đem đá vấp chân đến gây cản trở cho dân Đức Chúa Trời, nhưng dường như họ chẳng quan tâm điều mình đã làm hoặc có cảm xúc gì về điều đó. Đúng vậy, Đức Chúa Trời sẽ tha thứ cho họ, nhưng tên họ sẽ không được tìm thấy trong sổ ghi chép trong suốt thời đại Vương Quốc hầu đến. Sẽ có một tình trạng mà tên của họ bị gạt bỏ. Dầu bị gạt bỏ khỏi sổ ghi chép trong 1Sử Ký và Khải Thị do sự gian ác của mình nhưng Đan vẫn còn là một chi phái trong Thiên Hi Niên do lời chúc phước của cha ông (Êx. 48:1). Đây là bức tranh về sự thương xót của Đức Chúa Trời.

Chúng ta không nên đọc phần ký thuật về Đan chỉ như lịch sử mà phải thấy đó là bóng, hình ảnh về kinh nghiệm của chúng ta là Cơ-đốc nhân. Dầu có thể là sự nối tiếp của Giu-đa, chiến thắng của Christ, nhưng chúng ta phải cẩn thận. Thường là sau khi chiến thắng, có hiểm họa là việc chúng ta đạt được Christ lập tức khiến chúng ta kiêu ngạo và độc lập, khiến chúng ta không muốn thuận phục người khác. Vào lúc đó, chúng ta có thể dựng lên một trung tâm thờ phượng khác, và do đó, trở nên một với Sa-tan, kẻ thù của Đức Chúa Trời. Điều này sẽ khiến chúng ta bị mất mát lớn. Chúng ta sẽ không hư mất vì một khi đã được cứu, chúng ta được cứu đời đời. Nhưng hoàn toàn có khả năng là, trong một thời kỳ nào đó và trong hoàn cảnh nào đó, chúng ta có thể bị gạt bỏ khỏi sổ của dân Đức Chúa Trời.

10) Về Gát 

a) Bị Một Đạo Binh Tấn Công Và Xông Đánh, 
Đuổi Theo Gót Họ 

Do sự thất bại của Đan, Gia-cốp đã kêu cầu Chúa về sự cứu rỗi của Ngài. Chúa đáp lời kêu cầu của ông. Vì thế, sau Đan, chúng ta có Gát là sự nối tiếp của Đan. Câu 19 chép: “Còn Gát sẽ bị một đạo binh xông đánh,/ Nhưng người xông đánh lại và đuổi theo [người tấn công sát gót họ]” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Với Đan, chúng ta thấy sự bại trận, nhưng với Gát, chúng ta thấy chiến thắng được giành lại. Đừng xem xét về Đan tách rời khỏi Gát hay Gát tách rời khỏi Đan. Họ là các phần của một tổng thể. Đan kết thúc với sự thất bại, nhưng Gát, người sẽ tấn công sát gót đạo binh xông đánh, xuất hiện với chiến thắng được giành lại.

b) Được Đức Chúa Trời Mở Rộng 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:20 chép: “Đáng ngợi khen thay Đấng để Gát nơi khoảng khoát”. Bởi chiến thắng này, Gát được Đức Chúa Trời mở rộng. Điều này chính xác như kinh nghiệm thuộc linh của chúng ta. Cách đây ít lâu, chúng ta có thể đã bị đánh bại, nhưng bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời qua lời cầu nguyện của một số thánh đồ, sự cứu rỗi của Chúa đã đến với chúng ta. Nhờ đó, chúng ta giành lại chiến thắng. Bây giờ chúng ta không còn là Đan nữa –chúng ta là Gát, người tấn công sát gót kẻ thù. Qua chiến thắng này, chúng ta được Đức Chúa Trời mở rộng. Nhiều người trong chúng ta có thể làm chứng rằng Đức Chúa Trời đã mở rộng chúng ta.

c) An Cư Như Một Sư Tử Cái, Xé Cánh Tay, 
Thậm Chí Vương Miện Trên Đầu Con Mồi 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:20 nói: “Người an cư như một sư tử cái và xé cánh tay, thậm chí vương miện trên đầu” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Ở đây chúng ta thấy Gát là một sư tử cái. Gát không đang nằm dài ra; đúng ra, nó đang an cư. Đây là sự tiến triển hơn Giu-đa, là một sư tử nằm nghỉ. Gát đang an cư như một sư tử cái, xé cánh tay và thậm chí vương miện trên đầu con mồi. Trong ngôn ngữ thi ca của Môi-se, đỉnh đầu, vương miện chỉ về hộp sọ. Tất nhiên, con mồi này không phải là thú vật, nhưng là một thân vị. Gát xé cánh tay con mồi, thậm chi đến đầu, hộp sọ. Điều này có nghĩa là Gát mạnh đến nỗi không những đánh bại kẻ thù mà còn xé nó thành nhiều mảnh. Thậm chí, ông đập vỡ sọ nó thành từng mảnh. Lời thơ ở đây mô tả việc xé nát kẻ thù hoàn toàn. Là Gát, chúng ta đập tan Sa-tan ra từng mảnh. Trong Phục Truyền Luật Lệ Ký chương 33, sư tử cái không đang nằm nghỉ để vui hưởng mà đang an cư và xé nát kẻ thù ra từng mảnh. Có vẻ như Gát đang nói: “Ớ kẻ thù, đừng quấy rầy ta. Ta muốn ở đây bình an. Nhưng nếu ngươi gây rắc rối, không những ta xé cánh tay ngươi mà còn đập vỡ sọ ngươi ra từng mảnh. Sau đó, không ai còn thấy hình hài ngươi nữa”.

d) Kiếm Cho Mình Phần Đầu Nhứt Của Miền Đất Tốt Lành 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:21 nói về Gát rằng: “Người đã kiếm cho mình phần đầu nhứt của xứ,/ Bởi vì tại đó đã dành phần của đấng lập pháp” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Chiến thắng luôn luôn ban cho chúng ta sự mở rộng là sự bành trướng về không gian. Do đó, câu này nói rằng Gát đã kiếm cho mình phần đầu nhứt. Trong nhiều năm, tôi không thể hiểu điều này. Theo lịch sử trong Cựu Ước, phần trước tiên chỉ về phần đầu tiên của miền đất tốt lành ở phía đông sông Giô-đanh. Trong cuộc hành trình của họ, trước hết mười hai chi phái bước vào vùng đất này, nằm phía đông sông Giô-đanh. Khao khát miền đất màu mỡ, phong phú này, Ru-bên, Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se đã xin Môi-se ban nó cho họ. Dầu Môi-se đồng ý, nhưng ông truyền dặn họ đừng ở lại đó để vui hưởng miền đất tốt lành trong khi anh em của họ chưa nhận được phần ban trong xứ. Vì thế, Môi-se truyền cho họ phải chiến đấu để chiếm phần đất còn lại(Dân. 32:1-32). Sau điều đó, họ sẽ chia xứ cách công bằng. Nếu hai chi phái rưỡi này ở lại đó và không tiếp tục chiến đấu cho phần còn lại của xứ, họ sẽ không công bằng. Do đó, Gát đã chiếm cho mình phần đầu tiên này. Có một phần ban được dành riêng cho kẻ lập pháp. Điều này chỉ về sự kiện Môi-se, người ban luật pháp, đã được chôn tại đó (Phục. 32:48-52; 34:1-6)

e) Đến Với Các Đầu Trưởng Của Dân Sự 
Để Thi Hành Công Lý Của Chúa 
Và Các Qui Định Của Ngài Đối Với Ítx-ra-ên 

Câu 21 cũng chép: “Và người đến với các đầu trưởng của dân sự, để thi hành công lý của Chúa và các qui định của Ngài đối với Ítx-ra-ên” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Gát đã đến với các đầu trưởng của dân sự, những người lãnh đạo, để nhận phần còn lại của miền đất tốt lành để thi hành công lý của Chúa trong việc chia xứ và các qui định của Ngài cùng với Ítx-ra-ên (Giô-suê 22:1-5). Điểm thất bại của Đan là sự kiêu ngạo. Khi chiếm được đất nhiều hơn, Đan trở nên kiêu ngạo và dựng lên một trung tâm thờ phượng khác. Đan không quan tâm đến anh em mình. Trong kinh nghiệm thuộc linh, anh em phải cảnh giác với sự kiêu ngạo khi chiếm được nhiều đất hơn, nhiều Christ hơn. Đừng bao giờ dựng lên một trung tâm thờ phượng khác. Trái lại, phải quan tâm đến anh em mình. Đừng nói: “Tôi đã giành chiến thắng. Tôi có nhiều đất hơn, nhiều Christ hơn. Tôi không quan tâm đến người khác. Tôi sẽ ở đây để vui hưởng chiến thắng” Nếu làm như vậy, anh em sẽ bị đánh bại. Dầu đã chiếm được đất, anh em vẫn phải chú trọng đến nhu cầu của anh em mình. Anh em đã nhận được phần hưởng của mình, còn phần hưởng của anh em mình thì sao? Anh em phải đánh trận để chiếm phần còn lại của miền đất hầu cho tất cả anh em mình đều có phần hưởng. Vui hưởng phần đất được chia cho mà không giúp anh em mình nhận được phần hưởng của họ là không công bằng. Như vậy không phải là thi hành công lý của Đức Chúa Trời. Anh em phải tiến tới cùng với các anh em dẫn dắt khác để chiến đấu cho phần còn lại của miền đất. Khi đó, tất cả các anh em của mình đều có được phần ban. Làm như vậy là thi hành công lý của Chúa và giữ mạng lịnh Ngài cùng với Ítx-ra-ên.

Gát có nhiều điểm tốt. Ông đã giành lại chiến thắng, được mở rộng, và xé nát kẻ thù thành từng mảnh. Hơn nữa, dầu đã chiếm cho mình một chỗ nhưng ông đã không vui hưởng cho đến khi giúp các anh em mình chiếm được phần của họ. Đây là sự thi hành công lý của Chúa và của mạng lịnh Ngài. Tôi xin nói lại rằng, Đan cảnh báo chúng ta chớ kiêu ngạo, chớ độc lập hay dựng lên một trung tâm thờ phượng khác. Gát giúp chúng ta biết rằng ngay sau khi giành chiến thắng và được mở rộng, chúng ta không nên quên anh em mình. Chúng ta không nên yên nghỉ trong phần hưởng của mình cho đến khi giúp anh em nhận được phần hưởng của họ. Giành chiến thắng thuộc linh và đạt được Christ là điều thật kỳ diệu. Nhưng phải coi chừng kiêu ngạo. Anh em có thể dựng lên một trung tâm thờ phượng riêng, bỏ mặc anh em mình. Đừng bao giờ làm điều này. Đừng vui hưởng phần mình đã nhận được cho đến khi giúp anh em mình chiếm được phần của họ. Đừng kiêu ngạo và đừng quên anh em mình. Nghe những lời này sẽ giúp đỡ cho tất cả chúng ta. Bây giờ chúng ta biết nên gì làm sau khi có được chiến thắng của Christ. Chúng ta không nên thiết lập một trung tâm khác, nhưng nên quan tâm đến anh em, chiến đấu vì phần hưởng của họ.

11) Về A-se 

a) Thức Ăn Phong Phú Và Những Món Ngon Của Hoàng Gia

Sau Gát đến A-se. Thứ tự ở đây chắc chắn là bởi sự cảm thúc của Đức Chúa Trời. Câu 20 chép: “Do nơi A-se có bánh mì ngon béo,/ Người sẽ cung cấp mỹ vị cho các vua”. Bánh mì của Gát thật ngon béo, có nghĩa là thực phẩm của ông thật phong phú. Khi có chiến thắng của Christ và giúp anh em mình đạt được phần ban của họ trước khi chúng ta vui hưởng phần của mình, chúng ta có thực phẩm phong phú. Thực phẩm phong phú này thậm chí trở thành những món ngon của vua, cao lương mỹ vị. Đó không phải là thực phẩm dành cho dân thường, nhưng dành cho các vua, hoàng tộc. Những gì chúng ta vui hưởng trong sự sống đắc thắng không chỉ là thức ăn thường ngày mà còn là cao lương mỹ vị. Thực phẩm trong nếp sống Hội Thánh thật phong phú là điều không ai có thể phủ nhận. Nó thực sự phong phú đến nỗi trở thành cao lương mỹ vị của các vua. Chúng ta không chỉ là gia đình sư tử mà còn là hoàng tộc. Chúng ta là gia đình của vua và bữa ăn của chúng ta thật sang trọng. Bất cứ điều gì chúng ta được nuôi dưỡng trong các sứ điệp Nghiên Cứu Sự Sống này là những cao lương mỹ vị của các vua.

b) Được Phước Nhiều Hơn Các Con Trai 
Và Được Quí Mến Nhất Giữa Vòng Anh Em Mình 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:24 chép: “Nguyện cho A-se được phước giữa các con trai Ítx-ra-ên; hãy để người được quí mến giữa anh em mình” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Anh em có thể tự hỏi làm thế nào A-se có thể được phước nhiều hơn Giu-đa hay Giô-sép. Với A-se, được phước nhiều hơn các con trai Ítx-ra-ên có nghĩa là được phước nhiều hơn trong sự phong phú của thực phẩm và khoáng sản.

c) Dầm Chân Mình Trong Dầu 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:24 cũng chép: “Hãy để người dầm chân mình trong dầu”. Giu-đa thì giặt áo xống mình trong rượu, nhưng ở đây A-se thì dầm chân mình trong dầu. Khải Thị 6:6 nói đến việc chớ làm hại dầu và rượu. Vào thời đói kém, dầu và rượu trở nên khan hiếm. Rõ ràng, dầu ở đây là dầu ô-liu. Theo cả lịch sử lẫn địa lý, trong miền đất tốt lành này, cây ô-liu có rất nhiều. Vì cớ đó, dầu ở đây rất dư dật. Sự kiện A-se dầm chân mình trong dầu ngụ ý rằng về thực phẩm thì ông phong phú hơn tất cả các chi phái khác.

d) Sắt Và Đồng Dưới Gót Giày Ông 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:25 nói: “Dưới gót giày ngươi sẽ là sắt và đồng” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Sắt và đồng là dùng cho chiến trận và xây dựng. Dầu là thực phẩm để nuôi dưỡng, nhưng sắt và đồng là những vật liệu dùng cho chiến trận và xây dựng Vương Quốc. Vì A-se rất giàu, được biệt đãi nhất về thực phẩm và khoáng sản, nên ông được phước hơn các chi phái khác. Ông có thực phẩm để nuôi dưỡng và khoáng sản để làm vũ khí và các vật liệu xây dựng.

e) Sự Yên Nghỉ Của A-se Là Các Ngày Của Ông

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:25 cũng nói: “Đời người lâu bao nhiêu, sự yên nghỉ ngươi lâu bấy nhiêu” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Từ Hê-bơ-rơ được dịch là “sự yên nghỉ” ở đây không phải là một từ bình thường nói về sự yên nghỉ. Từ này rất khó dịch. Nó có nghĩa là sự an toàn, an ninh, sức mạnh, bình an và yên tịnh. Nó ngụ ý đến cuộc sống nhàn rỗi, một cuộc sống đầy đủ, không cần phải lo lắng hay bươn chải. Vì thế, A-se đã có cuộc sống nhàn rỗi, một cuộc sống an toàn và yên ninh, được bảo đảm bằng sự sung túc. Điều này có nghĩa là trọn đời sống, ông sẽ không thiếu thốn gì. A-se có thực phẩm phong phú để nuôi dưỡng, có vũ khí để bảo vệ và các vật liệu cho sự xây dựng. Thay vì khan hiếm, sẽ có sự sung túc, yên nghỉ, bình an và thư thái. Ông sẽ thường xuyên vui hưởng sự sống.

Nếu không bước vào giai đoạn này của đời sống thuộc linh, anh em không thể hiểu điều tôi đang nói đến. Nhưng có một giai đoạn như thế. Nếu anh em chưa đạt đến giai đoạn này, tôi khích lệ anh em hãy tiến tới. Một ngày kia, anh em sẽ đến một nước như thế. Trong Vương Quốc này, không cần phải hấp tấp hay xô bồ. Ở đây có sự an toàn, an ninh và bình an. Ở đây không thiếu thứ gì. Chúng ta có thực phẩm, vũ khí và các vật liệu. Khi đạt đến giai đoạn này, anh em không phải băn khoăn hay quan tâm đến ngày mai và cũng không lo lắng. Trái lại, có một sự yên nghỉ thường xuyên trong sự sự sung túc của thực phẩm và trong sắt, đồng vững chắc. Ít ra một số người trong chúng ta đã đạt đến điểm này. Đây là sự trưởng thành của sự sống.

12) Về Nép-ta-li 

a) Một Hươu Cái Thả Chuồng 

Sáng Thế Ký 49:21 chép: “Nép-ta-li là một hươu cái thả chuồng”. Ngay sau A-se là Nép-ta-li, không phải sư tử tơ cũng không phải sư tử cái, mà là một hươu cái. Theo văn mạch tiếng Hê-bơ-rơ, tựa đề của Thi Thiên 22 nói về hươu cái rạng đông ngụ ý rằng Đấng Christ phục sinh trong Thi Thiên 22 là một hươu cái thả chuồng. Với Nép-ta-li, chúng ta không những có Đấng Christ đắc thắng là Sư Tử mà còn có Đấng Christ phục sinh là Hươu Cái được giải phóng đang nhảy trên các đỉnh núi. Không gì có thể ngăn trở Ngài, và cũng không cần ai mở đường cho Ngài. Ngài là Hươu Cái phục sinh. Vì ở trong sự phục sinh, Ngài có thể nhảy trên các núi cao.

b) Nói Những Lời Hoa Mỹ 

Câu 21 cũng chép: “Ông nói nhiều lời hoa mỹ” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Hươu cái phục sinh trong Sáng Thế Ký chương 49 tương ứng với Chúa phục sinh trong Ma-thi-ơ chương 28. Trước hết, Ma-thiơ chương 28  bày tỏ rằng Christ đã sống lại và sau đó nói rằng khi các môn đồ cùng nhóm hiệp với Ngài, Ngài truyền cho họ: “Vậy, hãy đi khiến muôn dân trở nên môn đồ Ta… và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi” (Mat. 28:19-20, Hi-lạp). Đây là nói những lời hoa mỹ. Trong sự phục sinh, chúng ta cần nói những lời hoa mỹ. Đây là sự trưởng thành của sự sống trong sự phục sinh. Để nói điều gì đó đẹp đẽ cho Christ, chúng ta phải ở trong sự phục sinh. Khi ở trong sự phục sinh, thật dễ dàng nói những lời tốt đẹp cho Chúa.

c) Thỏa Nguyện Với Ân Huệ 
Và Đầy Dẫy Phước Lành Của Chúa 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:23 chép: “Hỡi Nép-ta-li, nguyện con được thỏa nguyện với ân huệ và đầy dẫy phước hạnh của Chúa”. Ở đây chúng ta thấy Nép-ta-li được thỏa nguyện với ân huệ. Ân huệ trong Cựu Ước tương đương với ân điển trong Tân Ước. Do đó, Nép-ta-li được thỏa nguyện ân điển. Khi ở trong sự phục sinh, nói ra những lời hoa mỹ, chúng ta cũng đã thỏa lòng với ân điển. Thường khi nói, tôi thỏa lòngân huệ, ân điển. Câu này cũng nói rằng Nép-ta-li được đầy dẫy phước hạnh của Chúa.Ông thỏa lòng với ân điển và đầy dẫy phước hạnh. Đây là đời sống đắc thắng và trưởng thành trong sự phục sinh. Khi nói cho Christ để nuôi dưỡng người khác, chính chúng ta được thỏa lòng ân điển và được đầy dẫy phước hạnh.

d) Sở Hữu Biển Và Phía Nam 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:23 cũng chép: “Con sở hữu biển và phía Nam”. Kết quả của việc nói những lời hoa mỹ trong sự phục sinh, được thỏa lòng ân điển và đầy dẫy phước hạnh là sở hữu phương Tây và phương Nam. Với Nép-ta-li, sở hữu phía Tây là sở hữu Địa Trung Hải, là biển nằm ở phía Tây của phần đất thuộc Nép-ta-li. Vì thế, một số bản dịch dịch từ Hê-bơ-rơ trong câu này là “phía Tây”. Thực ra, nó chỉ về biển vì biển nằm ở hướng Tây của miền đất tốt lành. Từ “phía Nam” có nghĩa là đất. Biển, phía Tây, tượng trưng cho thế giới Dân Ngoại, và phía nam, đất, tượng trưng cho thế giới Do-thái. Vì vậy, sở hữu biển và đất tượng trưng cho thế giới Dân Ngoại và thế giới Do-thái. Nói cách khác, Nép-ta-li sở hữu cả trái đất.

Để chiếm được trái đất, chúng ta phải bắt đầu từ Ru-bên và tiếp tục qua Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Sa-bu-lôn, Y-sa-ca, Đan, Gát và A-se cho tới khi đến Nép-ta-li. Khi đã trở thành Nép-ta-li, chúng ta sẽ sở hữu phía Tây và phía Nam, tức là biển và đất.Chúng ta sẽ có đủ phẩm chất và năng lực để sở hữu trái đất. Thật kỳ diệu thay! Khi chúng ta là Nép-ta-li, thật dễ dàng để chiếm trái đất vì chúng ta ở trong sự phục sinh, nói ra những lời hoa mỹ và thỏa lòng với ân huệ và đầy dẫy phước lành. Do đó, chúng ta sẵn sàng sở hữu biển và đất, tức thế giới Ngoại Bang và thế giới Do-thái. Chúng ta sẵn sàng để chiếm trái đất.



Bài Một Trăm LẺ Ba

Ý Nghĩa Thuộc Linh Của 
Đan, Gát, A-Se Và Nép-Ta-Li

Trong bài này, tôi có gánh nặng cung ứng thêm đôi lời về ý nghĩa thuộc linh của Đan, Gát, A-se và Nép-ta-li. Trong một ý nghĩa, tôi thích nhóm này hơn nhóm có Giu-đa.Nhóm của Giu-đa là nhóm thứ hai và đây là nhóm thứ ba, tất nhiên là nhóm có nhiều tiến bộ hơn. Chúng ta thấy trong nhóm thứ ba này có sự nối kết với nhóm thứ hai. Giu-đa là sư tử tơ và sư tử cái (49:9, Theo Bản Hê-bơ-rơ), Đan là sư tử tơ và Gát là sư tử cái (Phục. 33:22,20, Theo Bản Hê-bơ-rơ). Vì thế, hai hình ảnh này, sư tử tơ và sư tử cái, nối nhóm thứ ba với nhóm thứ hai.

Khi còn trẻ, tôi thường nghiên cứu Sáng Thế Ký chương 49. Nhiều lần tôi cảm thấy những lời này không có ý nghĩa nhiều. Chẳng hạn, câu 21 nói rằng Nép-ta-li là một hươu cái thả chuồng và nói những lời hoa mỹ (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Tôi không thể hiểu làm thế nào một hươu cái có thể nói những lời hoa mỹ. Với tôi, dường như việc hươu cái và những lời hoa mỹ chẳng quan hệ gì với nhau. Hơn nữa, tôi tự hỏi làm thế nào một hươu cái lại biết nói. Vì thế, trong một thời gian khá lâu, tôi không chú ý đến Sáng Thế Ký chương 49 nữa. Tuy nhiên, khi đi sâu vào ý nghĩa thuộc linh của chương này, chúng ta thấy tất cả những điều này ý nghĩa biết bao. Trong bài 100, chúng ta đã xem xét sự yên nghỉ trong sự vui hưởng những sự phong phú trong sự sống của Christ.Chúng ta đã thấy cần buộc lừa mình vào cây nho và ngâm áo mình trong rượu. Nếu làm điều này, mắt chúng ta sẽ đỏ vì rượu và răng sẽ trắng vì sữa (c. 11-12). Anh em này có thể hỏi một anh em kia rằng: “Anh đã buộc lừa của anh vào cây nho chưa?” Anh em kia đáp: “Anh ơi, thế anh đã ngâm áo xống anh trong rượu chưa?” Và anh em thứ nhứt có thể hỏi: “Mắt anh có đỏ vì rượu không?” Người thứ hai đáp: “Còn răng anh có trắng vì sữa không?” Những người ngoài cuộc có thể nghĩ rằng đây là một thứ tiếng bí ẩn, khó hiểu của những người trong Hội Thánh. Dù người khác có nói gì, thì với chúng ta, những câu này thật đầy ý nghĩa! “Hãy buộc lừa của anh vào cây nho!”“Ngâm áo xống anh trong rượu!” Tôi muốn mắt mình đỏ vì rượu và răng trắng vì sữa. Để điều này xảy ra, trước hết chúng ta cần yên nghỉ trong Christ, sau đó ngâm bản thể, hành vi của mình vào các sự phong phú của sự sống Đấng Christ. Khi ấy, chúng ta sẽ kinh nghiệm sự biến đổi và vẻ bên ngoài của chúng ta sẽ thay đổi. Mắt chúng ta sẽ đỏ vì rượu và răng sẽ trắng vì sữa, [điều này] cho thấy mắt và răng thật mạnh mẽ để tiếp nhận Lời và nói Lời ấy cho người khác.

Thứ tự của bốn nhóm này trong chương 49 thật kỳ diệu, tương ứng với cả lịch sử của Hội Thánh lẫn kinh nghiệm thuộc linh của chúng ta. Trước hết có Ru-bên, nghĩa là tất cả chúng ta đều có khởi đầu là tội nhân. Sau Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi, thì Giu-đa xuất hiện. Điều này có nghĩa là Christ đã đến như Sư Tử chiến thắng. Sau Giu-đa, Sa-bu-lôn và Y-sa-ca, chúng ta có sự sa ngã của Đan. Tuy nhiên, sự sa ngã của Đan không chỉ là sự thất bại hay bị đánh bại mà còn là sự bội đạo. Sau sự bội đạo của Đan, chúng ta có sự khôi phục với Gát, sự sung túc trong A-se và sự hoàn thành với Nép-ta-li. Trong lịch sử Hội Thánh, chúng ta cũng thấy có sự bội đạo, sự khôi phục, sự sung túc và sự hoàn thành. Nếu không thể thấy sự hoàn thành này hôm nay, chắc chắn chúng ta sẽ thấy trong thời đại sắp đến, đặc biệt trong Trời Mới Đất Mới với Giê-ru-sa-lem Mới. Nép-ta-li sẽ được ứng nghiệm trọn vẹn khi Giê-ru-sa-lem Mới được hiển lộ trong Trời Mới Đất Mới. Giê-ru-sa-lem Mới sẽ là Nép-ta-li đời đời. Bốn điều này: sự bội đạo, sự khôi phục, sự sung túc và sự hoàn thành –cũng tương ứng với kinh nghiệm Cơ-đốc của chúng ta. Sau sự suy sụp, bội đạo, chúng ta có sự khôi phục. Kế đến là sự sung túc và sự hoàn thành. Chúng ta đã thấy những điều này trong sự khôi phục của Chúa. Trải qua nhiều năm trong sự khôi phục, chúng ta đã ở với Giu-đa, buộc lừa mình vào cây nho và ngâm áo xống mình trong rượu. Mắt chúng ta trở nên đỏ vì rượu và răng trắng vì sữa. Nhưng thình lình sự bội đạo của Đan xảy đến. Tuy nhiên, sau Đan có sự khôi phục với Gát.

I  Sự Bội Đạo Của Đan 

A. Chiếm Được Nhiều Christ Hơn 
Do Đời Sống Chiến Thắng Của Đan

Đan là sự nối tiếp của Giu-đa vì Giu-đa là một sư tử, và Đan là một sư tử tơ. Là sự nối tiếp của Giu-đa, Đan đã thành công trong việc chiếm được nhiều Christ hơn do đời sống chiến thắng của ông (Phục. 33:22; Giô-suê 19:47; Các Quan Xét 18:27-29).

B. Có Tính Cá Nhân Chủ Nghĩa Và Độc Lập 

Do thành công và chiến thắng, Đan đã trở nên kiêu ngạo, cá nhân chủ nghĩa và độc lập. Ông chỉ quan tâm đến chính mình, không quan tâm đến người khác. Như Các Quan Xét 18:30 chép: “Con cái của Đan dựng lên cho mình tượng chạm” (Theo Bản Hê-bơ-rơ).

C. Dựng Lên Một Trung Tâm Thờ Phượng 
Gây Chia Rẽ Và Lập “Thầy Tế Lễ” Thuê

Sự bội đạo của Đan là dựng lên một trung tâm thờ phượng gây chia rẽ (Các Quan Xét 18:30-31; 17:9-10; 1Các Vua 12:26-31; 2Các Vua 10:29). Đan đã dựng lên một trung tâm dường như để thờ phượng Đức Chúa Trời nhưng lại theo cách chia rẽ.Nhiều người dùng việc thờ phượng Đức Chúa Trời như lớp vỏ bên ngoài để dựng lên một trung tâm gây chia rẽ. Một số người nói: “Làm như vậy để thờ phượng Đức ChúaTrời  có gì là sai? Dựng lên một trung tâm thờ phượng thay vì đi xem hát, chẳng tốt hơn sao?” Theo lịch sử trong Cựu Ước, trải các dòng dõi, thì không điều gì tội lỗi hơn hay làm hư hoại dân Đức Chúa Trời hơn là hành động dựng lên một trung tâm thờ phượng gây chia rẽ của Đan. Trong Phục Truyền Luật Lệ Ký chương 12, 14, 15 và 16, qua Môi-se, ít nhất mười lăm lần, Chúa truyền cho con cái Ítx-ra-ên không được dâng của lễ thiêu tại nơi họ chọn. Họ được truyền phải đi đến nơi duy nhất mà Chúa đã chọn cho Danh Ngài và cho nơi cư ngụ của Ngài. Phục Truyền Luật Lệ Ký 12:13 và 14 chép: “Khá coi chừng, chớ dâng của lễ thiêu mình trong những nơi nào ngươi thấy; nhưng phải dâng tại nơi Giê-hô-va sẽ chọn một trong các chi phái ngươi, và tại đó ngươi phải dâng mọi điều Ta truyền dặn”. Dường như Chúa muốn phán: “Khi đã vào miền đất tốt lành rồi, các ngươi không được dâng của lễ thiêu tại bất cứ nơi nào trong những nơi ngươi thấy. Các ngươi phải đi đến nơi duy nhất, nơi Ta đã chọn cho danh Ta và cho nơi cư ngụ Ta. Các ngươi không được quyền chọn bất cứ nơi nào khác. Các ngươi phải đi đến trung tâm duy nhất này. Chính trung tâm này giữ cho dân Ta hiệp một”. Nhiều lần, Môi-se, người ban luật pháp đã cao niên, đầy thương yêu, đã truyền cho con cái Ítx-ra-ên về vấn đề này. Nếu đọc các chương đó, anh em sẽ thấy Môi-se truyền cho dân sự về một nơi duy nhất, nơi Chúa đã chọn cho danh Ngài và cho nơi cư ngụ của Ngài. Lý do Chúa truyền cho Môi-se nhắc đi nhắc lại mạng lịnh này nhiều lần vì Ngài quan tâm đến việc duy trì sự hiệp nhất của dân Ngài.

Sau khi con cái Ítx-ra-ên bước vào miền đất tốt lành, thì Đền Tạm, Nhà Đức Chúa Trời, ở tại Si-lô (Các Quan Xét 18:31). Hễ Đền Tạm còn ở Si-lô, thì Si-lô là trung tâm duy nhất để thờ phượng Đức Chúa Trời. Là trung tâm duy nhất, Si-lô phải duy trì sự hiệp nhất của dân Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, Đan đã dựng lên một trung tâm khác ở phía bắc, gây sự chia rẽ đầu tiên giữa con cái Ítx-ra-ên. Bằng cách này, dân Đức Chúa Trời đã bị chia cắt, không bởi một rạp hát, nhưng bởi một trung tâm thờ phượng. Ngày nay, các Cơ-đốc nhân tự bào chữa bằng cách nói: “Chúng tôi đang thực hiện điều này ở đây để thờ phượng Đức Chúa Trời. Với điều này, có gì sai? Đức Chúa Trời không hẹp hòi đâu; Ngài hiện diện khắp mọi nơi. Các anh có Ngài ở với các anh tại nơi của các anh. Ngài không ở nơi đây với chúng tôi sao? Chắc chắn Đức Chúa Trời không hẹp hòi như các anh. Ngài ở khắp mọi nơi. Làm thế nào các anh lại giới hạn Ngài trong một nơi nào đó?” Tuy nhiên, Đức Chúa Trời thích bị giới hạn vì mục đích giữ sự hiệp nhất của dân Ngài. Phần nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay quá tự do. Giống như Đan, họ cảm thấy tự do để dựng lên một trung tâm thờ phượng khác.

Các Quan Xét 18:30 chép: “Con cái của Đan đã dựng tượng chạm cho mình” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Ở đây chúng ta thấy người Đan đã làm điều gì đó cho chính mình. Họ không quan tâm đến các chi phái khác. Vì thế, nguồn bội đạo của họ là không quan tâm đến anh em mình. Không quan tâm đến những phần khác của Thân Thể là nguồn của sự bội đạo. Sự bội đạo này đã len lỏi vào dưới lớp vỏ thờ phượng Đức Chúa Trời.Nguyên tắc này tương tự với ngày nay. Nhiều Cơ-đốc nhân dựng lên các trung tâm khác, không phải để đánh bạc hay khiêu vũ nhưng để thờ phượng Đức Chúa Trời. Dầu điều này có vẻ rất tích cực, nhưng thực ra nó được thực hiện bởi bản ngã và vì bản ngã. Mỗi trung tâm gây chia rẽ được thiết lập vì tư lợi của ai đó. Sự thực hành như vậy không chỉ gây chia rẽ mà còn tạo ra sự tranh cạnh.

Nếu Đan không dựng lên một trung tâm thờ phượng khác, thì chỉ có một trung tâm thờ phượng duy nhất tại Si-lô. Sẽ không có sự tranh cạnh. Dầu người Ítx-ra-ên ở xa Si-lô đến đâu, họ vẫn phải lên nơi ấy để thờ phượng. Nhưng sau khi Đan đã dựng lên một trung tâm thờ phượng ở phía bắc, ông đã dùng vấn đề thuận tiện như một lợi thế để đổi chác. Có thể ông ta nói: “Anh em không cần đi đến Si-lô. Kìa, chúng ta đang thờ phượng Đức Chúa Trời ngay tại đây giữa vòng mình”. Một nhóm chia rẽ tại New-York đã làm một điều rất giống như vậy. Một thành viên của nhóm này đã gọi cho một chị em lớn tuổi và nói: “Hãy đến nhóm với chúng tôi. Chúng tôi nhóm [nói] tiếng Hoa và mang sắc thái Trung Hoa. Ở Mỹ, khó mà hưởng được sắc thái của người Hoa. Hãy đến nhóm với chúng tôi và vui hưởng sắc thái này của người Hoa”. Đây là phương pháp buôn bán để bán món hàng rẻ tiền, gây chia rẽ của họ.

Như con cái Ítx-ra-ên, tất cả các Cơ-đốc nhân nên là một, và sự thờ phượng Đức Chúa Trời chỉ nên có một trung tâm duy nhất. Nhưng người Đan đã dùng vị trí thuận lợi của trung tâm thờ phượng của họ mà thuyết phục người lân cận đến đó để thờ phượng Đức Chúa Trời. Giả sử anh em là người lân cận của người Đan, và một người trong họ nói với anh em rằng: “Này anh, sao lại dại dột đi đến Si-lô xa thế? Chúng tôi đang thờ phượng Đức Chúa Trời ngay tại đây trong chi phái Đan. Sao anh không nhóm với chúng tôi?” Đây là sự cạnh tranh. Ngày nay có nhiều sự cạnh tranh trong nghệ thuật buôn bán Cơ-đốc, với mỗi nhóm Cơ-đốc đều cố bán món hàng của mình. Điều này là tội. Thật xấu hổ khi thấy sự cạnh tranh này giữa các Cơ-đốc nhân ngày nay!

Một số tranh luận với chúng tôi, hỏi rằng: “Sao các anh tách biệt với người khác?”Chắc chắn là Si-lô tách biệt với tất cả các nơi khác. Si-lô là nơi duy nhất có Đấng Si-lô. Ngày nay, một số người có thể nói: “Sao các anh gọi mình là Hội Thánh và nói rằng nơi khác không phải là Hội Thánh?” Chúng tôi trả lời: “Si-lô là Si-lô. Không nơi nào khác là Si-lô. Trên đất này, chỉ có một Si-lô duy nhất. Các nhóm khác đã không tự gọi mình là Hội Thánh. Thay vào đó, họ nhận những tên gọi khác. Hễ còn giữ những tên gọi này, đó là dấu hiệu cho thấy họ không ở tại Si-lô. Đúng ra, họ đang ở những nơi thờ phượng gây chia rẽ”.

Các Quan Xét 18:31 chép: “Chúng dựng tượng chạm của Mi-ca mà ông đã làm ra, trọn trong lúc đền Đức Chúa Trời ở tại Si-lô”. Những từ “trọn trong lúc đền Đức Chúa Trời ở tại Si-lô,” ngụ ý đến sự cạnh tranh. Sau khi Đan đã dựng lên một trung tâm gây chia rẽ trong sự cạnh tranh với Si-lô, trung tâm đó đã không hề bị cất đi. Vì trọn lúc Đền Tạm ở tại Si-lô, thì tượng chạm vẫn ở tại Đan. Điều này cho thấy có sự cạnh tranh. Về sau, Đền Thờ được xây dựng tại Giê-ru-sa-lem là sự nối tiếp của Đền Tạm. Sau khi Sa-lô-môn xây xong Đền Thờ, thế hệ tiếp theo là Giê-rô-bô-am đã dựng lên một hình tượng tại Đan càng vững chắc hơn để cạnh tranh với Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem (1Các Vua 12:26-31). Giê-rô-bô-am sợ rằng nếu dân Ítx-ra-ên lên Giê-ru-sa-lem để thờ phượng, họ sẽ trở về với Rô-bô-am, vua Giu-đa (1Các Vua 12:27). “Vậy, vua bàn định, rồi truyền làm hai bò con bằng vàng, và nói với người dân rằng: Các ngươi đi lên Giê-ru-sa-lem thật khó thay! Hỡi Ítx-ra-ên! Này là các thần ngươi, đã đem ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô. Người đặt con này tại Bê-tên, và con kia tại Đan” (1Các Vua 12:28-29). Dường như Giê-rô-bô-am muốn nói với người dân rằng: “Các ngươi không cần phải lên Giê-ru-sa-lem. Chúng ta có một trung tâm thờ phượng ngay tại đây”. Nhưng điều ông làm xuất phát từ nỗi lo sợ mất Vương Quốc của mình. Do đó, sự cạnh tranh giữa Đan và Giê-ru-sa-lem đã tăng cao. Ban đầu, Đan cạnh tranh với Đền Tạm tại Si-lô. Về sau, ông lại cạnh tranh với Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem.

Trong Cựu Ước, trước hết chúng ta thấy sự cạnh tranh của tượng chạm tại Đan với Đền Tạm tại Si-lô. Sau đó, chúng ta thấy sự cạnh tranh của bò con vàng tại Đan với Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem. Sau khi Đền Thờ của Đức Chúa Trời được xây dựng vững chắc, hình tượng tại Đan cũng trở nên chắc chắc hơn. Cả Đền Tạm tại Si-lô và trung tâm thờ phượng gây chia rẽ tại Đan đều được dựng lên bởi dân thường. Tuy nhiên, Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem được xây dựng bởi một vua, là Sa-lô-môn, thì trung tâm gây chia rẽ cũng được làm cho vững chắc bởi một vua là Giê-rô-bô-am. Đây là bức tranh rất rõ về sự cạnh tranh. Ngày nay, tình trạng cũng tương tự. Khi Hội Thánh được xây dựng vững chắc, thì các giáo phái cũng trở nên vững chắc hơn. Sự vững chắc của các giáo phái xuất phát từ việc họ cạnh tranh với Hội Thánh. Không sớm thì muộn, các nhóm khác sẽ cạnh tranh với sự khôi phục của Chúa. Ban đầu, họ có thể chống đối và chỉ trích chúng ta, nhưng về sau họ sẽ bắt chước và cạnh tranh với chúng ta. Cách đây mười lăm năm, những từ liệu như Linh Ban Sự Sống và nhân linh không được nghe giữa vòng các Cơ-đốc nhân ở Mỹ. Nhưng gần đây, ngay cả một tờ báo do một số người Công Giáo Linh Ân đã sử dụng nhiều từ liệu trong sự khôi phục của Chúa.

Chúng ta cần hiểu ý nghĩa đúng đắn của từ bội đạo. Bội đạo có nghĩa là bị lệch khỏi đường lối đúng trong việc bước theo Đức Chúa Trời. Bội đạo là thờ phượng Đức Chúa Trời theo cách của ma quỉ. Hễ khi nào có ai đó dùng sự thờ phượng Đức Chúa Trời như một lớp vỏ để thực hiện đường lối của ma quỉ, người đó sa vào sự bội đạo. Giáo Hội Công Giáo La-mã là sự bội đạo hoàn toàn. Không gì ngạc nhiên khi gọi đó là Hội Thánh bội đạo. Giáo Hội Công Giáo La-mã thờ phượng Đức Chúa Trời, nhưng thờ phượng Ngài theo cách của ma quỉ. Dầu những người trong đạo Công Giáo thờ phượng Đức Chúa Trời trên danh nghĩa, nhưng thực ra họ đang thờ lạy các hình tượng. Giáo Hội Công Giáo La-mã làm giống chính xác như điều Giê-rô-bô-am đã làm khi ông dựng lên các hình tượng và nói: “Hỡi Ítx-ra-ên, kìa là thần của các ngươi”. Dường như Giê-rô-bô-am muốn nói: “Đây là Đức Chúa Trời mà các ngươi phải thờ lạy”. Thực ra, đó không phải là Đức Chúa Trời; đó là bò con vàng. Vì thế, bội đạo là thờ phượng Đức Chúa Trời theo cách giả dối và thuộc ma quỉ.

Cơ-đốc giáo ngày nay đầy dẫy sự bội đạo. Sự bội đạo mang tính hoàn vũ. Nhiều người tuyên bố là thờ phượng Đức Chúa Trời nhưng thực ra đang thờ lạy hình tượng. Nếu đến thăm một thánh đường Công Giáo, anh em sẽ thấy mọi người đang thờ lạy các hình tượng dọc theo các bức tường và thắp nến cho cái gọi là các thánh. Trên danh nghĩa, họ thờ phượng Đức Chúa Trời và Jesus; nhưng trên thực tế, họ thờ lạy hình tượng. Theo G. H. Pember, một trong các hình tượng của Giáo Hội Công Giáo La-mã là Phật Thích Ca, đã được đồng hóa vào đạo Công Giáo dưới tên gọi là thánh Josaphat. Thật là một sự bội đạo kinh khủng!

Các từ “cho chính họ” trong Các Quan Xét 18:30 rất có ý nghĩa. Nhiều người tuyên bố thờ phượng Đức Chúa Trời nhưng thực ra đang làm điều gì đó cho chính họ. Sự bội đạo là làm điều gì đó cho bản ngã dưới lớp vỏ thờ phượng Đức Chúa Trời. Giê-rô-bô-am không có lòng cho Đức Chúa Trời. Trái lại, lòng ông dành cho đế quốc nhỏ của mình. Trong lòng, ông lo sợ vương quốc sẽ trở về với nhà Đa-vít (1Các Vua 12:26). Dùng danh của Đức Chúa Trời như lớp vỏ bọc, ông đã làm mọi điều có thể làm để bảo tồn đế quốc của mình. Đây là sự bội đạo. Toàn thể Cơ-đốc giáo ngày nay là sự bội đạo. Rất nhiều người đang làm nhiều điều cho chính họ dưới danh Jesus Christ và dưới lớp vỏ thờ phượng Đức Chúa Trời. Đây là lý do Chúa cần có sự khôi phục. Sự khôi phục của Chúa luôn làm xúc phạm người khác. Hễ có sự khôi phục ở đây, các nhóm gây chia rẽ sẽ bị định tội. Hễ có Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem, thì bò con vàng phải bị lên án. Đan có thể yêu mến Giê-ru-sa-lem không? Không, không thể có sự phục hòa giữa Đan và Giê-ru-sa-lem. Thường người khác đến với tôi và nói: “Anh Lý ơi, xin đừng mạnh mẽ như thế. Tại sao không ôn nhu một chút?” Tôi đáp: “Tôi nên ôn nhu với ai? Với con rắn chăng? Với rắn độc chăng? Với tượng chạm chăng? Với bò con vàng chăng? Tôi ghét bò con vàng, muốn đốt tượng chạm và giẫm nát đầu rắn độc”. Làm sao chúng ta có thể nhơn từ với sự bội đạo ngày nay? Không có sự thỏa hiệp. Đừng cố gắng thỏa hiệp với con rắn, rắn độc. Nếu nhơn từ với rắn, anh em sẽ bị nó chích. Nếu cố gắng ôn nhu với sự bội đạo ngày nay, anh em sẽ bị tổn hại. Chứng cớ là chứng cớ, bội đạo là bội đạo. Tại Giê-ru-sa-lem có Đền Thờ của Đức Chúa Trời là chứng cớ của Ngài, nhưng tại Đan có sự bội đạo. Cả trong lịch sử Hội Thánh lẫn trong kinh nghiệm Cơ-đốc, chúng ta đã thấy chính điều này. Có thể nhiều lúc trong sự theo Chúa, chúng ta đã lệch khỏi con đường đúng và sa vào một loại bội đạo nào đó. Có thể chúng ta nói mình đang làm việc cho Chúa, nhưng thực ra, chúng ta đang làm một điều gì đó. Đây là sự bội đạo.

Đan không quan tâm đến các chi phái khác; ông chỉ quan tâm đến chi phái mình. Sau khi giành chiến thắng và có sự phát triển, sự mở rộng, ông đã làm điều gì đó cho chính mình. Đây là nguồn của sự bội đạo. Theo Cựu Ước, Chúa không bao giờ quên sự bội đạo của Đan. Trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, đó là điều tồi tệ nhất trong gia tể Ngài. Không gì gây hư hoại hơn sự chia rẽ. Không gì tàn phá hơn sự chia rẽ giữa dân Đức Chúa Trời. Những trung tâm thờ phượng gây chia rẽ thường có quan hệ với các hình tượng. Vì Ma quỉ núp sau các hình tượng nên qua việc dựng một hình tượng mà Đan đã trở thành con rắn. Hễ khi nào gây chia rẽ, dù lý do của anh em có tốt đến đâu, vẫn có điều gì đó đàng sau anh em –con rắn, kẻ quỉ quyệt. Toàn bộ lịch sử Hội Thánh làm chứng cho điều này và kinh nghiệm của chúng ta chứng thực điều đó. Hễ khi nào không quan tâm đến người khác, mà chỉ quan tâm đến lợi ích của mình, làm điều gì đó chỉ vì chính mình, thì con rắn đang ở gần tầm tay. Cách tốt nhất để được bảo vệ khỏi bị sa vào sự bội đạo là quan tâm đến người khác. Giả sử Đan tiếp xúc với các chi phác khác và nói: “Anh em ơi, anh em có đồng ý để tôi dựng một trung tâm thờ phượng khác tại thành Đan không?” Nếu Đan làm như vậy, các chi phái khác sẽ nói: “Anh ơi, đừng làm điều đó. Phục Truyền Luật Lệ Ký chương 12,14,15 và 16 cấm chúng ta có bất cứ trung tâm thờ phượng nào khác hầu cho  chúng ta chỉ đến một trung tâm duy nhất”. Nếu hỏi ý kiến các chi phái khác, hẳn Đan sẽ được giữ khỏi sự bội đạo. Nhưng vì tính cá nhân chủ nghĩa, ông đã dựng một trung tâm thờ phượng khác và sa vào sự bội đạo.

Đan sa vào sự bội đạo vì chỉ quan tâm đến lợi ích riêng. Về nguyên tắc, mọi trung tâm thờ phượng gây chia rẽ đều như nhau. Những người lập ra chúng chỉ quan tâm đến lợi ích riêng, ước ao riêng và bỏ mặc tất cả các thánh đồ khác. Họ giống như Đan là người chỉ biết đến chi phái mình, không biết đến những chi phái khác.

Đan không chỉ dựng lên một trung tâm gây chia rẽ mà còn lập “những thầy tế lễ thuê” (Các Quan Xét 18:30; 1Các Vua 12:31). Thuê dân thường làm những thầy tế lễ là điều phàm tục vì điều đó hủy phá chỉ định thánh của Đức Chúa Trời. Trong sự sa sút của Hội Thánh, nhiều người chưa được cứu đã được thuê để phụng sự Đức Chúa Trời. Đây là sự bội đạo. Trong gia tể Tân Ước của Đức Chúa Trời, tất cả những tín đồ thật được lập làm những thầy tế lễ của Đức Chúa Trời (1Phi. 2:9; Khải. 1:6; 5;10). Nhưng Cơ-đốc giáo sa bại đã xây dựng một hệ thống để phong chức cho một số tín đồ phục vụ Đức Chúa Trời, lập họ thành hàng giáo phẩm và để những tín đồ còn lại làm tín đồ thường. Đây cũng là hình thức bội đạo. Có hàng giáo phẩm và tín đồ thường là thực hành sự bội đạo mà chúng ta phải gớm ghiếc và buông bỏ.

II. Sự Khôi Phục Với Gát 

A. Trở Về Với Chiến Thắng Của Christ 

Ngợi khen Chúa vì dưới sự cảm thúc của Đức Chúa Trời, sau Đan, Gia-cốp nói về Gát! Với Gát, chúng ta thấy sự khôi phục. Sau sự bội đạo của Đan, Gát đã đến để khôi phục chiến thắng đã mất (49:19). Chiến thắng của Giu-đa, sư tử, đã bị sự bội đạo của Đan đánh mất, nhưng Gát đã giành lại và thậm chí làm mở rộng chiến thắng đó. Gát không phải là sư tử tơ, nhưng là sư tử cái sanh ra các sư tử con. Ông là sự nối tiếp của Giu-đa đắc thắng và Đan.

B. Được Đức Chúa Trời Mở Rộng 

Đức Chúa Trời vui mừng về việc Gát giành lại chiến thắng đến nỗi Ngài làm ông được mở rộng. Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:20 nói: “Phước cho Gát được mở rộng”. Gát được mở rộng không những bởi Đức Chúa Trời mà còn vì Đức Chúa Trời. Ông được mở rộng cho việc thi hành công lý của Đức Chúa Trời giữa vòng dân Ngài.

C. Nghiền Nát Kẻ Thù 
Bởi Sự Sống Sản Sinh Của Christ 

Gát nghiền nát kẻ thù bằng sự sống sản sinh của Christ. Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:20 nói: “Người nằm như một sư tử cái và xé cánh tay, ngay cả mão miện trên đầu”(Theo Bản Hê-bơ-rơ). Gát nghiền nát kẻ thù không phải như một sư tử, nhưng như một sư tử cái sanh ra các sư tử con. Điều này hàm ý rằng sự hủy diệt kẻ thù là vấn đề tập thể. Điều này giống với chúng ta hôm nay trong sự khôi phục của Chúa. Chúng ta là những sư tử tơ đang hủy diệt kẻ thù cách tập thể.

D. Quan Tâm Đến Anh Em 

Phương diện tốt nhất của Gát không chỉ là việc nghiền nát đầu kẻ thù mà còn là không vui hưởng chiến thắng một mình. Dầu chiếm được đất ở phía đông sông Giô-đanh, ông đã không vui hưởng cho đến khi các chi phái khác chiếm được phần đất của họ. Gát cùng đi với các chi phái khác để đánh trận hầu chiếm nhiều đất hơn để tất cả các chi phái đều có thể vui hưởng phần của mình. Sự giải thích của Tân Ước về các hình ảnh trong Cựu Ước là chúng ta phải luôn quan tâm đến anh em, các Chi Thể của Thân Ngài.

Trong nhiều năm, tôi không thể hiểu lời của Môi-se trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:21. Câu này chép: “Người đã dự phòng cho mình phần đầu nhứt của xứ,/ Vì tại đó đã dành một phần cho người lập pháp,/ và người đến với những người đứng đầu của dân sự,/ Người thi hành công lý của Đức Giê-hô-va,/ Và những qui định của Ngài với dân Ítx-ra-ên” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Dầu đã nhiều lần nghiên cứu câu này, đặc biệt phần cuối nói về những người đứng đầu của dân sự, tôi hoàn toàn không hiểu. Nhưng ngày nay, tôi hiểu được câu này. “Phần đầu” chỉ về miền đất phía đông sông Giô-đanh.Gát đã chiếm được phần này cho mình; nhưng không ở lại đó để vui hưởng. Thay vì thế, Gát đến với những người đứng đầu của dân sự, các trưởng tộc của các chi phái khác, để đánh trận, chiếm lấy phần đất còn lại của xứ. Ở đây chúng ta thấy sự hành động, chuyển động của Thân Thể. Đan quan tâm chính mình cách cá nhân chủ nghĩa, nhưng Gát quan tâm đến Thân Thể cách tập thể. Trong Hội Thánh ngày nay, chúng ta có thể nói rằng Gát có sự nhận thức đầy đủ về Thân Thể.

Lý do cho sự thành công của Gát là vì ông đã bỏ qua sự vui hưởng riêng để quan tâm đến Thân Thể. Đây là công lý trong cách nhìn của Đức Chúa Trời. Đó là thi hành công lý của Chúa. Theo ngôn ngữ Tân Ước, đó là sự hoàn thành ý chỉ của Đức Chúa Trời. Khi con cái Ítx-ra-ên bước vào miền đất tốt lành, thì ý chỉ của Đức Chúa Trờitheo công lý của Ngài là dân Ngài phải được định cư. Đức Chúa Trời không chỉ muốn Gát mà còn muốn tất cả mười hai chi phái đều được định cư trở nên Vương Quốc Ngài hầu cho các luật lệ Ngài được tuân thủ. Điều này là để hoàn thành ý chỉ của Đức Chúa Trời. La-mã 12:1-2 nói rằng nếu dâng thân thể mình làm sinh tế sống, chúng ta có thể chứng minh ý chỉ của Đức Chúa Trời là gì. Theo La-mã chương 12, ý chỉ của Đức Chúa Trời đơn giản là có nếp sống Thân Thể. Vì thế, để có nếp sống Thân Thể, để có sự quan tâm đến nhu cầu của người khác thì phải thi hành công lý của Đức Chúa Trời nhằm tuân thủ các luật lệ Ngài. Không gì công bằng hơn việc quan tâm đến các Chi Thể của Thân. Không luật lệ nào có thể được tuân thủ mà không thi hành công lý của Đức Chúa Trời. Các luật lệ Tân Ước của Đức Chúa Trời chỉ có thể được tuân thủ trong Thân Thể Christ, là điều được xây dựng bởi sự quan tâm lẫn nhau giữa các Chi Thể trong công lý.

Thất bại của Đan là do ông cá nhân chủ nghĩa. Thành công của Gát là do ông hợp tác, cùng chuyển động với anh em. Đan sống cho chính mình, nhưng Gát sống cho tất cả các chi phái. Hễ khi nào chỉ quan tâm đến lợi ích thuộc linh của riêng mình, anh em là Đan. Nhưng khi quên đi lợi ích thuộc linh của riêng mình và quan tâm đến tất cả anh em khác, nghĩa là, quan tâm đến Thân Thể, thì anh em là Gát. Chúng ta phải quan tâm đến Thân Thể và cùng chuyển động với Thân Thể. Anh em là Đan hay là Gát? Anh em chỉ đang quan tâm đến địa phương của mình hay quan tâm đến cả Thân Thể? Hễ khi nào không quan tâm đến Thân Thể, chúng ta là Đan của hôm nay, và chúng ta đãsa vào một dạng của sự bội đạo.

III. Sự Sung Túc Của A-Se 

A. Phước Hạnh Vượt Trỗi Và Ân Điển Phi Thường

Sau sự khôi phục với Gát, chúng ta có sự sung túc của A-se. Lời chép về A-se bắt đầu với phước hạnh vượt trỗi và ân điển phi thường. Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:24 nói: “A-se sẽ được phước hơn các con trai; hãy để người được ơn giữa các anh em mình” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). A-se nhận được phước hạnh vượt trỗi và ân điển cao nhất. Nhiều người trong chúng ta có thể hiểu ngôn ngữ này. Trong sự bội đạo của Đan, chúng ta mất tất cả phước hạnh và ân điển; nhưng trong chiến thắng của Gát, phước hạnh được khôi phục và ân điển đã trở lại. Bây giờ trong A-se, chúng ta đang vui hưởng phước hạnh vượt trỗi và ân điển phi thường.

B. Sự Cung Ứng Phong Phú Của Sự Sống 

Trong A-se, chúng ta cũng thấy sự cung ứng phong phú của sự sống. Trước hết, A-se có sự cung ứng phong phú để sống và lớn lên. Sáng Thế Ký 49:20 nói: “Do nơi A-se có thực vật ngon,/ Người sẽ cung cấp mỹ vị cho các vua”. Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:25 cho thấy A-se cũng có sự cung ứng phong phú của sự sống để chiến đấu và xây dựng. Phần đầu của câu này nói: “Dưới giày ngươi sẽ là sắt và đồng” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Món ngon và những cao lương mỹ vị của vua là để A-se sinh sống và phát triển, còn sắt và đồng là những khoáng sản dùng để chiến đấu và xây dựng. Chắc chắn A-se đã nhận được sự cung ứng phong phú nhất.

C  Sự Cung Ưng Dồi Dào Của Linh 
Cho Bước Đi Hằng Ngày Của Chúng Ta 

A-se cũng có sự cung ứng dồi dào của Linh cho bước đi hằng ngày của mình (Gal. 5:25). Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:24 chép: “Hãy để người dầm chơn mình trong dầu”. Chắc chắn đây là lối nói ẩn dụ. Ý nghĩa thuộc linh của việc ngâm chân trong dầu là được đầy dẫy Linh. Theo hình bóng, dầu chỉ về Linh của Đức Chúa Trời. A-se không có dầu chảy nhỏ giọt, nhưng đủ để ngâm chân trong đó. Điều này có nghĩa là, trong A-se, chúng ta có sự cung ứng phong phú, dồi dào của Linh (Phi. 1:19). Ô, chúng ta có thể bước đi trong dầu! Nhiều lần trong sự khôi phục của Chúa, tôi có cảm nhận rằng chúng tôi đang bước đi trong dầu. Tôi thờ phượng, cảm tạ và ngợi khen Chúa rằng: “Chúa ơi, điều này quá phong phú! Sự cung ứng của Linh ở đây thật quá dư dật! Dầu của chúng con hết sức dồi dào!” Anh em có dầu để ngâm chân không?Chúng tôi có. Chúng tôi có những món ngon, cao lương mỹ vị của vua và có dầu phong phú, dồi dào để ngâm chân mình.

D  Sự Yên Nghỉ Tuyệt Đối Với Sự Bình An, 
Sức Mạnh, An Ninh Và Sung Túc 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:25 nói về A-se: “Đời ngươi lâu bao nhiêu, sự an nghỉ ngươi lâu bấy nhiêu” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Khi có phước hạnh vượt trỗi và ân điển phi thường, dư dật, sự cung ứng phong phú của sự sống, và sự cung ứng dồi dào của Linh, chúng ta có sự yên nghỉ hoàn toàn với sự bình an, sức mạnh, an ninh và sung túc. Đây là kinh nghiệm của sứ đồ Phao-lô trong Phi-líp 4:11-13. Ông thỏa lòng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tôi có thể làm chứng rằng tuần này, tôi có một cảm nhận sâu xa là tôi đang bước đi trong dầu và có sự thỏa lòng, bình an và yên nghỉ. Tôi cũng đầy sức mạnh. Vì vậy, tôi có sự an ninh và sung túc. Chúa là Đấng chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì (Thi. 23:1). Thay vì thiếu thốn, tôi sung túc. Tôi có những món ngon, mỹ vị của vua, ngập sâu trong dầu, và sắt, đồng ở dưới chân tôi. Mọi nơi đều có sự cung ứng. Do đó, tôi an toàn và yên ninh, tôi có sự yên nghỉ và sức mạnh. Anh em có dạn dĩ để nói rằng mình có sự an ninh và sung túc này không? Hay sẽ nói rằng sáng nay vợ anh em đã gây khó khăn cho anh em và anh em chịu trận một mình? Anh em cần nói: “Sáng nay vợ tôi đã gây khó khăn cho tôi. Nhưng ngợi khen Chúa vì tôi bước sâu trong dầu! Bây giờ tôi có sự yên nghỉ, bình an, an ninh, sức mạnh và sung túc. Sức mạnh tôi lâu bền bằng các ngày của tôi. Các ngày tôi [dài] bao lâu, sự yên nghỉ, an ninh và sung túc tôi sẽ dài bấy lâu”. Đây là kinh nghiệm của A-se.

IV  Sự Hoàn Thành Với Nép-Ta-li 

Dầu A-se thật kỳ diệu, ông vẫn chưa là phần kết của lời tiên tri bằng sự chúc phướctheo thể thơ của Gia-cốp. Sau A-se đến Nép-ta-li (49:21). Gia-cốp có mười hai con trai thật tốt biết bao! Con số này thật đầy đủ, thậm chí đầy đủ cách đời đời. Khi Gia-cốp cần ai đó đại diện cho tội nhân, ông có Ru-bên. Khi cần ai đó phơi bày tính khí xấu xa, độc ác, ông có Si-mê-ôn. Khi cần đến người bày tỏ chiến thắng của Christ, ông có Giu-đa. Ông cũng có Đan để đại diện cho sự bội đạo, Gát tượng trưng cho sự khôi phục và A-se mô tả sự sung túc. Bây giờ chúng ta đến với Nép-ta-li.

A  Kinh Nghiệm Đấng Christ Phục Sinh

Và Nói Ra Những Lời Hoa Mỹ Và Dịu Dàng Của Sự Sống 

Sáng Thế Ký 49:21 nói: “Nép-ta-li là hươu cái thả chuồng,/ Nói bày nhiều lời hoa mỹ” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Trong lời chúc phước mang tính tiên tri, Gia-cốp đã dùng nhiều thú vật làm hình ảnh như: sư tử, sư tử cái, lừa, lừa con, rắn, rắn độc, và hươu cái.Nép-ta-li không phải là sư tử cũng không phải là lừa, nhưng là một hươu cái. Chúng ta cảm tạ Đức Chúa Trời cả về sự sáng tạo của Ngài và về thơ ca của Gia-cốp. Hươu cái là con vật đáng yêu, hết sức sinh động và nhanh nhẹn. Dầu hươu cái không kiêu ngạo hay to lớn cách đặc biệt, nhưng nó khá mạnh mẽ, có thể nhảy trên các đỉnh núi. Theo nguyên bản tiếng Hê-bơ-rơ, tựa đề của Thi Thiên 22 nói về hươu cái rạng đông. Cách đây nhiều năm, tôi nghe một sứ điệp của Anh Nghê, trong đó anh nói rằng hươu cái rạng đông tượng trưng cho Đấng Christ phục sinh. Thi Thiên 22 trước hết nói về sự chết của Christ trên thập tự giá. Sau đó, bắt đầu với câu 22, tiếp tục nói đến sự phục sinh của Ngài. Thi Thiên 22:22 nói: “Tôi sẽ rao truyền danh Chúa cho anh em tôi,/ Và ngợi khen Chúa giữa hội chúng” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Điều này cho thấy trong sự phục sinh, Christ đã công bố danh Cha cho anh em Ngài và ngợi khen Cha giữa hội chúng, Hội Thánh. Vì thế, Thi Thiên này cuối cùng dẫn đến sự phục sinh của Christ là Hươu Cái Rạng Đông. Chắc chắn rằng sự phục sinh là buổi bình minh và Christ trong sự phục sinh là Hươu Cái Rạng Đông.

Sáng Thế Ký 49:21 nói rằng, là hươu cái, Nép-ta-li nói bày nhiều lời hoa mỹ. Khi còn trẻ, tôi không thể hiểu mối liên hệ giữa hươu cái với những lời hoa mỹ. Dường như những điều này hoàn toàn chẳng liên hệ gì. Nhưng bây giờ, chúng ta có thể thấy ý nghĩa của điều này trong kinh nghiệm thuộc linh. Khi kinh nghiệm Christ là Đấng phục sinh, anh em sẽ đầy dẫy và sôi trào những lời vui vẻ. Thay vì nói tầm phào, từ bản thể sâu kín của anh em sẽ tuôn tràn những dòng nước sống ra qua lời nói. Điều này có nghĩa tất cả lời nói của anh em sẽ là những dòng sông tuôn ra từ Đấng Christ phục sinh. Trong Ma-thi-ơ chương 28 và Công Vụ chương 2, chúng ta thấy sự nói ra những lời dịu dàng có liên hệ mật thiết với Christ phục sinh. Sau khi Christ phục sinh, Ngài dặn các môn đồ đến với Ngài trên núi, và tại đó Ngài truyền họ ra đi không phải nói những lời thiên nhiên của họ, nhưng với Christ phục sinh như là sự phát ngôn của họ (Mat. 28:16,18-20). Do đó, vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Phi-e-rơ đã đứng dậy nói những lời hoa mỹ (Công. 2:32-36). Lời giảng của Phi-e-rơ vào ngày đó là một bằng chứng rằng ông đã kinh nghiệm Christ phục sinh. Vì đã kinh nghiệm Christ phục sinh này nên răng ông trắng.

Những lời phong phú, những lời dịu dàng, những lời hoa mỹ, những lời vui vẻ và sự sống –tất cả đều ra từ kinh nghiệm Christ phục sinh. Càng kinh nghiệm Christ là Đấng Phục Sinh, chúng ta càng có điều gì đó để nói. Chúng ta không thể yên lặng. Hễ ai kinh nghiệm Christ là Đấng Phục Sinh đều sẽ sôi trào những lời hoa mỹ. Điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ nói nhiều. Không, điều đó có nghĩa là vì được đầy dẫy Christ, chúng ta sẽ sôi trào và luôn có điều gì đó để nói. Christ là Lời của Đức Chúa Trời, Lời của Sự Sống và Lời Ngài là Linh. Tôi được đầy dẫy Christ phục sinh này nên tôi có nhiều lời để nói. Nguyên tắc ở đây là chúng ta luôn nói ra điều đang đầy dẫy bên trong.Lời nói lưu xuất từ sự đầy dẫy của bản thể bề trong của chúng ta. Khi bản thể bề trong đầy dẫy Christ, chúng ta phải nói kẻo bị nổ tung. Bây giờ chúng ta có thể hiểu lý do vì sao Nép-ta-li, một hươu cái thả chuồng, nói ra nhiều lời hoa mỹ. Vì đã kinh nghiệm Christ, nên Nép-ta-li đầy dẫy những lời hoa mỹ.

B. Thỏa Lòng Với Ân Điển Của Đức Chúa Trời Và Đầy Dẫy Phước Hạnh Của Ngài 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:23 nói: “Hỡi Nép-ta-li, con được thỏa nguyện với ânhuệ và đầy dẫy phước lành của Chúa”. Ân huệ và phước lành ở đây nối kết Nép-ta-li với A-se, là người được phước nhiều hơn các con trai và được ân huệ giữa các anh em. Trong sự khôi phục của Chúa, hằng ngày chúng ta được vui thỏa với ân điển phong phú và đầy dẫy phước hạnh của Đức Chúa Trời. Phước hạnh này không chỉ về phước hạnh vật chất, nhưng là phước hạnh trong linh, phước hạnh trong sự sống, phước hạnh trên các từng trời. Từ khi bước vào nếp sống Hội Thánh, ân điển chúng ta đã nếm và phước hạnh chúng ta đã và đang vui hưởng thật diệu kỳ biết bao! Tất cả chúng ta đều có thể làm chứng rằng trong sự khôi phục của Chúa, chúng ta được thỏa lòng với ânđiển phong phú và đầy dẫy phước hạnh phong phú (1Côr. 15:10; 2Côr. 13:14).

C. Chiếm Trái Đất Cho Chúa 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:23 cũng nói về Nép-ta-li rằng: “Con chiếm được biển và phía Nam” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Nép-ta-li sẽ chiếm được phía Tây, tức là biển, thế giới Ngoại Bang; và phía Nam, tức là đất, quốc gia Ítx-ra-ên. Điều này có nghĩa là Nép-ta-li sẽ chiếm lấy trái đất. Đó là Christ Phục Sinh được kinh nghiệm bởi chúng ta là những người sẽ chiếm hữu trái đất. Phần cuối của Thi Thiên 22 cho thấy Christ Phục Sinh sẽ chiếm được các nước. Thi Thiên 22:27 chép: “Bốn phương thế gian sẽ nhớ và trở lại cùng Đức Giê-hô-va;/ Các họ hàng muôn dân sẽ thờ lạy trước mặt Ngài” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Muôn dân sẽ qui phục Ngài, vâng lời Ngài và thờ phượng Ngài. Nép-ta-li, người đã kinh nghiệm Christ phục sinh, sẽ chiếm hữu biển và đất. Khi thực sự kinh nghiệm Christ trong sự phục sinh, chúng ta trở thành những người sẽ chiếm trái đất bằng cách rao giảng Christ (Mat. 28:19; Công. 1:8; La. 15:19).

 

Bài Một Trăm LẺ Bốn

Được Trưởng Thành
Biểu Lộ Sự Trưởng Thành
(6)

Trong bài này, chúng ta đến với nhóm cuối cùng trong mười hai con trai của Gia-cốp được đề cập trong lời tiên tri bằng sự chúc phước của ông, nhóm này có Giô-sép và Bên-gia-min (49:22-27). Mười hai chi phái của các con trai Gia-cốp trong Cựu Ước luôn được chia thành nhóm. Trong Dân Số Ký chương 2, chúng ta thấy sự sắp xếp của mười hai chi phái chung quanh Đền Tạm: Giu-đa, Y-sa-ca và Sa-bu-lôn ở hướng đông; Ru-bên, Si-mê-ôn và Gát ở hướng nam; Ép-ra-im, Ma-na-se và Bên-gia-min ở hướng tây; và Đan, A-se và Nép-ta-li ở hướng bắc.

Trong số mười hai con trai của Gia-cốp, chỉ có ba người là hình bóng của Christ: Giu-đa, Giô-sép và Bên-gia-min. Giu-đa, hình bóng về Christ là Sư Tử Đắc Thắng Khải Hoàn. Giô-sép, hình bóng về Christ là Con Yêu Dấu Của Cha đem mọi sự phong phú để nuôi dưỡng thế gian. Bên-gia-min, hình bóng về Christ Thăng Thiên Và Được Tôn Cao. Khi được sanh ra, mẹ ông đặt tên là Bê-nô-ni, nghĩa là “con trai của sự đau đớn,” nhưng cha ông đổi thành Bên-gia-min, nghĩa là “con trai của tay hữu”. Do đó, Giu-đa, Giô-sép và Bên-gia-min làm hình bóng về Christ cách trọn vẹn. Dầu Ru-bên là con trưởng, nhưng ông đã mất quyền trưởng nam do sự ô uế. Vì thế, trong sự quản trị của Đức Chúa Trời, Giu-đa giữ vị trí đứng đầu. Tuy nhiên, không có Giô-sép và Bên-gia-min, thì lịch sử và ý nghĩa của mười hai chi phái của Gia-cốp sẽ không có phần kết thúc.Giô-sép và Bên-gia-min là phần kết đầy đủ và trọn vẹn về lịch sử mười hai con trai của Gia-cốp

Mười hai con trai của Gia-cốp là hình bóng đầy đủ về dân Đức Chúa Trời, bao gồm tất cả chúng ta. Chúng ta đã thấy lịch sử của dân Đức Chúa Trời bắt đầu với những  tộinhân vì hết thảy chúng ta đều là tội nhân giống như Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi. Ru-bên đầy tham dục, còn Si-mê-ôn và Lê-vi thì đầy hung dữ. Vì thế, lịch sử của dân Đức Chúa Trời bắt đầu với những tội nhân là người đầy tham dục và hung dữ. Sau đó, Christ đến, được tiêu biểu bởi Giu-đa. Sau đó, Nép-ta-li xuất hiện như một hươu cái thả tự do và giải  bày nhiều lời hoa mỹ. Nếu lịch sử của dân Đức Chúa Trời kết thúc với Nép-ta-li, thật sẽ tốt đẹp nhưng không đầy đủ. Để có một phần kết đầy đủ, cần có cả Giô-sép lẫn Bên-gia-min.

Lịch sử của dân Đức Chúa Trời bắt đầu với tội nhân. Cuối cùng, các  tội nhân này được biến đổi thành những Lê-vi với chức tế lễ và thậm chí trở thành những Giu-đa với vương quyền. Rồi đến Nép-ta-li, Christ Phục Sinh, nói ra những lời hoa mỹ. Điều này có nghĩa là trước đây chúng ta là những Ru-bên và Si-mê-ôn, nhưng được biến đổi thành những Lê-vi, Giu-đa, và Nép-ta-li. Hơn nữa, chúng ta phải tiến lên để trở thành những Giô-sép và Bên-gia-min.

Trước khi xem xét các phương diện đầy ý nghĩa về Giô-sép và Bên-gia-min, tôi muốn lưu ý rằng Giô-sép và Bên-gia-min, hai con trai cùng một mẹ là Ra-chên, là hai phương diện của một người. Khi Gia-cốp gặp Ra-chên, ông yêu bà và lòng ông đặt nơi bà. Tuy nhiên, ông đã không cưới được Ra-chên trước mà là Lê-a, người sanh cho ông sáu con trai. Dầu các nàng hầu của Ra-chên và Lê-a cũng đã sanh con cho Gia-cốp, nhưng chính Ra-chên thì không có con cho đến khi mười con trai đã được sanh ra. Chỉ khi đó, Ra-chên mới sanh Giô-sép mà chính tên ông hàm ý rằng còn một con trai nữa sẽ được sinh ra. Điều này có nghĩa là trong chính mình, Giô-sép không đầy đủ; cần có một phần khác. Vì thế, Bên-gia-min là sự đầy đủ của Giô-sép. Do đó, Giô-sép và Bên-gia-min là một. Nếu đọc Cựu Ước, anh em sẽ thấy Cựu Ước xếp Giô-sép với Bên-gia-min làm một đơn vị. Cuối cùng, Giô-sép nhận được quyền trưởng nam, và qua hai con trai là Ép-ra-im và Ma-na-se, ông thừa hưởng hai phần đất. Bằng cách này, Giô-sép trở thành hai chi phái, chi phái Ép-ra-im và chi phái Ma-na-se. Hơn nữa, chi phái Ma-na-se nhận được hai phần đất: nửa chi phái này nhận phần đất ở phía đông sông Giô-đanh; nửa chi phái còn lại nhận phần đất ở phía tây. Giô-sép và Bên-gia-min là một. Sự kiện Giô-sép là con thứ mười một và Bên-gia-min là con thứ mười hai cho thấy rằng họ gần nhau theo thứ tự. Do đó, giữa vòng mười hai con trai, thì Giô-sép và Bên-gia-min là cặp cuối. Sau này, họ trở thành ba chi phái là Ép-ra-im, Ma-na-se và Bên-gia-min, đóng trại ở phía sau nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Giu-đa là chi phái dẫn đầu ở phía trước Đền Tạm, nhưng Giô-sép thì ở phía sau.

Bây giờ chúng ta hãy xem xét các phương diện quan trọng của nhóm này. Giô-sép rất trung tín và ông đã đắc thắng hoàn toàn. Theo phần ký thuật của Cựu Ước, Giô-sép là người được hoàn hảo đầu tiên. Trước ông, không ai là hoàn hảo, kể cả Nô-ê. Trong Giô-sép, chúng ta không tìm thấy lầm lỗi nào; ông hoàn toàn trọn vẹn trong hành vi. Giô-sép hoàn hảo vì ông đắc thắng hoàn toàn. Hơn nữa, Cựu Ước ví Giô-sép như một bò đực đầy sức mạnh (Phục. 33:17, Theo Bản Hê-bơ-rơ). Ông không phải là một sư tử hung dữ hay con sói đe dọa, nhưng là một bò đực đầy sức mạnh. Là bò đực, Giô-sép có hai sừng: Ép-ra-im và Ma-na-se. Với hai sừng này, Giô-sép sẽ húc đẩy các dân đến các đầu cùng đất. Điều này cho thấy Giô-sép thật mạnh mẽ trong chiến thắng.

Giô-sép cũng nương cậy Đức Chúa Trời và tin vào Ngài. Vì Giô-sép hoàn hảo và chiến thắng, và vì ông tin cậy Đức Chúa Trời nên Đức Chúa Trời ban phước cho ông. Không ai trong Kinh Thánh nhận được phước hạnh lớn hơn phước hạnh ban cho Giô-sép. Như sẽ thấy, ông được chúc phước với mười điều về thời gian và không gian, từ quá khứ đời đời đến tương lai đời đời và từ trời xuống đất. Giô-sép đã nhận được mọi sự. Toàn thể vũ trụ trở thành phước hạnh cho ông.

Bên-gia-min được mô tả là một con sói hay cắn xé (49:27, Theo Bản Hê-bơ-rơ). Cũng vậy, nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời ở với Bên-gia-min (Phục. 33:12). Do đó, lời tiên tri bằng sự chúc phước của Gia-cốp kết thúc với sự đầy đủ về phước hạnh hoàn vũ và với nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Phần kết của Sáng Thế Ký chương 49 cần có sự phát triển trọn vẹn trong Khải Thị chương 21 và 22.

13) Về Giô-sép

a) Chồi Của Cây Sai Quả Mọc Gần Suối Nước

Sáng Thế Ký 49:22 nói: “Giô-sép là chồi của cây sai quả, chồi của cây mọc gần suối nước;/ Nhành nhánh nó vượt qua tường”. (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Trước hết, Giô-sép là chồi của cây sai quả. Tất nhiên, chồi này là nhành cây. Nếu Giô-sép là nhành, chồi, thì cây sai quả này phải là Gia-cốp. Theo phần ký thuật của Kinh Thánh, trước Gia-cốp không một ai có đến mười hai con trai. (Mười hai là con số của sự trọn vẹn đời đời). Sự kiện Gia-cốp có mười hai con trai nghĩa là ông rất kết quả, sai quả. Gia-cốp là con của Y-sác, và Y-sác là con của Áp-ra-ham, tổ phụ của dòng dõi được gọi. Trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời được gọi là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp (Xuất. 3:6; Mat. 22:32). Danh xưng này cũng là danh của Đức Chúa Trời Tam-Nhất. Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham chỉ về Đức Chúa Trời Cha, Đức Chúa Trời của Y-sác chỉ về Đức Chúa Trời Con, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp chỉ về Đức Chúa Trời Linh. Như chúng tôi đã lưu ý, chúng ta không nên xem Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp là ba người, nhưng là ba phương diện của một người. Cũng vậy, Ba Thân Vị trong Đức Chúa Trời Tam Nhất là Ba trong Một. Gia-cốp tiêu biểu cho sự đến của Linh, [Thân Vị] Thứ Ba của Đức Chúa Trời Tam Nhất. Cha ở trong Con, và Con đã trở nên Linh. Vì thế, Linh là sự lưu xuất của Đức Chúa Trời chúng ta.

Nếu chạm đến linh của Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy rằng, là một người sinh sản nhiều, Gia-cốp tiêu biểu cho Đức Chúa Trời Sinh Sản. Đức Chúa Trời là Cây Sai Quả. Điều này được chứng minh bởi Giăng chương 15, tại đó Christ nói rằng Ngài là Cây Nho. Là hiện thân của Đức Chúa Trời, Christ là Cây Sinh Quả. Christ thực sự sản sinh rất nhiều quả. Ở đây, trong Sáng Thế Ký chương 49, chúng ta thấy chồi của cây này. Con Đức Chúa Trời là sự đâm nhánh của Đức Chúa Trời. Vì lý do này, trong Cựu Ước, Christ được gọi là Nhánh (Giê. 23:5; Xa. 6:12). Kinh Thánh thật sâu sắc, thâm thúy và vượt quá trí hiểu của chúng ta. Một mặt, Kinh Thánh nói rằng Christ là Cây; mặt khác, lại nói Ngài là Nhánh. Thế thì Ngài là Cây hay Nhánh? Ngài là cả hai. Là hiện thân của Đức Chúa Trời, Ngài là Cây; nhưng là sự đâm nhánh của Đức Chúa Trời, Ngài là Nhánh. Giô-sép, hình bóng về Christ, cũng là chồi ra từ cây sai quả, sự ra nhánh của Đức Chúa Trời. Giô-sép là sự ra nhánh của Đức Chúa Trời. Như tất cả chúng ta đều biết, nhánh là một phần của cây. Vì thế, Giô-sép, con của Gia-cốp, là một phần của Gia-cốp, người cha sinh sản nhiều. Nói theo hình bóng, Giô-sép là Christ, Con Đức Chúa Trời, là sự ra nhánh của Đức Chúa Trời Sai Quả.

Câu 22 nói rằng Giô-sép là chồi của cây sai quả mọc gần suối nước. Suối nước này là Đức Chúa Trời. Cây này là Đức Chúa Trời; suối nước cũng là Đức Chúa Trời; mọi sự là Đức Chúa Trời. Gia-cốp, hình bóng về một cây sai quả, đã sống bởi Đức Chúa Trời là Suối Nước. Cây cần có nước. Nếu có nước, cây sẽ lớn lên sai quả. Gia-cốp nhận thức rằng mọi bông trái của ông đều xuất phát từ Đức Chúa Trời là Suối Nước. Ở đây, chúng ta được bảo rằng Giô-sép, con của Gia-cốp, ra nhánh từ mọi sự phong phú của cây này đến từ suối nước.

b) Các Nhánh Nó Vượt Qua Tường

Chồi này, cành to của cây sai quả này, đã đâm nhánh vượt qua tường. Chương 49 đầy lối nói ẩn dụ. Trong câu 22 chúng ta có khu vườn, bức tường và một cây phía trong bức tường. Cành to của cây này có nhiều nhánh, và những nhánh nó vượt qua bức tường. Theo hình bóng, điều này có nghĩa là Gia-cốp đang chuyển động vượt qua bức tường. Ông không bị giới hạn trong miền đất tốt lành, nhưng vượt qua bức tường hướng đến Ai-cập, mở rộng các ranh giới của miền đất tốt lành vào một miền đất khác. Ngày nay, là chính Giô-sép bên trong chúng ta, Christ đang tràn qua bức tường hạn chế này. Bức tường không thể hạn chế sự lan rộng của Giô-sép; nó không thể làm giới hạn sự đâm nhánh của cành to này ra ngoài. Chúng ta có Giô-sép này bên trong. Điều này có nghĩa là chúng ta có Christ là Giô-sép hôm nay bên trong. Giô-sép của chúng ta có nhiều nhánh đang vượt qua bức tường. Các nhánh này vượt trên mọi giới hạn, ví dụ, những giới hạn của gia đình, trường học hay những sự hạn chế của kẻ chống đối. Dù bức tường có cao đến đâu, các nhánh của Giô-sép cũng sẽ vượt lên trên. Dù bức tường chống đối có cao đến đâu, chính Christ bên trong chúng ta sẽ vượt trên nó bởi nhiều nhánh.

c) Bị Quấy Rối Bởi Kẻ Bắn Cung

Câu 23 chép: “Kẻ cầm cung đã quấy rối người cách gay gắt [cay đắng],/ Bắn tên vào và nằm chờ người” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Điều này chỉ về sự đau khổ của Giô-sép. Các anh được ví như những kẻ bắn cung đã tấn công và bắn tên vào ông. Khi họ đang chăn bầy của cha, Giô-sép được cha sai đến thăm họ, còn họ thực ra đang nằm chờ ông. Khi ông đến, họ vồ lấy ngay.

d) Cung Của Người Vẫn Bền Chắc 
Và Cánh Tay Người Được Làm Cho Mạnh Và Nhanh

Tuy nhiên, các anh đã không thắng hơn Giô-sép. Câu 24 nói: “Nhưng cung người vẫn bền chắc và cánh tay người được làm cho mạnh và nhanh nhờ tay Đấng Toàn Năng của Gia-cốp” (nhờ Đấng Chăn Chiên, Đá của Ítx-ra-ên) (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Các anh của Giô-sép đã không chiến thắng vì cây cung của Giô-sép vẫn bền chắc và cánh tay ông được làm cho mạnh và nhanh bởi Đấng Toàn Năng của Gia-cốp. Đấng Toàn Năng của Gia-cốp này là Đấng Chăn Chiên và là Đá của Gia-cốp. Gia-cốp có một Đấng Chăn Chiên hằng chăm sóc và có một Vầng Đá để ông đứng trên đó. Cả Đấng Chăn Chiên và Vầng Đá này là Đấng Toàn Năng của Gia-cốp. Giô-sép được làm cho mạnh mẽ nhờ Đấng Toàn Năng này của cha mình.

e) Được Đức Chúa Trời Của Cha Mình Giúp Đỡ 
Và Được Ban Phước Bởi Đấng Toàn Túc

Đức Chúa Trời của cha Giô-sép đã giúp đỡ và Đấng Toàn Túc đã ban phước cho ông. Câu 25 chép: “Ngay cả Đức Chúa Trời của cha sẽ giúp đỡ con; và Đấng Toàn Túc sẽ ban phước cho con” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Khi kết hợp các phước hạnh được đề cập trong 49:25-26 với những phước hạnh trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:13-16, chúng ta thấy các phước hạnh ban cho Giô-sép thuộc mười phương diện. Thứ nhứt, ông được ban phước với những điều quí báu trên trời (Phục. 33:13). Chắc chắn rằng, một số trong những phước hạnh về những điều quí báu trên trời bao gồm mưa và tuyết. Thứ hai, ông được ban phước bằng sương móc. Thứ ba, ông được ban phước bằng phước hạnh sâu nhiệm ẩn giấu. Điều này chỉ về các mạch nước, các suối và những dòng nước dưới mặt đất. Thứ tư, ông được ban phước bằng những huê lợi quí báu sản sinh bởi mặt trời (Phục. 33:14). Sau đó, là phước hạnh thứ năm, ông có phước hạnh là những vật quí ra từ mặt trăng. Chúng ta cần cả mặt trời, tiêu biểu cho Christ, và mặt trăng, tiêu biểu cho Hội Thánh. Một số bông trái được sinh ra bởi Christ và một số điều quí báu được sản sinh bởi Hội Thánh. Tất cả những điều này thuộc trong số các phước hạnh được ban cho Giô-sép. Phước hạnh thứ sáu Giô-sép nhận được là về những vật tốt nhất của các núi thời cổ và phước hạnh thứ bảy là những vật quí báu của các đồi đời đời (Phục. 33:15, Theo Bản Hê-bơ-rơ). Tất cả phước hạnh này bao gồm cả thời gian và không gian. Từ thời xa xưa đến cõi đời đời, cả cõi thời gian được bao gồm; và từ trời xuống đất, kể cả vực sâu bên dưới đất, toàn cõi không gian được bao gồm. Điều này cho thấy mọi điều tốt lành trong vũ trụ đã trở thành các phước hạnh cho Giô-sép. Phước hạnh thứ tám gồm những điều quí báu của đất và sự đầy đủ của nó (Phục. 33:16). Chắc chắn điều này phải bao gồm các khoáng sản như vàng và bạc. Phước hạnh thứ chín được thấy trong Sáng Thế Ký 49:25  “Phước hạnh của vú và của tử cung”. Các phước hạnh của tử cung là để sinh sản, và các phước hạnh của vú là để nuôi dưỡng. Các điều này chỉ về việc sản sinh của sự sống. Đây là phước hạnh duy nhất thuộc về sự sống. Phước hạnh thứ mười là “ý muốn tốt lành của người là được ở trong bụi gai” (Phục. 33:16). Về sau, chúng ta sẽ thấy Đấng ở trong bụi gai này (Xuất. 3:4) sẽ ở trong Đền Thờ, trong Hội Thánh và sau đó trong Giê-ru-sa-lem Mới. Tất cả những bụi gai sẽ được biến đổi thành những đá quí. Trước đây, Đức Chúa Trời ở giữa những bụi gai, nhưng cuối cùng Ngài sẽ cư ngụ giữa những đá quí trong Giê-ru-sa-lem Mới. Đây chính là khát vọng của lòng Đức Chúa Trời, ý chỉ tốt đẹp của Ngài. Tất cả những điều này được bao gồm trong phước hạnh hoàn vũ được ban cho Giô-sép.

Phước hạnh lớn nhất là sự cư ngụ của Đấng ở trong bụi gai. Việc Đức Chúa Trời ở giữa chúng ta là phước hạnh tốt nhất. Giả sử người cha cho con nhiều thứ rồi bỏ đi xa. Điều này không tốt lắm. Cha đã ban cho chúng ta rất nhiều, và cuối cùng Ngài ban cho chúng ta phước hạnh tột bực, đó là Ngài ở với chúng ta. Khi đọc Kinh Thánh từ Sáng Thế Ký đến Khải Thị, chúng ta thấy Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta nhiều điều tốt lành. Nhưng điều sau cùng Đức Chúa Trời ban cho là sự cư ngụ của Ngài.

Tất cả các phước hạnh này là cơ nghiệp của Christ. Hê-bơ-rơ 1:2 nói rằng Đức Chúa Trời đã lập Christ làm Đấng Thừa Thọ muôn vật. Mọi điều tốt lành trải suốt thời gian và không gian là sản nghiệp của Christ. Đây là phước hạnh của Đức Chúa Trời ban cho Đấng Christ. Và chúng ta, những người chung phần của Christ, đang dự phần trong cơ nghiệp này. Ở đây, Giô-sép đại diện cho Christ. Tất cả phước hạnh của Cha đều ban cho Ngài. Trong Tân Ước, chúng ta được bảo rằng mọi sự đã được ban cho Con. Đây là những phước hạnh trong không gian, trong thời gian và trong sự sống. Toàn bộ điều này là cơ nghiệp của Christ và chúng ta, những người chung phần của Ngài, đồng tham dự với Ngài để thừa hưởng tất cả các phước hạnh này. Đây không chỉ là vấn đề về sự cứu rỗi hay Vương Quốc. Mọi điều trong cõi thời gian từ các thời xa xưa đến cõi đời đời, mọi điều trong không gian từ trời xuống bên dưới đất, và mọi phương diện sản sinh và nuôi dưỡng của sự sống, đều là những phước hạnh được ban cho Christ.

Đấng Christ này là Đấng biệt riêng khỏi các anh em Ngài (49:26). Từ Hê-bơ-rơ được dịch là “biệt riêng” cũng là từ cho Na-xi-rê. Theo Dân Số Ký chương 6, [Na-xi-rê là] những người nam Ítx-ra-ên nào đó được phân rẽ khỏi mọi người để sống tuyệt đối cho Đức Chúa Trời. Giô-sép là một người như vậy. Ông là người Na-xi-rê đầu tiên trong Kinh Thánh, biệt riêng khỏi các anh em mình, còn Christ đã trở thành người Na-xi-rê thật, phân rẽ khỏi mọi người. Do đó, Giô-sép tiêu biểu cho Christ là Người Na-xi-rê thật, Người đã biệt riêng khỏi mọi người để sống tuyệt đối cho Đức Chúa Trời. Đấng Biệt Riêng này đã nhận được phước hạnh của cả vũ trụ. Phước hạnh hoàn vũ này được ban trên vương miện nằm trên đầu của một Người Na-xi-rê như thế.

f) Sự Oai Nghiêm Người Giống Như Bò Đực Đầu Lòng 
Và Các Sừng Người Giống Như Sừng Của Bò Rừng

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:17 nói: “Oai nghiêm người giống như con bò đực đầu lòng;/ Hai sừng người vốn sừng của bò rừng;/ Người lấy sừng ấy báng mọi dân,/ Cho đến cuối đầu của đất. / Đó là hằng muôn của Ép-ra-im,/ Ấy là hằng ngàn của Ma-na-se” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Giô-sép thật mạnh mẽ như bò đực đầu lòng. Bò đực này có hai sừng. Một sừng là Ép-ra-im và sừng kia là Ma-na-se. Với hai sừng này, bò đực húc đẩy các dân đến đầu cùng đất. Đây cũng là bức tranh về Christ. Christ là Bò Đực Mạnh Mẽ có hai sừng, đang thúc đẩy các dân lại với nhau như Ngài khao khát. Điều này sẽ xảy ra khi Chúa tái lâm. Ngày nay, các dân bị tản lạc và lan tràn. Nhưng sẽ đến ngày sắp đến, Đấng Christ như Bò Đực Mạnh Mẽ, húc đẩy các dân lại với nhau. Có lẽ Ngài nói: “Hỡi dân Nga và các dân khác, đừng làm cho mình trải rộng ra nữa. Ta sẽ đẩy các ngươi lại với nhau cho đến đầu cùng đất”. Xin nhớ rằng, Sáng Thế Ký chương 49 là phần ký thuật mang tính tiên tri về toàn thể lịch sử của dân Đức Chúa Trời, bắt đầu với các tội nhân và kết thúc với Christ là Đấng thừa thọ muôn vật và tiếp quản cả trái đất. Christ không những sanh nhiều bông trái, giành chiến thắng và được ban phước nhiều nhất; Ngài còn đầy sức mạnh để đẩy các dân trên đất theo như mục đích của Ngài.

Trong nhiều thế kỷ, người Nga, cư dân của vùng băng giá, đã gắng sức lan tràn đến phương nam, đến Địa Trung Hải. Khi họ cố gắng vươn đến Vịnh Ba-tư thì người Anh đã đẩy lùi họ. Sau đó, họ xây dựng đường sắt Si-bê-ri đến Viễn Đông để vươn ra biển, rồi họ xây dựng đường sắt qua Mãn Châu đến Thái Bình Dương. Nhưng người Anh đã giúp Nhật đánh bại họ. Ngày nay, người Nga đang cố gắng thâm nhập vùng Địa Trung Hải và Hồng hải. Vì lý do này, Ai-cập trở nên rất quan trọng. Ý định ẩn giấu của Nga là chiếm miền đất tốt lành, kể cả Giê-ru-sa-lem. Nhưng cuối cùng, Christ, Bò Đực Mạnh Mẽ, sẽ đến với hai sừng và húc đẩy người Nga trở về phương bắc. Ngài có thể nói: “Hỡi người Nga, phần định của ngươi là sống ở vùng băng giá. Đừng cố gắng đi xuống Địa Trung Hải là nơi đời đời dành riêng cho dân Ta”. Bò Đực Mạnh Mẽ này sẽ đẩy lùi hoàn toàn dân Nga và các dân khác. Nếu nghĩ rằng tôi đang nói vô lý, thì xin anh em hãy chờ xem. Không sớm thì muộn, điều này sẽ xảy ra. Trung tâm chính của các quan hệ quốc tế ngày nay là Trung Đông và nhiều nước muốn tràn vào vùng này.Nhưng Giô-sép, Bò Đực Mạnh Mẽ, sẽ đến với hằng muôn Ép-ra-im và hằng ngàn Ma-na-se để đẩy các dân trở về các đầu cùng đất. Ngài có thể nói: “Hãy ra khỏi Địa Trung Hải. Vùng này là dành cho dân Ta. Các ngươi không được đến đây!”

14) Về Bên-gia-min 

a) Một Con Sói Hay Cắn Xé 

Bây giờ chúng ta đến hai điểm chính về Bên-gia-min. Sáng Thế Ký 49:27 chép: “Bên-gia-min là một con sói hay cấu xé;/ Ban mai đi đánh chết mồi,/ Chiều phân chia mồi đã được” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Theo tiếng Hê-bơ-rơ, từ được dịch là “cắn xé” có nghĩa là “xé thành từng mảnh”. Trong nhiều năm, tôi bối rối bởi từ “con sói” trong câu này. Dầu sư tử hay hổ có vẻ tích cực, nhưng sói thì không tích cực. Tuy nhiên, Christ không chỉ là Sư Tử Đắc Thắng mà còn là Con Sói Hay Cắn Xé. Bên-gia-min, một con sói hay cắn xé, cũng là hình bóng về Christ. Do đó, sự liên hệ đến con sói ở đây mang tính tích cực, không tiêu cực. Buổi sáng, nó sẽ cắn xé con mồi, nhưng đến chiều sẽ chia của cướp, nghĩa là, chuẩn bị của cướp đó cho bữa ăn sáng mai. Điều này có nghĩa là Christ không những là Đấng đắc thắng mà còn là Đấng xé nát, Đấng ănnuốt kẻ thù Ngài.

b) Ở Gần Chúa, Được Chúa Che Chở Suốt Ngày 
Và Ở Giữa Hai Vai Người 

Nói về Bên-gia-min, Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:12 chép: “Người mà Đức Giê-hô-va yêu mến,/ sẽ được ở bình yên bên Ngài, Hằng ngày Đức Giê-hô-va sẽ che chở người,/ Lập nơi ở Ngài giữa hai vai người”. Những từ “gần Ngài” hàm ý rằng Bên-gia-min sẽ là người bên cạnh của Chúa. Ông sẽ ở gần bên Chúa. Vì ở gần bên Chúa, nên ông ở trong sự an toàn. Chắc chắn rằng người nào ở gần bên Chúa sẽ được an toàn.Câu này cũng nói rằng Chúa sẽ che chở, phủ bóng trên Bên-gia-min suốt ngày, thậm chí ở giữa hai vai người. Ở đây, chúng ta cần lưu ý rằng Giê-ru-sa-lem không ở trong lãnh thổ của Giu-đa, nhưng trong lãnh thổ của Bên-gia-min (Các Quan Xét 1:21). Nếu tra cứu bản đồ, anh em sẽ thấy lãnh thổ của Bên-gia-min nằm với hai vai hướng về phương nam và giữa hai vai này của Bên-gia-min là Giê-ru-sa-lem, nơi có Đền Thờ, chỗ cư ngụ của Chúa.

Việc Chúa cư ngụ là một sự che chở phủ bóng trên Bên-gia-min suốt cả ngày, như Chúa sẽ phủ bóng dân Ngài trong cõi đời đời bằng Đền Tạm Ngài (Khải. 7:15). Ngày nay Hội Thánh là nơi cư ngụ của Chúa cũng là một sự che chở phủ bóng người trong thuộc Hội Thánh.

Trong số mười hai con trai của Gia-cốp, con cả là một tội nhân, và con út trở thành nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Trong Sáng Thế Ký chương 3, tất cả chúng ta là tội nhân, nhưng vào cuối Kinh Thánh, trong Khải Thị chương 21 và 22, tất cả chúng ta trở thành Bên-gia-min, nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Đây là lý do vì sao tôi nói rằng không có Giô-sép và Bên-gia-min, sẽ không có phần kết đầy đủ của lịch sử dân Đức Chúa Trời. Nhưng với Giô-sép, chúng ta thấy Christ nhận được phước hạnh hoàn vũ, bao-hàm-tất-cả, và với Bên-gia-min, chúng ta thấy Đức Chúa Trời đang ở giữa tuyển dân Ngài. Đây là Giê-ru-sa-lem mới và Trời Mới Đất Mới. Trời Mới Đất Mới là lĩnh vực mà trong đó mọi phước hạnh được ban cho Christ. Mọi điều trong lĩnh vực mới này sẽ là một phần của phước hạnh được ban cho Christ, và trong lĩnh vực này sẽ có một nơi, tức Giê-ru-sa-lem Mới, là nơi cư ngụ đời đời của Đức Chúa Trời. Toàn bộ điều này được vẽ nên bởi đời sống của Giô-sép và Bên-gia-min.

Ngày nay, chúng ta đang ở trong nếp sống Hội Thánh, và cuối cùng, sẽ ở trong Giê-ru-sa-lem Mới. Anh em có biết ai sẽ ở đó không? Giô-sép và Bên-gia-min. Trong nếp sống Hội Thánh đúng đắn hôm nay, không có Ru-bên hoặc Si-mê-ôn. Cuối cùng, trong nếp sống Hội Thánh chỉ có Giô-sép và Bên-gia-min, phước hạnh của Chúa và sự cư trú của Đức Chúa Trời. Sẽ đến lúc Hội Thánh chỉ là Giô-sép và Bên-gia-min. Hội Thánh sẽ ở dưới phước hạnh của Ngài cách hoàn vũ, và Hội Thánh sẽ là sự cư ngụ của Ngài. Kết luận của toàn bộ Kinh Thánh, như bản ký thuật về lịch sử của dân Đức Chúa Trời, là phước hạnh hoàn vũ và nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời. Trời Mới Đất Mới với Giê-ru-sa-lem Mới mô tả phước hạnh hoàn vũ mà Christ và nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời sẽ thừa thọ. Chúng ta sẽ đi trọn con đường từ Ru-bên đến Bên-gia-min, từ tội nhân đến nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Giô-sép là dấu hiệu về phước hạnh đầy đủ của Đức Chúa Trời, và Bên-gia-min là dấu hiệu về sự cư ngụ đời đời của Ngài. Trong các Hội Thánh ngày nay, chúng ta có mô hình thu nhỏ về những điều sắp đến trong Trời Mới Đất Mới với Giê-ru-sa-lem Mới vì chúng ta đang vui hưởng tiền vị của phước hạnh đầy đủ này và chúng ta là nơi ở của Đức Chúa Trời. Trong một ý nghĩa, tất cả chúng ta là những Giô-sép và Bên-gia-min. Chúng ta là dân được ban phước và là nơi ở của Đức Chúa Trời. Đây là Giô-sép và Bên-gia-min.

Bài Một Trăm LẺ Năm

Ý Nghĩa Thuộc Linh 
Về Giô-Sép Và Bên-Gia-Min 
(1)

Tôi quen thuộc với lịch sử mười hai con trai của Gia-cốp khá lâu trước khi nhận thức rằng lịch sử của họ thật ngọt ngào và kỳ diệu làm sao. Càng dành thì giờ vào Sáng Thế Ký chương 49, tôi càng đánh giá cao mười hai người con này. Đào sâu lịch sử của họ là điều rất đáng làm. Bốn người đầu: Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa đều tội lỗi.Nhưng Giô-sép và Bên-gia-min, hai người sau cùng thì không có lầm lỗi hay sự bất toàn nào. Họ hoàn hảo. Giữa bốn người đầu và hai người cuối này, chúng ta có sáu người con khác. Với Đan, chúng ta thấy sự bội đạo; với Gát, có sự khôi phục; với A-se, có sự sung túc, và với Nép-ta-li, có sự phục sinh. Nếu đặt phần ký thuật của mười hai người này lại với nhau theo Sáng Thế Ký chương 49, anh em sẽ có bức chân dung của chính mình. Một mặt, khi nhìn vào mười hai con trai của Gia-cốp, tôi kinh ngạc về họ; mặt khác, tôi cảm tạ Chúa, vì trong họ, tôi thấy hình ảnh của chính mình. Tôi cũng thấy chính Đấng Christ mà tôi kinh nghiệm, và sự cứu rỗi cùng sự biến đổi là điều ở trong Christ. Trước đây, chúng ta thảy đều là những Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, và Giu-đa, nhưng ngày nay, chúng ta là những Giô-sép và Bên-gia-min.

Hai trong số những người tội lỗi, Lê-vi và Giu-đa, đã được chuyển thành một điều gì đó tích cực. Lê-vi được chuyển vào trong chức tế lễ, và Giu-đa vào trong vương quyền. Vì vậy, trong số mười hai con trai của Gia-cốp, cuối cùng chúng ta có chức tế lễ, vương quyền, và sau cùng, có sự tổng kết chung cuộc, được thấy trong Giô-sép và Bên-gia-min. Trong sứ điệp tiếp theo, chúng ta sẽ thấy sự tổng kết chung cuộc này gồm hai điều: phước hạnh và sự cư ngụ. Chúng ta sẽ hoàn toàn được đem vào phước hạnh hoàn vũ dưới [sự ban phước của] Đức Chúa Trời và sau đó, chúng ta sẽ trở thành nơi ở của Ngài. Những tội nhân trở thành các thầy tế lễ và các vua của Đức Chúa Trời; cuối cùng, họ ở dưới phước hạnh hoàn vũ của Ngài và trở thành nơi ở đời đời của Ngài. Nếu thấy ý nghĩa của phần ký thuật này, chúng ta sẽ reo mừng và ngợi khen Chúa. Chúng ta sẽ nói: “Trước đây, tôi là Ru-bên, nhưng hôm nay, tôi là Lê-vi, Giu-đa, Giô-sép và Bên-gia-min!” Trong cõi đời đời, chúng ta sẽ là các vua ở dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời và sẽ là nơi ở của Đức Chúa Trời.

Có bao giờ anh em nhận thức rằng Kinh Thánh kỳ diệu đến thế không? Có bao giờ thấy rằng chỉ trong một chương là Sáng Thế Ký 49, chúng ta có thể có một bản tóm tắt cả Kinh Thánh và bản tóm lược về lịch sử mười hai con trai của Gia-cốp, về lịch sử của quốc gia Ítx-ra-ên, về lịch sử Hội Thánh và về lịch sử thuộc linh của chúng ta không?Mọi sự đều ở đây. Dầu chương này đầy thi vị và rất thâm thúy, tuy nhiên, cũng  kháđơn giản. Nó bao hàm tất cả, bao gồm cả Kinh Thánh, chứa đựng lịch sử của mười hai chi phái, hàm ý đến lịch sử Hội Thánh và mô tả lịch sử của cá nhân chúng ta. Thật kỳ diệu! Rõ ràng chương này tóm tắt cách Đức Chúa Trời đối xử với tuyển dân Ngài. Cách Đức Chúa Trời đối xử với tuyển dân Ngài bắt đầu bằng những tội nhân, tiếp tục với sự biến đổi, và cuối cùng, đạt đến sự tổng kết chung cuộc: đó là phước hạnh và sự cư ngụ của Đức Chúa Trời.

Trong mười hai con trai của Gia-cốp, có những mẫu người khác nhau. Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời dường bao vì đã ban cho Gia-cốp mười hai con trai. Nếu Gia-cốp chỉ có một con trai thì sẽ như thế nào? Trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, Áp-ra-ham và Y-sác mỗi người chỉ có một con trai, vì Đức Chúa Trời chỉ kể đến Y-sác và Gia-cốp, không kể đến Ích-ma-ên và Ê-sau. Nhưng gia tể của Đức Chúa Trời đòi hỏi mười hai chi phái. Vì điều này, Gia-cốp phải có mười hai con trai. Ngay cả mười chi phái vẫn chưa đủ. Một ngày nọ, sau cái chết của Sa-lô-môn, vương quốc Ítx-ra-ên bị chia cắt làm hai: một phần gồm mười chi phái và phần kia là hai. Nhưng ngay cả mười chi phái này vẫn không đầy đủ, mà phải là mười hai. Chúng ta cần nhớ tên mười hai con trai của Gia-cốp: Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Sa-bu-lôn, Y-sa-ca, Đan, Gát, A-se, Nép-ta-li, Giô-sép và Bên-gia-min. Trong bài này, chúng ta sẽ xem xét phần ý nghĩa thuộc linh về Giô-sép và Bên-gia-min, gồm ba vấn đề: sự sai quả, chiến thắng và sự tin cậy. Trong bài tiếp theo, chúng ta sẽ đề cập đến phước hạnh và sự cư ngụ.

I. Sai Quả 

A. Chồi Của Cây Sai Quả 

Sáng Thế Ký 49:22 chép: “Giô-sép là chồi của cây sai quả,/ Mọc gần bên suối nước;/ Nhành nhánh vượt qua tường” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Giô-sép rất kết quả. Ông bị chiếm lấy hoàn toàn bận rộn với sự kết quả, không có thì giờ cho bất cứ điều gì khác.Ông không có thì giờ để tranh luận với các anh em hay tranh chiến với họ. Nhiều người bị bận rộn bởi những điều tiêu cực vì họ không hoàn toàn được bận rộn bởi những điều tích cực. Thật chẳng ích gì cho đông đảo thánh đồ nhóm hiệp với nhau mà họ không hoàn toàn được bận rộn. Trong trường hợp như vậy, họ không được bận rộn với những điều tích cực. Trái lại, tự phát họ sẽ trở thành những người bị các điều tiêu cực chiếm hữu, giống như người trong Ma-thi-ơ chương 12, là người trống không, nên bị bảy quỉ chiếm lấy  (c. 43-45). Người này giống như một căn phòng sạch sẽ, chưa ai ở. Nhiều thánh đồ được dọn sạch, nhưng họ trống không, chưa được  chiếm hữu. Vì thế, những điều tiêu cực bước vào. Các thánh đồ này cần được bận rộn bằng những điều tích cực.Khi ấy, họ sẽ không còn  chỗ chứa, thì giờ hay sức lực cho những điều như nói tầm phào. Nói tầm phào chứng tỏ rằng tất cả năng lực của chúng ta không được sử dụng.Tuy nhiên, Giô-sép, không phải là người trống không, không được chiếm hữu. Như sẽ thấy trong các bài về sau, từ khi còn trẻ, ông đã được những điều tích cực chiếm hữu.Ông bị chiếm hữu bởi ý muốn của cha, tâm trí của cha, mối quan tâm của cha và sứ mạng của cha. Do đó, không có cơ hội cho “những con chuột túi” hay “những con chó” bước vào. Nếu một căn phòng chứa đầy hai mươi người, không một con chuột túi nào dám bước vào. Nhưng nếu căn phòng đó không có người, những con chuột túi và chó có thể tìm cách bước vào. Cách tốt nhứt để giữ thánh đồ khỏi những điều tiêu cực là làm họ đầy dẫy những điều tích cực. Tôi xin lập lại rằng từ khi còn trẻ, Giô-sép đã được bận rộn bởi những điều tích cực, chủ yếu là sự kết quả.

Khi cha và mười một anh em với gia đình họ xuống Ai-cập, họ trở thành những ống dẫn cho sự ra nhánh để sản sinh bông trái của Giô-sép. Lúc đó, tại Ai-cập, Giô-sép không chỉ vươn nhánh theo cách cá nhân mà còn đang vươn sự quản trị của Đức Chúa Trời ra với bảy mươi người. Giô-sép rất sai quả. Cả thế gian đều ở dưới sự vươn nhánh của Giô-sép. Giô-sép là bức tranh, hình bóng. Điều này có nghĩa là sự ứng nghiệm phải xảy ra với Hội Thánh. Những người trong Hội Thánh nên là những người sai quả nhất.Công Vụ chương 2 bày tỏ Phi-e-rơ và mười một sứ đồ khác sai quả nhiều là dường nào. Trải qua nhiều thế kỷ, tất cả những người yêu Chúa và được Ngài chiếm hữu cũng đã kết quả nhiều.

Câu 22 nói rằng Giô-sép là chồi của cây sai quả. Từ “chồi” ở đây hàm ý đến “con” hay nhánh của cây. Hầu hết các bản Kinh Thánh đều dịch từ Hê-bơ-rơ này là “cành”, một nhánh cây lớn. Điều này có nghĩa Giô-sép là nhánh của một cây sai quả. Trong cả vũ trụ chỉ có một cây sai quả và cây đó là Christ. Là Nhánh của Đức Chúa Trời, Christ là một Cây Sai Quả. Xa-cha-ri 6:12 chép: “Này, có một người tên là Chồi Mống [NHÁNH CÂY]”. Nhánh này là Christ. Là Nhánh của Đức Chúa Trời, Christ đã đâm nhánh Đức Chúa Trời đến nhân tính, cuối cùng trở thành một Cây. Trong Giăng chương 15, chương nói về sự kết quả, Chúa Jesus phán: “Ta là Cây Nho thật” (c. 1). Christ là Cây Nho thật. Trong Giăng 15:5, Chúa phán: “Ta là Cây Nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong Ta và Ta ở trong họ, thì nấy kết quả nhiều”. Là các nhánh của một cây sai quả như vậy, tất cả chúng ta cần phải kết quả.

Đừng chú ý đến những yếu đuối, thất bại hay tình trạng không đáng kể quanh anh em. Lịch sử Hội Thánh có hai phương diện: phương diện tối và phương diện sáng. Khi nhìn vào phương diện vinh quang, chúng ta thấy sự kết quả dồi dào. Không chỉ Phi-e-rơ và Phao-lô mà tất cả những người yêu Chúa đều kết nhiều quả. Thỉnh thoảng chúng ta có thể nói: “Chúng tôi thật yếu đuối, tình trạng của chúng tôi chẳng có gì hứa hẹn, sự gia tăng thì chậm, và số lượng còn ít ỏi. Nhưng nếu có cái nhìn thiên thượng, anh em sẽ thấy Hội Thánh rất kết quả, và lịch sử Hội Thánh là lịch sử của sự kết quả. Tôi xin lặp lại, đừng nhìn vào tình trạng từ phương diện  tối tăm nhưng từ phương diện  vinh quang.Đức Chúa Trời là đắc thắng và Hội Thánh kết quả nhiều. Nhánh này đang vươn ra.Phi-e-rơ, Phao-lô và tất cả những người yêu mến Christ trải các thế kỷ đã có nhiều nhánh.

B. Vươn Nhánh Vượt Bức Tường 

Các nhánh này đang đâm ra vượt qua bức tường (49:22). Nghĩa là, họ đang lanrộng Christ vượt mọi hạn chế, tôn đại Ngài trong mọi hoàn cảnh (Phi. 1:20). Sáng Thế Ký 49:22 nói rằng các nhành nhánh của Giô-sép vượt qua bức tường. Bức tường tượng trưng cho sự giới hạn. Kể từ ngày Ngũ Tuần, hết bức tường này đến bức tường khác đã được dựng lên để ngăn chặn sự vươn ra của các nhánh này. Một ngày nọ, ngay cả Phi-e-rơ cũng bị giam trong ngục (Công. 12:3-4). Nhưng ngay cả thành trì đó cũng không thể hạn chế sự vươn nhánh. Hết năm này qua năm khác, thập kỷ này sang thập kỷ kia, thế kỷ này đến thế kỷ khác, những kẻ chống đối và kẻ thù đã dựng lên những bức tường để hạn chế sự kết quả của Hội Thánh. Nhưng các nhánh này luôn luôn vượt qua các bức tường.

Tôi có thể làm chứng về điều này qua những gì tôi đã thấy và kinh nghiệm trong suốt năm mươi năm. Suốt những năm đó, tôi đã thấy sự kết quả của các nhánh này. Anh Nghê, được Chúa dấy lên tại Trung Hoa, chắc chắn là nhành to của một cây sai quả, một nhánh của Christ kết quả nhiều. Khi ở với anh, tôi được sáng tỏ rằng không gì có thể hạn chế lời chứng của anh. Anh Nghê có gánh nặng mang chứng cớ của Jesus là điều đã bị Cơ-đốc giáo tổ chức chống đối. Kết quả là, thậm chí nhiều Cơ-đốc nhân đã dựng lên những bức tường để hạn chế anh và phao nhiều tin đồn về anh. Tôi xin đưa ra một minh họa về những tin đồn tai hại này. Sau khi được cứu, anh Nghê nhận được sự giúp đỡ lớn từ chị Margaret E. Barber. Chị Barber có một đồng công là chị Gross. Cả chị Barber và chị Gross đều là các giáo sĩ từ Anh Quốc đến Trung Hoa. Tuy nhiên, vào thời điểm anh Nghê được cứu, họ đã lìa bỏ các đoàn truyền giáo và sống tại Trung Hoa bởi đức tin nơi Đức Chúa Trời. Vì anh Nghê nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ chị Barber, nên chị Gross cũng biết anh. Vì anh Nghê chịu sự giúp đỡ của chị Barber nên đương nhiên anh cũng chịu sự giúp đỡ của chị Gross. Năm 1929, chị Barber về với Chúa, chị Gross còn ở lại và chuyển đến Thượng Hải. Ngày nọ, chị Gross nghe tin đồn rằng có một người nữ đang sống với anh Nghê, và chị đến để kiểm tra điều này. Anh Nghê vẫn còn độc thân, và như chị Barber, chị Gross là một chị em lớn tuổi, yêu mến anh và rất quan tâm đến anh. Chị Gross nói: “Tôi nghe rằng có một người nữ đang ở với anh. Điều này có đúng không?” Khi anh Nghê trả lời: “Có” thì chị Gross đã khiển trách anh là  làm thế nào anh, một thanh niên độc thân, lại có thể để một người nữ ở với mình. Anh Nghê kể cho tôi việc rắc rối này để giúp tôi hiểu về việc tự biện minh cho mình. Anh nói rằng anh vui vì được khiển trách. Anh cũng bảo tôi rằng người nữ đang ở với anh chính là mẹ anh. Anh nói điều này, không phải để tự biện minh, nhưng để cung ứng một sự giúp đỡ cho tôi. Khi tôi hỏi anh Nghê vì sao anh không nói với Cô Gross về điều này. Anh đáp: “Chị ấy không hỏi tôi người nữ đó là ai. Chị chỉ hỏi có một người nữ đang ở với tôi phải không. Khi tôi nói rằng có một người nữ đang sống với tôi, chị đã khiển trách tôi. Tôi đã không nói gì”. Đây là một minh họa về những tin đồn về anh Nghê.

Một minh họa khác là ngay sau đám cưới của anh, một sự lộn xộn lớn nổi lên ở Thượng Hải. Đây là một bức tường khác do kẻ thù dựng lên. Anh Nghê chỉ cho tôi xem một tờ báo, tờ báo hàng đầu ở Thượng Hải và có lẽ ở khắp Trung Hoa. Với những dòng chữ tiếng Hoa rất lớn, có một bài viết tiêu cực về hôn nhân của anh. Anh Nghê nói với tôi: “Anh Witness ơi, trong cả đời mình, tôi chưa bao giờ nghe một điều như vậy xảy ra sau một đám cưới”.

Ngày nay, nhiều tin đồn đang vây quanh chúng ta, nhưng không điều nào xấu bằng những tin đồn về anh Nghê. Sự kiện tin đồn xoay quanh về một người nữ ở với anh Nghê cho thấy kẻ thù thường xuyên tìm cách dựng lên những bức tường để hạn chế sự kết quả của anh. Nhưng sự kết quả của anh Nghê đã vượt qua bức tường này. Ngày nay, bông trái của anh có thể được tìm thấy trên khắp đất. Không ai có thể xây tườngchung quanh. Dù ai đó dựng lên một bức tường cao 144 cu-bít đi nữa, các nhánh này vẫn sẽ vượt qua.

Nhiều năm trôi qua, tôi đã thấy tất cả những gì xảy ra cho anh Nghê. Cảm tạ Chúa vì đã cho tôi thấy những điều đó và kinh nghiệm chúng cùng với anh. Vì thế, khi nghe những tin đồn về tôi, tôi có thể cười và nói: “Tôi đã sẵn sàng cho điều này rồi. Trước đây, tôi đã thấy bức tường cao một ngàn bộ. Còn bức tường của các anh chỉ cao mười lăm bộ”. Tôi muốn nói với tất cả những người chống đối trên khắp nước Mỹ rằng: “Tôi không nghĩ các anh có thể xây một bức tường cao một ngàn bộ. Có lẽ, bức tường cao nhất mà các anh có thể xây chỉ đến  năm trăm bộ. Tuy nhiên, tôi đã kinh nghiệm việc vượt qua bức tường cao một ngàn bộ rồi”. Chúa biết tôi không khoác lác. Ít ra hai anh em trưởng lão từ Trung Hoa đến đây ở giữa vòng chúng ta có thể làm chứng rằng trước đây tôi đã cùng chịu khổ với anh Nghê. Việc có những tin đồn về chúng tôi lan ra thì chẳng có gì mới cả. Nếu có thể, chúng tôi sẽ nói với những người chống đối rằng họ đang phí thì giờ vì họ không thể chèn ép chứng cớ này. Những bức tường được xây càng cao để hạn chế chúng ta, thì các nhánh sẽ vượt qua càng nhanh.

Trong Công Vụ chương 5, Ga-ma-li-ên có nói một lời rất hay: “Nay tôi khuyên các ông hãy tránh xa những người này, để mặc họ. Vì nếu mưu định và công việc này bởi người ta, thì chắc đổ; nhưng nếu bởi Đức Chúa Trời, thì các ông không thể đánh đổ họ được, e các ông trở lại tranh đấu với Đức Chúa Trời chăng” (c. 38-39). Nếu đây không phải là sự khôi phục của Chúa, chắc sẽ đổ. Nếu đây không phải là sự khôi phục, hãy để nó chìm xuống đáy Thái Bình Dương. Nhưng nếu đây là sự khôi phục của Chúa, những ai chống đối phải thận trọng, vì sẽ chuốc lấy sự hổ thẹn. Họ sẽ không bao giờ có thể đánh bại chứng cớ này. Càng cố gắng chèn ép, nó sẽ càng ngoi lên cao. Lịch sử Hội Thánh minh chứng điều này.

Xin cho tôi chia sẻ một ít kinh nghiệm cá nhân. Sau khi được cứu, bởi sự thương xót của Chúa, tôi trở thành một Cơ-đốc nhân theo đuổi Chúa, tìm kiếm Chúa. Những Cơ-đốc nhân tại quê hương tôi đều yêu thích tôi. Tuy nhiên, một ngày nọ, tôi được Chúa bắt lấy cho sự khôi phục, và một Hội Thánh được dấy lên tại quê hương tôi. Theo những người ngoài cuộc, tôi là người giảng dạy tại đó. Trước khi Hội Thánh được dấy lên, một số Cơ-đốc nhân đã mời tôi đến giảng tại các buổi nhóm của họ. Thậm chí họ đã cung cấp phương tiện để chúng tôi đi đến buổi nhóm. Tại Trung Hoa, điều đó được xem là sự biểu lộ của tình yêu và sự tôn trọng. Nhưng sau khi Hội Thánh được dấy lên tại đó, chính những người trước đây đã mời tôi đến các buổi nhóm, thậm chí cung cấp phương tiện cho tôi, đã hoàn toàn phớt lờ khi thấy tôi trên đường. Sau đó, những tin đồn về tôi lan khắp nơi. Một số tin đồn đó nói rằng tôi đang dạy tà giáo. Tôi đã bị kết tội là người theo tà giáo khi lần đầu tiên tôi bước vào nếp sống Hội Thánh. Điều này đối với tôi chẳng có gì là mới cả.

Cách đây năm mươi năm, quê tôi là thành phố nổi tiếng nhất ở miền Bắc Trung Hoa về sự hiểu biết Kinh Thánh. Nghe tin đồn rằng sự dạy dỗ của tôi là tà giáo, một số người trẻ, con cái của những mục sư Cơ-đốc nòng cốt, đã đến các buổi nhóm để xem điều gì đang xảy ra. Trước đó, thay vì đến dự lễ trong các giáo phái của cha họ, họ đã đến những nhà hát kịch, rạp hát và sòng bạc. Khi những người trẻ này vướng vào các hoạt động tội lỗi như thế, cha mẹ họ không lo lắng. Tuy nhiên, khi một số người trong họ được thu hút đến với nếp sống Hội Thánh và được bắt lấy, thì những mục sư này bắt đầu cảnh cáo chúng không được đến dự các buổi nhóm đó nữa. Một trong những người trẻ này đã trả lời với mục sư đó rằng: “Khi tôi đến sòng bạc và rạp hát, ông không đến để cảnh báo về điều tôi đang làm. Nhưng bây giờ, tôi đến một nơi mà có thể nghe Lời Đức Chúa Trời và nhận được nhiều sự giúp đỡ cho đời sống thuộc linh, thì ông lại đến cảnh báo tôi đừng đến. Xin đừng đến với tôi nữa. Tôi đã được giúp đỡ bởi dự các buổi nhóm này và tôi có ý định tiếp tục nhận sự giúp đỡ  đó”. Điều này cho thấy các nhánh đang vượt qua bức tường.

Trải nhiều năm, những kẻ chống đối đã theo tôi từ quê tôi đến nhiều nơi khác, kể cả Đài Loan. Một mục sư nọ cố ý đi từ quê tôi đến Đài Loan để cố phá chức vụ của tôi.Khi tôi bị sự chống đối quấy nhiễu, Chúa phán: “Hãy xem Phao-lô và đọc lại Sách Công Vụ. Nơi nào các sứ đồ đến đều có những người Do-thái chống đối đi theo và gây rắc rối”.

Gần đây, một anh em nhận được lá thư từ Úc đầy những lời tiêu cực về tôi, do một mục sư hay đi đây đó viết. Trong cả lá thư không có một điều tích cực nào về tôi. Tuy nhiên, cách đây nhiều năm, cũng chính người viết thư này đã viết một lá thư, trong đó, ca ngợi tôi hết mức. Trong lá thư được viết cách đây nhiều năm, người này nói: “Đối với tôi, Witness Lee luôn là một người vĩ đại của Đức Chúa Trời trong đời sống cá nhân và là một đầy tớ kết quả nhất của Đức Chúa Trời trong chức vụ. Chắc chắn rằng tôi không thể cột dây giày cho ông. Tôi sẽ là một người hạnh phúc khi nghĩ rằng Chúa sẽ ban cho tôi phân nửa phần thưởng hay thậm chí một phần mười những gì Ngài ban cho đầy tớ xuất sắc này”. Nhưng gần đây, cũng chính người này đã viết một lá thư đầy những lời dối trá vu khống tôi. Khó mà tin rằng cả hai lá thư này do cùng một người viết ra. Lá thư thứ hai được viết vì nhánh sai quả này đã vươn đến Sydney. Khi thấy sự vươn nhánh tại Úc, một số người đã bị khích động và tự hỏi họ có thể làm gì về điều đó. Vì thế, lá thư này được viết ra trong nỗ lực làm hạn chế việc mở rộng sự khôi phục của Chúa tại Úc. Khi tôi xem xét nhiều điều, chẳng hạn như điều này trong ánh sáng của 49:22, tôi vui mừng vì các nhánh vẫn đang vượt qua bức tường. Những gì đang xảy ra ngày nay tương ứng cách chính xác với điều được viết trong câu này. Những người chống đối đang phí thì giờ của họ. Họ càng dựng nhiều bức tường, các nhánh sẽ càng vươn ra.

Làm thế nào một mục sư hay đi đây đó, người rao giảng Phúc Âm trong danh Chúa Jesus và dạy Kinh Thánh, lại nói dối, thậm chí vu khống một anh em? Đây là tình trạng đáng thương của Cơ-đốc giáo ngày nay. Không có lương tâm và không có tiêu chuẩn đạo đức. Miễn là ai đó có thể cản trở được sự khôi phục của Chúa thì họ vui rồi.Nhưng không một bức tường nào có thể cản trở sự vươn ra của các nhánh này. Trên thực tế, sự chống đối thực ra đã giúp cho sự lan rộng của Chúa. Đây là kinh nghiệm về Giô-sép.

Năm 1958, tôi được mời đến nước Anh. Từ đó trở đi, một số người đã gắng sức làm giới hạn sự khôi phục của Chúa lan rộng đến châu Âu. Nhưng khi sự khôi phục của Chúa bắt đầu lan rộng ở đó, họ không thể làm bất cứ điều gì. Các nhánh này đã vươn qua các bức tường ở Đức, Thụy Sĩ và ngay cả Đan mạch và Thụy Điển. Không ai có thể hạn chế sự vươn ra của Giô-sép. Nếu chúng ta là những Giô-sép của ngày nay, ai có thể hạn chế chúng ta?

Những tin đồn về chúng ta cũng đã lan đến Trung và Nam Mỹ. Nhưng ngợi khen Chúa vì sự khôi phục của Ngài tại Bra-zin đang lan nhanh như lửa! Không ai trong “đội cứu hỏa” biết gì về điều này. Trước khi đám lửa bất kham này bắt đầu lan rộng, những người chống đối trong Cơ-đốc giáo đã lan truyền các tin đồn về tôi và các Hội Thánh.Tôi xin anh em chờ đợi một thời gian nữa để thấy những gì sẽ xảy đến. Mọi sự tùy thuộc vào việc chúng ta có là những Giô-sép của ngày nay hay không. Nếu có, không một ai và không điều gì có thể hạn chế sự vươn ra của các nhánh vượt qua bức tường.

II. Đắc Thắng

A. Đắc Thắng 
Sự Tấn Công Của Những Kẻ Bắn Cung 

Sáng Thế Ký 49:23-24 nói: “Kẻ cầm cung đã quấy rối người cách cay đắng, bắn tên vào và nằm chờ người; nhưng cung người vẫn bền chắc” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Giô-sép đã đắc thắng sự tấn công của kẻ bắn cung. Ý nghĩa thuộc linh của điều này là trong mọi sự đau khổ, chúng ta đắc thắng có thừa (La. 8:36-37). Những nỗi khổ không thể chèn ép chúng ta; trái lại, chúng ta chinh phục chúng.

B. Được Làm Cho Mạnh Mẽ Bởi Đấng Toàn Năng

Dù Giô-sép bị bắt bớ, bị quấy rối và bị tấn công, ông vẫn luôn mạnh mẽ. Không chỉ mạnh mẽ mà còn nhanh nhẹn. Câu 24 nói: “Cánh tay người được làm cho mạnh mẽ và nhanh nhẹn bởi bàn tay Đấng Toàn Năng của Gia-cốp” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Giô-sép càng chịu khổ và càng bị tấn công, ông càng trở nên mạnh mẽ. Sự đau khổ cũng rèn luyện ông thành người nhanh nhẹn. Để có cánh tay và đôi chân nhanh nhẹn, chúng ta cần được huấn luyện qua sự đau khổ. Giô-sép là người được huấn luyện; ông được huấn luyện qua các nỗi khổ. Điều này tương tự với chúng ta hôm nay. Tất cả sự chống đối và những tin đồn chỉ giúp chúng ta thêm nhanh nhẹn.

Tất nhiên, Giô-sép được làm cho mạnh mẽ và nhanh nhẹn bởi Đấng Toàn Năng của Gia-cốp. Nguồn sức mạnh và sự nhanh nhẹn của ông là Đức Chúa Trời. Nếu đọc tiểu sử của Giô-sép, anh em sẽ thấy Đức Chúa Trời luôn ở với ông. Khi bị vợ của Phô-ti-pha cám dỗ, ông nói: “Thế nào tôi dám làm điều đại ác dường ấy mà phạm tội cùng Đức Chúa Trời sao?” (39:9). Điều này cho thấy Đức Chúa Trời ở với ông. Sức mạnh và sự nhanh nhẹn của ông đến từ Đức Chúa Trời.

Ngày nay trong sự khôi phục của Chúa, chúng ta được ban quyền năng trong ânđiển của Christ để đứng vững trước mọi sự chống đối vì chứng cớ Chúa (2Tim. 2:1, Hi-lạp). Sức mạnh của chúng ta không đến từ chính mình, nhưng đến từ Chúa. Hễ khi nào có Ngài là nguồn sức mạnh của mình thì không một chống đối nào có thể đè bẹp chúng ta.

C. Cắn Xé Như Sói 

Trong 49:27, Bên-gia-min được ví như một con sói hay cắn xé: “Bên-gia-min là một con sói hay cắn xé;/ Ban mai đi vồ mồi,/ Chiều về phân chia mồi đã được” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Từ “sói” không phải là một từ nhẹ nhàng. Tuy nhiên, hễ khi nào xé nát bất cứ điều gì, anh em không thể dễ thương; trái lại, anh em phải giống như một con sói.Khi chúng tôi phải phá đổ những điều gì đó để hoàn tất sự xây dựng phòng nhóm tại Anaheim, tôi quan sát biểu hiện của những người đang thực hiện công việc này. Biểu hiện của từng gương mặt là sự hung dữ. Một người lịch sự không thể giật đổ bất cứ thứ gì. Hễ khi nào định phá đổ điều gì, anh em phải là con sói. Bên-gia-min là một con sói.

Trong 2Cô-rin-tô 10:5, Phao-lô nói: “Đánh đổ các sự nghị luận, cùng mọi sự cao căng dấy nghịch với sự nhận biết Đức Chúa Trời, và bắt hết các tâm tư qui hàng Đấng Christ”. Khi còn trẻ, tôi nghĩ rằng Phao-lô thật kiêu ngạo khi nói lời này. Nói về việc đánh đổ các sự nghị luận cùng mọi sự cao căng và bắt phục mọi tâm tư thì không dễ thương, không khiêm nhường, không hiền lành, không hòa nhã hay tử tế được. Khi viết những lời này, Phao-lô là một con sói đang cắn xé. Nhiều lần khi tiếp xúc với người khác, tôi khiêm nhường và dễ thương. Nhưng có những lúc, tôi giống như một con sói cắn xé nhiều điều thành mảnh vụn. Khi nói chuyện bình thường, tôi là người lịch sự, nhưng có những lúc tôi không thể bày tỏ sự thương xót. Thỉnh thoảng các đồng công của tôi, thậm chí vợ yêu dấu của tôi, yêu cầu tôi hãy tỏ sự thương xót với người khác.Nhưng anh em có thể nào xin một con sói đang cắn xé hãy thương xót không? Nếu con sói nói được, nó sẽ nói: “Trong ngôn ngữ của tôi, không có từ thương xót”. Một con sói cắn xé không bày tỏ sự thương xót. Chúng ta không xé nát con người thành mảnh vụn; chúng ta đang xé nát Sa-tan. Chúng ta cũng đang xé vụn những ý tưởng và các sự nghị luận. Tất cả những điều này phải bị xé thành mảnh vụn.

D. Húc Đẩy Như Bò Đực 

Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:17 chép: “Oai nghiêm người giống như con bò đực đầu lòng;/ Hai sừng người vốn sừng của bò rừng!/ Người lấy sừng ấy báng mọi dân,/ Cho đến cuối đầu của đất. / Đó là hằng muôn của Ép-ra-im,/ Ấy là hằng ngàn của Ma-na-se” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Giô-sép được ví như bò đực húc đẩy. Trong bài trước, tôi chỉ ra rằng khi Christ tái lâm, Ngài sẽ đẩy người Nga ra khỏi miền đất tốt lành. Tôi tin chắc điều này. Nhưng ngày nay, chúng ta cũng có thể kinh nghiệm Giô-sép là bò đực húc đẩy. Khi xem xét những kinh nghiệm trước đây của mình và những kinh nghiệm của anh Nghê, tôi nhận thức rằng chắc chắn tôi đã thấy chiến thắng của việc húc đẩy.Những người chống đối đã liên kết thành lực lượng để bóp nát chúng ta, nhưng [chúng ta] đã có chiến thắng húc đẩy, sức mạnh húc đẩy và những sừng húc đẩy. Hãy chờ một lát, anh em sẽ thấy sức mạnh húc đẩy của Giô-sép. Giô-sép có kết quả và đã thắng trong việc cắn xé và húc đẩy. Ngày nay, trong sự khôi phục của Chúa, tất cả chúng ta là những Giô-sép trong việc cắn xé và đẩy lùi sự chống đối.

Nhiều người trong anh em đã đọc cuốn sách nhỏ tựa đề Thật Là Một Tà Giáo – Hai Cha Thần Thượng, Hai Linh Ban Sự Sống, Và Ba Đức Chúa Trời! Dầu cuốn sách này đã phát hành nhiều tháng, nhưng không ai viết một cuốn sách nhỏ nào để phản hồi. Miệng của những kẻ chống đã ngậm lại và bàn tay viết sách của họ đã bị chặt vì họ không quan tâm đến Ê-sai 9:6 và 1Cô-rin-tô 15:45. Dầu một số người đã bóp méo Ê-sai 9:6 đến đâu, họ cũng không thể nào loại bỏ danh xưng Cha được tìm thấy ở đây. Câu này nói rằng Con Trai được ban cho chúng ta và danh Ngài được gọi là Cha đời đời, hay Cha của sự đời đời. Chắc chắn rằng Cha này là Cha trong Thần Cách. Nếu nói rằng Cha trong Ê-sai 9:6 không phải là Cha trong Thần Cách, thì anh em đang theo tà giáo, tin vào hai Cha thần thượng. Nhưng trong cả vũ trụ này chỉ có một nguồn là Cha trong Thần Cách. Không thể có một Cha khác như một nguồn khác. Đừng nói với tôi về lịch sử hay về Bản Tín Điều Niecene hoặc  bất cứ Bản Tín Điều nào khác. Tôi không quan tâm đến các tín điều –Tôi chỉ quan tâm đến Lời thuần khiết trong Ê-sai 9:6.

1Cô-rin-tô 15:45 nói: “A-đam Sau Hết đã trở nên Linh Ban Sự Sống”. Một số người chống đối, đã bóp méo câu này và nói: “Câu này nói là ‘linh’, không nói “Linh’”. Nhưng đừng quên bổ ngữ “ban sự sống”. Câu này nói về Linh Ban Sự Sống. Anh em có tin rằng Linh này khác với Thánh Linh của Thần Cách không? Nếu có, thì anh em đang tin vào hai Linh Ban Sự Sống. Đó là tà giáo! Trong cuộc chiến này, tôi là một con sói đang cắn xé kẻ thù thành từng mảnh.

Một số kẻ chống đối viện dẫn Tín Điều Nicene. Tín Điều Nicene giống như một đôi giày dài 5 phân, nhưng chân của chúng ta thì dài đến 30 phân. Anh em có định cắt bớt chân mình cho vừa với đôi giày nhỏ này hay sẽ làm cho đôi giày này dài ra để vừa với chân mình? Sách Khải Thị nói về bảy Linh, nhưng bảy Linh này có được Tín Điều Nicene nói đến không? Không! Tân Ước cũng nói về Linh Ban Sự Sống, nhưng Tín điều Nicene có đề cập đến Linh Ban Sự Sống này không? Không! Vì thế, đôi giày đó quá ngắn. Khải tượng chúng ta có thì lớn hơn nhiều so với những gì được chứa trong Bản Tín Điều đó. Chúng ta không được giảm bớt khải tượng để tương xứng với đôi giày này; trái lại, phải ném đôi giày cũ đó đi và tiếp nhận lời thuần khiết của Kinh Thánh. Hãy để cho toàn thể Cơ-đốc giáo chống đối chúng ta. Cuối cùng, chúng ta sẽ thấy kết quả là gì. Trong sự khôi phục của Chúa, chúng ta có cả sức mạnh cắn xé lẫn sức mạnh húc báng. Không sớm thì muộn, kẻ thù không những sẽ bị đánh bại và bị khuất phục mà còn đầu hàng vô điều kiện. Đức Chúa Trời đang dẫn dắt chúng ta trong sự đắc thắng (2Côr. 2:14). Lẽ thật là lẽ thật, Giô-sép là Giô-sép, và Bên-gia-min là Bên-gia-min.

III. Tin Cậy 

Sáng Thế Ký 49:24 cũng nói về Đấng Chăn Chiên, Hòn Đá của Ítx-ra-ên, và câu 25 chép: “Đức Chúa Trời của cha sẽ giúp đỡ con;/ Đấng Toàn Túc sẽ ban phước cho con”  (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Những câu này cho thấy lý do vì sao Giô-sép và Bên-gia-min trở thành sự tổng kết chung cuộc: họ tin cậy Đấng Toàn Năng của Gia-cốp. Họ tin cậy Đấng Chăn Dắt của Ítx-ra-ên, và họ đứng trên Hòn Đá của Ítx-ra-ên. Họ tin cậy Đấng Toàn Túc này. Tân Ước cũng có câu tương đương với sự tin cậy Đấng Toàn Túc này là Phi-líp 4:13: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban năng lực cho tôi”(Theo Bản Hi-lạp). Câu tương đương với Đấng Chăn Dắt Ítx-ra-ên được thấy trong 1Phi-e-rơ 5:4, nói rằng Christ, Đấng Chăn Chiên Trưởng, sẽ hiện ra. Cuối cùng, sự tương đương của Tân Ước về Hòn Đá của Ítx-ra-ên được thấy trong Christ, Vầng Đá của Hội Thánh. 1Cô-rin-tô 10:4 nói: “Vì họ uống nơi một Vầng Đá thuộc linh theo họ, Vầng Đá ấy là Đấng Christ”.

Trong lời chúc phước mang tính tiên tri của Gia-cốp về Giô-sép, chúng ta thấy sự kết quả và chiến thắng của Giô-sép xuất phát từ lòng tin cậy Chúa. Nếu muốn là Giô-sép và Bên-gia-min hôm nay, chúng ta phải là những người tin cậy Đấng Toàn Năng, Đấng Chăn Chiên của Ítx-ra-ên, Vầng Đá của Hội Thánh và Đấng Toàn Túc. Lương tâm tôi làm chứng rằng nếu không tin cậy Chúa, tôi không thể làm điều gì. Nếu không cầu nguyện về mọi điều tôi thực hiện trong sự khôi phục của Chúa, tôi sẽ không có sự bình an. Tôi cầu nguyện về mọi điều mình thực hiện trong sự khôi phục của Chúa, cầu nguyện cho đến khi tôi có sự bình an và sự tin chắc. Trước khi giảng một sứ điệp, tôi cầu nguyện cho đến khi được cảm thúc và được ban cho quyền năng cách trọn vẹn.Đời sống của Giô-sép là đời sống tin cậy, đời sống tin cậy Đức Chúa Trời trong nếp sống. Đây là bí quyết cho sự kết quả và chiến thắng của Giô-sép.

Dầu ngôn ngữ thơ ca thật súc tích, nhưng Gia-cốp đã dùng các danh xưng khác nhau của Đức Chúa Trời là Đấng đáng để chúng ta tin cậy: Đấng Toàn Năng, Đấng Chăn Chiên, Vầng Đá, Đấng Toàn Túc và Đức Chúa Trời của cha của con. Chúng ta không phải là dòng dõi đầu tiên tin cậy Đức Chúa Trời. Trái lại, chúng ta là một trong những thế hệ về sau. Chúng ta thấy chứng cớ về sự tin cậy Đức Chúa Trời của các tổ phụ, và bây giờ, Đức Chúa Trời của họ đã trở nên Đức Chúa Trời của chúng ta. Do đó, chúng ta theo dấu chân họ để tin cậy Đức Chúa Trời của họ, là Đấng Toàn Năng, Đấng Toàn Túc, Đấng Chăn Chiên, Vầng Đá và Nền Tảng. Ha-lê-lu-gia! Chúng ta đang đứng trên Ngài và tin cậy Ngài! Vì thế, chúng ta sẽ kết quả và chiến thắng.

 

Witness Lee

 



 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2