Bài Chín Mươi Sáu
Những Sự Chuyển Dời Quyền Trưởng Nam
Trong Kinh Thánh
Sáng Thế Ký là Sách về những hạt giống. Trong bài này, phần mở ngoặc trong [loạt bài] Nghiên Cứu Sự Sống, chúng ta sẽ xem một hạt giống khác trong những hạt này –hạt giống về sự chuyển dời quyền trưởng nam.
Có lẽ chưa bao giờ chúng ta tưởng tượng rằng quyền trưởng nam có thể bị chuyển dời. Quyền trưởng nam là phần ban đặc biệt của con trưởng. Gần như trong các chủng tộc, đặc biệt vào thời xưa, con trưởng trong một gia đình đều được thừa kế một phần ban đặc biệt. Giữa vòng người Do-thái thời xưa, phần ban này thường là hai phần đất. Theo toàn bộ Kinh Thánh, quyền trưởng nam bao gồm hai phần đất, vương quyền và chức tế lễ. Chức tế lễ đem con người đến với Đức Chúa Trời và vương quyền đem Đức Chúa Trời đến với con người. Sách Sáng Thế Ký bày tỏ rằng quyền trưởng nam này có thể thay đổi từ con trưởng sang con thứ. Trong Sách này, có ít nhất bốn trường hợp chuyển dời quyền trưởng nam: từ Ê-sau qua Gia-cốp (25:22-26,29-34); từ Sê-rách qua Phê-rết (38:27-30); từ Ru-bên qua Giô-sép (49:3-4; 1Sử. 5:1); và từ Ma-na-se sang Ép-ra-im (48:12-20).
Hơn nữa, trong Tân Ước quyền trưởng nam được chuyển từ Ítx-ra-ên qua Hội Thánh. Trong Lu-ca chương 15, qua dụ ngôn về người con trai hoang đàng, Chúa Jesus ngụ ý rằng những kẻ thu thuế và tội nhân giống như con thứ và những người Pha-ri-si công bình riêng giống như con cả (Lu. 15:1-2,11,25-28). Tuy nhiên, trong Ma-thi-ơ 21:28-32, Chúa chuyển dời quyền trưởng nam từ người Do-thái qua những người thu thuế và kỵ nữ. Ở đây Chúa bày tỏ rằng những người thu thuế và kỵ nữ giống như người con cả lúc đầu không vâng lời cha, nhưng sau đó, ăn năn và vâng lời. Và Chúa ví những người Pha-ri-si với con thứ là người nói rằng sẽ thực hiện lời của cha, nhưng thực tế đã không vâng lời. Ban đầu, người Do-thái là con trưởng. Khi Chúa bắt đầu chức vụ, họ vẫn còn là con trưởng. Nhưng vào cuối chức vụ của Ngài, Chúa Jesus đã đổi quyền trưởng nam từ dân Do-thái qua Hội Thánh. Lời Ngài trong Ma-thi-ơ 21:28-32 được phán vào cuối chức vụ của Ngài. Trong các câu này, Chúa ví người thu thuế và kỵ nữ với con trưởng. Hội Thánh gồm những tội nhân được cứu chuộc và được tái sinh. Trong gia tể của Đức Chúa Trời, họ là những người đã nhận được quyền trưởng nam. Do đó, Hê-bơ-rơ 12:23 nói về Hội Thánh của những con trưởng.
I. Từ Ê-Sau Qua Gia-Cốp
Trong 25:22-26,29-34, chúng ta thấy sự chuyển dời quyền trưởng nam từ Ê-sau qua Gia-cốp. Dầu Ê-sau là con trưởng (c. 25), nhưng Gia-cốp đã được tiền định có quyền trưởng nam (c. 23). Sự chuyển dời quyền trưởng nam từ Ê-sau qua Gia-cốp bày tỏ rằng nhận được quyền trưởng nam là vấn đề tiền định, không tùy thuộc vào sự sinh ra tự nhiên. Dầu anh em sinh ra có thể là Ê-sau, nhưng điều này không có nghĩa là anh em được tiền định có quyền trưởng nam. Vấn đề này hoàn toàn thuộc về sự tể trị của Đức Chúa Trời; không tùy thuộc nơi chúng ta. Khi suy xét năm trường hợp chuyển dời quyền trưởng nam, chúng ta phải thờ lạy Đức Chúa Trời vì sự tể trị của Ngài, và nói: “Ô Chúa, chúng con cảm tạ Ngài vì sự tể trị của Ngài. Mọi sự đều tùy thuộc vào sự tiền định tối thượng của Ngài”.
Gia-cốp, người được tiền định có quyền trưởng nam, rất thèm muốn và đã làm mọi điều có thể để chiếm quyền trưởng nam. Khi Gia-cốp và Ê-sau còn trong bụng mẹ, họ đã đánh nhau vì quyền trưởng nam. Tôi tin rằng sự đánh nhau này khởi xướng từ Gia-cốp. Nhưng theo sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, Ê-sau mạnh hơn. Nếu đọc Kinh Thánh cẩn thận, anh em sẽ thấy Ê-sau, một thợ săn, là người mạnh mẽ và có vóc dáng khá cao lớn. Trái lại, Gia-cốp, người ở nhà với mẹ, chắc chắn là người có vóc dáng bé nhỏ. Tôi không tin một thanh niên vạm vỡ sẽ luôn ở nhà với mẹ. Vì nhỏ bé và yếu hơn Ê-sau, nên Gia-cốp không thể nhận được quyền trưởng nam bằng cách dùng sức để đoạt. Dầu trong bụng mẹ, Gia-cốp đã tranh đấu để giành quyền trưởng nam, nhưng Ê-sau đã đánh bại ông để ra trước và nhận được quyền trưởng nam. Sự chiến đấu của Gia-cốp đã nên vô ích.
Tuy nhiên, Gia-cốp không ngưng tranh đấu. Tôi tin việc ông ở nhà với mẹ chủ yếu vì mục đích hiệp với bà để chiếm quyền trưởng nam. Có lẽ cuối cùng mẹ Gia-cốp đã đồng ý giúp ông chiếm được quyền trưởng nam. Để chiếm chỗ anh và giành lấy quyền trưởng nam, Gia-cốp đã làm hai điều. Thứ nhứt, dùng mưu để Ê-sau rơi vào tình huống sẵn sàng bán quyền trưởng nam cho ông (c. 29-34). Gia-cốp cực kỳ xảo quyệt và khôn lanh. Ông rất khéo léo. Qua sự lanh lợi của mình, ông có được sự hợp tác của mẹ, và Rê-bê-ca, người lanh lợi hơn Y-sác, đã đứng về phía Gia-cốp. Và, Gia-cốp lanh lợi này đã dụ dỗ Ê-sau bán quyền trưởng nam.
Có lẽ Gia-cốp đã quan sát những hành động của Ê-sau trong một thời gian. Có lẽ ông đã để ý thấy rằng sau khi đi săn về, Ê-sau thường đói. Vì việc săn bắn thường làm cho người ta đói, nên thợ săn thích có bữa ăn ngon sau khi đi săn về. Bất cứ ai hoạt động quá sức, chẳng hạn làm việc hay chơi quá sức, thì sau đó thích những món ăn ngon và bổ. Gia-cốp đã phân tích toàn bộ tình hình–môi trường, tâm lý và tính thèm ăn của Ê-sau sau khi đi săn về. Có lẽ Gia-cốp thầm nói: “A ha! ta đã có cách chiếm quyền trưởng nam rồi. Trong khi Ê-sau đi săn, ta sẽ chuẩn bị một món súp cho anh ấy”. Sáng Thế Ký 25:29 chép: “Gia-cốp đương nấu súp; Ê-sau ở ngoài đồng về lấy làm mệt lắm. Ê-sau thì đói bụng, còn món súp thì đã có sẵn. Ê-sau nói với Gia-cốp: “Anh xin em hãy cho anh ăn súp gì đỏ đỏ đó với, vì anh mệt lắm” (c. 30). Gia-cốp đáp: “Hôm nay anh hãy bán quyền trưởng nam cho tôi đi” (c. 31). Khi một người đang đói, người ấy sẽ ăn bất cứ thứ gì và trả bằng bất cứ giá nào. Vì thế, Ê-sau nói: “Này, anh gần thác, quyền trưởng nam để cho anh mà làm chi?” (c. 32). Dường như Ê-sau muốn nói: “Quyền trưởng nam là điều gì đó cho tương lai. Bây giờ có ích gì? Nhưng ở đây, trước mặt ta, có một tô súp. Nó có thực, đang ở trước mắt và lại thực tế. Ai biết được khi nào ta sẽ có quyền trưởng nam? Ta không biết lúc nào điều đó sẽ đến. Vì bây giờ, ta cần một điều gì đó có thật và thiết thực”. Vì thế, Ê-sau đồng ý với đề nghị của Gia-cốp, và bán quyền trưởng nam của mình. Một mặt, quyền trưởng nam tùy thuộc vào sự tiền định tối thượng của Đức Chúa Trời. Nhưng mặt khác, việc chúng ta có được quyền trưởng nam hay không lại tùy thuộc vào thái độ và hành động của mình. Thái độ của Ê-sau thật hèn hạ, và hành động của ông thật ngu dại. Ông hoàn toàn sai khi chấp nhận đề nghị của Gia-cốp. Tuy nhiên, nói theo thuật ngữ ngày nay, ông đã ký hợp đồng từ bỏ quyền trưởng nam.
Dầu đã bán quyền trưởng nam, nhưng Ê-sau không có quyền bán phước hạnh của quyền đó. Phước hạnh này không nằm trong tay ông, mà ở trong tay Y-sác, cha ông, đại diện của Đức Chúa Trời. Do đó, điều thứ hai Gia-cốp thực hiện để chiếm quyền trưởng nam là lừa cha vào chỗ ban phước hạnh của quyền trưởng nam cho ông (27:18-29). Có lẽ việc Gia-cốp lừa Ê-sau được khởi xướng bởi Rê-bê-ca, có thể là người đang hoàn toàn hoạch định mọi sự. Gia-cốp là học trò, còn mẹ ông là gia sư. Sau khi Ê-sau bị lừa vào việc bán quyền trưởng nam cho Gia-cốp, Rê-bê-ca chờ thời cơ để giúp Gia-cốp nhận phước hạnh của quyền trưởng nam từ Y-sác. Dầu điều này phải xảy ra trước khi Y-sác qua đời, nhưng không thể nào xảy ra quá sớm. Nếu xảy ra quá sớm, thị lực của Y-sác vẫn còn tinh tường. Vì thế, Rê-bê-ca chờ đến khi mắt của Y-sác không còn thấy rõ. Khi hay tin Y-sác sắp chúc phước cho Ê-sau, Rê-bê-ca nói với Gia-cốp: “Vậy, con ơi, bây giờ hãy nghe mẹ và làm theo lời mẹ biểu” (27:8). Dường như Rê-bê-ca muốn nói: “Bây giờ là thời điểm lừa cha con đây”. Gia-cốp vâng lời mẹ và lừa Y-sác vào chỗ chúc phước cách mù quáng cho mình. Kết quả là, Gia-cốp không chỉ nhận được quyền trưởng nam mà cũng nhận được phước hạnh của quyền trưởng nam.
Tuy nhiên, mưu mô của Gia-cốp là không cần thiết. Nếu ông không dùng mưu hay lừa dối, Đức Chúa Trời hẳn có cách để ban cho ông quyền trưởng nam. Nhìn bên ngoài, hành động dùng mưu và lừa dối của Gia-cốp đã giúp ông đạt được quyền trưởng nam. Thực ra, điều này đã làm cho ông đau khổ. Từ khi Gia-cốp lừa cha, ông không bao giờ được thấy mẹ mình nữa. Dầu Rê-bê-ca thương yêu Gia-cốp, nhưng do sự lanh lợi, bà đã mất Gia-cốp và không bao giờ được thấy con nữa. Gia-cốp phải trốn đến nhà La-ban, và ở đó chịu khổ dưới tay cậu mình trong hai mươi năm. Đừng học tập theo Rê-bê-ca. Nếu không, anh em sẽ đau khổ.
Qua trường hợp chuyển dời quyền trưởng nam từ Ê-sau sang Gia-cốp, chúng ta thấy quyền trưởng nam tùy thuộc vào sự tể trị của Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng thấy rằng đừng bao giờ dùng mưu hay lừa gạt để chiếm quyền trưởng nam. Nói cách khác, không cần tranh đấu cho quyền trưởng nam. Hơn nữa, không nên cẩu thả đến mức bán quyền trưởng nam. Dầu không thể chiếm quyền trưởng nam bởi nỗ lực riêng, nhưng chúng ta có thể bán nó, nếu có. Không phải bởi việc làm mà Gia-cốp chiếm được quyền trưởng nam, nhưng bởi Ê-sau đã đánh mất quyền đó do hành động sai trái của mình
II. Từ Sê-Rách Qua Phê-Rết
Trong 38:27-30, chúng ta thấy sự chuyển dời quyền trưởng nam từ Sê-rách qua Phê-rết. Trường hợp này minh họa sự kiện ban quyền trưởng nam không tùy thuộc vào hành động của con người. Sê-rách đã cố gắng ra trước. Ông “đưa tay ra trước; bà mụ bắt lấy tay, buộc một sợi chỉ điều vào, và nói rằng: Đứa này ra trước” (c. 28). Nhưng hành động đó của con người không thể sắp xếp, điều khiển hay chỉ đạo quyền trưởng nam. Dầu bà mụ không bao giờ nghĩ rằng Phê-rết sẽ sanh ra trước, nhưng thực tế là Phê-rết đã sanh ra trước (c. 29). Khi ông được sinh ra, bà mụ đầy ngạc nhiên và nói: “Làm thế nào mà làm cho rách như thế được?” (c. 29). Từ Hê-bơ-rơ ở đây rất khó dịch. Có thể được dịch là “Vì sao tự con có thể làm rách được như thế?” hoặc “Con đã làm rách được thế à! Việc rách này là do con!” hoặc “Chính con đã tạo ra chỗ rách nầy!” Bà mụ phải thừa nhận rằng Phê-rết đã nhận được quyền trưởng nam. Do đó, nhận được quyền trưởng nam không tùy thuộc vào hoạch định của con người.
III. Từ Ru-Bên Qua Giô-Sép
Trường hợp thứ ba về việc chuyển dời quyền trưởng nam, sự chuyển dời từ Ru-bên qua Giô-sép (49:3-4; 1Sử. 5:1), có một lời cảnh cáo mạnh mẽ. Ru-bên, con trưởng, đã mất quyền trưởng nam do sự ô uế của ông. Đức Chúa Trời có ý định ban quyền trưởng nam cho Ru-bên, con trưởng, nhưng Ru-bên đã làm mất do buông mình vào sự ô uế. Quyền trưởng nam được chuyển từ Ru-bên sang Giô-sép, người đã chạy trốn khỏi loại ô uế đó (39:7-12). Đức Chúa Trời vốn công bằng. Ngài lấy quyền trưởng nam từ người buông mình vào sự ô uế mà ban cho người trốn khỏi sự ô uế đó. (Dầu quyền trưởng nam đã được chuyển từ Ru-bên sang Giô-sép, nhưng Giô-sép chỉ nhận được hai phần đất. Ông không nhận được chức tế lễ hay vương quyền. Thật ra, Lê-vi đã nhận được chức tế lễ và Giu-đa nhận được vương quyền).
Đừng bao giờ cho rằng sự gian dâm là một điều tầm thường. Đức Chúa Trời ghét điều đó. Chúng ta đang sống trong thời đại của Sô-đôm. Cả thế giới ngày nay, kể cả nước Mỹ, đặc biệt Thụy điển và Pháp, là một Sô-đôm. Nhiều người nam, người nữ đã sống với nhau mà không cần cưới hỏi. Chắc chắn, điều này sẽ dẫn đến sự phán xét của Đức Chúa Trời. Trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời thi hành sự phán xét đặc biệt trên Sô-đôm vì dân tại đó đã buông mình vào sự dâm dục không giới hạn. Không điều gì xúc phạm Đức Chúa Trời nhiều bằng sự buông thả này. Tuy nhiên, nhiều người trẻ ngày nay, ngay cả những phụ nữ trẻ, không có cảm nhận xấu hổ về điều này. Buông mình vào sự gian dâm luôn luôn gây cho anh em bị mất mát. Đức Chúa Trời không cần cố ý xét xử anh em vì sự phán xét tất yếu sẽ tự phát giáng trên anh em. Trường hợp của Ru-bên bày tỏ rằng dầu đã được tiền định có quyền trưởng nam, nhưng vẫn có thể đánh mất quyền đó bởi buông mình vào sự gian dâm.
Cơ-đốc nhân nào phạm tội gian dâm sẽ mất quyền trưởng nam. Quyền trưởng nam bao gồm sự vui hưởng Christ cách trọn vẹn cùng với chức tế lễ và vương quyền. Có quyền trưởng nam là có quyền hạn và vị trí để vui hưởng Christ cách trọn vẹn, và cũng có quyền làm những thầy tế lễ và các vua. Nếu đánh mất quyền trưởng nam, chúng ta sẽ mất sự vui hưởng Christ. Bất kỳ Cơ-đốc nhân nào phạm tội gian dâm đều lập tức mất sự vui hưởng này. Phạm tội này cũng sẽ ngăn cản bất cứ tín đồ nào làm thầy tế lễ và làm vua. Hơn nữa, không một kẻ gian dâm nào được bước vào Vương Quốc Ngàn Năm để vui hưởng Christ cách trọn vẹn nhất, để làm thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và đồng làm vua với Christ (1Côr. 6:9-10; Gal. 5:19-21; Êph. 5:5). Chỉ những người đắc thắng mới được dự phần vui hưởng này, làm thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và đồng làm vua với Christ. Hãy chú ý: sự ô uế có thể làm anh em mất quyền trưởng nam.
IV. Từ Ma-Na-Se Qua Ép-Ra-Im
Bây giờ chúng ta đến trường hợp thư tư, trường hợp chuyển dời quyền trưởng nam từ Ma-na-se qua Ép-ra-im (48:12-20). Ma-na-se là con trưởng (c. 14). Khi Giô-sép đem Ép-ra-im và Ma-na-se đến với Gia-cốp để cha chúc phước, ông đã cố gắng sắp xếp việc chúc phước cho quyền trưởng nam theo thứ tự sinh ra (c. 13-17). Tuy nhiên, Ép-ra-im đã nhận được phước hạnh của quyền trưởng nam vì Gia-cốp đã tréo tay (c. 14,17-20). Tôi có cảm xúc mạnh mẽ rằng việc Giô-sép sắp xếp hoàn cảnh đã gợi cho Gia-cốp nhớ lại sự lừa đảo mà ông đã làm khi còn trẻ. Có thể ông đã nhớ cách mình đã gạt anh để nhận được quyền trưởng nam và lừa cha để nhận được phước hạnh. Khi Gia-cốp tréo tay hữu qua và đặt trên đầu Ép-ra-im, con thứ, có lẽ ông tự nhủ: “Gia-cốp ơi, ngươi không cần phải sắp xếp bất cứ việc gì. Ép-ra-im không cần làm gì cả, dầu vậy, ngươi đã đặt tay hữu trên nó. Tại sao ngươi lại hoạch định quá nhiều khi còn trẻ?” Tôi tin rằng, khi Gia-cốp tréo tay, ông đã có cảm xúc sâu xa này bên trong. Nếu không có mặt Giô-sép và hai cháu, hẳn Gia-cốp đã tự do biểu lộ sự hối tiếc của mình. Anh em có thể nghĩ rằng mình đúng trong việc hoạch định những tình huống nào đó. Nhưng sau nhiều năm, anh em sẽ cảm thấy hổ thẹn về những gì mình đã làm, và nói: “Thật hổ thẹn khi mình đã làm những chuyện đó!”
Chúng ta phải tin rằng Gia-cốp đã không chỉ đạo đôi tay mình. Chắc chắn là Linh đã hướng dẫn. Sự dẫn dắt của Linh là một phước hạnh cho Ép-ra-im, nhưng lại là sự cáo trách đối với Gia-cốp. Có lẽ, Chúa đã phán với ông: “Gia-cốp, ngươi không cần làm gì cả. Hãy nhìn Ép-ra-im. Dầu chẳng làm gì, nhưng nó đang nhận quyền trưởng nam. Còn ngươi, sao đã quá mưu mẹo và tự làm khổ mình như thế?” Như Gia-cốp, khi còn trẻ, tôi cũng đã làm những điều nào đó mà sau này tôi đã hối tiếc. Thưa các bạn trẻ, anh em cần nhận thức rằng phước hạnh không ở trong tay mình, nhưng ở trong tay của những người lão luyện. Việc chúng tôi có tréo tay và đặt tay hữu trên đầu anh em hay không, không tùy thuộc vào anh em mà tùy thuộc vào chúng tôi. Nếu muốn nhận phước hạnh, anh em phải có những người lão luyện. Nếu xa cách họ, anh em sẽ mất phước. Những người lão luyện sẽ không chúc phước cho anh em trừ phi anh em tôn trọng họ. Thưa các bạn trẻ, anh em không thể nào tiến lên nếu không có sự chúc phước của những người lão luyện. Anh em hết sức cần sự giúp đỡ của họ.
V. Từ Ítx-Ra-Ên Qua Hội Thánh
Bây giờ chúng ta đến trường hợp cuối của sự chuyển dời về quyền trưởng nam trong Kinh Thánh, sự chuyển dời quyền trưởng nam từ Ítx-ra-ên qua Hội Thánh. Điều này rất quan trọng. Trong Xuất Ai-cập 4:22, Chúa phán với Môi-se: “Vậy, ngươi phải tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Đức Giê-hô-va có phán như vầy: Ítx-ra-ên là con Ta, tức trưởng nam Ta”. Dầu là trưởng nam của Đức Chúa Trời, nhưng Ítx-ra-ên đã đánh mất quyền trưởng nam vì sự vô tín (Mat. 21:32; La. 11:20). Theo Lu-ca chương 15, vào lúc khởi đầu chức vụ, Chúa vẫn xem Ítx-ra-ên, được đại diện bởi người Pha-ri-si, là con trưởng, còn những người thu thuế, tội nhân là con thứ. Nhưng theo sự vui hưởng trong Lu-ca chương 15, chính con thứ là người nhận được quyền trưởng nam, vì con thứ đã vui hưởng bò béo, là chính Đấng Christ. Điều này cho thấy sự chuyển dời quyền trưởng nam. Bởi điều này, chúng ta thấy những người Pha-ri-si đã đánh mất sự vui hưởng Christ, nhưng những người thu thuế và tội nhân ăn năn đã nhận được sự vui hưởng này. Điều này có nghĩa là họ đã nhận được quyền trưởng nam.
Gần cuối chức vụ của Ngài, trong Ma-thi-ơ chương 21, Chúa cho thấy rằng những người thu thuế, phường kỵ nữ và tội nhân ăn năn là những người tạo nên Hội Thánh, là con trưởng; còn những người Pha-ri-si vô tín, đại diện cho Ítx-ra-ên, là con thứ. Ma-thi-ơ 21:32 nói: “Vì Giăng do đường công chính đến cùng các ngươi, mà các ngươi không tin người, nhưng bọn thâu thuế và phường kỵ nữ thì tin người; còn các ngươi, dẫu thấy vậy, mà rồi cũng không ăn năn để tin người”. Do vô tín nên Ítx-ra-ên, con trưởng, đã bị cắt bỏ, và con thứ được tháp vào quyền trưởng nam. Do đó, những tội nhân ăn năn và tin đã trở nên thành phần cấu tạo của Hội Thánh, và Hội Thánh ngày nay được gọi là Hội Thánh của con trưởng (Hêb. 12:23). Trong Hội Thánh, chúng ta là tập thể những con trưởng, những người sở hữu quyền trưởng nam. Quyền trưởng nam này đem cho chúng ta quyền vui hưởng Christ đến mức trọn vẹn nhất, được làm các thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và là các vua đồng trị với Christ. Dầu chúng ta đã có quyền trưởng nam, nhưng Tân Ước cảnh báo về khả năng đánh mất quyền trưởng nam này (Hêb. 12:16-17). Hãy cẩn thận: vì anh em có thể đánh mất quyền trưởng nam của mình.
Bài Chín Mươi Bảy
Được Trưởng Thành
Biểu Lộ Sự Trưởng Thành
(2)
g) Nói Tiên Tri Bằng Cách Chúc Phước
Trong bài này, chúng ta sẽ xem một sự biểu lộ khác về sự trưởng thành của Gia-cốp trong sự sống: ông nói tiên tri bằng sự chúc phước (49:1-28). Dầu chúng ta đều quen thuộc với ý nghĩa của việc nói tiên tri, nhưng có thể chưa quen với việc nói tiên tri bằng sự chúc phước. Sáng Thế Ký chương 49 là chương duy nhất bày tỏ vấn đề này. Mặc dầu sự chúc phước của Môi-se trong Phục Truyền Luật Lệ Ký chương 33 sát với điều được tìm thấy trong Sáng Thế Ký chương 49, nhưng lời chúc phước ở đó không phong phú bằng sự chúc phước ở đây. Cả hai phân đoạn Lời này đều là các lời tiên tri về Ítx-ra-ên, nhưng trong Sáng Thế Ký chương 49 có sự chúc phước phong phú hơn trong Phục Truyền Luật Lệ Ký chương 33.
Việc nói tiên tri trong chương 49 là biểu lộ sự trưởng thành vì lời nói luôn luôn bày tỏ chúng ta đang trong tình trạng nào và đã trưởng thành bao nhiêu. Một em bé sơ sinh không thể nói gì, nhưng đứa bé một tuổi có thể bắt đầu nói vài lời. Lời nói của nó bày tỏ nó là trẻ con. Tương tự với những nhóm tuổi khác: thanh niên nói như thanh niên, trung niên nói như trung niên và làm ông nói như một người ông. Do đó, lời nói tiêu biểu không những cho tuổi tác mà cũng cho loại người của chúng ta. Nếu là người nhanh nhẹn, anh em sẽ không nói chậm rãi. Nếu là người chậm chạp, anh em sẽ không nói nhanh. Nếu là người cao trọng, anh em sẽ không nói cách thấp hèn; và nếu là người thấp hèn, anh em sẽ không nói ở mức độ cao. Như vậy, lời nói bày tỏ chúng ta là gì và địa vị của mình.
Người ta nói rằng điều khôn ngoan nhất là không nói gì cả. Nếu tôi đứng trước một nhóm người mà không nói lời nào, họ sẽ không biết tôi sâu sắc hay nông cạn, nhanh hay chậm. Tôi sẽ là một điều bí ẩn. Tuy nhiên, trong mười bốn năm qua, từng thớ thịt của con người tôi đã được tỏ ra cho hết thảy anh em qua lời tôi nói. Ngay cả đứa bé bảy, tám tuổi cũng biết tôi khá rõ vì chúng đã nghe tôi nói. Vì nói quá nhiều, tôi không thể nào che giấu chính mình. Cách tốt nhất để giấu mình là không nói. Trong những năm đầu chức vụ, tôi khá khôn ngoan vì không bao giờ nói gì trong các hội đồng của các đồng công. Vì đó là chủ trương của tôi, nên tôi trở nên bí ẩn đối với các đồng công khác và không ai hiểu được tôi. Dầu nói thì khó, nhưng không nói thì còn khó hơn. Khi có cơ hội bày tỏ, anh em sẽ hoàn toàn không thể kiềm chế sự nói năng của mình. Tôi không biết ai có thể ở với tôi sáu mươi phút mà không nói một lời nào. Tôi chắc rằng chỉ sau vài phút là anh em sẽ nói.
Bây giờ chúng ta hãy mô tả sơ lược vấn đề phát ngôn của Gia-cốp như được bày tỏ trong Sáng Thế Ký. Sự ghi lại đầu tiên về lời nói của ông nằm trong 25:31, tại đó Gia-cốp nói với Ê-sau: “Hôm nay anh hãy bán quyền trưởng nam cho tôi đi”. Chiếm được quyền trưởng nam là sự khao khát của lòng Gia-cốp; đó là niềm mơ ước và khát vọng của ông. Trong một thời gian dài, ông luôn chờ cơ hội để giựt lấy điều đó từ Ê-sau.Cuối cùng, khi cơ hội đến, lời đầu tiên thốt ra từ miệng Gia-cốp được chép trong Kinh Thánh là lời về việc mua bán quyền trưởng nam.
Trong chương 27, Gia-cốp đã nói theo cách lừa dối Y-sác, cha ông (c. 19-20,23). Trong 27:19, Gia-cốp đã dối cha rằng: “Tôi là Ê-sau, con trưởng nam của cha”. Khi Y-sác hỏi làm thế nào ông kiếm được thịt rừng về nhanh thế, Gia-cốp thưa: “Ấy là nhờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của cha đã đem nó đến cho con”. Sau đó, Y-sác tiếp: “Tiếng nói thì của Gia-cốp, còn hai tay lại của Ê-sau” (c. 22) rồi hỏi: “Con có thật là Ê-sau, con trai ta không?” (c. 24). Gia-cốp thưa: “Phải, con đây”. Như thế, lời nói của Gia-cốp trong chương 27 hoàn toàn là giả dối.
Lời nói của Gia-cốp trong các chương 29 đến 32 thì đầy những tư ý, tham vọng cá nhân, và lợi lộc riêng. Qua lời nói của ông được ghi lại trong các chương này, nhiều phương diện của bản ngã bị phơi trần. Lời nói của Gia-cốp ích kỷ đến nỗi dường như ông không có linh. Nếu có một anh em giống như vậy giữa vòng chúng ta, chúng ta sẽ nghi ngờ không biết người đó có thật sự được tái sinh chưa.
Lời nói của Gia-cốp với Ê-sau, anh ông, trong chương 33 là đóng kịch. Trong chương này, Gia-cốp đã nhiều lần gọi Ê-sau là “chúa tôi” (33:13-14). Sâu xa bên trong, Gia-cốp không hề nhìn nhận Ê-sau là chúa mình. Lý do Gia-cốp gọi anh theocách này là vì ông sợ bị Ê-sau giết. Gia-cốp là một diễn viên, một chính trị gia, và việc thể hiện về sự khiêm nhường trước mặt Ê-sau là đóng kịch.
Tuy nhiên, vào thời điểm của chương 35, lời nói của Gia-cốp đã trải qua một sự thay đổi. Lời nói của ông trong chương này bắt đầu giống với lời nói của một người được tái sinh, một con cái của Đức Chúa Trời.
Trong các chương sau việc mất Giô-sép, Gia-cốp đã nói rất ít. Điều này cho thấy, khi lớn lên trong sự sống, lời nói của chúng ta trước hết sẽ thay đổi về bản chất. Tính chất của lời chúng ta nói sẽ thay đổi. Cuối cùng, chúng ta sẽ nói ít đi. Càng lớn lên, chúng ta sẽ càng nói ít. Hiện tại, có thể anh em không có khả năng chống lại sự cám dỗ để nói. Nhưng sau vài năm và khi lớn lên nhiều hơn trong sự sống, anh em sẽ không nói dầu sự cám dỗ có lớn đến đâu.
Chúng ta có thể lần theo sự tăng tiến của Gia-cốp trong sự sống bằng cách lần theo sự tiến bộ của ông trong việc nói. Sự thay đổi trong lời nói bày tỏ sự lớn lên của ông.Cuối cùng, Gia-cốp đã lớn lên đến mức, ngay cả khi mất Giô-sép, ông cũng nói rất ít.Tuy nhiên, nhiều người trong chúng ta có thể nói rất nhiều về những việc không đáng, chẳng hạn như mất đôi vớ. Nếu một anh em trẻ trong nhà của sinh viên bị mất một đôi vớ, anh ấy có thể la lên: “Đôi vớ của tôi đâu? Điều gì đã xảy ra?” Nhưng khi mất Giô-sép, báu vật của lòng ông, Gia-cốp đã không nói gì nhiều. Đây là dấu hiệu tốt. Nói nhiều về một đôi vớ là dấu hiệu của sự chưa trưởng thành, dấu hiệu của con trẻ. Nói quá nhiều, bày tỏ anh em còn con trẻ. Trong điều này, chúng ta thấy lời nói là dấu hiệu chứng tỏ chúng ta đã lớn được bao nhiêu. Có một số người giữa vòng chúng ta cách đây nhiều năm quen nói nhiều. Nhưng bây giờ họ nói rất ít. Tôi hi vọng sau một thời gian nữa, họ hầu như không nói chút nào. Lý do không nói không phải vì họ không vui, mà thật ra, họ đã lớn lên trong sự sống. Càng lớn lên, sẽ càng ít nói.
Hãy xem phản ứng của Gia-cốp khi nghe tin Giô-sép còn sống và đang ở Ai-cập.Ông đã nói rất ít; thực ra hầu như ông không nói gì cả. Nếu là Gia-cốp, chúng ta hoặc sẽ giận dữ với những người con còn lại, sẵn sàng đánh chúng, hoặc sẽ hết sức sôi nổi, chạy từ đứa này sang đứa khác và nói: “Ồ, Giô-sép vẫn còn sống!”. Trong cả hai trường hợp đều nói rất nhiều. Nhưng Gia-cốp đã nói rất ít. Hơn nữa, ông đã nói rất ít sau khi xuống Ai-cập. Khi được dẫn vào yết kiến Pha-ra-ôn, Gia-cốp đã không nói gì.Trái lại, ông chỉ chúc phước cho Pha-ra-ôn. Hầu như Gia-cốp không nói gì, nhưng lại có những lời chúc phước mạnh mẽ (47:7,10).
Do sự trưởng thành, lời nói của Gia-cốp trong chương 49 rất có trọng lượng. Từng lời ông nói ở đây đã trở thành một lời tiên tri. Vì chương này hết sức sâu sắc nên đã đóng kín với nhiều Cơ-đốc nhân. Họ không dò được các chiều sâu của chương này cũng không biết chương này nói đến điều gì. Trong Sáng Thế Ký chương 49, chúng ta thấy một người đã trưởng thành hoàn toàn. Người này không nói cách nông cạn, hời hợt, vu vơ mà nói theo cách đầy dẫy sự sống và trưởng thành. Điều này cho thấy sự trưởng thành của chúng ta trong sự sống sẽ được thể hiện trong lời nói.
Sứ điệp về việc nói tiên tri bằng sự chúc phước này khá sâu sắc, không sâu về giáo lý, nhưng sâu về kinh nghiệm. Dầu vài người giữa vòng chúng ta đã đạt đến mức độ này trong kinh nghiệm sự sống, nhưng vẫn cần bài giảng này như một phần trong sựnghiên cứu sự sống Sách Sáng Thế Ký. Nó sẽ giúp chúng ta vừa lớn lên trong sự sống vừa lớn lên trong sự nói năng. Hãy nhớ rằng lời nói cho thấy anh em đang ở mức độ nào. Hễ khi nào sắp nói, nên tự nhủ: “Lời nói của tôi là bày tỏ tôi”. Nhận thức điều này sẽ giúp chúng ta rất nhiều.
Lời của Gia-cốp trong chương 49 là một loại lời không thể được tìm thấy ở đâu khác. Đó không phải là lời chỉ dẫn, khích lệ hay khuyên răn. Đó cũng không phải là một lời có giá trị hay chỉ là một lời phỏng đoán. Đúng ra, đó là lời nói tiên tri bằng sự chúc phước. Dầu là lời tiên tri, nhưng đó là lời tiên tri được dầm thấm bằng sự chúc phước.Không dễ gì nói được loại lời này. Ê-sai là tiên tri lớn nhất giữa các tiên tri. Tuy nhiên, trong số những lời tiên tri của Sách Ê-sai, khó mà tìm được một lời tiên tri bằng sự chúc phước. Ê-sai đã nói tiên tri, nhưng không nói tiên tri bằng sự chúc phước. Nhưng trong Sáng Thế Ký chương 49, Gia-cốp không những nói tiên tri mà còn nói tiên tri bằng sự chúc phước. Sự chúc phước này tuôn ra từ lời nói mang tính tiên tri của ông.
(1) Bốn Đòi Hỏi Cho Việc Nói Tiên Tri Bằng Sự Chúc Phước
(a) Nhận Biết Đức Chúa Trời
Để nói tiên tri bằng sự chúc phước, chúng ta phải đáp ứng bốn đòi hỏi. Đòi hỏi thứ nhứt là nhận biết Đức Chúa Trời, nhận biết khát vọng của lòng Ngài và nhận biết mục đích của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời, khát vọng của lòng Ngài và mục đích của Đức Chúa Trời, tất cả đã được bày tỏ qua lời của Gia-cốp trong chương này. Phần còn lại của Cựu Ước và toàn bộ Tân Ước là sự phát triển của Sáng Thế Ký chương 49. Nói cách khác, hầu như cả Kinh Thánh là sự phát triển của lời Gia-cốp đã nói trong chương này. Lời này cao, sâu và thâm thúy dường bao! Chương này là hạt giống rất phong phú, một hạt giống trải suốt sự phát triển tuyệt diệu trong phần còn lại của Kinh Thánh. Để nói lời như thế, chúng ta phải nhận biết Đức Chúa Trời, nhận biết lòng Đức Chúa Trời và nhận biết mục đích của Ngài
(b) Nhận Biết Con Người
Đòi hỏi thứ hai là nhận biết con người, nhận biết hoàn cảnh thực tế của mọi người có liên quan. Có thể anh em nghĩ rằng vì cha biết con là dễ nên Gia-cốp nhận biết mười hai con trai mình cũng dễ. Tuy nhiên, đối với cha mẹ, thực sự biết các con mình là rất khó.Nhiều khi chúng ta biết con mình cách mù quáng như Y-sác biết Gia-cốp. Dường như, cha mẹ đều biết con cái; nhưng thực ra, không biết chúng là gì và cũng không biết chúng đang ở đâu. Nhưng Gia-cốp có một sự hiểu biết thấu đáo về các con mình. Mỗi hoàn cảnh, điều kiện và nan đề ẩn giấu đều sáng tỏ trong nhận thức bề trong của ông.Cũng vậy, nếu muốn nói một lời như vậy trong Hội Thánh, chúng ta phải biết Hội Thánh, các trưởng lão và tất cả các anh chị em. Điều này không dễ. Dầu nhóm với nhau hằng ngày, nhưng có lẽ tôi cũng chưa biết rõ anh em. Dầu đã và đang nhóm với các trưởng lão trong nhiều năm, tôi vẫn không thể biết họ tường tận. Chúng ta không nên biết người khác theo sự hiểu biết của tâm trí; trái lại, phải biết họ theo linh. Sáng Thế Ký chương 49 cho thấy Gia-cốp đã có một sự hiểu biết đúng đắn về các con mình.Ông biết việc làm, hoàn cảnh và tình trạng của họ. Gia-cốp là một chuyên gia về việc nhận biết người khác. Ông có tia X thuộc linh. Khi ông đang nói tiên tri bằng sự chúc phước, tia X thiên thượng này đã làm cho hoàn cảnh của từng người con trong suốt như pha lê trong tầm nhìn của ông. Sự hiểu biết về các con được bày tỏ trong những lời súc tích của ông về mỗi người.
(c) Có Các Sự Phong Phú
Dầu chúng ta có thể biết Đức Chúa Trời, lòng Ngài và mục đích Ngài, và dầu có thể biết hoàn cảnh của người khác, nhưng chúng ta vẫn không thể chúc phước cho họ nếu mình nghèo. Một thánh đồ yêu dấu kia có thể thuần khiết, tuyệt đối cho Đức Chúa Trời và đáng được một lời chúc phước phong phú. Tuy nhiên, nếu nghèo nàn, tôi có thể đem phước hạnh gì đến cho người đó? Nói cách thuộc linh, tôi chỉ có mười xu và cần giữ lại hai xu cho mình. Vì thế, tôi chỉ có thể ban phước tám xu. Tuy nhiên, Gia-cốp rất giàu.Vì không thiếu thốn, nên ông có thể chúc phước cho người khác. Thực ra, sức chứa của những người nhận sự chúc phước của ông còn kém xa sự giàu có của ông.
(d) Có Một Linh Mạnh Mẽ Và Năng Động
Cùng với ba đòi hỏi đã nói, chúng ta cần một linh mạnh mẽ, năng động. Lời của Gia-cốp trong chương này được nói ra khi sắp chết. Khi nhiều Cơ-đốc nhân sắp qua đời, không những thân thể mà toàn bản thể họ đều suy yếu. Vì thế, họ không có một linh mạnh mẽ để vận dụng nói tiên tri bằng cách chúc phước cho người khác. Dầu Gia-cốp sắp chết về thuộc thể, nhưng rất mạnh mẽ về thuộc linh. Trong thân thể, ông đang chết dần, nhưng trong linh, ông thật mạnh mẽ và năng động. Do đó, để nói tiên tri bằng sự chúc phước, chúng ta phải có sự hiểu biết về Đức Chúa Trời, sự hiểu biết về con người và các hoàn cảnh của họ, biết các sự giàu có của Đức Chúa Trời và một linh mạnh mẽ.
(2) Không Phải Là Người Có Ân Tứ Nói Tiên Tri
Do ảnh hưởng của Cơ-đốc Giáo ngày nay, nhiều người nghĩ rằng chỉ có các tiên tri mới có thể nói tiên tri. Nhưng câu Kinh Thánh nào nói rằng Gia-cốp là một tiên tri? Gia-cốp không phải là người có ân tứ nói tiên tri dự đoán những điều sắp đến, nhưng ông vẫn nói tiên tri. Trong 49:1, Gia-cốp nói: “Hãy hiệp lại đây, cha sẽ nói những điều phải xảy đến cho các con ngày sau”. Đây là lời mở đầu cho lời tiên tri của ông.
Ngày nay, nhiều Cơ-đốc nhân đang nói về những người ân tứ. Nhưng Gia-cốp có ântứ gì? Tôi xin nói ân tứ duy nhất ông có là ân tứ tiếm vị. Trong chương 49, Gia-cốp không nói: “Ru-bên, Chúa có phán như vầy”. Tuy nhiên, lời tiên tri sâu sắc nhất trong Kinh Thánh là những lời được Gia-cốp thốt ra trong chương này. Đây là lời tiên tri duy nhất đòi hỏi cả Kinh Thánh để phát triển. Dầu là một lời tiên tri sâu sắc như vậy, nhưng đã không được nói ra bởi một tiên tri hay một người ân tứ.
(3) Người Được Cấu Tạo Bằng Đức Chúa Trời
Gia-cốp không phải là một tiên tri do ban tứ; ông là người được cấu tạo bằng Đức Chúa Trời. Ông không được cấu tạo bằng các ân tứ, bằng tài ăn nói hay thậm chí bằng chức năng. Ông được cấu tạo bằng Đức Chúa Trời. Vì đã được truyền đạt, dầm thấm và thấm đẫm Đức Chúa Trời hoàn toàn, nên lời nói của ông là lời phán của Đức Chúa Trời. Lời của ông là Lời của Đức Chúa Trời. Dù chúng ta xem lời của ông là lời tiên tri hay lời chúc phước, thì đó vẫn là loại phát ngôn đang thiếu trong các Hội Thánh ngày nay. Điều mà các Hội Thánh ngày nay cần là sự phát ngôn của người được cấu tạo bằng Đức Chúa Trời.
Ở điểm này, chúng ta cần xem xét vài câu trong 1Cô-rin-tô chương 7. Năm 1940, tôi nhận được sự giúp đỡ lớn từ anh Nghê về các câu này. Trong một lần nói chuyện với anh, anh đã nói 1Cô-rin-tô chương 7 bày tỏ đỉnh cao về kinh nghiệm Cơ-đốc của Phao-lô. Lần đầu tiên nghe điều này, tôi không thể hiểu vì điều đó rất khác với quan niệm của tôi. Tôi đã quen thuộc với chương 7 của Sách 1Cô-rin-tô. Tôi biết chương này nói về hôn nhân và sự đồng trinh. Vì thế, tôi tự nhủ: “Làm thế nào chương này là đỉnh cao về kinh nghiệm Cơ-đốc của sứ đồ Phao-lô?”
Anh Nghê chỉ cho chúng tôi các câu 10,12,25 và 40. Trong câu 10, Phao-lô nói: “Còn đối với kẻ đã cưới gả rồi, thì tôi dặn bảo, mà thật chẳng phải tôi, mà là Chúa, rằng, vợ chớ chia lìa chồng”. Ở đây, Phao-lô quả quyết rằng điều răn của Chúa là người vợ Cơ-đốc không nên chia lìa chồng. Vì tin chắc rằng rằng đây là điều răn của Chúa nên Phao-lô rất dạn dĩ.
Nhưng trong câu 12 ông nói: “Đến như những kẻ khác, thì chẳng phải Chúa, mà là tôi…” Về vấn đề một anh em nào đó có vợ không tin, Phao-lô nói: “Tôi nói, chớ chẳng phải Chúa”. Nếu có ở đó, tôi sẽ nói: “Anh Phao-lô, nếu điều đó không phải của Chúa, thì anh không nên nói. Vì anh biết điều đó không phải của Chúa, sao anh còn nói?Chúng tôi không muốn nghe anh. Anh chỉ là một tội nhân được cứu; anh không nên tự mình nói bất cứ điều gì”. Khi nghe anh Nghê nói về câu này, tôi tự nhủ: “Nếu đó không phải là lời nói của Chúa, sao Phao-lô vẫn cứ nói?” Tuy nhiên, lời Phao-lô nói đã được chép trong Tân Ước và trở thành Lời của Đức Chúa Trời. Theo câu 12, lời của Phao-lô đã trở thành lời được cảm thúc trong Kinh Thánh.
Hơn nữa, trong câu 25, Phao-lô nói: “Về kẻ đồng thân, tôi chẳng có mạng lịnh của Chúa; song tôi tỏ ý kiến tôi như kẻ đã được Chúa thương xót để làm người đáng tin”(Theo Bản Hi-lạp). Nếu có mặt ở đó, tôi sẽ ngăn ông lại và nói: “Anh Phao-lô, vì không có mạng lịnh của Đức Chúa Trời, xin anh đừng nói”. Không những không có mạng lịnh từ Chúa, mà thậm chí Phao-lô đã cho ý kiến riêng. Có lẽ chúng ta nói: “Phao-lô, chúng tôi không muốn nghe ý kiến của ông. Chúng tôi muốn nghe lời của Chúa”.Dầu đã đọc 1Cô-rin-tô chương 7 nhiều lần trước khi nghe lời này từ anh Nghê, nhưng tôi chưa bao giờ thấy, và đã bị “sốc” khi anh Nghê chỉ ra cho chúng tôi những điều này.Dầu Phao-lô chỉ đưa ra ý kiến riêng, nhưng hơn 1. 900 năm qua, ý kiến của ông đã được xem là Lời của Đức Chúa Trời. Do đó, ý kiến của Phao-lô đã trở thành Lời của Đức Chúa Trời.
Cuối cùng, trong câu 40, Phao-lô nói: “Song theo ý kiến tôi, nếu chị ấy cứ ở vậy thì có phước hơn. Vả, tôi tưởng tôi cũng có Linh của Đức Chúa Trời” (Theo Bản Hi-lạp).Ở đây chúng ta thấy Phao-lô đã dạy dỗ theo ý kiến của mình . (Từ Hi-lạp được dịch là “theo” có nghĩa là “phù hợp với”). Theo ý kiến của Phao-lô, một góa phụ nếu cứ ở vậy thì tốt hơn. Lý do Phao-lô dạn dĩ nói như thế được bày tỏ trong câu 25: ông “đã được Chúa thương xót để làm người trung tín”. Chúng ta cần sự thương xót của Chúa để trung tín với Ngài. Nếu có sự thương xót này, chúng ta có thể dạn dĩ.
Vào cuối câu 40, Phao-lô nói: “Vả, tôi tưởng tôi cũng có Linh của Đức Chúa Trời”. Từ “cũng” nhỏ bé ở đây có ý nghĩa rất lớn. Dường như Phao-lô đang nói: “Tôi không những có ý kiến của tôi, tôi cũng có Linh của Đức Chúa Trời”. Xin lưu ý rằng Phao-lô không nói: “Tôi có sự biết chắc,” hay “tôi tin”; trái lại, ông nói: “Tôi tưởng [nghĩ rằng]”.Điều này cho thấy ông không chắc chắn. Dầu ông không biết chắc rằng ông có Linh của Đức Chúa Trời, nhưng tất cả chúng ta đều thừa nhận chương 7 của Sách 1Cô-rin-tô là Lời của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, vào ngày đó của năm 1940, khi đang lắng nghe anh Nghê nói, tôi đã đồng ý với lời anh, rằng 1Cô-rin-tô chương 7 ghi lại đỉnh cao về kinh nghiệm Cơ-đốc của Phao-lô. Ý kiến của Phao-lô là Lời của Đức Chúa Trời.
Về nguyên tắc, điều này tương tự với Gia-cốp trong Sáng Thế Ký chương 49. Bất cứ điều gì Gia-cốp nói trong chương này đều là Lời của Đức Chúa Trời. Dầu là ý kiến của ông, nhưng đó cũng là Lời của Đức Chúa Trời. Trong 49:3-4, dường như Gia-cốp muốn nói: “Ru-bên, con là con trưởng của cha; tuy nhiên, vì con đã bị ô uế, nên không thể hưởng được vị trí đứng đầu để có quyền trưởng nam”. Lời của Gia-cốp nói với Ru-bên là một điều gì đó thuộc về lời tiên đoán, liên quan đến việc mất quyền trưởng nam; lời đó cũng phần nào là sự rủa sả, vì chỉ ra rằng Ru-bên đã bị tước mất quyền trưởng nam. Đây không phải là lời nói của một thanh niên, thậm chí cũng không phải của một người tầm thường. Đó là lời nói của một người đầy dẫy Đức Chúa Trời, một người đã được cấu tạo bằng Đức Chúa Trời trong toàn bản thể mình. Vào thời điểm của chương 49, Gia-cốp là một Thần-nhân, một người được đổ đầy, được cấu tạo, được dầm thấm, và thậm chí, được tái cấu tạo bằng Đức Chúa Trời. Cho nên, hễ điều gì ông nói đều là Lời của Đức Chúa Trời; hễ điều gì ông nghĩ là ý tưởng của Đức Chúa Trời; và hễ ý kiến nào ông bày tỏ cũng là ý kiến của Đức Chúa Trời. Không một người trẻ nào, cũng không một người trung niên nào, có thể nói loại lời này. Loại lời này chỉ có thể được nói ra bởi người đã đạt đến sự trưởng thành trọn vẹn. Lời nói của Gia-cốp trong chương này bày tỏ ông đã trưởng thành trọn vẹn.
Gánh nặng tôi trong bài này là ghi khắc cho tất cả anh em, đặc biệt những người trẻ, về việc lời nói bộc lộ tình trạng của mình. Nếu khi mất đôi vớ mà anh em nói nhiều, thì điều đó nhắc nhở rằng mình chưa trưởng thành. Loại phản ứng này cho thấy rõ anh em cần lớn lên trong sự sống. Hãy quên đôi vớ đi và hãy tìm kiếm để có sự sống nhiều hơn. Nếu phải nói điều gì đó, anh em nên nói: “Tôi cần có sự sống nhiều hơn”. Đừng nói: “Đôi vớ của tôi đâu?” Trái lại, hãy nói: “Anh em ơi, anh em có biết sự lớn lên trong sự sống của tôi ở đâu không?” Hễ khi nào một anh em hỏi về đôi vớ của mình, những người còn lại nên nói: “Sự lớn lên trong sự sống của anh là đây”.
Nhiều người trong chúng ta hay nói nhiều. Bẩm sinh như vậy. Bản chất, tính khí, đặc điểm của chúng ta là nói nhiều. Hễ khi nào nói nhiều, anh em cần được nhắc nhở rằng sự nói nhiều là dấu hiệu cho thấy anh em cần phải lớn lên trong sự sống.
(4) Gia-cốp, người Cha Trong Xác Thịt,
Và Ítx-ra-ên, Cái Miệng Của Đức Chúa Trời
Sáng Thế Ký 49:2 nói: “Hỡi các con trai Gia-cốp, hãy hội lại mà nghe: nghe lời của Ítx-ra-ên, cha các con”. Theo tiếng Hê-bơ-rơ, câu này ở thể thi ca và được viết theotừng cặp. Phần đầu của cặp câu này ở trong câu 2 là: “Hỡi các con trai Gia-cốp, hãy hội lại mà nghe,” và phần thứ hai là: “Hãy nghe lời của Ítx-ra-ên, cha các con”. Người cha đã sanh con là Gia-cốp và người cha đang nói là Ítx-ra-ên. Tất cả mười hai con trai được sanh bởi Gia-cốp, cha trong xác thịt, kẻ tiếm vị, kẻ nắm gót và kẻ nói dối. Nhưng người cha đang chúc phước và nói tiên tri không còn là Gia-cốp nữa mà là Ítx-ra-ên.Trong người thiên nhiên, Gia-cốp không bao giờ có thể nói được những lời như vậy. Chỉ bởi trưởng thành, ông mới có thể nói ra loại lời này. Gia-cốp không nói với các con như vầy: “Hãy nghe lời của Gia-cốp, cha các con”; nhưng nói: “Hãy nghe lời của Ítx-ra-ên, cha các con”. Ítx-ra-ên không chỉ là người được biến đổi mà còn là người trưởng thành trong sự sống thần thượng. Tất cả chúng ta sẽ thích nghe lời chứng từ những người cách đây nhiều năm là Gia-cốp mà bây giờ là Ítx-ra-ên. Chúng ta cần nhiều Ítx-ra-ên hơn, là những người không những nói cho Đức Chúa Trời mà còn cùng nói với Đức Chúa Trời. Hễ điều gì họ nói đều là lời phán của Đức Chúa Trời. Trong Sáng Thế Ký chương 49, Ítx-ra-ên đã hoàn toàn được thấm đẫm, được dầm thấm, được cấu tạo và được tái tổ chức bằng Đức Chúa Trời. Vì ông là một với Đức Chúa Trời, nên hễ điều gì ông nói đều là Lời của Đức Chúa Trời. Do đó, trong chương này, chúng ta có lời tiên tri được dầm thấm bằng sự chúc phước.
Câu 28 nói: “Các người đó là đầu trưởng của mười hai chi phái Ítx-ra-ên; và đó là lời của cha họ nói đương khi chúc phước cho, chúc một lời phước riêng cho mỗi người vậy”. Đây là lời tiên tri hay lời chúc phước? Dầu đó là lời tiên tri, những lời tiên tri này đầy dẫy sự chúc phước.
Gia-cốp trong chương 49 là người am tường về mặt thuộc linh và thần thượng. Ông biết Đức Chúa Trời, và biết tình trạng của các con. Hơn nữa, ông có các sự phong phú cần thiết mà bởi đó ông nói tiên tri và chúc phước. Vì thế, ông có thể nói một lời tiên tri được được dầm thấm bằng cách chúc phước. Trong lời ông nói, không có lỗi lầm, vẫn đục, tối tăm, sáo rỗng hay huyễn hoặc. Trái lại, lời ông nói là một lời tiên tri phong phú, sâu sắc, thâm thúy, và được dầm thấm bằng sự chúc phước. Điều này hoàn toàn khácvới : “Giê-hô-va phán như vầy” khá phổ biến giữa các Cơ-đốc nhân ngày nay. Chỉ trong vài phút, anh em có thể nhận được ân tứ nói loại lời tiên tri đó. Nhưng phải mất nhiều năm để lớn lên đến tầm vóc có thể nói được loại lời như Gia-cốp đã nói trong chương này. Đây không phải là vấn đề ân tứ hay chức năng mà là lớn lên và trưởng thành.
Được trưởng thành là được cấu tạo bằng Đức Chúa Trời. Tất cả những gì Đức Chúa Trời là phải được cấu tạo vào trong bản thể chúng ta. Từng thớ thịt trong bản thể chúng ta phải được tái tổ chức và được dầm thấm yếu tố Đức Chúa Trời. Khi điều này xảy ra, thì như Gia-cốp, chúng ta sẽ là loại người có thể nói tiên tri bằng sự chúc phước.Trong sự trưởng thành này, chúng ta có sự hiểu biết thần thượng, thông biết tường tận những điều của Đức Chúa Trời và các hoàn cảnh của người khác. Trong sự trưởng thành này, chúng ta cũng có các sự phong phú để nói một lời tiên tri mang tính chúc phước.
Bài Chín Mươi Tám
Được Trưởng Thành
Biểu Lộ Sự Trưởng Thành
(3)
Trong bài này, chúng ta tiếp tục chủ đề Gia-cốp nói tiên tri bằng sự chúc phước(49:1-28). Trong bài trước, chúng tôi đã chỉ ra rằng dầu lời tiên tri này bởi một con người nói ra nhưng đó là Lời của Đức Chúa Trời. Vì trong sự trưởng thành, Gia-cốp đã là một với Đức Chúa Trời nên hễ điều gì ông nói, đó là Lời của Đức Chúa Trời. Hầu hết Cơ-đốc nhân đã gặp khó khăn trong việc hiểu Sáng Thế Ký chương 49. Cách đây 50 năm, khi bắt đầu nghiên cứu chương này, tôi thấy rằng không dễ gì biết được ý nghĩa các lời tiên tri được chép ở đây. Đây là một chương rất quan trọng, vì gần như là lời kết của Sách Sáng Thế Ký.
Theo ký thuật của Sáng Thế Ký, nhân loại đã bắt đầu với A-đam và tiếp tục với A-bên, Ê-nót, Hê-nóc, Nô-ê, Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Cuối cùng, Gia-cốp không còn là một cá thể vì ông đã trở thành cha của một gia đình được Đức Chúa Trời chọn lựa. Gia đình này, nhà của Gia-cốp (46:27), chủ yếu gồm mười hai con trai. Về sau, mười hai con trai này trở thành mười hai chi phái của quốc gia Ítx-ra-ên. Điều này cho thấy ý định của Đức Chúa Trời là có một nhà, không phải những cá thể. Nhà Ítx-ra-ên là hình bóng về Hội Thánh, tức Nhà Đức Chúa Trời ngày nay. Trong Cựu Ước, chúng ta có một nhà, nhà Ítx-ra-ên; và trong Tân Ước, chúng ta cũng có một nhà, Hội Thánh của Đức Chúa Trời hằng sống (1Tim. 3:15).
Bất cứ điều gì được nói về nhà Ítx-ra-ên đều là hình bóng, hình ảnh và là bóng về Hội Thánh. Khi còn ở với các giáo sư trong Hội Anh Em, họ bảo tôi phải phân biệt những phần của Kinh Thánh dành cho con cái Ítx-ra-ên với những phần dành cho Hội Thánh. Trong một ý nghĩa, điều này là đúng, vì chúng ta không nên trộn lẫn Lời của Đức Chúa Trời về nhà Ítx-ra-ên với Lời Ngài về Hội Thánh. Tuy nhiên, vì Hội Thánh là thực thể thuộc linh nên để hiểu được Hội Thánh là điều khó cho chúng ta. Vì thế, chúng ta cần hình ảnh về nhà Ítx-ra-ên trong Cựu Ước. Nguyên tắc là Kinh Thánh dùng những hình bóng và các nhân vật để mô tả những điều thuộc linh. Bất cứ điều gì có tính thuộc linh đều huyền nhiệm. Chẳng hạn, vì Giê-ru-sa-lem Mới mang tính thuộc linh và huyền nhiệm, nên Kinh Thánh dùng thành phố để minh họa. Cũng vậy, không có hình ảnh về nhà Ítx-ra-ên, chúng ta khó mà hiểu Hội Thánh cách đầy đủ. Tuy nhiên, khi xem xét hình ảnh này trong Cựu Ước, chúng ta có thể hiểu nhiều phương diện của Hội Thánh được bày tỏ trong Tân Ước. Do đó, những gì được nói về con cái Ítx-ra-ên không chỉ dành cho họ mà cũng dành cho chúng ta.
Dựa trên nguyên tắc dùng hình bóng và hình ảnh để mô tả những thực tại thuộc linh, chúng ta cần áp dụng cho mình mọi điều được nói về mười hai chi phái Ítx-ra-ên. Tất nhiên, nói theo thuộc thể, chúng ta không phải là mười hai chi phái Ítx-ra-ên; tuy nhiên, nói về thuộc linh, chúng ta là mười hai chi phái này vì họ là bức tranh về chúng ta. Nếu muốn biết mình, nên nhìn vào tấm hình của mình trong mười hai chi phái này. Đừng nghĩ rằng các lời tiên tri trong Sáng Thế Ký chương 49 chỉ liên quan đến các con trai của Gia-cốp. Có lẽ những lời tiên tri này liên quan đến chúng ta hơn là đến mười hai con trai của Gia-cốp.
Số mười hai gồm ba lần bốn. Trước hết, Gia-cốp nói tiên tri về ba con trai đầu, là Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi (c. 3-7). Ba anh em này được chia nhỏ ra. Ru-bên đứng một mình, còn Si-mê-ôn và Lê-vi gộp thành một nhóm. Theo các hoạt động của họ, Si-mê-ôn và Lê-vi là một.
Trước khi xem các phương diện quan trọng trong lời tiên tri của Gia-cốp về Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, tôi muốn chỉ ra rằng theo lời tiên tri bằng sự chúc phước của Gia-cốp, địa vị và bản chất thiên nhiên của chúng ta có thể được thay đổi. Có lẽ anh em được sinh ra là tốt. Nhưng đừng tự hào về sự tốt lành của mình vì anh em có thể trở nên xấu.Nếu được sinh ra là xấu, anh em đừng thất vọng. Trái lại, nên có đức tin rằng mình sẽ trở nên tốt. Điều này vừa là lời cảnh báo, vừa là lời khích lệ. Là con trưởng, Ru-bên có vị trí hàng đầu. Tuy nhiên, ông đã đánh mất vị trí hàng đầu này và vị trí thiên nhiên đó, vị trí bẩm sinh đó đã thay đổi. Do đó, chúng ta không nên thất vọng cũng không nên tự mãn. Thay vì thế, nên cẩn trọng kẻo đánh mất quyền trưởng nam của mình.
Hơn nữa, dầu thực tế không được sinh ra làm con trưởng, nhưng anh em có thể trở thành con trưởng. Giô-sép là con thứ mười một nhưng cuối cùng đã trở nên con trưởng. Trong hầu hết các trường hợp về sự chuyển dời quyền trưởng nam trong Kinh Thánh, quyền trưởng nam được chuyển từ con trưởng sang con thứ. Khi nghe lời này, một người sâu sắc có thể nói: “Tôi được sanh ra chẳng phải là thứ nhứt cũng không phải thứ hai. Tôi được sanh ra thứ mười một. Dầu quyền trưởng nam được chuyển dời bao nhiêu lần, chắc không bao giờ chuyển đến tôi”. Nhưng hãy tin cậy và can đảm. Dầu anh em có thể là con thứ mười một, Đức Chúa Trời vẫn có cách làm anh em thành số một. Ngài đã làm điều đó với Giô-sép. Hãy ghi nhớ rằng vị trí tự nhiên của anh em có thể được thay đổi hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn. Đừng trách Đức Chúa Trời vì đã làm anh em thành thứ mười một thay vì thứ nhứt. Nếu cố trách Đức Chúa Trời như vậy, Ngài có thể nói: “Hỡi con yêu, hãy đọc lại Sáng Thế Ký chương 49. Dầu con là người thứ mười một, địa vị của con có thể đổi thành số một”.
Trải qua nhiều năm, tôi vẫn nói với các trưởng lão về tính khí của họ. Tôi thừa nhận rằng lời của tôi về vấn đề này mạnh mẽ và sắc như gươm hai lưỡi đâm thấu vào anh em. Khi các trưởng lão hỏi tôi làm thế nào để hữu dụng hơn, tôi luôn nói rằng sự hữu dụng tùy thuộc vào tính khí của họ. Tôi thường bảo tính khí tự nhiên là nguyên nhân chính khiến họ không hữu dụng. Nhiều người đã thất vọng bởi lời này. Nhưng ở đây trong Sáng Thế Ký chương 49 có tin vui cho những người đã thất vọng về tính khí thiên nhiên của mình. Trong nhóm gồm ba anh em này, chúng ta thấy không những địa vị bẩm sinh có thể thay đổi mà tính khí tự nhiên cũng có thể được Đức Chúa Trời sử dụng. Tuy nhiên, như sẽ thấy về sau trong bài này, Đức Chúa Trời có thể dùng tính khí chúng ta chỉ khi những điều kiện nào đó được đáp ứng.
Gia-cốp đặt Si-mê-ôn và Lê-vi chung với nhau trong lời tiên tri của ông vì họ giống nhau về nhân cách và tính khí. Tính khí họ được phơi bày trong chương 34, chương ghi lại sự ô uế của em gái của họ là Đi-na, và việc báo thù Hê-mô và Si-chem. Si-mê-ôn, Lê-vi và Đi-na đều do một mẹ sanh ra. Vì thế, họ rất thương em gái. Khi hay tin em bị ô uế, tính khí họ bộc lộ ra bằng cách giết tất cả người nam trong thành Si-chem, cướp phá thành và thậm chí cắt gân gia súc. Họ tàn nhẫn biết bao! Tính hung dữ của Si-mê-ôn và Lê-vi làm Gia-cốp kinh hoảng. Trong cả đời ông, Gia-cốp chưa bao giờ kinh hoảng như trong chương 34. Tuy nhiên, trong sự tể trị của Đức Chúa Trời, các biến cố trong chương đó là sự giúp đỡ lớn cho sự trưởng thành của Gia-cốp. Những biến cố này là ánh nắng rực rỡ thiêu đốt Gia-cốp nên người trưởng thành. Do đó, trong chương 35, chúng ta thấy một sự biến đổi thật trong đời sống Gia-cốp.
Tuy nhiên, Gia-cốp không thể quên những gì Si-mê-ôn và Lê-vi đã làm. Vì thế, trong 49:6, ông nói với họ: “Cầu cho tâm hồn cha chớ có đồng mưu,/ Vinh hiển cha chớ hiệp cùng hội họ;/ Vì họ đã giết người trong cơn giận dữ,/ Cắt nhượng bò đực vì ý riêng mình” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Từ “vinh hiển” (Bản KJV dịch là “danh dự”) chỉ về linh. Điều Si-mê-ôn và Lê-vi làm đã tạo một ấn tượng sâu xa như vậy trong linh của Gia-cốp đến nỗi ông không thể ban cho họ một phước hạnh nào. Tuy nhiên, trong Phục Truyền Luật Lệ Ký chương 33, Môi-se đã chúc phước cho Lê-vi. Sự chúc phước trong Sáng Thế Ký chương 49 là bởi một người cha, người có sự quan tâm trìu mến đến con mình. Nhưng lời tiên tri trong Phục Truyền Luật Lệ Ký chương 33 là bởi một người lão luyện đại diện cho luật pháp. Hễ điều gì ông nói tiên tri là sự phán xét theo luật pháp.Tuy nhiên, sự phán xét đó đầy dẫy sự thương xót, và Lê-vi đã nhận được phước lành.
Dầu thương yêu các con và rất quan tâm đến chúng, Gia-cốp không thể ban một lời chúc phước cho Si-mê-ôn và Lê-vi. Sáng Thế Ký 49:5 chép: “Si-mê-ôn và Lê-vi là anh em ruột;/ Thanh gươm chúng nó thật khí giới hung tàn” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Từ nói về Si-mê-ôn và Lê-vi là anh em ruột có nghĩa họ là những người đồng hội, đồng thuyền.Gươm của họ là vũ khí hung tàn. Như chúng tôi đã chỉ ra, câu 6 bày tỏ tính hung dữ của họ. Trong câu 7, Gia-cốp nói: “Đáng rủa sả thay cơn giận dữ họ, vì thật là hung hãn! Đáng rủa sả thay cơn thạnh nộ của họ vì tàn bạo thay! Ta sẽ phân chia họ ra trong nhà Gia-cốp, tán lạc họ trong dân Ítx-ra-ên”. Gia-cốp đã không nói: “Đáng rủa sả thay là Si-mê-ôn và Lê-vi”; trái lại, ông nói: “Đáng rủa sả thay cơn giận dữ và sự phẫn nộ của họ”. Dầu họ đáng bị rủa sả, nhưng người cha đã không rủa sả; thay vào đó, đã rủa sả cơn giận dữ của họ và thi hành sự phán xét trên họ để phân chia họ ra. Cách tốt nhất để xử lý những người hung dữ là phân tán họ. Về Si-mê-ôn và Lê-vi, dường như Gia-cốp nói: “Si-mê-ôn và Lê-vi quá hung dữ. Chúng không bày tỏ sự thương xót hay nhơn từ. Đúng, Hê-mô và Si-chem đã sai trong việc làm ô uế Đi-na. Giết họ là đủ. Si-mê-ôn và Lê-vi không được giết tất cả người nam trong thành cũng không được cắt nhượng bò đực của họ. Ta sẽ không cho phép chúng ở với nhau. Cách tốt nhất phải làm là phân tán chúng ra”.
(5) Về Ru-bên
(a) Là Con Trưởng Có Vị Trí Đứng Đầu Về Thứ Hạng Và Sức Mạnh
Bây giờ hãy xem xét lời của Gia-cốp về Ru-bên. Vì Ru-bên đã hư hoại, ô uế và đầy mầm bệnh, nên trong sự chúc phước của Gia-cốp bằng lời tiên tri thì Ru-bên bị cô lập khỏi tất cả anh em mình. Câu 3 chép: “Hỡi Ru-bên, con là trưởng nam của cha, sức lực cha và trái đầu mùa của sự mạnh mẽ cha, vốn có vị trí đứng đầu về thứ hạng và sức mạnh” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Là trưởng nam, Ru-bên có vị trí đứng đầu về thứ hạng và sức mạnh. Hãy xem những lời Gia-cốp đã dùng để mô tả Ru-bên: “trưởng nam cha,” “sức lực cha,” “trái đầu mùa của sức mạnh cha,” “có vị trí đứng đầu” và “sức mạnh hàng đầu”.
(b) Mất Vị Trí Đứng Đầu Về Quyền Trưởng Nam
Do Sôi Trào Tham Dục
Dầu có vị trí đứng đầu của quyền trưởng nam, nhưng Ru-bên đã đánh mất điều đó do ô uế. Câu 4 nói: “Con sôi trào như nước, nên sẽ chẳng phần hơn ai! Vì con đã lên giường cha… Con lên giường cha mà làm ô nhơ nó” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Từ Hê-bơ-rơ được dịch là “không bền vững” theo bản King James thì rất khó dịch. Tôi tin rằng cách dịch tốt nhất là “sôi trào, rạo rực”, có nghĩa là sục sôi, chuyển động cách mãnh liệt. Ru-bên, đang sục sôi tham dục, đã rạo rực, làm ô uế giường cha. Trong việc làm đó, Ru-bên đã đi quá xa. Sự buông tuồng trong dâm dục khiến ông mất quyền trưởng nam. Vì trong sự sôi trào đó, Ru-bên đã làm ô uế giường của cha, nên Gia-cốp nói rằng Ru-bên không còn vị trí đứng đầu. Do đó, vị trí đứng đầu của quyền trưởng nam đã bị cất khỏi ông.
Khi đang nói tiên tri về Ru-bên trong chương 49, chắc chắn Gia-cốp nhớ lại rằng ông đã ban quyền trưởng nam cho Giô-sép (48:5-6). Gia-cốp không ban quyền đó cho Giô-sép cách ngẫu nhiên; trái lại, hẳn ông đã suy xét vấn đề này trong một thời gian dài.Theo 48:5, Gia-cốp nói: “Bây giờ, hai đứa con trai đã sanh cho con tại xứ Ai-cập trước khi cha đến, là Ép-ra-im và Ma-na-se, cũng sẽ thuộc về cha như Ru-bên và Si-mê-ôn vậy”. Hơn nữa, trong 48:22, Gia-cốp nói: “Còn cha sẽ cho con một phần đất trỗi hơn các anh em, là phần đất của cha đã dùng cung kiếm đoạt lấy của dân A-mô-rít đó”. Vậy, Giô-sép nhận được hai phần đất, một phần cho Ép-ra-im và phần kia cho Ma-na-se. Cuối cùng, lời tiên tri này được ứng nghiệm trong Giô-suê chương 16 và 17. Khi phần đất được chia bằng cách bắt thăm, Giô-sép đã nhận được hai phần. Điều này không đạt được qua việc dùng mưu của loài người mà được thực hiện qua sự rút thăm, là điều được Đức Chúa Trời kiểm soát để làm ứng nghiệm lời tiên tri của Gia-cốp.
Về điểm này, tôi muốn nói một lời mạnh mẽ, đặc biệt với những người trẻ. Đừng nghĩ rằng sự ô uế là vấn đề tầm thường. Chúng ta đã được Đức Chúa Trời tạo dựngtheo hình ảnh Ngài. Vì có hình ảnh của Đức Chúa Trời, chúng ta thật đáng trọng, ngay cả theo cấu tạo thiên nhiên. Dầu những tội khác không thể gây hư hoại thân thể chúng ta, nhưng sự gian dâm gây hư hoại trực tiếp đến thân thể vật lý chúng ta, một chiếc bình tôn trọng (1Côr. 6:18; 1Tê. 4:4). Vì đã được tái sinh, thân thể chúng ta bây giờ là Đền Thờ của Thánh Linh (1Côr. 6:19). Do đó, không những chúng ta mang hình ảnh của Đức Chúa Trời trong thân thể vật lý, mà sau sự tái sinh, thân thể chúng ta còn là Đền Thờ của Đức Chúa Trời. Cho nên, anh em phải gìn giữ thân thể mình theo cách đáng tôn trọng. Không điều gì làm phá hoại thân thể anh em nhiều bằng sự gian dâm.Sự thực hành của thế giới ngày nay hoàn toàn như địa ngục, thuộc về ma quỷ và Sa-tan. Thật gian tà dường nào khi người trẻ tiếp xúc với người khác phái mà không có sự hạn chế! Tôi muốn cảnh báo tất cả những người trẻ, ngay cả các anh chị em trẻ trong nếp sống Hội Thánh, phải rèn tập có những giới hạn nào đó trong sự tiếp xúc giữa họ với nhau.
Khi còn là một anh em trẻ bước vào chức vụ, tôi đã đến Thượng Hải để nhận sự giúp đỡ từ anh Nghê. Trong những ngày đó, anh Nghê có nhiều lần nói chuyện lâu với tôi. Sự chỉ dạy đầu tiên của anh cho tôi, một anh em trong chức vụ của Chúa, là đừng bao giờ tiếp xúc với người khác phái một mình, nhưng để được bảo vệ, phải luôn luôn có sự hiện diện của người thứ ba. Tôi không bao giờ quên lời này; điều này là sự giúp đỡ lớn và là sự bảo vệ cho tôi. Bởi sự thương xót của Chúa, tôi đã vâng theo lời anh trải suốt nhiều năm.
Là những người sa ngã, tất cả chúng ta đều có những tham muốn. Không ai trong chúng ta có thể nói rằng không có sự tham muốn. Năm 1930 tại tỉnh tôi, có một phong trào gọi là Ngũ Tuần. Một nhóm nọ đã tuyên bố rằng vì đã được báp têm Thánh Linh nên họ không còn bất cứ sự tham muốn nào. Vì thế, những người nam, người nữ đã bắt đầu sống chung. Tuy nhiên, sự thực hành này đã dẫn đến sự gian dâm và đã làm cho danh Chúa bị hổ nhuốc nặng nề. Do sự gian dâm trong nhóm người này, cánh cửa Phúc Âm đã bị đóng lại tại khu vực đó trong một thời gian dài. Cách đây khoảng mười lăm năm, sự việc tương tự cũng đã xảy ra tại Hàn Quốc. Nhiều Cơ-đốc nhân Hàn Quốc, những người có cái gọi là những kinh nghiệm Ngũ Tuần, đã bắt đầu tiếp xúc với nhau không hạn chế, và kết quả là tội gian dâm.
Xin nhớ rằng anh em vẫn còn trong xác thịt. Một nam và một nữ cùng trang lứa ở một mình với nhau sẽ tạo cơ hội cho kẻ thù cám dỗ. Vì những kinh nghiệm quá khứ đã thuyết phục anh em về điều này rồi nên tôi không cần nói nhiều nữa. Đừng bao giờ coi sự gian dâm là vấn đề không quan trọng. Như chúng ta đã thấy, không gì phá hoại thân thể vật lý đáng tôn trọng của anh em bằng sự gian dâm. Thật đáng hổ thẹn khi một số người trong chính phủ muốn hợp pháp hóa sự đồng tình luyến ái! Làm điều này là biến đất nước này thành một Sô-đôm.
Ru-bên đã mất vị trí hàng đầu của quyền trưởng nam chỉ do một tội này. Ngày nay, vị trí hàng đầu này là phần ban tuyệt đỉnh về sự vui hưởng Christ. Hai phần đất tượng trưng cho phần ban tuyệt đỉnh về sự vui hưởng các sự giàu có của Đấng Christ Bao Hàm Tất Cả. Khi bất kỳ ai phạm một tội gớm ghiếc và kinh khủng như vậy, người ấy bị dứt khỏi sự vui hưởng tuyệt đỉnh về Christ. Không chỉ người trẻ mà ngay cả những người trung niên cũng phải cảnh giác hiểm họa ở một mình với một người khác phái.Làm như thế là liều lĩnh vì đã mở cửa cho kẻ quỉ quyệt lẻn vào. Anh em không biết xác thịt thì xảo quyệt và tội lỗi dường nào. Những tham muốn trong xác thịt anh em thật là kinh khủng! Do đó, chúng ta không nên tin cậy chính mình. Đừng nghĩ rằng phạm một tội như vậy là điều không thể nào xảy ra. Sự bảo vệ tốt nhất là vâng theo lời mà tôi đã nhận từ anh Nghê.
Đừng nghĩ rằng lời tôi nói là lời của một người Hoa bảo thủ miền Viễn Đông, còn anh em đang sống tại nước Mỹ hiện đại. Là người đã trên bảy mươi tuổi, tôi đã trải qua mọi kinh nghiệm làm người. Xin chú ý lời tôi về sự gian dâm. Nhiều lần trong Tân Ước, sứ đồ Phao-lô đã đưa ra lời cảnh cáo rằng kẻ gian dâm sẽ không có cơ nghiệp gì trong Vương Quốc Đức Chúa Trời (1Côr. 6:9-10; Gal. 5:19-21; Êph. 5:5). Khi đến với Ma-thi-ơ chương 5 trong Nghiên Cứu Sự Sống, chúng ta thấy Chúa Jesus thật nghiêm khắc về vấn đề này. Đừng bao giờ phóng túng trong việc tiếp xúc với người khác phái.Vì danh Chúa, vì chứng cớ của Hội Thánh, vì sự bảo vệ của anh em, và vì sự tôn trọng thân thể vật lý của mình, anh em phải tuyệt đối tuân theo nguyên tắc không ở một mình với người khác phái. Nếu tuân theo nguyên tắc này, anh em sẽ được gìn giữ. Xin nhớ rằng, do sự ô uế, địa vị tự nhiên của Ru-bên, địa vị có được khi sinh ra, đã bị thay đổi hoàn toàn.
(c) Có Nguy Cơ Phải Chết Và Suy Giảm
Trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:6, Môi-se nói tiên tri về Ru-bên. Lời tiên tri này, một sự phán xét theo luật pháp, được nói qua một người lão luyện, giàu kinh nghiệm và đầy thông cảm. Môi-se nói: “Nguyện Ru-bên sống, chớ thác, và chớ để những người của ông ấy là số ít”. Lời này hàm ý rằng, theo luật pháp, Ru-bên phải chết. Theo tội của ông, Ru-bên phải chết (Êx. 18:20). Dầu Ru-bên lẽ ra phải chết, nhưng Môi-se đã nhơn từ trong việc thi hành phán quyết của luật pháp. Là một quan án lão luyện, ông xét xử mười hai chi phái theo luật pháp công chính của Đức Chúa Trời, dù vậy, ông đã xét xử cách nhơn từ và thông cảm. Môi-se quan tâm đến việc hoặc Ru-bên sẽ chết hoặc số người trong chi phái ông sẽ giảm đáng kể. Bởi điều này, chúng ta thấy sự gian dâm không những làm chúng ta mất quyền trưởng nam mà còn làm chúng ta chết hay bị giảm sút. Do đó, chúng ta phải trốn chạy sự gian dâm (1Côr. 6:18).
Giô-sép nhận được quyền trưởng nam vì ông đã trốn chạy khỏi sự ô uế mà chính Ru-bên đã buông mình vào (39:7-12). Giô-sép không cố ý vào trong nhà để ở cùng vợ của Phô-ti-pha. Ông là một tôi tớ làm việc trong nhà, và bà đã cám dỗ ông. Giô-sép trốn chạy sự cám dỗ này. Hễ khi nào sự cám dỗ đến, cách xử lý duy nhất là chạy trốn.Đừng nói chuyện hay dùng lý lẽ để thuyết phục phía còn lại mà phải bỏ chạy. Ru-bên đã mất quyền trưởng nam vì sự ô uế, còn Giô-sép đã nhận được do sự tinh sạch của ông. Đức Chúa Trời là công chính, chính trực và không thiên vị. Ru-bên đã ở về phía tối tăm nên ông đã mất; Giô-sép đã ở về phía sự sáng nên ông đã được. Vì Ru-bên có nguy cơ phải chết, hay ít ra bị giảm hạ, nên Môi-se đã cầu nguyện để ông không chết.Trong nếp sống Hội Thánh, bất cứ ai phạm tội gian dâm sẽ ở trong vị trí rất nguy hiểm.Người đó không chỉ mất phần ban cao nhất là vui hưởng Christ mà còn có nguy cơ phải chết hoặc bị suy giảm. Đây là kinh nghiệm của Ru-bên.
Quyền trưởng nam bao gồm không chỉ hai phần đất mà còn có vương quyền và chức tế lễ. Là con trưởng, Ru-bên lẽ ra thừa kế cả ba phước hạnh này. Do ô uế, ông đã mất không chỉ hai phần đất, mà cũng mất vương quyền và chức tế lễ. Như đã thấy, hai phần đất được ban cho Giô-sép, vương quyền được ban cho Giu-đa (1Sử. 5:2) và chức tế lễ được ban cho Lê-vi (Phục. 33:8-10). Điều này có nghĩa là nếu để cho mình bị ô uế, chúng ta sẽ mất phần ban gấp đôi về sự vui hưởng Christ, vương quyền và chức tế lễ.
(6) Về Si-mê-ôn Và Lê-vi
(a) Không Nhận Được Phước Hạnh Do Sự Hung Ác
Chúng ta thấy Si-mê-ôn và Lê-vi đã không nhận được phước lành do sự hung ác(34:25-30). Sự hung ác của họ trong việc giết hại và cướp phá thành Si-chem đã làm cha họ kinh hoảng đến mức ông không thể ban cho họ phước lành nào. Sự miệt màitheo tính khí đã khiến họ mất sự chúc phước của cha.
(b) Bị Tản Lạc Trong Ítx-ra-ên
Gia-cốp đã kinh hoảng bởi tính hung dữ của Si-mê-ôn và Lê-vi. Do đó, ông không cho phép họ sống chung với nhau. Trái lại, ông đã thi hành sự phán xét trên họ để tản lạc họ giữa vòng con cái Ítx-ra-ên hầu cho họ không thể cư xử cách hung dữ theo tính khí họ nữa.
(c) Si-mê-ôn Bị Bỏ Trong Sự Chúc Phước Của Môi-se
Việc Si-mê-ôn đã bị bỏ khỏi sự chúc phước của Môi-se được ghi lại trong Phục Truyền Luật Lệ Ký. Theo luật pháp công chính của Đức Chúa Trời, Si-mê-ôn mất nền tảng để được chúc phước. Bị bỏ ra khỏi sự ghi chép của Đức Chúa Trời không phải là vấn đề vô nghĩa. Si-mê-ôn quá thiên nhiên, không hề có sự hạn chế nào trên tính khí thiên nhiên của mình. Tôi tin rằng ông là người khởi xướng âm mưu giết Giô-sép. Vì thế, khi các anh của Giô-sép xuống Ai-cập lần thứ nhứt, Giô-sép đã sắp xếp để Si-mê-ôn bị giữ trong ngục. Khi ở trong ngục, có lẽ Si-mê-ôn đã tự nhủ: “Lẽ ra ta không nên làm điều đó với Giô-sép”. Si-mê-ôn chắc chắn đã có tính khí rất hung dữ. Dầu tính khí chúng ta là gì, chúng ta không nên miệt mài trong đó. Si-mê-ôn đã mất hết sự vui hưởng Christ vì miệt mài trong tính khí. Ông cần chia sẻ phần ban phong phú về Christ của một chi phái khác, phần ban phong phú của Giu-đa. Vì “phần của con cái Giu-đa quá lớn đối với họ,” nên Si-mê-ôn tản lạc giữa người Giu-đa (Giôs. 19:1,9).
(d) Lê-vi Nhận Được Chức Tế Lễ Do Trung Tín Với Chúa
Dầu Si-mê-ôn và Lê-vi là một nhóm, nhưng cuối cùng Lê-vi đã nắm lấy cơ hội để tính khí thiên nhiên của ông được thay đổi. Cả Si-mê-ôn và Lê-vi đều có tính khí giết người. Nhưng vào lúc con cái Ítx-ra-ên thờ lạy bò con vàng, tính khí giết người của Lê-vi được Đức Chúa Trời sử dụng (Xuất. 32:29). Khi Môi-se từ núi trở xuống với hai bảng đá và thấy dân sự đang thờ lạy bò con vàng, ông nói: “Ai thuộc về Đức Giê-hô-va? Hãy đến cùng ta đây” (Xuất. 32:26). Trong tất cả các chi phái, chỉ một chi phái duy nhất, chi phái Lê-vi, đã hiệp lại với Môi-se. Tại sao Si-mê-ôn không kết hiệp với Lê-vi? Họ đều có cùng một tính khí thiên nhiên kia mà. Tuy nhiên, khi sự kêu gọi của Đức Chúa Trời đến, một người đáp ứng còn người kia không. Điều này cho thấy rằng dầu có thể có tính khí rất xấu, nhưng tính khí của chúng ta vẫn có thể hữu dụng trong mục đích của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, có một điều kiện nào đó phải được thỏa đáp.Thứ nhứt, chúng ta phải dâng chính mình; thứ hai, chúng ta phải dùng tính khí mình chống lại những điều thích hoặc không thích theo tính thiên nhiên; và thứ ba, chúng ta phải dùng tính khí theo cách được đổi mới, được biến đổi. Vì dân cư trong thành Si-chem là kẻ thù của Lê-vi, nên ông dễ dàng giết họ. Nhưng giết cha mẹ, anh em, con cái và người thân thuộc hoàn toàn là một vấn đề khác. Để làm điều này, anh em phải vận dụng tính khí chống lại sự ưa muốn của mình và sử dụng nó theo cách mới, cách vừa vì Đức Chúa Trời, vừa với Đức Chúa Trời. Cả Si-mê-ôn và Lê-vi đều có tính khí giết người, đều có thể giết người khác. Tuy nhiên, việc giết người tại Si-chem không đòi hỏi họ phải dùng tính khí chống lại sự ưa muốn của họ. Si-mê-ôn đã không kết hiệp với Lê-vi để thực hiện mạng lịnh của Môi-se vì không sẵn sàng trả giá. Có lẽ Si-mê-ôn nói: “Giết những người của Si-chem thì được, nhưng thật là điên [nếu] giết anh em, con cái và thân thuộc của chúng ta. Đúng vậy, tất cả họ đã thờ lạy thần tượng. Nhưng Đức Chúa Trời giàu lòng thương xót và Ngài sẽ tha thứ cho họ. Sao chúng ta phải giết họ?”Vào lúc đó, hai người đồng tâm đồng chí này đã phân rẽ nhau. Một người dùng tính khí thiên nhiên vì Đức Chúa Trời, với Đức Chúa Trời và theo cách mới; còn người kia thì không. Lê-vi đã dùng tính khí theo cách biến đổi. Do đó, tính khí thiên nhiên của Lê-vi, tính khí giết người, đã được biến đổi.
Đừng nghĩ rằng không thể nào có việc Đức Chúa Trời sử dụng tính khí của anh em.Tính khí có thể được Đức Chúa Trời sử dụng nếu anh em dùng nó để chống lại ước muốn thiên nhiên của mình và dùng theo cách được biến đổi. Tôi biết vài anh em có ý chí rất mạnh. Có lẽ anh em nói ý chí của họ là cứng cỏi. Nhưng vì ý chí cứng cỏi được dùng cho Đức Chúa Trời, với Đức Chúa Trời và theo cách mới, nên họ được Ngài dùng đến. Đức Chúa Trời không thể dùng người có ý chí giống như con sứa. Ý chí như vậy phải được biến đổi thành thép. Nguyên tắc ở đây là tính khí thiên nhiên của chúng ta có thể được Chúa thay đổi và sử dụng. Lê-vi không những đã giết những người Si-chem mà còn cắt nhượng bò của họ. Qua công tác biến đổi, tính khí này không những được Đức Chúa Trời sử dụng để giết những kẻ thờ lạy thần tượng mà còn để giết những sinh tế dâng cho Đức Chúa Trời. Tính khí thiên nhiên của chúng ta sẽ có ích nếu đáp ứng ba điều kiện: hiến dâng, dùng để chống lại ước muốn thiên nhiên của mình, và dùng theo cách được đổi mới và biến đổi.
Vì tính khí của Lê-vi đã thay đổi nên ông đã trở thành một phước hạnh lớn. Thu-mim và U-rim của Đức Chúa Trời ở với ông (Phục. 33:8), và ông có đặc quyền bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời để hầu việc Ngài. Dầu hai phần đất thì phong phú, nhưng đặc quyền bước vào hiện diện của Đức Chúa Trời thì mật thiết. Chức tế lễ có thể được xem là phần ban ngọt ngào của quyền trưởng nam. Lê-vi đã nhận được phần ban này.
(e) Sự Tản Lạc Của Lê-vi
Trở Thành Một Phước Hạnh Cho Con Cái Ítx-ra-ên
Trong 49:7, Gia-cốp nói rằng Lê-vi cần phải được rải khắp giữa con cái Ítx-ra-ên.Theo Giô-suê chương 21, lời tiên tri này được ứng nghiệm qua việc rút thăm. Vì sự trung tín và sự tuyệt đối của Lê-vi, Lê-vi được rải khắp giữa con cái Ítx-ra-ên. Môi-se, một Thần-nhân, rất vui mừng với Lê-vi. Tuy nhiên, ông không thể hủy bỏ lời tiên tri của Gia-cốp; trái lại, ông phải làm trọn lời đó. Vì thế, Chúa phán với Môi-se: “Hãy biểu dân Ítx-ra-ên do trong phần sản nghiệp mình đã có, nhường những thành cho người Lê-vi đặng ở; cho luôn một miếng đất ở chung quanh các thành đó” (Dân. 35:2). Từng chi phái phải để riêng một số thành cho người Lê-vi. Sự chọn ra các thành này được thực hiện bằng cách rút thăm. Không có việc sắp xếp trong vấn đề này, vì sự rút thăm không cho phép thực hiện bất cứ sự sắp xếp nào. Người Lê-vi được ban cho tổng cộng là bốn mươi tám thành (Dân. 35:6).
Trong số bốn mươi tám thành này, có sáu thành ẩn náu (Dân. 35:6; Giôs. 20:7-9).Các thành này được đặt những nơi thuận tiện khắp trong xứ Ítx-ra-ên . Ba thành ở phía đông sông Giô-đanh và ba thành ở phía tây. Kẻ giết người có thể dễ dàng lẩn trốn vào một trong các thành ẩn náu này. Do đó, việc rải chi phái Lê-vi theo sự rủa sả thực ra lại trở nên một phước hạnh. Những người Lê-vi đem con người đến với Đức Chúa Trời và đem Đức Chúa Trời đến với con người. Cho nên thời xưa, việc có một số người Lê-vi trong thành hay trong lãnh thổ là một phước hạnh (Các Quan Xét 17:7-13).
Các thành ẩn náu là hình bóng về Christ. Tất cả chúng ta là những kẻ giết người và Christ là Thành Ẩn Náu. Anh em có thật sự nghĩ rằng mình chưa bao giờ giết ai không?Tất cả chúng ta đều đã giết cha mẹ, chồng, vợ hay con cái mình. Các anh em trong nhà sinh viên đều đã giết lẫn nhau. Sau khi đã giết người nào đó, chúng ta cần trốn đến một thành ẩn náu; nghĩa là, chúng ta phải chạy đến Christ.
Những người Lê-vi được rải khắp không những đem người khác đến với Đức Chúa Trời mà còn đem nơi ẩn náu của Đức Chúa Trời đến với tội nhân. Có thể áp dụng điều này cho tình trạng chúng ta ngày nay. Nếu là những người Lê-vi thật sự, thì dầu ở đâu, Christ cũng sẽ hiện diện như một thành ẩn náu cho người khác. Nơi ở của chúng ta sẽ là một thành ẩn náu mà tội nhân có thể trốn đến để được cứu rỗi. Bằng cách này, chúng ta đem nơi ẩn náu của Đức Chúa Trời đến với tội nhân. Những tội nhân này không cần chạy đến thánh đường, họ chỉ cần trốn đến nơi ẩn náu của Đức Chúa Trời, đến các thành là nơi các thầy tế lễ của Đức Chúa Trời đang ở. Trong những ngày này, các thánh đồ tại Anaheim đang chia nhóm theo khu vực. Tôi hi vọng mỗi nhóm sẽ là một thành ẩn náu và nhiều người chưa tin sẽ trốn đến thành ấy. Trong thành ẩn náu này, tội nhân sẽ tìm được sự che chở họ cần. Vì có quá ít người Lê-vi nên hầu như không có chỗ ẩn náu nào trong thành phố Anaheim. Chúng ta phải là những Lê-vi ngày nay. Chúng ta phải liều mình, tuyệt đối, và trung tín giết những ưa muốn xác thịt để có thể là những Lê-vi của Đức Chúa Trời, những thầy tế lễ của Đức Chúa Trời. Nếu là những Lê-vi, khi đó dầu ở đâu, nơi trú ngụ của chúng ta cũng sẽ là một thành ẩn náu mà tội nhân có thể chạy vào để được cứu
Qua các trường hợp của Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi, chúng ta thấy khả năng mất hoặc được. Việc mất hoặc được tùy thuộc vào thái độ và phản ứng của chúng ta đối với hoàn cảnh. Nguyện Đức Chúa Trời thương xót để chúng ta có thể phản ứng theocách mà sẽ đạt được chứ không mất đi.
Bài Chín Mươi Chín
Được Trưởng Thành
Biểu Lộ Sự Trưởng Thành
(4)
Trong bài này, chúng ta đến với 49:8-15, phần khó nhất của chương này. Để hiểu các câu này, chúng ta cần có một linh mạnh mẽ và một tâm trí sáng suốt.
Như tôi đã chỉ ra trong bài trước, mười hai con trai của Gia-cốp được chia thành bốn nhóm, mỗi nhóm ba người. Điều này không theo ý kiến tôi mà hoàn toàn theo sự sắp đặt của Kinh Thánh. Các Sách của Môi-se bày tỏ rằng mười hai con trai của Gia-cốp được xếp theo ba thứ tự khác nhau: thứ tự theo sự sinh ra, thứ tự theo sự chúc phước và thứ tự theo sự đóng trại. Trước hết chúng ta hãy xem thứ tự theo sự sinh ra. Mười hai con trai của Gia-cốp được sanh bởi bốn người mẹ. Người thứ nhứt là Lê-a, vợ chính thức của Gia-cốp. Bốn con trai đầu là Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa được sanh bởi Lê-a. Người mẹ thứ hai là nàng hầu Bi-la. Con thứ năm của Gia-cốp là Đan và con thứ sáu, Nép-ta-li do bà sanh ra. Con thứ bảy và thứ tám của Gia-cốp là Gát và A-se, do Xinh-ba, một nàng hầu khác sanh ra. Con thứ chín và thứ mười là Y-sa-ca và Sa-bu-lôn, được sanh bởi Lê-a. Cuối cùng, Giô-sép, thư mười một và Bên-gia-min, thứ mười hai, được sanh bởi Ra-chên. Đây là thứ tự theo sự sinh ra.
Về thứ tự theo sự chúc phước, ba con trai đầu là Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi giống với thứ tự theo sự sinh ra. Tiếp theo là Giu-đa, Sa-bu-lôn và Y-sa-ca. Vì thế, hai nhóm đầu trong thứ tự theo sự chúc phước bao gồm sáu con trai của Lê-a. Tuy nhiên, trong thứ tự theo sự sinh ra, Y-sa-ca trước Sa-bu-lôn; nhưng trong thứ tự theo sự chúc phước thì Sa-bu-lôn trước Y-sa-ca. Nhóm thứ ba gồm Đan, Gát, A-se và Nép-ta-li. Theo sự sinh ra, thứ tự là Đan, Nép-ta-li, Gát và A-se; nhưng theo sự chúc phước thì là Đan, Gát, A-se và Nép-ta-li. Sau này, chúng ta sẽ thấy Gát được chuyển khỏi nhóm này và thay thế Lê-vi trong nhóm với Ru-bên về sự đóng trại. Nhóm thứ tư gồm các con trai của Ra-chên, Giô-sép và Bên-gia-min, thứ tự theo sự chúc phước giống với thứ tự theo sự sinh ra. (Trong sự đóng trại,Giô-sép trở thành hai chi phái là Ép-ra-im và Ma-na-se).
Trong Sách Dân Số Ký, chúng ta thấy thứ tự theo sự đóng trại. Sách này bày tỏ rằng mười hai chi phái Ítx-ra-ên đã đóng trại chung quanh Đền Tạm. Vào thời đó, họ là quân đội và đóng trại như quân đội. Sự sắp xếp của các chi phái chung quanh Đền Tạm đi từ hướng đông, đến hướng nam, hướng tây và rồi hướng bắc. Theo thứ tự đóng trại, Giu-đa, Y-sa-ca và Sa-bu-lôn ở về hướng đông, hướng về phía mặt trời; Ru-bên, Si-mê-ôn và Gát ở về hướng nam; Ép-ra-im, Ma-na-se và Bên-gia-min ở về hướng tây; và Đan, A-se và Nép-ta-li ở về hướng bắc. Gát được đặt chung với Ru-bên và Si-mê-ôn vì Lê-vi đã được nhắc lên và đem vào Đền Tạm, trung tâm của trại quân. Ép-ra-im, Ma-na-se và Bên-gia-min thì tương đương với Giô-sép và Bên-gia-min. Qua Ép-ra-im và Ma-na-se, Giô-sép trở thành hai chi phái để thừa kế hai phần đất.
Trong bài trước, chúng ta đã xem xét nhóm thứ nhứt về thứ tự theo sự chúc phước trong Sáng Thế Ký chương 49: Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi. Trong bài đó, chúng ta chủ yếu thấy sự thay đổi quyền trưởng nam và sự biến đổi tính khí thiên nhiên. Nét nổi bật của nhóm thứ nhứt là bày tỏ rằng địa vị và tính khí thiên nhiên của chúng ta có thể được thay đổi. Trong bài này, chúng ta đến với nhóm thứ hai, gồm có Giu-đa, Sa-bu-lôn và Y-sa-ca. Các câu từ 8 đến 15 rất khó hiểu. Để hiểu chương 49, chúng ta phải biết Kinh Thánh theo văn tự. Hơn nữa, chúng ta cũng phải biết lịch sử của con cái Ítx-ra-ên, phải có kinh nghiệm về Christ và nếp sống Hội Thánh, và cũng phải hiểu cách nói bóng của Kinh Thánh. Nếu không biết cách giải thích nghĩa bóng của Kinh Thánh và cách giải thích thơ ca của Kinh Thánh, làm thế nào anh em có thể hiểu một phân đoạn như Sáng Thế Ký chương 49? Trong câu 9, Giu-đa được ví như một sư tử tơ và sau đó là một sư tử cái, rồi trong câu 11 nói về cây nho tốt nhứt và việc cột lừa con vào cây nho đó. Khi những người chống đối việc giải thích cách nói bóng của Kinh Thánh đọc phần Lời này, họ sẽ không cách gì hiểu được. Câu 13 nói rằng Sa-bu-lôn sẽ là bến cảng và ở nơi gành biển; câu 14, Y-sa-ca là một con lừa mạnh mẽ đang nằm nghỉ giữa chuồng; và câu 15, Y-sa-ca thấy “sự yên nghỉ là tốt lành và đất đai đẹp lắm thay!” Tất cả điều này có ý nghĩa gì? Vì điều này rất khó nên hầu như không nhiều Cơ-đốc nhân hiểu được. Cách duy nhất để hiểu điều này là giải thích nghĩa bóng.
Tuy nhiên, giải thích Kinh Thánh là vấn đề không dễ. Để hiểu một phân đoạn như 49:8-15, chúng ta cần nhiều điều: sự hiểu biết về Kinh Thánh theo văn tự; sự hiểu biết về lịch sử con cái Ítx-ra-ên; các kinh nghiệm về Christ và nếp sống Hội Thánh; sự khôn ngoan để giải thích ngụ ý của Kinh Thánh; và hiểu biết cách áp dụng các hình bóng vào hoàn cảnh ngày nay. Khi có tất cả điều này, chúng ta có thể thấy ý nghĩa thật của phân đoạn Lời này.
Kinh Thánh rất không lãng phí. Không một lời nào là uổng phí. Lời tiên tri bằng sự chúc phước của Gia-cốp trong chương 49 là thơ ca. Thơ ca là hình thức viết sâu sắc và ý nghĩa nhất. Cách nói tiên tri bằng sự chúc phước của Gia-cốp thật trang trọng và uy nghi.
(7) Về Giu-đa
Khi xem xét các câu này, chúng ta cần được ấn tượng về sự kiện là: trong nhóm thứ nhứt, gồm có Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi, thì Đấng Christ chưa đến. Chúng ta không thấy Christ trong Ru-bên, trong Si-mê-ôn hay trong Lê-vi. Điều chúng ta thấy trong Lê-vi là sự tuyệt đối, sự liều mình và sự trung tín của ông. Chính do các đặc tính này mà Chúa đã ban cho ông chức tế lễ. Dầu Lê-vi có chức tế lễ với U-rim và Thu-mim, nhưng chúng ta vẫn không thấy Christ trong ông. Chỉ khi Giu-đa đến, Đấng Christ mới xuất hiện. Giu-đa tiêu biểu cho Christ. Thực ra, chúng ta lại còn có thể thay danh của Christ cho Giu-đa trong lời tiên tri này. Dầu Gia-cốp có mười hai con trai, nhưng Đấng Christ chỉ ra từ trong Giu-đa. Trong Khải Thị 5:5, Ngài được gọi là Sư Tử của chi phái Giu-đa.Do đó, vì Christ ra từ trong Giu-đa nên Ngài thuộc về Giu-đa. Để hiểu các câu từ 8 đến 12, chúng ta phải áp dụng các câu này với Christ và thế Giu-đa bằng danh của Christ
Từ kinh nghiệm, tất cả chúng ta đều có thể làm chứng rằng trước đây chúng ta là những Ru-bên. Trước khi được cứu, anh em không phải là một Ru-bên sao? Như Ru-bên, anh em không phải là người sục sôi tham dục sao? Chúng ta cũng là những Si-mê-ôn, những người vốn thiên nhiên và đầy dẫy tính khí thiên nhiên. Mọi điều chúng ta làm đều theo những tham muốn và tính khí. Nhưng ngợi khen Chúa vì chúng ta đã được cứu và trở nên một Lê-vi! Bây giờ, chúng ta có đủ điều kiện để bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời với U-rim và Thu-mim, để nhận khải tượng và sự khải thị của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, là những thầy tế lễ, chúng ta có thể đem người khác vào trong hiện diện của Đức Chúa Trời và biết được ý muốn của Ngài về họ. Phải chăng kinh nghiệm của anh em có phần nào giống với điều này? Dầu có thể là người nhỏ nhất giữa vòng các thánh đồ, nhưng hằng ngày anh em được bước vào trong hiện diện của Chúa.Khi đứng trước hiện diện Ngài, anh em cảm nhận rằng có điều gì đó đang chiếu sáng và soi sáng bên trong mình. Đó là U-rim và Thu-mim. Có những lúc đem người khác đến với Chúa và cầu nguyện cho họ, có lẽ anh em nói: “Ôi Chúa, xin nhớ đến cha, anh rễ và chị dâu của con”. Đó là chức tế lễ. Ru-bên cũng như Si-mê-ôn không có chức năng như vậy. Chỉ Lê-vi mới có. Và ngày nay, chúng ta cũng có. Chúng ta không còn là Ru-bên và Si-mê-ôn; trái lại, chúng ta là Lê-vi ngày nay.
Tuy nhiên, dầu trong nhiều năm, tôi đã là một Lê-vi, nhưng tôi có thể làm chứng rằng mình ít kinh nghiệm về Christ. Vì thế, thêm vào kinh nghiệm của Lê-vi, chúng ta cần kinh nghiệm Giu-đa, tức là kinh nghiệm Christ. Thật tốt khi bước vào hiện diện Chúa để nhận lãnh sự soi sáng, sự khải thị và khải tượng, và cũng thật tốt khi đem người khác vào trong hiện diện Ngài. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần Christ như Sư Tử Tơ, Sư Tử của chi phái Giu-đa. Anh em có bao giờ kinh nghiệm Ngài là Sư Tử Mạnh Mẽ không? Là Sư Tử Tơ, Christ vì sự chiến đấu, dùng tay Ngài chận cổ những kẻ thù của Ngài. Dùngtay chận cổ các kẻ thù có nghĩa là đánh bại chúng, khuất phục chúng và giành chiến thắng.
(a) Được Các Anh Em Khen Ngợi Và Thờ Phượng
Câu 8 chép: “Hỡi Giu-đa, các anh em sẽ khen ngợi con,/ Tay con sẽ chận cổ quân nghịch,/ Các con trai cha sẽ quì lạy trước mặt con” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Ở đây chúng ta được bảo rằng các anh em của Giu-đa sẽ khen ngợi ông và các con trai của cha sẽ quì lạy trước mặt ông. Điều này có nghĩa là các anh em của Giu-đa sẽ khen ngợi và thờ phượng ông vì chiến thắng của ông. Thực ra, điều này chỉ về Giu-đa hay về Christ? Điều này chỉ về Christ. Vì thế, tôi nói một lần nữa, chúng ta có thể thế Giu-đa bằng Christ và tuyên bố: “Đấng Christ ơi, các anh em Ngài sẽ khen ngợi Ngài và các con của Cha Ngài sẽ quì lạy trước mặt Ngài”.
(b) Sư Tử Tơ Chinh Phục Các Thù Nghịch Còn Sư Tử Đực,
Sư Tử Cái Nghỉ Ngơi Trong Sự Chinh Phục
Câu 9 chép: “Giu-đa là một sư tử tơ;/ Hỡi con! Con bắt được mồi rồi đi lên,” còn câu 8 chép: “Tay con sẽ chận cổ quân nghịch”. Chúng ta cần thấy hình ảnh được mô tả ở đây. Một sư tử ở trên núi. Khi đi tìm mồi, nó từ núi đi xuống. Đương khi chờ để vồ con mồi, nó thu mình lại. Nhưng sau khi bắt được mồi rồi, nó tha lên núi. Vì thế, các từ: “Hỡi con, con bắt được mồi, rồi đi lên,” có nghĩa là sư tử lên núi để ăn nuốt con mồi. Sau khi ăn xong, sư tử không còn thu mình nữa; thay vì thế, nó nằm xuống, sải dài ra. Điều này cho thấy sau khi đã ăn nuốt con mồi, sư tử thỏa mãn và nằm nghỉ
Chúng ta cần áp dụng hình ảnh này cho Đấng Christ. Trước hết Christ là Sư Tử Tơ đang thu mình lại khi chờ con mồi. Sau khi vồ được mồi, Ngài đem phu tù của Ngài lên các từng trời là nơi Ngài vui hưởng. Điều này nhắc chúng ta nhớ đến Ê-phê-sô 4:8 nói rằng: “Khi Ngài lên nơi cao, thì dẫn theo một đoàn kẻ thù bị đánh bại” (Theo Bản Hi-lạp). Đoàn kẻ thù bị đánh bại này là con mồi của Christ. Bây giờ, sau khi đã vui hưởng con mồi bắt được, Ngài thỏa lòng và yên nghỉ trên các từng trời. Nói cho dễ hiểu, điều này có nghĩa là bây giờ Christ đang ngự ngai trên các từng trời. Nhưng theo lời thơ của câu 9, sau khi ăn nuốt con mồi, Christ thỏa lòng và nằm xuống, vui hưởng sự an nghỉ.
Anh em có bao giờ thấy một khải tượng như thế hay kinh nghiệm một Christ như thế không? Trong kinh nghiệm, anh em có Christ là Sư Tử Tơ không? Anh em cũng có Ngài là Sư Tử thỏa lòng nằm nghỉ không? Cách đây nhiều năm, khi còn trẻ, tôi bị bối rối bởi nhiều loại kẻ thù. Nhưng một ngày nọ, tôi thấy rằng các kẻ thù của tôi đã trở thành con mồi cho Christ của tôi rồi. Tâm tính tôi, các nan đề, các sự yếu đuối và mọi kẻ thù khác của tôi là con mồi của Christ. Ngài đã lên thập tự giá và bắt được chúng; và trong sự phục sinh, Ngài đã dẫn một đoàn kẻ thù bị đánh bại lên các từng trời để Ngài vui hưởng. Bây giờ, trên các từng trời, Ngài không còn chiến đấu nữa; Ngài đang nằm nghỉ. Ngài đang nằm nghỉ và tôi đang kinh nghiệm Ngài là Sư Tử Nằm Nghỉ. Ngài đang nằm nghỉ và tôi cũng đang yên nghỉ. [Thế thì,] tại sao tôi phải bối rối bởi điều này, điềukia? Tôi chỉ cần vui hưởng Đấng Christ khải hoàn, thỏa lòng và yên nghỉ này.
Tôi biết hoàn cảnh của anh chị em, đặc biệt của các bạn trẻ. Trong bài trước, anh em đã biết rằng mình là một Lê-vi. Tuy nhiên, trong tuần qua, có lẽ anh em bị bối rối bởi những kẻ thù nào đó. Có lẽ, một kẻ thù đã bước vào bởi bạn cùng phòng, cha mẹ, chồng hay vợ, hay tính khí của anh em. Nhưng sau khi đọc bài này, tôi hi vọng anh em cũng có thể nói rằng anh em là Giu-đa. Ngay sau Lê-vi, Giu-đa xuất hiện. Điều này có nghĩa là Christ đã đến. Ngày nay, Đấng Christ của chúng ta không còn là Sư Tử Tơ nữa; Ngài là Sư Tử đang nằm nghỉ. Khi sứ đồ Giăng khóc vì không ai có đủ điều kiện để mở Sách về sự huyền nhiệm của Đức Chúa Trời, một trưởng lão đã nói với ông: “Chớ khóc; kìa, Sư Tử thuộc chi phái Giu-đa, Cội Gốc của Đa-vít, đã đắc thắng để mở Sách và tháo bảy ấn ấy” (Khải. 5:5). Câu này không nói rằng Christ của chúng ta sẽđắc thắng, nhưng nói Ngài đã đắc thắng. Ngài đã bắt được con mồi và đã nuốt nó rồi. Ha-lê-lu-gia! Tất cả các kẻ thù đã bị Christ nuốt rồi! Ngày nay Christ không phải là Đấng Đang Chiến Đấu; Ngài là Đấng Đang Nằm Nghỉ, Đấng Yên Nghỉ này đang ngồi trên các từng trời. Nếu thấy điều này, anh em sẽ quên những kẻ thù của mình, tính khí và những điều rắc rối do cha mẹ, con cái gây ra, và sẽ nói: “Ha-lê-lu-gia! Chúa ơi, con thờ lạy và ngợi khen Ngài! Chúa ơi, trước đây Ngài là Sư Tử Tơ, chiến đấu. Nhưng ngày nay, Ngài đang yên nghỉ trên các từng trời như một Sư Tử Đắc Thắng. Và bây giờ, con đang dự phần tất cả những gì Ngài đã thực hiện”.
Xin lưu ý rằng, theo tiếng Hê-bơ-rơ, câu 9 nói: “Nó sụm gối, nằm khác nào sư tử đực, như sư tử cái”. Tại sao câu này nói về sư tử đực trước rồi đến sư tử cái? Sư tử tơ là để chiến đấu, để giành chiến thắng và việc nằm nghỉ là dấu hiệu cho thấy sư tử chiến đấu này đã giành chiến thắng, đã ăn nuốt con mồi và bây giờ đang yên nghỉ trong sự thỏa mãn. Ở đây trước hết chúng ta có sư tử tơ rồi đến sư tử nằm nghỉ. Nhưng sư tử cái có ý nghĩa gì? Nghĩa là sư tử đó sắp đẻ nhiều sư tử con. Do đó, Christ không chỉ là Sư Tử Chiến Đấu và Sư Tử Nằm Nghỉ mà còn là Sư Tử Đang Sản Sinh. Christ là Sư Tử Mẹ của chúng ta, còn chúng ta thảy đều là những sư tử con của Ngài. Trong bài vừa qua, chúng ta thấy mình đã trở thành các thầy tế lễ. Trong bài này, chúng ta cần thấy mình cũng đã được làm nên những sư tử con. Khi kẻ thù quấy rối, anh em nên nhận thức rằng anh em là sư tử con. Hãy để kẻ thù thách thức chúng ta về tất cả những gì nó muốn. Chúng ta không chỉ là những thầy tế lễ mà còn là những sư tử.Christ là Sư Tử Cái đang sanh sản, Đấng đang sanh chúng ta ra như nhiều sư tử con của Ngài.
Phần cuối của câu 9 nói: “Ai sẽ đánh thức nó dậy?” Một số bản dịch chép: “Ai dám đánh thức nó dậy?” Điều này có nghĩa là “Ai dám thách thức Ngài?” Ngày nay, không chỉ Christ là Sư Tử mà chúng ta cũng là sư tử.
(c) Sản Sinh Các Vua, Những Người Cai Trị Và Christ
Câu 10 chép: “Cây phủ việt chẳng hề dời khỏi Giu-đa,/ Kẻ lập pháp không dứt khỏi giữa chân nó,/ Cho đến chừng Đấng Si-lô hiện tới;/ Và các dân vâng phục Đấng đó”(Theo Bản Hê-bơ-rơ). Cây phủ việt ở đây chỉ về cây phủ việt của vương quyền hay của vương quốc. Thi Thiên 45:6 nói: “Quyền trượng của Vương Quốc Chúa là quyền trượng ngay thẳng”. Cây phủ việt, biểu tượng của vương quyền, chỉ về quyền làm vua của Christ. Vì thế, cây phủ việt trong câu 10 chỉ về Vương Quốc, vương quyền của Christ. Vì cây phủ việt không bao giờ lìa khỏi Giu-đa có nghĩa là vương quyền sẽ không bao giờ lìa khỏi Christ.
Thơ ca trong văn chương Hê-bơ-rơ được viết thành cặp; do đó, “quyền trượng của người cai trị” trong câu này đồng nghĩa với “cây phủ việt”. Chắc chắn rằng, người caitrị ở đây là Christ. Từ Hê-bơ-rơ của từ “người cai trị” trong câu này có nghĩa là kẻ lập pháp. Christ là Đấng ban luật pháp vì Ngài có quyền trượng và cây phủ việt. Ngài là Đấng Cai Trị có uy quyền, quyền trượng và cây phủ việt của vương quyền.
Câu này nói rằng cây phủ việt của kẻ lập pháp sẽ không lìa khỏi “giữa chân nó”. Các từ “giữa chân nó” là thuật ngữ trong thơ ca chỉ về dòng dõi hay hậu tự. Do đó, chỉ về con cháu của Giu-đa. Điều này có nghĩa là chi phái Giu-đa sẽ luôn luôn có vua. Theo 1Sử Ký 5:2, Giu-đa có vương quyền, và kẻ lập pháp ra từ hậu tự của ông.
(d) Có Đấng Si-lô
Quyền bính này sẽ tiếp tục cho tới khi Đấng Si-lô hiện đến. Từ Si-lô có nghĩa là “Người đem sự bình an đến”. Hầu hết các giáo sư Kinh Thánh giỏi đều đồng ý rằng Si-lô chỉ về Christ trong sự hiện đến lần thứ hai của Ngài. Khi Christ đến lần thứ hai, Ngài sẽ đến như Vua Bình An, như Đấng đem sự bình an đến. Bấy giờ, khắp đất sẽ đầy dẫy sự bình an.
Câu 10 cũng chép: “và các dân vâng phục Đấng đó”. Các dân ở đây tương đương với các nước. Khi Christ đến lần thứ hai, tất cả các nước sẽ phục tùng và vâng Lời Ngài. Ê-sai 2:1-3 và 11:10 cho thấy từ lúc khởi đầu thời đại ngàn năm khi Chúa tái lâm, tất cả các nước sẽ vâng phục Christ. Họ sẽ đến với Ngài để nhận những sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời.
(e) Phong Phú Về Rượu Và Sữa
Câu 11 chép: “Người buộc lừa tơ mình vào gốc nho,/ Lừa con mình vào nhành nho tốt nhứt. / Người giặt áo xống mình vào rượu nho,/ Cùng lấy huyết nho lau áo tơi mình”.Câu này cực kỳ khó hiểu. Trong Kinh Thánh, con lừa tượng trưng cho người lao động vất vả, đặc biệt làm việc trong vấn đề vận chuyển. Ngay cả Chúa Jesus đã cỡi trên một con lừa để vào thành Giê-ru-sa-lem (Mat. 21:5,7). Dầu con lừa thường được dùng để vận chuyển, nhưng trong câu 11, con lừa này không đang làm việc; nó bị buộc vào cây nho. Điều này có nghĩa là nó không còn làm việc nữa, đã đến nơi và bắt đầu nghỉ ngơi. Đừng nghĩ rằng từ “buộc” trong câu này mang tính tiêu cực. Không, từ này rất tích cực. Bất cứ con lừa nào được dùng cho những chuyến hành trình dài chắc chắn sẽ thích thú được buộc vào cây nho. Hễ khi nào người cỡi lừa cột con lừa vào một vật gì, thậm chí vào cây cọc, con lừa đó sẽ vui mừng. Theo ngôn ngữ thơ ca của câu 11, việc cột lừa mô tả sự nghỉ ngơi. Theo câu này, ngay cả con lừa cũng đã nghỉ làm việc. Con lừa ở đây không bị cột vào cọc, nhưng vào cây nho đầy hoa trái.
Nếu suy xét bức tranh này, chúng ta sẽ thấy điều này có nghĩa là sự lao khổ đã chấm dứt và mùa gặt đã đến. Chúng ta biết rằng câu này chỉ về mùa gặt vì nói về rượu, sản phẩm từ nho. Điều này ngụ ý đến sự phong phú của mùa gặt. Phần cuối của câu 11 chép: “Người giặt áo xống mình vào rượu nho,/ Cùng lấy huyết nho lau áo tơi mình”.Điều này cho thấy có rượu dư dật. Sự cung ứng rượu dồi dào đến nỗi người ta không chỉ uống mà thậm chí giặt áo xống mình trong rượu. Khải Thị 6:6 nói về nạn đói kém rằng: “Còn dầu và rượu thì chớ làm thiệt hại đến”. Lời cảnh báo này cho thấy sự khan hiếm rượu trong suốt nạn đói. Tuy nhiên, trong Sáng Thế Ký 49:11 có rượu dư dật. Các từ “huyết nho” chỉ về nước nho ép. Anh em có bao giờ thấy một nước giàu đến nỗi cư dân giặt áo xống trong nước nho không? Dầu nước Mỹ là vùng đất trù phú, nhưng không trù phú đến thế. Câu 11 thật là một bức tranh lạ lùng! Bức tranh này bày tỏ rằng sự lao nhọc đã hết và sự nghỉ ngơi trong sự vui hưởng các sự phong phú đã bắt đầu, ngay cả lừa [cũng được nghỉ]. Bây giờ không phải là lúc gieo hạt nhưng là thời điểm của mùa gặt. Câu 11 là sự mô tả theo thể thơ về thời Thiên Hy Niên, thời đại ngàn năm sắp đến. Trong thời đại đó, sự lao nhọc sẽ chấm dứt và thay vì lao nhọc, sẽ có sự nghỉ ngơi. Nếu vẫn còn chọn lao nhọc, anh em nên cột con lừa mình lại. Đừng thả nó. Theo Lê-vi Ký chương 23, vào ngày lễ Lều Tạm, không một ai được phép làm việc. Sự làm việc bị cấm vì mọi sự đã hoàn thành. Tất cả những gì phải làm là vui hưởng sản phẩm của vụ mùa dư dật. Lễ Lều Tạm tượng trưng cho thời đại ngàn năm. Trong thời đại này sẽ không còn lao nhọc vì mọi công việc đã được hoàn thành trong các thời kỳ phân phát trước. Những con lừa, con vật lao nhọc, sẽ bị cột. Thay vì lao nhọc, sẽ có sự vui hưởng phong phú mùa gặt dư dật. Sẽ có nhiều rượu đến nỗi chúng ta sẽ giặt áo trong đó
Câu 12 nói: “Mắt người đỏ vì cớ rượu,/ Răng người trắng vì cớ sữa”. Trong Kinh Thánh, rượu biểu tượng cho niềm vui về sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong sự sống.Phép lạ đầu tiên Chúa Jesus đã làm là hóa nước thành rượu (Giăng 2:1-11). Rượu này không những tượng trưng cho sự cứu chuộc mà cũng tượng trưng cho sự cứu rỗi của sự sống và sự cứu rỗi trong sự sống. Khi có sự cứu rỗi của sự sống, sự cứu rỗi này trở thành rượu là điều thường xuyên dứt dấy chúng ta vui mừng. Cùng với rượu, chúng ta có sữa. Như nguồn rượu là vườn nho thì nguồn sữa là chuồng chiên được nói trong câu 14 (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Sữa tượng trưng cho sự nuôi dưỡng của sự sống làm chúng ta vui thỏa.
Khi người nào sắp chết đói, vùng quanh mắt người đó trở nên thâm quầng. Nhưng trong câu này, đôi mắt không thâm quầng mà “đỏ vì cớ rượu”. Hơn nữa, răng “trắng vì cớ sữa”. Chất can-xi có trong sữa tạo cho răng chắc khỏe, có màu thích hợp. Những hình ảnh như vậy về đôi mắt và răng cho thấy rằng, khi những con lừa bị cột và sự laonhọc không còn nữa, thì sản phẩm của mùa gặt dư dật sẽ nhiều hơn nhu cầu. Nó dư dật đến nỗi người ta giặt áo trong rượu. Cuối cùng, họ sẽ có đôi mắt đỏ vì rượu. Cũng vậy,răng họ sẽ chắc và trắng.
Sự yên nghỉ và sự vui hưởng này dựa trên Christ là Sư Tử Chiến Đấu, Nằm Nghỉ, và Sản Sinh. Là một Sư Tử như vậy, Ngài đã sanh chúng ta ra, là những sư tử con. Vì công tác này đã hoàn tất, nên chúng ta không cần lao nhọc. Thay vì thế, chúng ta nên đơn sơ yên nghỉ và vui hưởng sản vật phong phú của miền đất tốt lành. Ngày nay, chúng ta đang vui hưởng rượu và sữa. Hễ khi nào con người nhìn chúng ta, họ sẽ thấy mắt chúng ta đỏ và răng chúng ta trắng. Đây là hình ảnh về nếp sống Hội Thánh ngày nay và về thời đại ngàn năm sắp đến.
Ngay cả trong nếp sống Hội Thánh hôm nay, tất cả lừa cần được cột lại. Thường thì anh chị em dắt theo con lừa đang làm việc đến buổi nhóm. Điều này có nghĩa là họ vẫn đang lao nhọc và đang trong cuộc hành trình, chưa đến đích, chưa đến nơi. Nhưng tất cả những con lừa này phải được cột lại. Vì chúng ta đã bước vào sự yên nghỉ và đã đến nơi rồi, nên không còn lao nhọc hay hành trình nữa. Chúng ta đã đến nơi, đến đích, là chỗ chúng ta có thể vui hưởng sự cung ứng dư dật của sữa và rượu. Anh em vẫn còn cần đến con lừa lao nhọc sao? Một số người lớn tuổi luôn có con lừa theo họ. Dường như họ vẫn đang hành trình, vẫn đang lao nhọc. Sau khi nghe một trong các bài của tôi, thậm chí họ muốn lao nhọc và hành trình hơn nữa. Nhưng câu 11 nói rằng chúng ta phải cột con lừa của mình vào cây nho phong phú. Điều này có nghĩa là chúng ta phải ngưnglao nhọc và cuộc hành trình của mình. Ngày nay, trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta đã đến đích, đến nơi. Ở đây không có lao tác, chỉ có yên nghỉ và vui hưởng. Tôi mong thấy tất cả những con lừa được cột lại. Thay vì lao nhọc, hãy về nhà giặt áo mình trong rượu. Rồi đến buổi nhóm với đôi mắt đỏ và răng trắng. Hãy đến đầy dẫy sữa, đầy dẫy sự vui vẻ và sự nuôi dưỡng.
(8) Về Sa-bu-lôn Và Y-sa-ca
(a) Sa-bu-lôn Ở Nơi Gành Biển
Sau Giu-đa, đến Sa-bu-lôn. Câu 13 chép: “Sa-bu-lôn sẽ ở nơi gành biển,/ Tức là nơi có tàu đậu;/ Bờ cõi người chạy về hướng Si-đôn”. Câu này nói Sa-bu-lôn là bến cảng. Phương cách vận chuyển đã thay đổi từ con lừa qua tàu buồm. Chúng ta không thể hiểu ý thơ trong câu này nếu không liên hệ đến Tân Ước. Sự ứng nghiệm của câu này là trong Ma-thi-ơ 4:15, chép rằng: “Đất Sa-bu-lôn và Nép-ta-li, trên đường dọc theo biển, bên kia Giô-đanh. Tức là Ga-li-lê của Ngoại Bang”. Christ đã bắt đầu chức vụ Ngài từ đất Sa-bu-lôn trong Ga-li-lê và chính những người Ga-li-lê đã đem tin mừng về Christ đến khắp đất. Các môn đồ người Ga-li-lê là bến tàu. Họ đã loan truyền tin mừng về Christ là Sư Tử Chiến Đấu, Nằm Nghỉ và Sản Sinh đến mọi miền của thế giới được đại diện bởi Si-đôn.
(b) Sa-bu-lôn Vui Mừng Trong Sự Đi Ra
Phục Truyền Luật Lệ Ký 33:18 chép: “Hỡi Sa-bu-lôn, khá vui mừng về cuộc mình đi ra ngoài”. Theo câu này, Sa-bu-lôn phải đi ra. Và Sa-bu-lôn đã đi ra. Tất cả những người Ga-li-lê đã đi ra với tin vui về chiến thắng của Christ, đem theo lời của Đấng Christ đắc thắng, yên nghỉ và sản sinh. Những người Ga-li-lê này đã đi ra với sự chiến thắng của Christ, sự thỏa lòng của Christ và khả năng sản sinh của Christ. Đây là tin vui.
Dầu Sa-bu-lôn đã đi ra, nhưng Y-sa-ca vẫn ở lại trong các trại (Phục. 33:18). Do đó, Sa-bu-lôn vui mừng trong việc đi ra và Y-sa-ca hớn hở trong các trại mình. Một người phải đi ra và người kia phải ở lại.
(c) Y-sa-ca Là Con Lừa Mạnh Mẽ
Nằm Nghỉ Giữa Các Chuồng Chiên
Sáng Thế Ký 49:14 chép: “Y-sa-ca là một con lừa mạnh mẽ,/ Nằm nghỉ giữa các chuồng chiên”. Trong sự giải thích, điều này gắn liền với ngựa con và lừa con, lừa tơ trong câu 11. Con lừa tơ ở đó có liên hệ với mùa gặt phong phú; do đó, con lừa mạnh mẽ này đang nằm nghỉ ở đây. Y-sa-ca không đang làm việc mà đang nằm, nghĩa là, ông đang nằm và yên nghỉ giữa các chuồng chiên. Anh em có là Y-sa-ca ngày nay không? Anh em đang nằm nghỉ hay đang lao nhọc? Một số người nghĩ rằng tôi luôn luôn làm việc. Nhưng họ đã lầm. Họ không nhận thức rằng sự làm việc của tôi là sự nằm nghỉ. Có một Thánh Ca nói rằng khi chúng ta làm việc là lúc chúng ta nghỉ ngơi. Nếu không làm việc, tôi không có sự nghỉ ngơi. Càng làm việc, tôi càng nghỉ ngơi. Đang khi làm việc, tôi đang nằm nghỉ. Trong sự khôi phục của Chúa không cần có những con lừa lao nhọc. Dầu chúng ta cần những con lừa lao nhọc, nhưng chúng nen nằm nghỉ, không nên làm việc. Theo bức tranh được mô tả trong câu này, Y-sa-ca đang nằm nghỉ giữa các chuồng. Dầu con lừa mạnh mẽ này không làm gì cả, nhưng bầy chiên đang cho sữa. Tôi có thể làm chứng rằng tôi là con lừa mạnh mẽ đang nằm nghỉ và nhìn xem bầy chiên đang cho sữa. Trong khi anh em đang sản xuất sữa, thì tôi đang yên nghỉ.
(d) Y-sa-ca Vui Hưởng Sự Yên Nghỉ Trong Miền Đất Tốt Lành
Và Trở Thành Một Đầy Tớ Thi Hành Phận Sự
Câu 15 chép: “Người thấy rằng sự yên nghỉ là tốt lành,/ Và đất đai thì đẹp lắm thay,/ Người đã rùn vai vác gánh nặng [Người đã kê vai mình để mang vác, và trở thành một đầy tớ thi hành phận sư]” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Y-sa-ca thấy rằng sự yên nghỉ là tốt lành và miền đất thật thỏa vui. Y-sa-ca, con lừa mạnh mẽ, đang yên nghỉ và vui hưởng miền đất phong phú, vui thỏa là Đấng Christ. Vào lúc đó, ông kê vai mang gánh nặng, và vì vậy, ông trở thành một đầy tớ thi hành phận sự. Điều này có nghĩa là ông phục vụ để có điều gì đó dâng cho Chúa. Thay vì “thi hành phận sự,” Bản King James dịch “để có tặng vật tỏ lòng kính trọng,” nghĩa là một giá phải trả như một của lễ. Không có kinh nghiệm, chúng ta không thể nào hiểu vấn đề này. Theo kinh nghiệm Cơ-đốc, những Cơ-đốc nhân đúng đắn không lao nhọc như những con lừa làm việc cực nhọc. Trái lại, họ yên nghỉ như những con lừa mạnh mẽ. Trong khi yên nghỉ, họ vui hưởng các sự giàu có của Christ. Qua sự vui hưởng các sự giàu có này, họ trở nên sẵn sàng kê vai mình, mang gánh nặng và phục vụ để có của lễ dâng cho Vua. Trong nếp sống Hội Thánh đúng đắn, chúng ta không lao nhọc như những con lừa bình thường. Thay vì thế, chúng ta nằm nghỉ và vui hưởng cả công tác đã hoàn tất của Christ lẫn những sự giàu có của Ngài. Bởi sự vui hưởng này, chúng ta sẵn sàng ghé vai, mang gánh nặng, phục vụ để có của lễ dâng cho Chủ, Vua chúng ta. Dầu điều này sẽ được ứng nghiệm hoàn toàn trong thời đại ngàn năm, nhưng hôm nay chúng ta đã nếm được tiền vị trong nếp sống Hội Thánh.
Trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta kinh nghiệm Đấng Christ là Sư Tử Chiến Đấu, Nằm Nghỉ và Sản Sinh. Do công tác đắc thắng của Ngài mà có sản vật phong phú, mùa gặt dư dật. Vì thế, chúng ta không cần phải lao nhọc. Nhưng có sự rao giảng tin mừng về Christ; vì Sa-bu-lôn, bến cảng, loan truyền tin tốt lành của Sư Tử thuộc chi phái Giu-đa. Chúng ta cũng có kinh nghiệm của Y-sa-ca. Chúng ta không đang lao nhọc; trái lại, đang yên nghỉ và vui hưởng các sự phong phú của Christ. Khi yên nghỉ và vui hưởng Christ theo cách như vậy, chúng ta sẵn sàng kê vai mang gánh nặng để làm phận sự, công việc do Chủ, tức Vua chúng ta giao cho, để có thể dâng của lễ cho Vua mình. Do đó, nếp sống Hội Thánh ngày nay là bức tranh thu nhỏ của thời đại ngàn năm sắp đến. Nếu cầu nguyện với tất cả những điểm được đề cập trong bài này và tiêu hóa chúng, anh em sẽ thấy rằng trong phân đoạn Lời này, chúng ta có sự mô tả sống động về thời đại ngàn năm sắp đến. Sự mô tả này bày tỏ rằng bây giờ chúng ta có thể dự phần trong bức tranh thu nhỏ của thời đại ngàn năm. Bằng cách suy xét bức tranh này, chúng ta sẽ biết hôm nay mình phải ở đâu
Bài Một Trăm
Ý Nghĩa Thuộc Linh
Của Lời Chúc Phước Tiên Tri Về
Giu-Đa, Sa-Bu-Lôn Và Y-Sa-Ca
(1)
Trong bài này tôi có gánh nặng nói thêm đôi lời về 49:8-15. Ngôn ngữ được dùng để mô tả nhóm gồm có Giu-đa, Sa-bu-lôn và Y-sa-ca thì mới, lạ và xa lạ đối với sự hiểu biết của chúng ta. Trong các câu này, nhiều hình ảnh được sử dụng liên hệ đến Giu-đa: sư tử tơ, sư tử đang nằm [sụm gối], sư tử cái, quyền trượng, cây phủ việt, lừa con bị buộc vào cây nho, lừa con bị cột vào nhành nho tốt nhứt, giặt áo xống trong rượu, và giặt áo tơi trong nước nho. Anh em có bao giờ nghe người nào giặt áo xống họ trong rượu hay giặt áo tơi trong nước nho chưa? Câu 12 nói về mắt đỏ vì rượu và răng trắng vì sữa. Về Sa-bu-lôn, chúng ta có hình ảnh của “bến cảng” (c. 13) và Y-sa-ca được ví với “con lừa mạnh mẽ nằm nghỉ giữa các chuồng” là người thấy rằng sự yên nghỉ là tốt lành, miền đất thật vui thỏa, và là người ghé vai để trở nên một đầy tớ thi hành phận sự(c. 14-15,Theo Bản Hê-bơ-rơ). Tất cả những điểm này thật phong phú và chúng ta cần phải ghi khắc.
Không một điểm nào trong những điểm này có trong Sáng Thế Ký chương 1, phần ký thuật về sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Theo phần ký thuật của Sáng Thế Ký chương 1, vào ngày thứ sáu, Đức Chúa Trời đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài. Vào thời điểm của Sáng Thế Ký chương 1, không thể nào có một lời về Giu-đa là sư tử tơ, sư tử nằm nghỉ và sư tử cái hay một lời về việc cột con lừa vào cây nho. Cũng không thể nào nghe về việc giặt áo xống trong rượu. Dầu trong Sáng Thế Ký chương 2, có một khu vườn và hai cây, nhưng chúng ta không tìm thấy điểm nào như được đề cập trong 49:8-15. Vì những vấn đề này là một phần của lời tiên tri bằng sự chúc phước bởi một người đã được biến đổi và trưởng thành trong sự sống thần thượng nên chúng chỉ có thể được tìm thấy trong chương 49.
Trong Sáng Thế Ký chương 2, A-đam thật kỳ diệu vì ông có thể đặt tên cho muôn thú. Điều này cho thấy ông rất có khả năng. Tuy nhiên, dầu có thể đặt tên muôn thú, ông vẫn không thể nào nói một lời tiên tri bằng sự chúc phước. A-đam chỉ là một tạo vật. Ông không có sự sống thần thượng được truyền vào trong. Trong Sáng Thế Ký chương 1 và 2, ông chưa sa ngã. Trong một ý nghĩa, chúng ta cần đánh giá cao sự sangã của con người. Những đứa trẻ hay ngã nhất là những người mạnh nhất. Một đứa trẻ chưa bao giờ té ngã chắc chắn là rất yếu. A-đam, một người trong Sáng Thế Ký chương 1, thật hoàn hảo, nhưng ông không mạnh mẽ lắm. Tuy nhiên, Gia-cốp, một người trong Sáng Thế Ký chương 49, không những hoàn hảo mà còn mạnh mẽ. Nếu Gia-cốp được biến đổi này bị vây quanh bởi những con rắn, ông vẫn không sa ngã.Thay vì thế, ông sẽ đạp đầu và chặt đuôi những con rắn đó. Anh em thích là người nào –A-đam trong chương 1 hay Gia-cốp trong chương 49? Tôi thích là Gia-cốp hơn.
Trong chương 49, Gia-cốp nói lời chúc phước mang tính tiên tri mà A-đam không thể nào nói được. Chỉ có Gia-cốp mới đủ điều kiện để nói một lời chúc phước như thế.Tuy nhiên, A-đam, hoàn toàn không đủ điều kiện cho điều này vì ông không có sự sống thần thượng được truyền vào bên trong và chưa bao giờ được biến đổi hay trưởng thành trong sự sống của Đức Chúa Trời. Nhưng Gia-cốp không chỉ được tạo dựng và đã sa ngã; ông còn được tái sinh và được truyền sự sống thần thượng vào bên trong. Dầu không có phần ký thuật nào nói rằng tên của A-đam đã thay đổi, nhưng chúng ta thấy rằng tên của Gia-cốp được đổi thành Ítx-ra-ên. A-đam có nghĩa là “đất đỏ”, nhưng Ítx-ra-ên có nghĩa là “hoàng tử của Đức Chúa Trời”. Anh em thích là đất đỏ hay là hoàng tử của Đức Chúa Trời? Đất đỏ không bao giờ có thể nói một lời tiên tri như Gia-cốp đã nói trong chương 49.
Gia-cốp đã trải qua kinh nghiệm đầy đủ về sự sa ngã của con người. Tôi không tin rằng có ai khác đã sa ngã tới mức thấp như Gia-cốp. Dầu câu chuyện của Gia-cốp là tiểu sử của chúng ta, nhưng chúng ta cũng không thể so sánh với ông về sự sa ngã. Gia-cốp là chuyên gia trong sự sa ngã. Không ai có thể trội hơn ông trong vấn đề này. Gia-cốp đã lừa đảo, trộm cướp và tiếm vị mọi người, kể cả mẹ mình. Sự kiện ông lợi dụng mẹ chứng tỏ ông đã tiếm vị bà. (Tiếm vị một người đơn giản là lợi dụng người đó, chiếm đoạt người đó). Trong một trường hợp, Gia-cốp thậm chí đã nỗ lực để tiếm vị Đức Chúa Trời. Vào đêm đó, tại Phê-ni-ên, Gia-cốp đã dùng toàn bộ năng lực để bắt lấy Đức Chúa Trời, tiếm vị Ngài, và buộc Ngài phải làm điều gì đó cho mình (32:24-31). Tất nhiên, Gia-cốp không thể đánh bại Đức Chúa Trời. Cuối cùng, Đức Chúa Trời đã đụng đến bắp vế ông, và Gia-cốp bị đi khập khiễng. Vì Gia-cốp đã tiếm vị mọi người, ông đã hoàn toàn rơi xuống đáy. Tuy nhiên, cuối cùng, ông đã được biến đổi, được trưởng thành và đạt đến đỉnh cao của kinh nghiệm sự sống thần thượng. Do đó, trong chương 49, ông có thể nói một lời tiên tri phong phú bằng sự chúc phước.
Trước chương này, một lời như vậy không thể nào được nói ra vì không có ai được biến đổi và trưởng thành đủ để làm điều đó. Hơn nữa, trước chương 49, môi trường đúng đắn chưa có. Việc truyền đạt khải tượng thiên thượng luôn đòi hỏi một môi trường thích hợp. Để Gia-cốp nói được những lời đã ghi lại trong 49:8-15, ông phải được biến đổi và trưởng thành, và phải có các con trai để ông nói tiên tri. Bây giờ chúng ta hãy xem ý nghĩa thuộc linh của phước hạnh được nói tiên tri trong các câu này, một phân đoạn của Lời cần có cả Kinh Thánh để phát triển.
I. Về Giu-Đa –Tin Mừng Về Christ
Các câu từ 8 đến 12 nói về Giu-đa. Câu 9 nói rằng Giu-đa là một sư tử. Trong Khải Thị 5:5, Christ được gọi là Sư Tử thuộc chi phái Giu-đa. Điều này chứng tỏ rằng Sáng Thế Ký chương 49 cần Khải Thị chương 5 để phát triển. Điều này cũng chứng tỏ rằng các câu trong lời chúc phước mang tính tiên tri của Gia-cốp cần có cả Kinh Thánh để phát triển. Gánh nặng của tôi trong bài này là ghi khắc cho anh em sự giải nghĩa thuộc linh về các câu này.
Chúng ta đã thấy Sáng Thế Ký là Sách về các hạt giống. Hầu như tất cả các lẽ thật trong Kinh Thánh đều được gieo như những hạt giống trong Sáng Thế Ký. Trong Tân Ước, có ba lẽ thật chính về Christ. Thứ nhứt là lẽ thật về sự đắc thắng của Christ. Sự kiện Christ đắc thắng có nghĩa là Ngài đã hoàn thành mọi điều mà Đức Chúa Trời đòi hỏi nơi Ngài. Trong công tác đã hoàn tất này, Ngài giải quyết vấn đề tội lỗi, thế giới, đánh bại Sa-tan, hủy bỏ sự chết và kết liễu mọi điều tiêu cực. Ngài đã giành chiến thắng hoàn toàn đê’ hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Đây là chiến thắng của Christ, lẽ thật căn bản đầu tiên trong Tân Ước về Đấng Christ
Lẽ thật chính thứ hai là về uy quyền của Christ, Vương Quốc của Christ. Vì Christ đã đắc thắng nên Ngài đã được lập làm Chúa của tất cả. Mọi quyền bính trên trời, dưới đất đã được giao cho Ngài (Mat. 28:18). Hơn nữa, Ngài đã nhận được Vương Quốc hoàn vũ, đời đời của Cha Ngài. Vì thế, Ngài có quyền bính, vương quyền và Vương Quốc.
Lẽ thật chính thứ ba trong Tân Ước về Christ là vui hưởng và yên nghỉ trong Christ.Christ đã hoàn thành mọi sự trong chiến thắng của Ngài và Ngài đã nhận được uy quyền cùng Vương Quốc để chúng ta có thể có sự vui hưởng và tìm được sự yên nghỉ trong Ngài. Trong Ngài thật là sự vui hưởng và yên nghỉ! Ba lẽ thật này là sự tóm lược Tân Ước.
Vì Tân Ước là mùa gặt của những hạt giống được gieo trong Sáng Thế Ký nên bây giờ chúng ta cần xác định những hạt giống về chiến thắng của Christ, về Vương Quốc của Christ và về sự vui hưởng cùng sự yên nghỉ trong Christ. Những hạt giống này được tìm thấy trong Sáng Thế Ký 49:8-12. Năm câu này chứa đựng ba hạt giống kỳ diệu, hạt giống về chiến thắng của Christ, hạt giống về Vương Quốc của Christ và hạt giống về sự vui hưởng và yên nghỉ trong Christ. Tôi cảm tạ Chúa biết bao và thờ phượng Ngài vì vào thời cuối cùng này, Ngài đã mở phân đoạn Lời này ra cho chúng ta!
A. Chiến Thắng Của Christ
1. Christ Là Sư Tử Tơ Đắc Thắng Mọi Kẻ Thù
Trong 49:8-9, chúng ta thấy chiến thắng của Christ. Sáng Thế Ký, một Sách tuyệt diệu, là Sách về những hình ảnh. Trong lời tiên tri của mình, Gia-cốp đã ví Giu-đa như sư tử trong ba phương diện: sư tử tơ, sư tử nằm nghỉ,và sư tử cái. Sư tử tơ là để đánh trận, để bắt mồi. Câu 9 chép: “Giu-đa là một sư tử tơ;/ Hỡi con, con bắt được mồi rồi tha lên” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Các từ “rồi tha lên” hàm ý rằng sư tử tơ trước hết đã xuống. Nó từ núi xuống đồng bằng để bắt mồi. Sau khi đã vồ được mồi rồi, nó trở lên đỉnh núi để thưởng thức con mồi. Khi Christ sống trên đất và bị đóng đinh trên thập tự giá, Ngài là một Sư Tử tơ bắt được mồi. Và con mồi Ngài đã bắt được lạ lùng biết bao! Con mồi này bao gồm cả thế giới, tất cả các tội nhân và ngay cả Sa-tan, Con Rắn. Bắt được mồi rồi, Christ đi lên đỉnh núi, tức từng trời thứ ba. Điều này có nghĩa là từ chiến thắng của Christ, Ngài đã thăng lên trên các từng trời. Ê-phê-sô 4:8 nói rằng khi Christ lên nơi cao, Ngài đã bắt giữ những kẻ đã bị bắt giữ. Christ đã giành chiến thắng; Ngài đã dùng tay chận cổ Sa-tan. Ha-lê-lu-gia! Ngài đã dùng tay chận cổ mọi kẻ thù nghịch Ngài! Là Sư Tử Tơ, Ngài đã đắc thắng mọi kẻ thù. Nhiều chương trong Tân Ước bày tỏ cách Christ đã đến như một Sư Tử Tơ, cách Ngài lên thập tự giá để bắt mồi và cách Ngài thăng lên đỉnh núi ở từng trời thứ ba là như thế nào.
2. Christ Là Sư Tử Nằm Nghỉ Trong Sự Thỏa Lòng
Sau Khi Vui Hưởng Con Mồi
Sáng Thế Ký 49:9 cũng chép: “Nó sụm gối, nằm khác nào sư tử đực” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Christ cũng là Sư Tử Nằm Nghỉ, nằm nghỉ trong sự thỏa lòng sau khi đã vui hưởng con mồi. Sau khi sư tử đã vui hưởng con mồi và thỏa mãn, nó sụm gối, nằm nghỉ trong sự thỏa mãn. Hình ảnh sư tử nằm nghỉ trong câu 9 mô tả Christ là Đấng đang vui hưởng sự yên nghỉ trên các từng trời. Sau khi giành chiến thắng và vui hưởng con mồi, Ngài thỏa lòng. Vì thế, bây giờ ngày đang yên nghỉ trên các từng trời trong sự thỏa lòng. Sự yên nghỉ và sự thỏa lòng này là kết quả chiến thắng của Christ. Christ không còn đánh trận nữa; trái lại, Ngài đang nằm nghỉ.
3. Christ Là Sư Tử Cái Sanh Ra Những Sư Tử Con
Trong câu 9 (Theo Bản Hê-bơ-rơ), Christ cũng được ví như Sư Tử Cái. Là Sư Tử Cái, Ngài đã sanh ra nhiều sư tử con. Tất cả chúng ta là sư tử con của Christ. Trong một ý nghĩa rất thật, Hội Thánh là một quốc gia sư tử, và mỗi người trong Hội Thánh là một sư tử con. Anh em có bao giờ nhận thức mình là một sư tử con không? Nếu thấy tình trạng này theo quan điểm của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ nhận thức rằng trong cách nhìn của Ngài, Hội Thánh là một quốc gia sư tử. Đối với con người, chúng ta là những chiên con đi theo Chiên Con; nhưng đối với Sa-tan, chúng ta là những sư tử con. Dầu có thể anh em không có nhận thức như thế, nhưng Sa-tan biết sự thật này. Hắn biết rằng mọi tín đồ trong sự khôi phục của Chúa đều là những sư tử con. Chúng ta phải thường xuyên bảo Sa-tan: “Ớ Sa-tan, đừng đụng đến ta. Ngươi không biết rằng gia đình ta là gia đình sư tử sao?” Christ là Sư Tử Tơ, Sư Tử Nằm Nghỉ và Sư Tử Cái Đang Sinh Sản, còn chúng ta là những sư tử con của Ngài. Đây là chiến thắng hoàn toàn của Christ. Đây là lý do vì sao câu 8 nói rằng Christ, được tiêu biểu bởi Giu-đa, đang được ngợi khen và thờ phượng.
B. Vương Quốc Của Christ
1. Uy Quyền Và Vương Quyền Của Christ
Chiến thắng của Christ đem Vương Quốc đến (c. 10). Ngay cả trên đất ngày nay, nơi nào có chiến thắng, nơi đó có Vương Quốc. Christ đã thăng lên các từng trời, và tại đó, Ngài đã ban cho mọi quyền bính. Tại đó, Ngài cũng đã nhận được Vương Quốc. Nếu có cái nhìn thần thượng, chúng ta sẽ thấy rằng cả trái đất là Vương Quốc của Christ. Ngày nay, các nước đều sử dụng lịch của Christ. Theo lịch sử, vương quốc thuộc về người mà lịch của người ấy được dùng đến. Sự kiện các nước dùng lịch của Christ cho thấy họ thuộc Vương Quốc của Ngài. Ngay cả những nước chống đối Christ cũng đi theo lịch của Ngài. Vì lý do này, Christ có thể cười họ và nói: “Dầu ngươi chống đối Ta, nhưng ngươi đang dùng lịch của Ta. Theo cách này, ngươi đang nhìn nhận Ta là Vua của ngươi”. Christ là Vua và mọi người đều ở dưới sự cai trị của Ngài. Nếu không tin điều này, tôi xin anh em chờ một thời gian nữa. Cuối cùng, anh em sẽ thấy rằng khắp đất sẽ là Vương Quốc của Christ.
Christ đã được giao cho mọi quyền bính trên trời, dưới đất. Đối với chúng ta, điều này không nên chỉ là giáo lý. Chúng ta phải nhận thức mình đang ở dưới uy quyền của Ngài. Câu 10 chép: “Cây phủ việt chẳng hề dời khỏi Giu-đa,/ Cây gậy của Kẻ Cai Trị không dứt khỏi giữa chân nó” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Từ “cây phủ việt” theo tiếng Hê-bơ-rơ được dịch là “quyền bính” là đúng. Nói rằng cây phủ việt sẽ không dời khỏi Giu-đa có nghĩa là quyền bính sẽ không dời khỏi Giu-đa. Cây phủ việt ở đây tượng trưng cho uy quyền hoàng gia. Christ có uy quyền này và chúng ta đều phải đến dưới uy quyền này. Chúng ta, dân Vương Quốc, đang ở dưới sự cai trị thiên thượng của Christ.
Là Cơ-đốc nhân, chúng ta cũng cần học tập cách vận dụng quyền bính của Christ. Khi đối diện với những gian khổ và khó khăn, không cần thiết phải cầu nguyện theo cách nài xin. Thay vì thế, chúng ta nên cầu nguyện bằng cách vận dụng quyền bính. Khi con cái Ítx-ra-ên bị người Ai-cập đuổi theo, Chúa bảo Môi-se giơ gậy lên và đưa tay ra trên biển (Xuất. 14:15-16). Môi-se đã làm như vậy. Đó là vận dụng quyền bính thần thượng. Cũng vậy, thay vì van xin, chúng ta nên vận dụng quyền bính của Vua và truyền cho những khó khăn lui đi. Vì ở dưới sự cai trị thiên thượng, chúng ta có vị trí và quyền hạn để phán với những khó khăn, gian khổ và sự tấn công, rằng: “Ngươi phải trốn đi. Ta không cho phép ngươi ở lại”. Tất cả chúng ta phải học tập vận dụng quyền bính như vậy.
Để vận dụng quyền bính này, trước hết chúng ta phải ở dưới sự cai trị của Christ. Nếu chúng ta phản loạn mà truyền cho Sa-tan lui đi, thì hắn sẽ nói: “Ngươi là ai? Ta không vâng lời ngươi vì ngươi không vâng lời Christ. Là người không vâng lời Vua, ngươi không có vị trí để ra lịnh cho ta”. Do đó, chúng ta phải là dân Vương Quốc biết vâng lời. Sự vâng lời cho chúng ta vị trí để thi hành quyền bính của Vua. Đó là Vương Quốc. Trong Vương Quốc này, mọi sự đã được hoàn tất, mọi kẻ thù đã bị đánh bại và mọi nan đề đã được giải quyết.
2. Christ Đến Như Người Đem Đến Hòa Bình
Câu 10 nói rằng cây phủ việt sẽ không lìa khỏi Giu-đa và quyền trượng của kẻ lập pháp sẽ không dời khỏi chân nó cho đến chừng Đấng Si-lô hiện đến. Si-lô có nghĩa là người đem hòa bình đến. Vương Quốc đúng đắn là lĩnh vực bình an. Nếu không có sự bình an, thực tế anh em không đang ở trong Vương Quốc. Vua phải là Đấng Ban Sự Bình An, Đấng Đem Đến Sự Bình An. Khi Vua tái lâm, Ngài sẽ đến như Đấng Si-lô vĩ đại đem bình an đến khắp đất. Nhưng chúng ta không cần chờ cho đến ngày đó mới vui hưởng Ngài là Đấng Si-lô. Ngay hôm nay, chúng ta có thể vui hưởng Christ là Đấng Si-lô.
Hãy xem ví dụ về đời sống gia đình. Trong một ý nghĩa, đời sống gia đình là biển động, đầy rối loạn. Chúng ta chưa bao giờ biết lúc nào bão sẽ đến. Tôi vẫn đang đi trên biển-đời-sống-gia-đình trong nhiều năm qua và có thể làm chứng rằng tại đó rất thường có bão. Trong Ma-thi-ơ chương 14, chúng ta đọc về kinh nghiệm của các môn đồ trên biển động (Mat. 14:22-33). Khi Jesus sắp lên núi để cầu nguyện, Ngài truyền cho các môn đồ “xuống thuyền, qua trước bờ bên kia” (Mat. 14:22). Tối đến, thuyền bị sóng dồi. Cuối cùng, sau khi cầu nguyện trên đỉnh núi rồi, Chúa Jesus đi trên biển để đến với các môn đồ trong thuyền (Mat. 14:25). Khi Ngài bước vào thuyền thì gió lặng (Mat. 14:32). Điều này rất có ý nghĩa. Bão ngưng vì nơi nào có Jesus, nơi đó không thể có bão. Bão không sợ chúng ta, nhưng sợ Vua thiên thượng. Dầu cơn bão có thể quấy rối chúng ta, nhưng không thể quấy rối Ngài, vì Ngài bước đi trên sóng. Ở giữa biển có bão-đời-sống-gia-đình, chúng ta không nên cầu nguyện theo cách van nài. Thay vì thế, chúng ta nên thi hành quyền bính và nói: “Chúa ơi, Ngài đang đi trên biển. Ngài là Vua và Ngài có quyền bính. Bây giờ, con thi hành quyền bính của Ngài trên hoàn cảnh bão tố này”. Hãy thử cầu nguyện như vậy.
Trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, chiến thắng đã giành được rồi, Vương Quốc đang ở đây và sự bình an đang hiện diện. Mọi sự đã được hoàn thành. Vì thế, chúng ta không nên nhìn vào hoàn cảnh của mình. Trong Ma-thi-ơ 14:28, Phi-e-rơ nói: “Thưa Chúa, nếu là Ngài, xin bảo tôi đi trên mặt nước mà đến cùng Ngài”. Dường như Phi-e-rơ muốn nói: “Chúa ơi, nếu là Ngài, hãy phán với con một lời thì con sẽ đến với Ngài. Ngài đang đi trên biển, con cũng sẽ đi trên biển”. Chúa phán: “Hãy đến!”, và Phi-e-rơ bước ra khỏi thuyền, đi trên biển đến với Jesus (Mat. 14:29). Phi-e-rơ có đức tin nhảy ra khỏi thuyền và đi trên sóng. Nhưng khi bắt đầu nhìn vào hoàn cảnh, đức tin ông biến mất và ông bắt đầu chìm. Kinh nghiệm của Phi-e-rơ là một bài học cho chúng ta, đừng nhìn vào hoàn cảnh, nhưng phải đứng trên Lời Chúa. Đức tin là vấn đề đứng trên Lời Ngài. Đức tin không dựa vào hoàn cảnh mà là dựa trên Lời Chúa. Nếu anh em nhảy ra khỏi thuyền và đứng trên Lời Chúa, nhiều nan đề sẽ được giải quyết. Anh em đã cầu nguyện quá nhiều lời nài xin. Thay vì nài xin, hãy ra lịnh cho hoàn cảnh rằng: “Ta không cho phép ngươi quấy rối ta. Jesus là Vua. Vương Quốc này là của Ngài, và Ngài là Đấng Si-lô. Do đó, phải có sự bình an ở quanh ta”.
Chúng ta thường chấp nhận những rắc rối trước khi chúng xảy đến. Đây hoàn toàn là vấn đề thuộc tâm lý. Trước khi Sa-tan, kẻ xảo quyệt, tấn công anh em, trước hết hắn đã chiếm hữu anh em về mặt tâm lý rồi. Gióp nói: “Vì việc tôi sợ hãi đã thấu đến tôi; điều tôi kinh khủng lại xảy ra cho tôi” (Gióp 3:25). Trước khi những khó khăn xảy đến với ông, Gióp đã nghĩ đến những điều kinh khủng đó và trở nên sợ hãi. Sợ điều gì đó có nghĩa là anh em đã tiếp nhận nó rồi. Hễ khi nào sợ hãi, lập tức anh em phải nói: “Ớ Sa-tan, hãy đi khỏi ta. Ta không sợ bất cứ điều gì. Ta không chấp nhận điều sợ hãi này”.Sợ hãi là danh thiếp của Sa-tan. Nếu anh em nhận danh thiếp này thì chính Sa-tan sẽ đến. Mỗi điều lo sợ là một danh thiếp. Trước khi Sa-tan gởi cho anh em điều khó khăn thực tế nào, trước hết, nó gởi đến nỗi sợ hãi của sự khó khăn đó. Đừng nhận danh thiếp sợ hãi của Sa-tan; hãy ném đi. Điều này có quan hệ với chiến trận thuộc linh. Một số anh em đã sợ bị mất việc. Vài ngày sau khi nhận nỗi lo sợ này, họ bị cho nghỉ việc.Đừng tiếp nhận ý tưởng bị nghỉ việc, nhưng hãy nói: “Ớ Sa-tan, ta sẽ không bao giờ bị nghỉ việc. Dầu mọi người khác có thể bị nghỉ việc, thì ta vẫn đi làm. Vì ta ở trong Vương Quốc, ta không tiếp nhận sự sợ hãi này”. Christ đã chiến thắng, và kết quả chiến thắng của Ngài là Vương Quốc.
3. Sự Thuận Phục Và Vâng Lời Của Các Nước
Sáng Thế Ký 49:10 nói rằng cho đến chừng Đấng Si-lô hiện tới, “các dân sẽ vâng phục Đấng đó” (Theo Bản Hê-bơ-rơ). Từ này chỉ về Vương Quốc Ngàn Năm. Khi Christ hiện đến lần thứ hai như Đấng Si-lô, tất cả các dân sẽ tự thuận phục và vâng Lời Ngài. Về nguyên tắc, ngày nay cũng vậy. Khi uy quyền và Vương Quốc của Christ thống trị, sẽ có sự thuận phục và vâng lời của các dân.
C. Yên Nghỉ Trong Sự Vui Hưởng
Các Sự Giàu Có Của Christ Trong Sự Sống
1. Ngừng Lao Nhọc Và Yên Nghỉ Trong Sự Vui Hưởng Sự Sống Của Christ
Bây giờ chúng ta đến điểm chính của gánh nặng tôi trong bài này. Câu 11 nói: “Người buộc lừa tơ mình vào gốc nho”. Tất cả chúng ta phải buộc lừa tơ mình vào gốc nho. Tôi hi vọng Lời này sẽ trở thành một châm ngôn giữa vòng chúng ta. Trong Kinh Thánh, lừa là con vật dùng để vận chuyển. Tiên tri Ba-la-am đã đi đây đó bằng lừa(Dân. 22:22). Khi Chúa Jesus vào thành Giê-ru-sa-lem không lâu trước khi bị đóng đinh, Ngài cũng đã cỡi trên một con lừa (Mat. 21:5). Theo Kinh Thánh, lừa luôn được dùng để di chuyển đến một nơi nào đó. Buộc lừa vào một vật gì hàm ý rằng cuộc hành trình đã chấm dứt, anh em đã đến nơi và đã đạt mục tiêu. Buộc lừa không phải là hành động tiêu cực. Bất cứ con lừa nào cũng vui mừng khi được buộc vào cây nho. Công việc của con lừa là đi đến một nơi nào đó với một mục tiêu nào đó. Trong Sáng Thế Ký 49:11 có một bức tranh ý nghĩa biết bao! Ngày nay, tất cả mọi người trên thế giới là những con lừa đang di chuyển, đang tranh đấu, đang lao nhọc và đang hành trình để đến mục tiêu của họ. Không có một ngoại lệ nào, tất cả Cơ-đốc nhân cũng là những con lừa đang di chuyển, đang tranh đấu, và đang lao nhọc. Chắc chắn tôi cũng đã từng như vậy khi còn trẻ. Tôi tranh chiến để đắc thắng tội với mục tiêu là, một ngày kia, tôi trở thành người đắc thắng. Đó là đích đến, là mục tiêu của tôi. Tôi tiếp tục tranh chiến cho đến ngày thấy được khải tượng về việc cột lừa vào cây nho. Tôi thấy không cần phải lao khổ hay di chuyển để đến đích vì tôi đã đến đích rồi và đã đạt mục tiêu rồi.Nơi đến của chúng ta là Cây Nho, Đấng Christ Hằng Sống đầy dẫy sự sống. Chúng ta phải buộc lừa của mình vào Cây Nho này. Điều này có nghĩa là chúng ta phải ngừng laonhọc và tranh đấu, và yên nghỉ trong Christ, Đấng Hằng Sống.
Giả sử có một anh em nói với anh em rằng anh ấy khao khát được thánh khiết. Sự thánh khiết là mục tiêu và Xứ Thánh là nơi đến của anh. Anh ấy nói với anh em rằng anh đang phấn đấu và nỗ lực đạt đến mục tiêu này; anh lao nhọc để được đầy dẫy sự thánh khiết và được ở trong Xứ Thánh. Anh em sẽ nói gì với anh này? Anh em nên nói: “Anh ơi, hãy buộc lừa của anh vào Cây Nho. Anh không cần lao nhọc và nỗ lực để đạt mục tiêu là sự thánh khiết nữa. Christ đang ở đây. Ngài là Cây Nho, Nguồn Sự Sống. Christ vô cùng phong phú trong sự sống. Hãy buộc lừa của anh vào Ngài. Điều này có nghĩa là anh phải ngưng tranh đấu và an nghỉ trong Đấng Christ giàu có, sống động này”.
Giả sử một anh em khác, mới lập gia đình, nói với anh em: “Anh ơi, là người trong sự khôi phục của Chúa, tôi muốn sống một đời sống đắc thắng. Vợ tôi là một thử nghiệm lớn cho tôi. Ngày đêm tôi liên tục giữ mình để không nóng giận với cô ấy. Mục tiêu của tôi là không bao giờ nóng giận với vợ”. Anh em sẽ nói gì với anh em này? Trước hết, chính anh em phải là người có kinh nghiệm đã buộc lừa mình vào cây nho. Sau khi đã kinh nghiệm điều này, người khác có thể đến gặp anh em với các nan đề của họ. Khi đó, anh em nên nói: “Anh cần buộc lừa của anh vào cây nho. Hãy ngưng lao nhọc và tranh đấu. Anh không cần tranh đấu vì Christ đã chiến thắng rồi. Quyền trượng, vương quyền và Vương Quốc đều thuộc về Ngài. Anh chỉ cần yên nghỉ trong Ngài là Cây Nho”. Anh em có thường nghe rằng phải ngưng tranh đấu và đơn sơ yên nghỉ trong Christ là Nguồn Sự Sống không?”. Tôi tin nhiều người trong chúng ta đã nghe điều này. Nhưng tôi hi vọng rằng trong sự khôi phục của Chúa, sẽ có một châm ngôn mới để giúp chúng ta trong vấn đề này: Hãy buộc lừa của anh em vào Cây Nho. Đây là châm ngôn về sự yên nghỉ. Thưa chị em, sao chị em vẫn đang tranh đấu? Chị em cần buộc lừa của mình vào cây nho. Người ta quen cột lừa vào cọc. Nhưng chúng ta không buộc lừa mình vào cọc vô tri vô giác mà buộc vào Cây Nho đầy sự sống. Chỉ mới gần đây, tôi mới thấy được khải tượng rõ ràng về vấn đề này. Tuy nhiên trước đây, tôi đã buộc lừa của mình vào Cây Nho hàng trăm lần rồi. Tôi ngưng hành trình, ngưng tranh đấu, từ bỏ mục tiêu và quên đi đích đến. Tôi đã có thể từ bỏ mục tiêu vì tôi đã đạt được rồi, tôi có thể quên đích đến vì đã đến rồi. Sự thánh khiết là Christ. Quyền năng để đắc thắng các nan đề với vợ cũng là Christ. Chúng ta đã ở trong Christ rồi. Thật dại dột khi tiếp tục hành trình, cố gắng và tranh đấu! Mọi lao nhọc như vậy đều hư không. Khi thấy khải tượng này, tôi đã buộc lừa mình vào Cây Nho.
Nhiều thanh niên lần đầu tiên bước vào nếp sống Hội Thánh, họ là những con lừa đang tranh đấu. Trong các buổi nhóm, thậm chí họ tranh đua với người khác. Nhưng hễ khi nào còn tranh đấu, cố gắng, tranh đua, anh em vẫn chưa được yên nghỉ. Thay vì tranh đấu và tranh đua, nên buộc lừa mình vào Cây Nho, là Christ, Nguồn Sự Sống, Đấng đầy dẫy sự sống. Christ không chỉ là Cây Nho, mà thậm chí còn là Cây Nho tốt nhứt, Nguồn Sự Sống tốt nhứt. Chúng ta phải ngưng lao nhọc, và yên nghỉ trong Ngài.
Bây giờ chúng ta cần thấy làm thế nào để buộc lừa mình vào cây nho. Trong việc giành chiến thắng trên kẻ thù, Christ là Sư Tử. Nhưng với chúng ta, Ngài là Cây Nho để chúng ta thỏa lòng và yên nghỉ. Chính qua chiến thắng của Ngài mà Ngài có thể trở thành Cây Nho. Nếu Christ chưa bao giờ chiến thắng, Ngài không bao giờ có thể là Cây Nho cho chúng ta. Nhưng vì chiến thắng là của Christ, Ngài là Cây Nho tràn đầy sự sống cho chúng ta. Do đó, chúng ta phải ngưng lao nhọc, chịu buộc vào Ngài và yên nghỉ trong Ngài.
Khi đọc bài này, một số người có thể nghĩ rằng tôi đã đi quá xa trong việc giải thích các hình bóng này để áp dụng cho Christ. Nhưng nếu không giải thích câu 11 theo cách này, thì giải thích bằng cách nào? Buộc lừa của anh em vào cây nho có nghĩa gì? Một số người có thể nói rằng điều này liên hệ với các sự phong phú của chi phái Giu-đa, rằng đó là hình ảnh cho thấy chi phái Giu-đa tràn trề rượu đến nỗi ngay cả những con lừa đang lao động cũng có thể được buộc vào cây nho. Điều này đúng. Nhưng xin nhớ rằng câu 11 cũng là một hình ảnh và là sự minh họa. Chúng ta đã thấy rằng theo Khải Thị 5:5, Christ là Sư Tử thuộc chi phái Giu-đa. Dựa trên nguyên tắc giải thích về sư tử trong câu 9 là Đấng Christ đắc thắng, có thể nói rằng ý nghĩa của việc buộc lừa vào cây nho là ngưng sự lao nhọc của mình trong Christ là Nguồn Sự Sống. Đây không phải là sự giải thích giàu tưởng tượng mà là sự giải thích đúng đắn, chân thật và hợp lý theo nguyên tắc Kinh Thánh. Cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta sự giải thích đúng đắn này. Ha-lê-lu-gia! Chúng ta có Cây Nho để có thể buộc lừa vào! Anh em có đang laonhọc không? Anh em có đang cố gắng và đang hành trình để đến mục tiêu của mình không? Ngay cả những bạn trẻ giữa vòng chúng ta cũng cần phải nói: “Ngợi khen Chúa! Con không cần lao nhọc, không cần tranh đấu hay hành trình nữa. Con chỉ cần buộc lừa vào cây nho”.
2. Làm Cho Cách Cư Xử Của Chúng Ta
Chìm Ngập Trong Sự Vui Hưởng
Các Sự Phong Phú Của Sự Sống Đấng Christ
Câu 11 cũng chép: “Người giặt áo xống mình vào rượu nho,/ Cùng lấy huyết nho lau áo tơi mình”. Cách đây nhiều năm, tôi không thể hiểu giặt áo xống mình trong rượu và áo quần mình trong huyết nho có nghĩa là gì. Trong Kinh Thánh, cách cư xử trong đời sống hằng ngày được ví như áo xống. Nói theo biểu tượng, áo xống hay áo quần tượng trưng cho cách cư xử của chúng ta, tiêu biểu cho cách ăn ở và hành động của chúng ta.Vì thế, giặt áo xống trong rượu và áo quần trong nước nho có nghĩa là làm cho cách cư xử, bước đi hằng ngày của chúng ta chìm ngập trong sự vui hưởng các phong phú của sự sống Đấng Christ.
Cả rượu nho và nước nho là để nuôi dưỡng. Nước nho chủ yếu làm đã khát trong khi rượu nho chủ yếu làm hưng phấn. Cơn khát của chúng ta cần được làm cho thỏa, còn sự hưng phấn cần được khuấy động lên. Mỗi Cơ-đốc nhân phải “cuồng”, phải hết sức phấn khích trong ý nghĩa đúng đắn. Đây là chức năng của rượu nho. Uống nước nho là để làm thỏa cơn khát. Một mặt, Đấng Christ giàu có khuấy động sự hưng phấn; mặt khác, Ngài làm thỏa cơn khát của chúng ta. Chúng ta cần để cho hành vi, cách cư xử hằng ngày và hành động của mình được dầm thấm trong sự vui hưởng sự sống của Christ cách phong phú. Khi ấy, hành vi của chúng ta sẽ được dầm thấm, thấm đẫm bằng sự vui hưởng các sự phong phú của sự sống Đấng Christ cách trọn vẹn. Khi đó, người khác sẽ nói: “Hãy nhìn những Cơ-đốc nhân này. Hãy xem cách họ sống và cư xử! Chắc chắn phải có điều gì đó làm họ như vậy”. Điều gì đó này là sự sống phong phú của Christ như rượu gây hưng phấn, làm chúng ta dứt dấy; và như nước giải khát làm chúng ta thoả mãn. Những Cơ-đốc nhân như vậy đầy vui mừng, thỏa lòng, sôi nổi và thậm chí hết sức phấn khích trong niềm vui. Vì phấn khởi như thế, họ trở nên sôi động. Hành vi, bước đi hằng ngày và mọi hoạt động của họ đầy dẫy sự sống của Christ là rượu và nước nho.
Anh em có phải là loại Cơ-đốc nhân lúc nào cũng chán nản không? Anh em có phải là một Cơ-đốc nhân không biết cách vui mừng, là người luôn nhíu mày dài mặt và buồn bã không? Tất cả những ai ở trong Vương Quốc của Christ phải mỉm cười, vui mừng, thỏa thích, phấn khởi, vui vẻ và thỏa lòng. Điều này cho thấy rằng chúng ta đang làm cho cách cư xử của mình được dầm thấm trong sự vui hưởng sự sống của Christ cách phong phú
3. Được Biến Đổi Bởi Sự Vui Hưởng Và
Sự Nuôi Dưỡng Phong Phú Của Sự Sống Đấng Christ
Qua việc yên nghỉ trong sự vui hưởng các điều phong phú trong sự sống của Christ, chúng ta được biến đổi. Câu 12 chép: “Mắt người đỏ vì cớ rượu,/ Răng người trắng vì cớ sữa”. Điều này tượng trưng cho sự biến đổi bởi sự sống phong phú của Christ. Khi được biến đổi theo cách này, dáng vẻ bên ngoài của chúng ta thay đổi. Những người trải qua nạn đói có đôi mắt thâm quần vì họ thiếu dinh dưỡng, thiếu máu cung ứng cho đôi mắt. Nhưng chúng ta, dân Vương Quốc, những người vui hưởng Christ thì không bao giờ suy dinh dưỡng. Trái lại, chúng ta được nuôi dưỡng đầy đủ đến nỗi mắt trở nên đỏ. Điều này cho thấy chúng ta đã được biến đổi từ sự chết qua sự sống. Nếu mặt tôi sạm lại, anh em sẽ rất lo cho sức khỏe của tôi, có lẽ cho rằng tôi sẽ không sống lâu.Nhưng mặt tôi không sạm lại. Sắc mặt tôi rất khỏe vì những bữa ăn của tôi đầy bổ dưỡng. Ha-lê-lu-gia! tôi đã được biến đổi từ sự chết qua sự sống! Theo câu 12, mắt đỏ vì rượu. Màu đỏ này không do pha màu hay sơn phết bên ngoài, nhưng do rượu tạo năng lượng bên trong.
Câu 12 cũng nói về răng được trắng bởi sữa. Răng có hai chức năng. Thứ nhứt, để ăn, để nhận thức ăn vào miệng; thứ hai, để giúp chúng ta nói. Màu trắng của răng ở đây cho thấy chức năng đúng đắn, khỏe mạnh của răng. Do nhận vào chất bổ dưỡng thích hợp, tôi có hàm răng trắng, khỏe, để nhận Lời Đức Chúa Trời vào như thức ăn, và nói Lời Ngài ra để người khác được nuôi dưỡng. Để nhận Lời Đức Chúa Trời vào làm sự nuôi dưỡng của mình và để nói Lời ấy ra nhằm nuôi dưỡng người khác, chúng ta phải có hàm răng khỏe. Không nhiều Cơ-đốc nhân có thể nhận Lời Đức Chúa Trời vào cách đúng đắn hay nói Lời Ngài ra cách mạnh mẽ. Nhưng mỗi Cơ-đốc nhân đúng đắn, khỏe mạnh phải là người nhận Lời Đức Chúa Trời vào cách đúng đắn và nói Lời Ngài ra cách phong phú.
Trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta đang ngưng lao nhọc, đang yên nghỉ trong Christ và vui hưởng các điều phong phú của sự sống Christ như rượu nho và nước nho.Chúng ta cũng đang làm cho cách cư xử của mình được dầm thấm trong sự vui hưởng phong phú này. Cuối cùng, chúng ta sẽ có hương thơm của Christ. Khi ấy, toàn bản thể chúng ta sẽ được biến đổi hoàn toàn và đầy dẫy sự sống; chúng ta có thể nhận Lời Đức Chúa Trời vào làm sự nuôi dưỡng và nói Lời Ngài ra để nuôi dưỡng người khác.Đây là sự vui hưởng và yên nghỉ trong Đấng Christ đắc thắng. Do đó, trong các câu từ 8 đến 12, ba hạt giống quan trọng được gieo: hạt giống về chiến thắng của Christ, hạt giống về Vương Quốc của Christ, và hạt giống về sự vui hưởng và yên nghỉ trong Christ. Các hạt giống này, mà cần phải có cả Cựu Ước lẫn Tân Ước để phát triển, là tin vui thật, Phúc Âm thật. Tin vui này đã được Gia-cốp công bố trong lời tiên tri bằng sự chúc phước của ông về Giu-đa.
Witness Lee