buy sertraline uk
buy sertraline uk
CHƯƠNG MƯỜI
CÁC QUYỀN NĂNG CỦA THỜI ĐẠI SẮP ĐẾN
Tác giả sách Hê-bơ-rơ có ý gì khi ông nói về các Cơ-đốc-nhân “đã nếm trước... các quyền năng của thời đại sắp đến” (Hê. 6:5)? Tất cả chúng ta đều đồng ý rằng có một thời đại tương lai huy hoàng mà chúng ta mong đợi. Trong thời đại ấy, vương quốc mà hiện nay “ở giữa” chúng ta như là sự hành động mạnh mẽ của Linh Đức Chúa Trời (Mat. 12:28) khi ấy sẽ được mọi mắt trong vũ trụ trông thấy và không một thế lực nào dám thách thức. Vương quốc của thế gian khi ấy đã trở nên vương quốc của Đức Chúa Trời chúng ta và của Đấng Christ của Ngài (Khải. 11:15). Nhưng chúng ta có thể thắc mắc rằng như vậy thì “các quyền năng” mà ngày nay chúng ta chỉ nếm chứ chưa được thưởng thức cách trọn vẹn ấy là gì? Hiển nhiên đó là những điều chúng ta nhận lãnh và vui hưởng, vì từ ngữ “nếm” không chỉ ngụ ý một giáo lý để suy nghĩ hay phân tích, nhưng chỉ về một điều gì đó trong kinh nghiệm chủ quan và thuộc riêng về chúng ta. Các quyền năng này là vị nếm trước của một bữa tiệc có nhiều món ăn hơn nữa sẽ dọn ra sau mà chúng ta chỉ mới ăn được một ít.
Chúng ta có thể liệt kê nhiều điều như vậy mà Kinh-thánh đang hướng đến, ấy là sự cứu rỗi được bày tỏ trong thời sau cùng (1 Phi. 1:5), phương diện tươi mới của sự sống đời đời trong thời đại sắp đến (Lu. 18:30), sự nghỉ ngơi còn lại cho dân của Đức Chúa Trời (Hê. 4:9), thân thể chết chóc của chúng ta sẽ được phục sinh và đổi mới (La. 8:23; 1 Cô. 15:14), ngày mọi sự gây vấp ngã cho người ta đều bị cất bỏ (Giê. 31:9; Ês. 57:14; 62:10), thời điểm mà mọi người sẽ đều biết Chúa, từ người nhỏ nhất đến người lớn nhất (Giê. 31:34; Hê. 8:11), và thật vậy, khi ấy trái đất đầy dẫy sự hiểu biết về vinh quang của Chúa như các dòng nước che lấp biển (Ês. 11:9; Ha. 2:14). Hiện nay chúng ta được thật sự nếm trước tất cả những điều này trong Đấng Christ, nhưng chúng ta chưa thấy chúng cách trọn vẹn.
Những phần suy gẫm sau đây có liên quan trực tiếp với những gì chúng ta đang học tập. Thư gửi cho người Hê-bơ-rơ áp dụng lời trong Thi-thiên thứ 8 cho Chúa Giê-su chúng ta: “Chúa khiến muôn vật phục dưới chân người”, và sau đó, thư này nói tiếp một cách thẳng thắn, bày tỏ những gì mà kinh nghiệm chung của mọi người bắt buộc chúng ta phải thừa nhận, tức là “chúng ta chưa thấy muôn vật phục người” (Hê. 2:8). Nhưng bên cạnh hai lời tuyên bố tương phản này, chúng ta cũng phải đặt lời tuyên bố của Chúa Giê-su trong Lu-ca 10:19, là chỗ Ngài đã ban cho các môn đồ Ngài “uy quyền... trên mọi năng lực của kẻ thù nghịch”. Chắc chắn đối với chúng ta, lời ấy hứa cho chúng ta được nếm trước trong hiện tại điều thuộc ngày tương lai mà chúng ta chưa thấy được.
Một lần nữa, trong cùng phân đoạn Phúc-âm này, cũng ghi lại lời Chúa Giê-su nói: “Ta thấy Sa-tan từ trời sa xuống như chớp” (10:18). Trong Khải-thị 12:9, dường như Giăng đặt biến cố này rất xa trong tương lai. Tuy nhiên, rõ ràng Chúa Giê-su ngụ ý điều ấy từ quan điểm của Hội-thánh làm chứng, theo một ý nghĩa nào đó thì điều này là một sự kiện hiện tại đã xảy ra rồi. Hơn nữa, trong một chương sau này của Khải-thị, Giăng được cho thấy ngày Sa-tan bị xiềng một ngàn năm (20:1-4). Tuy nhiên, Chúa Giê-su nói về “người mạnh sức” như đã bị trói rồi, để thậm chí bây giờ chúng ta có thể xâm nhập vào nhà của hắn để cướp của (Mat. 12:29).
Đây là những lời tuyên bố quan trọng; vì chắc chắn nếu chúng ta sở hữu sự cứu rỗi và sự sống đời đời trong hiện tại, như chúng ta vẫn chắc chắn đã có, thì ngày nay chúng ta cũng đang nếm trước về những điều còn lại của “các quyền năng” ấy trong tương lai. Vì mặc dầu chưa được bày tỏ cách phổ thông, chúng rõ ràng là những kết quả của Thập Tự Giá và sự phục sinh của Đấng Christ, nên ít nhất trên nguyên tắc, chúng phải là tài sản hiện tại của Hội-thánh.
Mục đích đời đời của Đức Chúa Trời có liên quan chặt chẽ với loài người. Ngài phán: “Chúng ta hãy làm nên loài người theo hình ảnh chúng ta, theo hình dạng chúng ta, và cho họ quyền thống trị”. Đức Chúa Trời dự định con người nắm quyền hành để trị vì và cai trị, điều khiển các tạo vật khác. Chúng ta không thể nói rằng sự cứu chuộc là kế hoạch của Đức Chúa Trời, dầu chỉ là một phần, vì Ngài không bao giờ dự định loài người sẽ sa ngã, huống chi là hư mất. Sáng-thế Ký chương 3 trình bày lịch sử loài người, chứ không nói lên mục đích Đức Chúa Trời dành cho họ. Có thể một người thợ ngã từ tầng thứ năm của một tòa nhà đang được xây dựng, nhưng điều đó không bao giờ nằm trong kế hoạch của kiến trúc sư!
Không, kế hoạch của Đức Chúa Trời liên quan đến sự thống trị của con người, và chúng ta nên lưu ý lãnh vực đặc biệt của sự thống trị này, tức là “khắp cả đất” (Sáng. 1:26). Trên trời không có vấn đề; vấn đề là ở trên đất. Loài người được dặn bảo: “Hãy làm cho đất phục tùng” (c. 28), chúng ta tự hỏi vì sao. Nếu không có những thế lực phải bị bắt phục, thì tại sao cần phải làm như vậy? Hơn nữa, chúng ta được biết Đức Chúa Trời đem con người đặt trong Vườn Ê-đen để trồng và “giữ vườn” (2:15). Từ ngữ này có ý nghĩa sâu hơn từ ngữ thông thường có nghĩa là “giữ” trong tiếng Hê-bơ-rơ. A-đam phải canh giữ Pa-ra-đi của Đức Chúa Trời, và một lần nữa, điều này ngụ ý có một kẻ thù đâu đó, mà A-đam cần canh giữ không cho hắn đến gần.
Thật thích thú khi chúng ta lưu ý cách dùng chữ của Sáng-thế Ký 1:26. Con người phải thống trị “trên khắp cả đất”, giữa những loài khác, và mệnh đề được mở rộng để bao hàm “loài bò sát bò trên mặt đất”. Nhưng trong sự việc đã xảy ra, vật đầu tiên con người không kiểm chế được là một loài bò sát, một con rắn. Do sự thất bại của con người, Sa-tan đã nhận được những quyền hạn hợp pháp trên trái đất bằng một phương cách mới trong chính con người. Đúng vậy, bụi đất là lãnh vực thấp hèn được chỉ định cho hắn. “Mầy sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất” (3:14). Nhưng bụi đất là gì? Đó là tố chất mà nhờ đó A-đam đã được dựng nên! Như vậy, nói theo lẽ phải, con người trong xác thịt hiện nay đang phục tùng Sa-tan. Kẻ thù của Đức Chúa Trời đã giành được quyền sở hữu rõ ràng đối với tất cả những gì con người là và có theosự ra đời thiên nhiên. Sự sống của con người thiên nhiên là bàn đạp cho những hoạt động của Sa-tan trên trái đất này. Thế giới của Sa-tan phát sinh và tìm được sức mạnh trong quyền hạn mà hắn có nơi con người, ngay cả Đức Chúa Trời cũng không bàn cãi về những quyền hạn này. Do sự thất bại của A-đam, Sa-tan đã giành được quyền sở hữu tất cả những gì thuộc về cõi sáng tạo cũ.
Nếu Sa-tan bắt buộc phải ngưng hành động trong chúng ta, thì hắn mất vị thế trong chúng ta. Cho nên Đức Chúa Trời giải quyết tình huống bằng sự cứu chuộc, không phải bằng cách xử lý Sa-tan cách trực tiếp, nhưng như chúng ta đã thấy, bằng cách cất bỏ và dẹp sạch toàn bộ cõi sáng tạo cũ: chính con người, thế gian của con người và mọi sự, và qua đó lấy mất chỗ đứng hợp pháp của Sa-tan. Sự lật đổ Sa-tan không chỉ bao gồm trong một cú đấm trực tiếp nhắm vào hắn, nhưng gián tiếp do sự chết của Đấng Christ để tước đoạt khỏi hắn tất cả những gì theo lẽ phải đã trao cho hắn quyền điều khiển. “Người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh với Ngài, hầu cho thân thể tội lỗi bị diệt trừ, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội nữa” (La. 6:6).
Ngợi khen Đức Chúa Trời, vì vậy, Sa-tan không còn quyền hạn nào cả trong chúng ta. Nhưng đó chỉ là sự kiện tiêu cực. Cũng có sự kiện tích cực nữa. Đức Chúa Trời không những dời đi tất cả những gì cản trở mục đích đời đời của Ngài bằng cách cất bỏ cõi sáng tạo cũ mà Ngài còn đạt được tất cả những gì cần thiết để làm cho mục đích ấy trở nên thực tại bằng cách đem cõi sáng tạo mới đến, tức là Con Người Mới của Ngài. “Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại thì không còn chết nữa; sự chết không còn chủ trị trên Ngài được” (c. 9). Mục đích được khải thị trong Sáng-thế Ký chương 1 và bị mất đi trong chương 3 đã không bị mất mãi mãi. Điều gì Đức Chúa Trời không đạt được trong con người thứ nhất, Ngài đạt được trong Con Người thứ hai; và Con Người thứ hai ấy ở trên ngai. Không có gì ngạc nhiên khi người viết Tân Ước dám áp dụng lại lời của tác giả Thi-thiên: “Loài người là gì mà Chúa nhớ đến? Con loài người là chi, mà Chúa thăm viếng nó?... Chúa đội cho người sự vinh hiển và sang trọng!” Vậy, ông trích dẫn Thi-thiên, rồi reo lên: “Chúng ta thấy Giê-su… được đội vương miện… (Thi. 8:4-6; Hê. 2:6-9). Nếu cõi sáng tạo của nhân loại được dự định để đáp ứng nhu cầu của Đức Chúa Trời, thì bây giờ nhu cầu ấy cuối cùng đã được đáp ứng. Đức Chúa Trời đã có được Con Người của Ngài.
Vậy, Sáng-thế Ký chương 1, Thi-thiên thứ 8 và Hê-bơ-rơ chương 2 được liên kết với nhau cách độc đáo. Dĩ nhiên Thi-thiên thứ 8 thuộc về thể thi ca và hát lên kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại, nhưng điều quan trọng là mặc dầu có sự Sa Ngã, người ca hát vẫn không lạc hướng, mà cứ tái khẳng định kế hoạch nguyên thủy của Sáng-thế Ký chương 1: “Chúa ban cho người quyền thống trị”. Điều này không thay đổi. Hơn nữa, không những ông bắt đầu, nhưng còn kết thúc bài ca của mình với một lời reo lên ca ngợi: “Danh Chúa tuyệt mỹ trên khắp trái đất biết bao!”
Kẻ thù đã làm điều tệ hại nhất mà hắn có thể làm được, con người đã bị mắc bẫy trở nên phạm thượng đến Đức Chúa Trời, và nếu anh em hoặc tôi sáng tác Thi-thiên này, chắc chắn chúng ta đã tiếp theo câu 8 với một lời ta thán: “Nhưng than ôi, con người đã sa ngã, tất cả đều đã mất hết rồi!” Tác giả Thi-thiên không làm như vậy.Dường như ông hoàn toàn quên sự Sa Ngã, vì thậm chí ông không ám chỉ gì đến nó. Tư tưởng ông trổi cao, vượt qua toàn bộ lịch sử của sự cứu chuộc, và ông lại reo lên: “Tuyệt mỹ biết bao!” A-đam và Ê-va có thể sa ngã, nhưng họ không thể thay đổi mục đích của Đức Chúa Trời, ấy là cuối cùng con người sẽ lật đổ quyền lực của Sa-tan. Mục đích của Ngài vẫn đứng vững không chuyển lay và sự tuyệt mỹ của Ngài được nhận biết, nhưng tại đâu? Trên cả trái đất.
Không phải mục đích này chỉ được nhận biết trong Con Loài Người, nhưng trong các con loài người, là nhiều con mà Đức Chúa Trời đang đem đến vinh quang. Tác giả Thi-thiên đau đớn khi nhấn mạnh sự kiện này. Dầu kẻ thù làm điều tệ hại nhất, nhưng những quyền hạn hắn có được qua sự Sa Ngã đã chứng tỏ là có thể lấy đi được. Ở giữa loài người, có những người hắn không thể đụng đến được. “Vì các kẻ thù nghịch Chúa, Chúa do miệng trẻ thơ và những con đương bú mà lập nên năng lực Ngài, hầu cho người thù nghịch và kẻ báo thù phải nín lặng” (c. 2). Đức Chúa Trời không dựa vào những vị lãnh đạo quân đội vĩ đại. Trẻ thơ, phải, chính các em bé cũng đủ dẹp yên những đạo quân thù nghịch của Ngài.
Như chúng ta đã thấy, Thư Hê-bơ-rơ chương 2 đã nhận được cảm hứng từ Thi-thiên này. Tuy nhiên, Thư Hê-bơ-rơ đã tiến một bước xa hơn. Trong khi tái khẳng định mục đích của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo và mục tiêu mà sự sáng tạo ấy hướng đến, Thư Hê-bơ-rơ đã làm nhiều hơn như vậy. Khi chúng ta nhìn lại tiến trình lịch sử tăm tối của con người sa ngã cách thực tế, thì hiện nay, mục đích của Đức Chúa Trời trong sự cứu chuộc và sự khôi phục đang nhắm thẳng đến cùng đích giống y như vậy. Trong mọi hoàn cảnh mới mà sự cứu chuộc đã thực hiện, kế hoạch ấy vẫn không thay đổi. Đức Chúa Trời chưa bỏ mục tiêu của Ngài. Hơn nữa, theo quan điểm của tác giả, vượt xa sự đắc thắng của Thập Tự Giá, với lòng tin chắc, ông có thể quả quyết tái khẳng định trong đức tin của tác giả Thi-thiên. Vì thế, vượt trên tất cả những gì đã đánh mất, thật vẫn đúng khi nói rằng cùng đích đã được đạt đến trong Đấng Christ.
Vâng, đây vẫn là cùng một kế hoạch: “Ngài không để một vật nào không phục người” (c. 8). Những gì người ta thấy bên ngoài có khuynh hướng phủ nhận điều này, nên “chúng ta chưa thấy muôn vật phục người”. Tuy đúng như vậy, tác giả không quan tâm đến điều đó và ngay lập tức ông tiến tới cách khải hoàn: “Nhưng chúng ta thấy Ngài, Giê-su, là Đấng chịu làm thấp kém hơn thiên sứ một chút, vì đã chịu khổ sở của sự chết, mà được đội mão miện vinh hiển tôn trọng, hầu cho bởi ân điển Đức Chúa Trời mà Ngài vì mọi người phải nếm sự chết” (c. 9). Và sau đó, hầu như thách thức, ông nói thêm: “mà Ngài có thể diệt trừ... ma quỉ” (c. 14).
Những gì con người phải thực hiện cho Đức Chúa Trời trên đất này, và rồi thất bại không làm được, thì Chúa Giê-su đã hoàn thành cả. Ngài “vì mọi sự nếm sự chết ” (theo nguyên văn Hi-lạp, không chỉ “vì mọi người”). Nói như vậy tức là không phải Ngài đã chết chỉ để cứu chuộc loài người mà Ngài đã chết vì cả cõi vũ trụ, và đi lùi lại xa hơn nữa, vì sự khôi phục mục đích của Cha trong việc lật đổ hoàn toàn trật tự của Sa-tan.
Do đó, hiện nay, Hội-thánh có một trách nhiệm rõ ràng trước mặt Đức Chúa Trời, ấy là bày tỏ sự đắc thắng của Đấng Christ trên lãnh thổ của Sa-tan. Nếu phải có một chứng cớ cho các chủ quyền và các thế lực, nếu ảnh hưởng quyền tể trị tối cao của Đấng Christ nhờ Thập Tự Giá phải được bày tỏ ra trong lãnh vực thuộc linh, thì điều đó chỉ có thể thực hiện được khi chỗ đứng hợp pháp trong lòng chúng ta của “kẻ tranh vị” trong cuộc đua phải bị đối đầu, phải bị cất bỏ và loại trừ nhờ chính Thập Tự Giá ấy. Vì mục tiêu của Đức Chúa Trời vẫn là con người phải có quyền thống trị. Công tác của chúng ta cho Ngài không nên dừng lại ở việc công bố một Phúc-âm đã được định chỉ để phá hủy ảnh hưởng của Sáng-thế Ký chương 3, dầu sự phá hủy ấy kỳ diệu đến đâu chăng nữa. Đức Chúa Trời cũng muốn đem chúng ta trở lại chính Sáng-thế Ký chương 1. Ngài muốn trong Đấng Christ, chúng ta lấy lại sự thống trị phải lẽ trên kẻ thù của Ngài mà vẫn còn đang hiện diện tại đó, và vì thế, phục hồi trái đất một cách có hiệu quả cho Ngài. Như Phao-lô nói với chúng ta, chắc chắn đây là lý do vì sao “cõi sáng tạo đều thiết tha trông đợi sự hiện ra của các con Đức Chúa Trời” (La. 8:19).
Phúc-âm cứu rỗi là điều cần thiết và quan trọng để có thể đáp ứng nhu cầu của con người. Nhưng là các đầy tớ của Đức Chúa Trời, nếu chúng ta chỉ lao khổ cho người khác thì chúng ta hụt mất mục tiêu đầu tiên trong cõi sáng tạo, ấy là không chỉ cung ứng cho nhu cầu của con người nhưng còn cho nhu cầu của chính Ngài. Vì như chúng tôi đã nói, sự sáng tạo con người phải đáp ứng nhu cầu của Đức Chúa Trời. Như vậy, ngày nay để đáp ứng nhu cầu của Đức Chúa Trời, chúng ta phải tiến xa hơn một bước và xử lý chính Sa-tan. Vì Đức Chúa Trời, chúng ta phải lấy lại quyền lực của hắn, đuổi hắn khỏi lãnh thổ, cướp lấy tài sản của hắn và giải thoát những kẻ bị hắn bắt giữ. Vấn đề không chỉ là vì lý do gì chúng ta chinh phục hồn người mà trái lại vấn đề là vì lý do gì chúng ta ở trong lãnh vực của các chủ quyền và các thế lực. Có một giá phải trả cho điều đó.
Thông thường, chúng ta có thể lay chuyển con người, nhưng không thể lay chuyển Sa-tan. Sự kiện rõ ràng là để xử lý Sa-tan, chúng ta phải trả một giá đắt hơn là chinh phục hồn người. Điều này đòi hỏi một linh tuyệt đối hướng về Đức Chúa Trời mà tự chính tình trạng ấy sẽ tước đoạt cách hiệu quả bất cứ chỗ đứng phải lẽ nào của Sa-tan trong chúng ta mà hắn có thể tuyên bố rằng hắn chiếm hữu được. Đó là một điều rất đắt giá. Trong tình yêu đầy thương xót của Đức Chúa Trời dành cho người hư mất, có thể Đức Chúa Trời thường bỏ qua và không màng đến những gì một người có thể cảm thấy cách đúng đắn đó là một sự yếu đuối đáng ghê sợ hay thậm chí một sự thất bại trong các đầy tớ của Ngài. Nhưng trong khi Ngài có thể làm như vậy với một người chinh phục hồn người, thì đối với việc chúng ta xử lý Ma Quỉ lại là một vấn đề khác.
Các uế linh có thể nhìn xuyên qua chứng cớ của một người. Chúng có thể nói khi nào người ta thỏa hiệp do không hết lòng hay không thành thật. Chúng biết khi chúng ta giữ lại một phần giá phải trả. Khi nhìn chúng ta, chúng không có ảo tưởng, [nhưng biết rõ] ai là người chúng có thể phớt lờ hay bỏ mặc mà vẫn được an toàn; và trái lại, chúng biết hết sức rõ ràng ai là người chúng không có quyền năng chống lại. “Ta biết Giê-su, cũng biết Phao-lô, nhưng các ngươi là ai?” (Công. 19:15). Vì chúng tin, chúng biết lúc nào phải run rẩy. Tôi xin nói điều này: vì công tác quan trọng nhất của anh em là lật đổ chúng, nên anh em phải luôn luôn có được lời chứng của các thế lực uế linh hơn là sự khen ngợi của con người.
Nhưng giá của lời chứng này đối với các chủ quyền và thế lực là sự trung thành trọn vẹn, tuyệt đối với Đức Chúa Trời, tôi xin nhắc lại điều ấy. Nếu anh em ấp ủ những ý kiến riêng, những ước ao riêng, hay ưa thích những sự lựa chọn khác nhau và bướng bỉnh của mình, thì đó chỉ là làm cho kẻ thù có lợi thế. Tóm lại, đó là bỏ cuộc. Trong bất cứ lãnh vực nào khác thì tôi không biết, nhưng có lẽ giữa những động cơ của chúng ta còn có tư lợi mà chúng ta không chịu mất mát. Nhưng không bao giờ, tôi xin nhắc lại, không bao giờ có thể chấp nhận được trong lãnh vực này. Không tuyệt đối cho Đức Chúa Trời thì không đạt được gì cả, vì thiếu điều đó, chúng ta làm cho ngay cả Đức Chúa Trời cũng trở nên bất lực trước kẻ thù Ngài.
Vậy, tôi xin nhắc lại sự đòi hỏi ở đây rất cao. Anh em và tôi ở trên đất này có tuyệt đối phó thác, tuyệt đối dâng mình cho chính Đức Chúa Trời không? Vì thật như thế, thậm chí ngay bây giờ chúng ta có đang nếm trước các quyền năng của thời đại vinh hiển tương lai không? Chúng ta có đòi lại lãnh thổ từ kẻ cai trị của thế gian này để dâng lại cho Đấng mà chỉ một mình Ngài có quyền sở hữu nó cách đúng đắn không?
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
CƯỚP TÀI SẢN KẺ CHIẾM ĐOẠT
“Christ Giê-su đã đến trong thế gian để cứu tội nhân”. Vì trong mục đích đời đời của Đức Chúa Trời, con người (chứ không phải hữu thể nào khác) có quyền thống trị, nên khi lòng thương xót dành cho các tội nhân dấy lên trong chúng ta thì đó là điều tự nhiên và đúng đắn. Bất kể những gì đã được bàn đến nay, chúng ta có thể cảm thấy trong ngày ân điển ngắn ngủi này, việc chinh phục tội nhân cho Cứu Chúa của thế gian có lẽ là phương tiện cao cả nhất mà chúng ta có được để cướp tài sản của Sa-tan. Chắc chắn chính “con người” là chủ đề của chúng ta; vì vậy, chúng ta nên dành nhiều thì giờ ở điểm này để bàn về đề tài chinh phục hồn người.
Nhưng chúng ta đã bàn đến vấn đề truyền giáo ở một chỗ khác1. Vì vậy, thay vào đó, để kết thúc loạt bài nghiên cứu về “thế gian”, tôi đề nghị chúng ta nên lấy một khía cạnh khác có tính cách vật chất hơn trong lãnh vực của Sa-tan bằng những sự minh họa thực tế về nghệ thuật “tước đoạt tài sản của kẻ mạnh mẽ”. Tôi muốn nói đến khía cạnh về tài chánh.
Tiền bạc chống nghịch với Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời nói tiền bạc là ma-môn của sự bất chính (Lu. 16:9). Vì Chúa Giê-su phán: “Hãy dùng ma-môn bất chính mà kết bạn”, rõ ràng Ngài không có ý chỉ về ma-môn là những gì anh em có được do làm ăn bất chính. Vì vậy, Ngài nói rằng chính ma-môn là bất chính. Những gì phô bày trước mặt chúng ta đây không phải là phương tiện bất chính để kiếm tiền, cũng không phải cách sử dụng tiền bất chính, nhưng là tính chất bất chính của tiền bạc. Tiền bạc vốn là xấu, ác. Chúng ta thường nói về “tiền bạc trong sạch” và “tiền bạc dơ bẩn”, nhưng theo cái nhìn của Đức Chúa Trời, chỉ có loại tiền bạc dơ bẩn mà thôi. Những người biết Đức Chúa Trời đều biết tính chất của tiền bạc. Họ biết rằng tiền bạc tự nó là xấu.
Nếu muốn thử nghiệm tính chất của một điều gì, anh em chỉ cần hỏi xem điều đó dẫn anh em đến với Đức Chúa Trời hay xa khỏi Ngài. Tiền bạc luôn luôn dẫn anh em xa khỏi Đức Chúa Trời. Trong câu 13, Chúa Giê-su đã đặt một nguyên tắc rõ ràng, đó là không thể hầu việc cả Đức Chúa Trời lẫn ma-môn, dầu tôi nghĩ rằng ngay cả nếu không có lời tuyên bố của Ngài, hầu hết mọi người trong chúng ta cũng đều được thuyết phục như vậy. Vì kinh nghiệm cho chúng ta biết Đức Chúa Trời và ma-môn không bao giờ đứng về một phía; ma-môn luôn luôn được đặt chống nghịch với Đức Chúa Trời.
Đương nhiên là chúng ta có thể giải thích lời của Chúa Giê-su cách phóng khoáng hơn, và xem “ma-môn” tượng trưng cho tất cả những gì nói chung nghịch lại Đức Chúa Trời. Nhưng sứ đồ Phao-lô giúp chúng ta vạch rõ tiền bạc là phương tiện thế gian sử dụng thành công nhất để kéo chúng ta xa khỏi Đức Chúa Trời. Ông nói: “Còn như người muốn giàu có thì rơi vào sự cám dỗ, lưới bẫy và nhiều sự tham muốn ngu dại và tổn hại, là những điều khiến người ta đắm chìm trong sự bại hoại và diệt vong.Vì sự yêu mến tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có người vì đeo đuổi nó mà bị dẫn dụ lìa bỏ đức tin, và bị nhiều sầu khổ xâu xé mình” (1 Ti. 6:9, 10). Nói cách khác, nếu có một điều gì có thể dẫn dụ chúng ta xa khỏi Đức Chúa Trời, thì điều đó là tiền bạc.
Thực chất của thế gian là tiền bạc. Bất cứ khi nào anh em đụng đến tiền bạc, anh em đụng vào thế gian. Có một vấn đề được đặt ra, ấy là làm thế nào chúng ta sử dụng một điều mình biết chắc chắn thuộc về thế gian mà không bị liên hệ đến hệ thống thế gian? Làm thế nào chúng ta quản lý và làm ăn buôn bán bằng tiền bạc, là điều thuộc thế gian hơn tất cả những điều thế gian khác, mà không bị dính líu đến Sa-tan? Hơn nữa, vì ngày nay không thể thực hiện điều gì mà không phải trả tiền nên làm thế nào chúng ta có thể lấy tiền bạc, là nhân tố cao nhất trong sự xây dựng vương quốc của antichrist, mà sử dụng nó để xây dựng vương quốc của Đấng Christ?
Người đàn bà góa bụa là người dâng rất ít tiền mình có vào kho đền thờ đã làm một việc vừa ý Chúa đến nỗi bà được Ngài khen ngợi đặc biệt. Thật ra, đây là điều bà đã làm: bà lấy một điều gì đó từ vương quốc của Sa-tan mà đóng góp nó cho vương quốc của Đức Chúa Trời, và Chúa Giê-su đã tán thành hành động ấy. Chúng ta hãy tự hỏi, sự chuyển dời ấy đã được thực hiện như thế nào? Làm thế nào có thể lấy tiền, là điều mà bản chất vốn bất chính, để xây dựng vương quốc của Đức Chúa Trời? Làm sao anh em biết được mọi mối liên hệ giữa thế gian và đồng tiền trong túi mình đã bị cắt đứt? Anh em có dám nói rằng không có đông tiền nào trong tài sản của anh em được ghi trong sổ sách của Sa-tan không?
Trên mỗi đồng đơ-ni-ê La-mã đều có hình Sê-sa. Theo lời Chúa Giê-su, tất cả những đồng tiền ấy đều “thuộc về Sê-sa”. Làm thế nào mối liên hệ giữa Sê-sa và đồng tiền ấy bị cắt đứt? Tiền bạc là điều thuộc về thế gian. Đó là một phần thiết yếu của hệ thống thế gian. Vậy thì làm thế nào lấy tiền bạc vốn được thế gian tuyên bố quyền sở hữu trên tiền ấy ra khỏi thế gian và dâng lên cho Đức Chúa Trời sử dụng?
Trong thời Cựu Ước, có một nguyên tắc bất di dịch được thiết lập: “Hễ vật gì cấm, tức mọi vật mà một người dâng cho Đức Giê-hô-va từ những của cải mình có, hoặc người, hoặc loài vật, hoặc ruộng tổ nghiệp, thì không được phép bán, cũng không được phép chuộc lại; hễ vật gì cấm thì biệt ra chí thánh cho Đức Giê-hô-va” (Lê. 27:28). Nói cách khác, không có sự hủy diệt thì không có sự dâng hiến thật. Vào thời đó, nếu đem một con chiên dâng cho Đức Chúa Trời thì con chiên ấy không được đặt trước mặt Ngài để tiếp tục làm một con chiên sống và sanh ra chiên con, mà được đặt trước mặt Ngài để làm sinh tế. “Nó phải bị giết đi” (c. 29). Sự hủy diệt là dấu hiệu sinh tế ấy được chấp nhận.
Tất cả tiền bạc thật sự dâng hiến cho Đức Chúa Trời phải trải qua nguyên tắc hủy diệt; tức là thế gian phải ngưng hiện hữu, và đối với tôi, tiền bạc cũng phải ngưng hiện hữu. Khi Chúa chúng ta khen người đàn bà góa chồng vì đã bỏ hai đồng xu vào kho, Ngài nhận xét rằng bà đã bỏ bios của mình vào đó, tức là bỏ sự sống mình.“Bà này... bỏ vào hết của mình có, tức là hết cả của bà có để nuôi mình” (Mác 12:44). Nhiều người chỉ bỏ tiền vào kho của Chúa; bà bỏ sự sống mình cùng với tiền của mình vào đó. Nói cách khác, khi số tiền ấy ra khỏi tài sản bà, sự sống của bà cùng ra đi với tài sản ấy. Khi dâng hai đồng xu, bà đã dâng tất cả.
Nếu tiền bạc của anh em phải ra khỏi thế gian, thì sự sống của anh em cũng phải ra khỏi thế gian. Anh em không thể giữ chính mình lại và rồi đóng góp một điều gì đó có ý nghĩa cho Đức Chúa Trời. Anh em không thể gửi tiền ra khỏi thế gian, anh em chỉ có thể đem tiền [theo mình] ra khỏi thế gian!
Như vậy, chuyển tiền từ lãnh vực của thế gian qua lãnh vực của Đức Chúa Trời không phải là chuyện dễ, điều này liên quan đến sự đau đớn như khi sinh nở. Chuyển hồn người từ Sa-tan qua Đức Chúa Trời thật ra dễ hơn chuyển tiền từ Sa-tan qua Đức Chúa Trời. Bởi ân điển của Đức Chúa Trời, những người nam, người nữ có thể được Đức Chúa Trời chinh phục dầu chúng ta có dâng mình cho Ngài cách tuyệt đối hay không; nhưng đối với tiền bạc thì không phải như vậy. Cần phải có quyền năng thuộc linh lớn lao để đổi siếc-lơ của chúng ta, vốn có bản chất xấu xa, thành ra siếc-lơ thuộc nơi thánh. Tiền bạc cần chuyển đổi cũng như con người cần được hoán cải, và tôi tin rằng, tiền bạc cần được làm cho mới lại (nếu nói theo một ý nghĩa khác) y như hồn người cần được đổi mới. Nhưng việc anh em đem tiền đến dâng vào ngân quỹ tự nó sẽ không thay đổi tính chất của số tiền anh em đem dâng. Sự sống của anh em phải cùng ra đi với tiền bạc của mình, nếu không, tiền bạc không thể được giải phóng khỏi vương quốc của Sa-tan để chuyển qua vương quốc của Đức Chúa Trời. Giá trị thuộc linh của công tác anh em làm cho Đức Chúa Trời tùy thuộc rất nhiều vào việc tiền bạc anh em quản lý có được chuyển khỏi hệ thống của Sa-tan không. Tôi xin hỏi anh em đã chuyển tiền bạc mình chưa? Anh em có thể tuyên bố rằng không có tiền bạc nào trong tay anh em thuộc về thế gian không? Bây giờ anh em có thể nói rằng tiền bạc của mình không còn là một phần của kosmos, vì tất cả đều đã được chuyển đi không? Anh em có vui lòng thưa với Đức Chúa Trời: “Con muốn chuyển tất cả tiền bạc con kiếm được bằng sức lao động của con, và mọi tiền bạc người khác biếu con để chúng đều thuộc về Ngài” không?
Đối với Phao-lô, nguyên tắc rất đơn giản: Chúng tôi muốn anh em chứ không phải những gì thuộc về anh em. Ông nói về các thánh đồ Ma-xê-đoan là những người đã dâng hiến rất rộng rãi trong tình cảnh nghèo khó của họ như sau: “Họ... trước hết dâng chính mình cho Chúa”, rồi họ cũng đã dâng tiền bạc của mình (2 Cô. 8:5). Phao-lô đã được huấn luyện theo Cựu Ước vì trong thời Cựu Ước, sự dâng hiến của cải vật chất luôn luôn gắn liền với sự dâng hiến con người mang của tế lễ đến. Có thể lý luận của ông bắt nguồn từ đó.
Có lẽ điều này có vẻ gây sửng sốt, nhưng đó là sự thật, ấy là Đức Chúa Trời có một nguồn tài chánh giới hạn, trong khi nguồn của Sa-tan thì vô hạn. Có lẽ anh em tự hỏi làm thế nào lời tuyên bố này có thể hòa hợp với lời Chúa cho rằng tất cả bạc và vàng đều thuộc về Ngài. Tuy nhiên, chính Chúa Giê-su lại nói rằng có những điều thuộc Đức Chúa Trời và có những điều thuộc Sê-sa. Cuối cùng, chắc chắn tất cả của cải vật chất đều thuộc về Đức Chúa Trời là Đấng Tạo hóa, nhưng số tiền trong kho của Đức Chúa Trời ngày nay bị giới hạn bởi số người dâng mình cho Ngài.
Nếu sống trong thời Cựu Ước, tôi có thể tính ra ngay số tiền trong đền thờ. Tôi sẽ hỏi tổng số con dân Y-sơ-ra-ên là bao nhiêu và nhân với nửa siếc-lơ bạc để chuộc mua mỗi người (Xuất. 30:11-16). Tôi cũng cộng thêm năm siếc-lơ cho mỗi đầu người về việc chuộc lại mỗi một con đầu lòng Y-sơ-ra-ên mà trội hơn số người Lê-vi đã được chuộc (Dân. 3:39-51). Sau đó tôi cũng cộng thêm vào hai số trên giá trị trên mỗi cá nhân tự nguyện dâng mình cho Chúa, tùy theo siếc-lơ thuộc đền thờ (Lê. 27:1-8). Vâng, số dân của Đức Chúa Trời quyết định số tiền của Đức Chúa Trời. Mức giới hạn tài sản trong kho Đức Chúa Trời căn cứ trên số người dâng mình cho Ngài.
Như vậy, vấn đề quan trọng mà mỗi người trong chúng ta cần phải trả lời là số tiền tôi chạm đến hôm nay có tượng trưng cho siếc-lơ thuộc đền thờ, hay cho ma-môn bất chính? Mỗi khi tôi nhận được một đồng, hay kiếm được một đồng, ngay lập tức, tôi phải bảo đảm rằng đồng tiền ấy được chuyển ngay từ tiền của thế gian thành tiền của đền thờ. Tiền bạc có thể hủy diệt chúng ta, nhưng cũng có thể bảo vệ chúng ta. Đừng khinh tiền bạc, giá trị của nó là thật đến nỗi chúng ta không thể khinh khi. Tiền bạc có thể đáng kể đối với Chúa. Nếu chính anh em ra khỏi thế gian với cả tấm lòng và hồn của mình, nếu Đức Chúa Trời muốn, anh em có thể đem nhiều vật quí báu ra khỏi thế gian cùng với mình. Khi người Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, họ đem theo mình nhiều tài sản. Họ lấy hết của cải người Ai-cập, và chiến lợi phẩm họ đem theo mình để xây dựng Đền Tạm. Chúng ta nhớ lại thế nào một số người cũng đã đúc bò con bằng vàng và gây mất mát cho Đức Chúa Trời. Nhưng khi dân của Đức Chúa Trời lìa Ai-cập, thì Đền Tạm, ít nhất là của cải của Đền Tạm, cũng lìa Ai-cập với họ. Vàng, bạc, đồng, vải của Ai-cập, tất cả đều được chuyển ra và đóng góp cho đền thờ của Đức Chúa Trời.
Nếu anh em có thể tìm thấy thực tại ấy trong thời Cựu Ước thì tiêu chuẩn được đặt ra trong thời Tân Ước còn phải cao hơn biết bao! Bí quyết của thời Tân Ước về toàn bộ vấn đề tài chánh là chúng ta không giữ gì cho chính mình. “Hãy cho, thì các ngươi sẽ được cho lại”, đó là Lời của Chúa chúng ta (Lu. 6:38), không phải là “Hãy để dành thì các ngươi sẽ trở nên giàu có”! Nói như vậy có nghĩa là nguyên tắc của sự gia tăng thần thượng ấy là ban cho chứ không phải tích trữ. Đức Chúa Trời đòi hỏi mỗi người trong chúng ta phải cho một cách tương xứng, không phải cho tùy hứng; tức là Ngài ao ước một sự ban cho không tùy thuộc vào ý muốn bất thường, nhưng là kết quả của việc chúng ta đạt đến một giao ước rõ ràng với Ngài về vấn đề này, và giữ vững giao ước ấy.
Như chúng ta đã thấy, bí quyết thật để chiếm đoạt tài sản của Sa-tan là dâng hiến chính bản thân mình. Vì đối với chúng ta, nếu đã được cứu chuộc khỏi thế gian và không phải do kết quả dâng chính mình cho Đức Chúa Trời, ấy là một điều hoàn toàn không thể được. “Anh em không thuộc về chính mình; vì anh em đã được mua với một giá rồi” (1 Cô. 6:19-20). Dầu chúng ta theo đuổi một nghề nghiệp hay việc thương mại đem lại lợi tức từ thế gian hay chỉ bận rộn rao giảng Lời Chúa và sinh sống nhờ sự dâng hiến của các con cái Đức Chúa Trời thì cũng chỉ có một con đường trước mặt chúng ta, chứ không có hai con đường. Tất cả chúng ta đều tận hiến mình cho Đức Chúa Trời như nhau và đều là chứng nhân của Ngài. Rõ ràng là không đúng nếu nói việc rao giảng Phúc-âm tự nó là tinh sạch và việc thương mại là ô uế, và do đó, những người tham gia vào việc thương mại trở nên nhơ nhuốc và kém giá trị đối với Đức Chúa Trời. Điều quan trọng là Đức Chúa Trời, chứ không phải công việc, phải là chính trung tâm của đời sống chúng ta.
“Đừng yêu thế gian, cũng đừng yêu những gì ở trong thế gian”. Anh em có sự xức dầu từ Đấng Thánh: hãy sống tùy thuộc vào sự xức dầu ấy! Anh em hãy dâng chính mình cho Đức Chúa Trời, hãy sống cho Ngài cách trọn vẹn và tuyệt đối, hãy xem những điều thuộc thế gian này là những gì bản thân anh em lưu tâm đến có được xóa khỏi sổ của Sa-tan mà chuyển qua trương mục của Đức Chúa Trời không. Vì “thế gian cùng với dục vọng của nó đều qua đi, nhưng ai làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời thì tồn tại đời đời”.
1Người Này Sẽ Làm Gì? Luân-đôn, 1961, Chương Ba.
HẾT