i am a woman and i took viagra
female viagra over the counter
archive.2y.net female viagra uk
CHƯƠNG MƯỜI BA
NỀN TẢNG UY QUYỀN ĐẠI DIỆN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI — KHẢI THỊ
Kinh Thánh: Xuất 3:1-12; Dân 12:1-15
Trong Cựu Ước, uy quyền vĩ đại nhất mà Đức Chúa Trời đã chỉ định là Môi-se. Chúng ta có thể học được nhiều bài học nơi ông. Tạm thời chúng ta để sang một một bên những sự xử lý có tính bao quát và kéo dài suốt đời mà Môi-se đã trải qua. Thay vào đó, chúng ta sẽ chú ý đến sự mô tả phản ứng của ông khi uy quyền của mình bị xúc phạm, nhạo báng, chống đối và khước từ. Môi-se bị khước từ và chống đối vài lần, và mỗi lần ông đều phản ứng một cách đúng đắn.
Trước khi Môi-se được Đức Chúa Trời chỉ định làm uy quyền, ông đã giết chết một người Ai-cập, là người từng sát hại một người bà con của ông. Về sau, ông khuyên bảo hai người Hê-bơ-rơ đừng tranh cãi với nhau. Nhưng hai người Hê-bơ-rơ ấy quay lại hỏi ông: “Ai đặt ông làm vua, làm quan án cho chúng tôi?” (Xuất 2:14). Khi ấy, Môi-se chưa học được bài học của mình; ông không biết đến thập tự giá hay ý nghĩa của sự phục sinh; ông hành động hoàn toàn bởi sức mạnh của xác thịt mình. Kết quả là ông không thể chịu nổi cuộc thử nghiệm. Ông đã giết người, khiển trách những người khác và tỏ ra rất mạnh dạn, nhưng bên trong ông lại yếu đuối. Ngay khi bị thử nghiệm thì ông sợ hãi.Trong nỗi sợ hãi, ông bỏ chạy vào đồng vắng tại xứ Ma-đi-an, và ở đó bốn mươi năm để học tập bài học của mình (cc. 11-22). Sau khi ông trải qua nhiều cuộc thử nghiệm, Đức Chúa Trời cho ông thấy khải tượng về bụi gai cháy. Bụi gai trông như đang cháy, nhưng không bị tàn lụi. Lửa không thiêu trụi bụi gai. Sau khi Đức Chúa Trời bày tỏ cho Môi-se thấy khải thị này, Ngài kêu gọi ông và lập ông làm uy quyền. Sau khi được huấn luyện và được kêu gọi, ông hội đủ điều kiện để làm một nhà lãnh đạo. Sau khi trở nên một nhà lãnh đạo, ông bị những người khác khước từ nhiều lần. Lần kia, A-rôn là anh của ông và Mi-ri-am là chị của ông trách mắng, chỉ trích và không nhìn nhận ông là uy quyền đại diện. Chúng ta hãy xem ông đã phản ứng thế nào.
PHẢN ỨNG CỦA UY QUYỀN ĐẠI DIỆN KHI BỊ PHỦ NHẬN
Không Nghe Những Lời Nhạo Báng
Theo Dân-số Ký 12:1-2, Môi-se cưới một phụ nữ Ê-thi-ô-bi, và A-rôn cùng với Mi-ri-am chỉ trích ông về điều ấy. Trong phân đoạn này, chúng ta nhận thấy mức độ thiệt thòi thuộc linh họ phải chịu do nhạo báng uy quyền đại diện, và chúng ta cũng nhìn thấy phản ứng của Môi-se với tư cách là uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời. Trên thực tế, A-rôn và Mi-ri-am thách thức Môi-se: “Môi-se ơi, làm sao chỉ có ông, là người đã cưới người phụ nữ Ê-thi-ô-bi, mới có thể phát ngôn cho Đức Chúa Trời? Chúng tôi không làm như vậy được sao? Ông là dòng dõi của Sem mà lại đi cưới dòng dõi của Cham. Một người như ông lại có thể làm người phát ngôn cho Đức Chúa Trời sao? Có thể nào chúng tôi là những người chưa từng cưới người nào thuộc dòng dõi của Cham lại bị ngăn không được làm môi miệng của Đức Chúa Trời sao?” Có thể họ đã tranh cãi nhiều với em dâu của mình, nhưng nan đề thật sự là họ đã đụng chạm đến Môi-se là uy quyền đại diện. Tại điểm này, câu 2 nói: “Đức Giê-hô-va nghe điều đó”. Câu ấy không nói Môi-se nghe điều đó. Ở đây chúng ta thấy một người không bị lời nói của con người đụng chạm. Ông là một người vượt lên trên sự nhạo báng của con người. Chúng ta nhìn thấy một người siêu việt, một người của uy quyền. Mọi sự chống đối, nhạo báng và nổi loạn đều ở dưới chân của người ấy. Ông để Đức Chúa Trời lắng nghe những lời nói ấy trong khi chính ông không để chúng lọt vào tai.
Những ai ao ước làm người cung ứng lời Đức Chúa Trời, tức những ai muốn phát ngôn cho Đức Chúa Trời, và khao khát hướng dẫn các anh chị em, cần phải học tập không để tai đến những lời nhạo báng. Chúng ta cần phải để Đức Chúa Trời lắng nghe những lời nói ấy; chúng ta nên để dành những lời ấy lại cho Đức Chúa Trời. Chúng ta đừng bao giờ để ý đến việc người ta chỉ trích hay nhạo báng mình như thế nào. Những người tìm xem người ta nói gì về mình rồi nổi giận, căm phẫn hay hận thù đều không đủ tư cách làm một uy quyền đại diện. Những người có thể bị ảnh hưởng vì những lời nhạo báng hay có thể bị những lời như vậy đè bẹp thì không thể làm uy quyền đại diện. Môi-se là người không bị những lời nhạo báng tác động.
Không Biện Minh
Khi bị nhạo báng, ông không tự biện minh. Mọi sự biện minh, phân trần và phản ứng đều cần phải phát xuất từ Đức Chúa Trời chứ không phát xuất từ con người. Những người tìm cách tự biện minh thì chưa biết đến Đức Chúa Trời. Không người nào từng bước đi trên trái đất này mà có nhiều uy quyền hơn Đấng Christ. Nhưng khi ở trên đất, Chúa không bao giờ tự biện minh. Ngài là người duy nhất không bao giờ tự biện minh cho mình. Uy quyền và sự biện minh xung khắc với nhau. Khi chúng ta cố biện minh trước mặt một người nào đó thì có nghĩa rằng người đó là quan tòa của chúng ta. Mỗi khi biện minh trước mặt những người chỉ trích mình, chúng ta cho họ biết rằng họ cao hơn chúng ta. Một người biện minh là người ở dưới sự đoán xét của người khác.Những người tự biện minh hoàn toàn không có uy quyền. Khi nào một người tự biện minh thì người ấy đánh mất uy quyền của mình. Có thể Đức Chúa Trời ủy thác uy quyền của Ngài cho chúng ta, nhưng nếu chúng ta tự biện minh trước mặt con người thì chúng ta đã đánh mất uy quyền của mình vì chúng ta van xin họ làm quan tòa [xét xử] mình.
Phao-lô là uy quyền đại diện đối với người Cô-rin-tô, nhưng ông nói: “Nhưng đối với tôi, hoặc bị anh em hay ngày của loài người tra xét, tôi xem là việc rất nhỏ nhặt; tôi cũng không tự tra xét chính mình” (1 Côr. 4:3). Sự biện minh chỉ có thể phát xuất từ Đức Chúa Trời. Chúng ta nên chuyển mọi lời nhạo báng và chỉ trích cho Chúa. Khi những lời nhạo báng của con người [chồng chất] quá nhiều, thì Đức Chúa Trời sẽ hành động. Nhưng nếu tự biện minh với bất cứ người nào, thì trên thực tế, chúng ta làm cho người ấy trở nên quan tòa của mình. Nếu tìm cầu sự thông cảm từ bất cứ người nào thì chúng ta ngã xuống dưới chân người ấy. Vậy, chúng ta đừng bao giờ tự biện minh và đừng bao giờ tìm cầu sự thông cảm từ bất cứ người nào.
Đầy Dẫy Tính Khiêm Hòa
Trong Dân-số Ký 12:2, Đức Chúa Trời nghe những lời nhạo báng, và Ngài hành động trong câu 4. Nhưng trong câu 3 có một lời xen vào giữa: “Vả con người Môi-se rất khiêm hòa, hơn tất cả mọi người trên thế gian”. Đó là điều chúng ta tìm thấy trong một uy quyền đại diện được Đức Chúa Trời chỉ định. Tại sao Môi-se lại không nghe những lời nhạo báng của họ? Có lẽ Môi-se nghĩ rằng mình thật sự sai trật và không muốn tranh luận với họ. Đức Chúa Trời không thể lập một người ương ngạnh làm uy quyền của Ngài. Ngài không thể chỉ định một người hung hăng làm uy quyền đại diện của Ngài.Các uy quyền Đức Chúa Trời thiết lập trong hội-thánh đều khiêm hòa và kín đáo. Đức Chúa Trời không chỉ định những người có sức hấp dẫn, lôi cuốn mạnh mẽ làm uy quyền của Ngài; Ngài chỉ định những người không những khiêm hòa một cách chung chung, mà còn khiêm hòa đến mức độ tính khiêm hòa của họ trổi hơn mọi người trên khắp đất.Nói cách khác, họ khiêm hòa như Đức Chúa Trời.
Một uy quyền đại diện không bao giờ có thể xây dựng uy quyền riêng của mình. Một người càng cố gắng xây dựng uy quyền riêng của mình thì người ấy càng ít có điều kiện để làm uy quyền. Uy quyền là từ Đức Chúa Trời; vậy nên, sự biện minh cũng phải từ Đức Chúa Trời. Chúng tôi cầu nguyện để không gặp phải quá nhiều người cứng cỏi.Đừng có quan niệm sai lầm là một người cứng rắn và có khả năng sẽ làm một uy quyền đại diện tốt. Chúng ta cần phải rất sáng tỏ rằng chỉ có người nào như Phao-lô, khi có mặt thì yếu ớt, mới có thể làm uy quyền. Chúa nói rằng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này, và vì vậy mà những người phục vụ Ngài không cần phải tranh đấu (Giăng 18:36). Vương quốc của Đức Chúa Trời không phải được thiết lập nhờ tranh đấu. Mọi uy quyền có được nhờ tranh đấu đều không phải là uy quyền từ Đức Chúa Trời.
Xin ghi nhớ rằng Môi-se khiêm hòa hơn mọi người trên mặt đất. Đó là lý do tại sao ông có thể làm một uy quyền đại diện. Nếu tôi yêu cầu anh em liệt kê những nét đặc trưng của một uy quyền đại diện, tôi tin rằng chín trên mười người trong anh em sẽ liệt kê những điều như bề ngoài dễ coi, sức lôi cuốn mạnh mẽ, đầy quyền năng hay diện mạo oai nghiêm. Suy nghĩ của con người cho là một uy quyền cần phải có khả năng, oai nghiêm, đầy quyền năng, cương quyết và có khẩu tài. Nhưng những nét đặc trưng ấy không đại diện cho uy quyền; trái lại, chúng chỉ đại diện cho xác thịt. Trong Cựu Ước, không uy quyền nào khác được Đức Chúa Trời chỉ định mà vĩ đại như Môi-se, nhưng ông lại là một người khiêm hòa nhất. Khi còn ở Ai-cập, ông khá hung dữ. Ông giết chết một người Ai-cập và khiển trách hai người Hê-bơ-rơ. Ông xử lý người khác bằng cánh tay xác thịt của mình, nhưng khi ấy Đức Chúa Trời không dùng ông làm uy quyền của Ngài. Chỉ sau khi ông trải qua sự thử nghiệm và xử lý của Đức Chúa Trời, ông trở nên rất khiêm hòa đến nỗi tính khiêm hòa của ông trổi hơn mọi người trên mặt đất, thì ông mới trở nên một uy quyền. Một người thật sự càng ít giống một uy quyền thì lại càng cảm thấy mình là một uy quyền. Một người càng nghĩ mình là một uy quyền thì lại càng ít có khả năng làm một uy quyền.
KHẢI THỊ LÀ NỀN TẢNG CỦA UY QUYỀN
Dân-số Ký 12:4 chép: “Thình lình Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, A-rôn và Mi-ri-am rằng: Cả ba các ngươi hãy ra đến lều nhóm họp”. Đến đây Chúa phán một cách thình lình. Thình lình có nghĩa là điều gì đó bất ngờ. Có thể A-rôn và Mi-ri-am đã chỉ trích Môi-se nhiều lần, nhưng thình lình Chúa gọi họ đến lều nhóm họp. Nhiều người dễ dàng chỉ trích và hành động nghịch lại uy quyền một cách nông nổi. Họ chỉ trích người khác một cách bừa bãi vì họ sống trong lều riêng của mình cách xa lều nhóm họp. Khi ở trong lều riêng của mình, một người dễ dàng chỉ trích. Nhưng một khi bước vào lều nhóm họp thì mọi sự đều rõ ràng đối với người ấy. Cả ba đều đến trước lều nhóm họp, và Đức Giê-hô-va nói với A-rôn cùng Mi-ri-am rằng: “Hãy nghe lời Ta” (c. 6a). Trước hết họ thắc mắc là Đức Chúa Trời chỉ phán với Môi-se thì có công bằng không, và bây giờ Đức Chúa Trời cũng triệu họ lại để nghe lời Ngài. Điều này cho thấy rằng họ chưa từng học tập nghe lời của Đức Chúa Trời và chưa từng biết Ngài phán như thế nào. Vào ngày ấy, Đức Giê-hô-va phán với họ lần đầu. Đức Chúa Trời thật sự phán, nhưng Ngài phán những lời khiển trách chứ không phải những lời khải thị. Đó không phải là để biểu hiện vinh quang của Đức Chúa Trời, mà là để phán xét những hành động của họ. Ngài phán: “Hãy nghe lời Ta”. Tại đây dường như Ngài nói: “Trước kia Ta chưa nói gì, nhưng bây giờ hãy để Ta nói vài lời”. Có thể lời ấy cũng có nghĩa là: “Các ngươi nói quá nhiều và quá thường xuyên. Bây giờ, hãy cho Ta một cơ hội để nói. Các ngươi là những người nói rất thạo, hôm nay hãy lắng nghe lời của Ta”. Một người nói nhiều thì không thể nghe lời của Đức Chúa Trời; chỉ một người khiêm hòa mới có thể nghe lời của Ngài. Môi-se khiêm hòa chứ không nói nhiều. Ông có thể quay qua con đường nào Chúa muốn; ông có thể tiến hay thoái. Nhưng A-rôn và Mi-ri-am thì bướng bỉnh.
Sau đó, Đức Chúa Trời phán: “Nếu trong các ngươi có một tiên tri nào...” (c. 6b), như thể Ngài không biết có một tiên tri giữa vòng họ. Nghe dường như Đức Chúa Trời quên mất điều gì đó. Nhưng Đức Chúa Trời phán rằng dù có một tiên tri, cùng lắm là Ngài phán với người ấy trong khải tượng hay trong giấc mơ (c. 6c). Nhưng đối với Môi-se thì Đức Chúa Trời đích thân nói bằng miệng một cách rõ ràng chứ không phải bằng những lời mập mờ (c. 8). Đó là lời biện minh của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phán với Môi-se qua những khải thị và ánh sáng; những điều ấy rất rõ ràng. Môi-se không tự biện minh. Chính Đức Chúa Trời là Đấng biện minh cho ông. Sự thật là mọi người được sai đến trong danh của Chúa để nói với con cái Đức Chúa Trời đều có ít nhiều uy quyền.Nhưng tôi hi vọng anh em không thiết lập uy quyền riêng của mình. Tôi hi vọng anh em sẽ không tự biện minh. Khải thị được ban cho một mình Môi-se chứ không ban cho A-rôn hay Mi-ri-am. Người nào được đối mặt nói chuyện với Đức Chúa Trời mới là uy quyền được Ngài chỉ định. Sự thiết lập uy quyền căn cứ vào sự lựa chọn của Đức Chúa Trời; đó là công việc của Đức Chúa Trời, và con người tuyệt nhiên không thể can thiệp. Sự nhạo báng của con người cũng không hủy bỏ uy quyền được. Đức Chúa Trời có thể chỉ định Môi-se, và cũng có thể hủy bỏ việc ấy. Nhưng dù đó là chỉ định hay hủy bỏ thì cũng là công việc của Đức Chúa Trời; con người không có quyền thắc mắc điều đó. Con người không thể hủy bỏ uy quyền của Môi-se bằng những lời nhạo báng. Giá trị của một người trước mặt Chúa không dựa vào việc người khác đánh giá người ấy, cũng không dựa vào việc người ấy tự đánh giá chính mình. Giá trị của một người trước mặt Chúa dựa vào sự khải thị. Khải thị là tiêu chuẩn Đức Chúa Trời đo lường và đánh giá. Sự thiết lập uy quyền căn cứ vào khải thị của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời đánh giá một người dựa vào sự khải thị. Ngay khi một người bị Chúa để sang một bên thì người ấy mất đi khải thị của mình, và Đức Chúa Trời không còn phán với người ấy nữa. Đức Chúa Trời phán rằng Môi-se là đầy tớ của Ngài và Ngài nói với ông mặt đối mặt. Nếu Đức Chúa Trời ban cho chúng ta khải thị thì mọi sự đều tốt đẹp. Nếu Ngài không ban cho chúng ta khải thị thì không gì có hiệu quả cả. A-rôn và Mi-ri-am than phiền, và Đức Chúa Trời dường như hỏi rằng: “Các ngươi có bao nhiêu khải thị? Mọi khải thị của Ta đều bày tỏ cho Môi-se”.
Để học tập làm uy quyền, chúng ta phải xét xem mình là gì trước mặt Chúa. Khi chúng ta bắt tay vào công việc, thì sự thử nghiệm không ở trong sự đo lường của A-rôn hay Mi-ri-am, mà ở trong sự đo lường của Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời ban cho chúng ta khải thị, và chúng ta có một lời rõ ràng từ Ngài và tương giao với Ngài mặt đối mặt, thì không ai có thể phủ nhận chúng ta. Nhưng nếu con đường hướng lên không rõ ràng và [cửa] trời không mở ra cho chúng ta, thì không gì mang lại ích lợi cho dầu mọi cánh cửa trên đất đều mở ra cho chúng ta. Nếu [cửa] trời mở ra cho chúng ta thì chúng ta sẽ có sự biện minh của Đức Chúa Trời. Chúng ta sẽ có chứng cớ về sự kiện mình là con Đức Chúa Trời, tức chứng cớ về quyền làm con. Khi Chúa được báp-têm, trời mở ra (Math. 3:16). Báp-têm là một biểu hiệu về sự chết. Khi bị đóng đinh trên thập tự giá, Chúa bước vào sự chết và được đặt trong mồ. Khi sự tối tăm vô cùng mịt mù, khi cơn đau lên đến cực điểm và khi mọi cánh cửa đều đóng lại, thì trời mở ra. Khải thị là nền tảng của uy quyền. Chúng ta phải học tập đừng tự chiến đấu hay tự biện hộ. Chúng ta không nên như A-rôn hay Mi-ri-am, kêu gào đòi uy quyền. Nếu sau khi rời khỏi đây mà anh em tranh đấu để có uy quyền thì điều đó chứng minh là anh em đang ở trong xác thịt và sự tối tăm. Điều đó cũng chứng minh anh em chưa thấy gì cả trên núi này.
ĐẦY TỚ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Trong Dân-số Ký 12:7, Đức Chúa Trời phán: “Đầy tớ Môi-se của Ta... trung tín trong cả nhà Ta”. Về sau, lời này được trích dẫn trong sách Hê-bơ-rơ thuộc Tân Ước. Hê-bơ-rơ cho chúng ta thấy rằng Môi-se, như một biểu tượng của Đấng Christ là Con Đức Chúa Trời, thật trung tín trong cả nhà Đức Chúa Trời (3:2). Dường như Đức Chúa Trời hàm ý muốn nói với A-rôn và Mi-ri-am rằng: “Có lẽ Môi-se không hoàn toàn trung tín trong nhà của các ngươi khi người cưới một phụ nữ Ê-thi-ô-bi. Nhưng người phục vụ dân Ta và trung tín trong cả nhà Ta. Các ngươi chỉ trích người vì có lẽ vợ ông đã không làm một người em dâu tốt trong nhà của các ngươi, nhưng người là đầy tớ của Ta. Tại sao các ngươi không sợ chỉ trích Môi-se đầy tớ Ta?”
Đức Chúa Trời gọi Môi-se là đầy tớ của Ngài. Đối với tôi, tôi làm đầy tớ của Đức Chúa Trời có nghĩa là tôi thuộc về Đức Chúa Trời. Tôi là cơ nghiệp của Đức Chúa Trời, và đã được bán cho Đức Chúa Trời. Nếu tôi có bị thiệt thòi thì đó là sự thiệt thòi của Đức Chúa Trời chứ không phải của tôi. Khi những người chủ nô lệ bị mất nô lệ của mình thì họ bị mất mát tài sản. Môi-se là đầy tớ của Đức Chúa Trời, điều này có nghĩa ông là tài sản của Đức Chúa Trời, và khi người nào chỉ trích đầy tớ của Ngài thì Đức Chúa Trời chắc chắn phải bước ra biện hộ cho ông. Chúng ta không phải tự biện hộ, và không cần xây dựng uy quyền riêng của mình. Đó là công việc của Đức Chúa Trời. Tôi là đầy tớ của Ngài, và khi tôi bị chỉ trích thì Đức Chúa Trời sẽ bước ra. Nếu Đức Chúa Trời không bước ra thì tôi bước ra có ích gì? Tại sao lại cần xây dựng uy quyền riêng của tôi? Nếu Đức Chúa Trời là Đấng chỉ định tôi làm uy quyền thì tôi không nên làm bất cứ điều gì để củng cố chính mình; tôi chỉ cần để khải thị biện minh cho mình. Nếu tôi cũng tìm thấy khải thị và nguồn cung ứng trong người khác nữa thì điều ấy chứng minh rằng Đức Chúa Trời chưa biện minh cho tôi. Nhưng nếu Đức Chúa Trời đã lập tôi thì Ngài sẽ “khóa” những người khác lại để biện minh cho tôi. Nếu anh em là một uy quyền đại diện và những người khác tranh chấp về điều này thì họ tranh chấp với Đức Chúa Trời. Nếu họ có chút sự sống nào trong mình thì họ sẽ kinh nghiệm [bầu] trời đóng lại, và họ sẽ thuận phục anh em và thừa nhận uy quyền của anh em.
Tôi hi vọng không người nào đứng lên tuyên bố mình là uy quyền. Anh em cần phải để thời gian và sự khải thị biện minh cho mình. Khải thị là lời biện minh tốt nhất. Giả sử, anh em nói rằng Đức Chúa Trời đã chọn mình và anh em có khải thị cùng uy quyền. Nếu những người khác phản đối và nổi loạn chống lại anh em, và nếu họ đến với Đức Chúa Trời và cũng nhận được sự khải thị, thì điều đó có nghĩa là Đức Chúa Trời chưa biện minh cho anh em và cũng chưa ủng hộ anh em. Trong trường hợp như vậy, anh em có tự giải bày cũng vô ích. Nếu anh em trung tín trong cả nhà của Đức Chúa Trời và đặt mọi sự mình có vào trong nhà Ngài, và nếu anh em nhận thấy Ngài “khóa” những người khác lại, thì đó có nghĩa là Ngài đã chỉ định anh em làm uy quyền của Ngài. Uy quyền là điều gì ở trong tay Đức Chúa Trời chứ không tùy thuộc vào anh em. Nan đề lớn nhất ngày nay là bản ngã của con người. Nếu hiểu được uy quyền và đường lối của Đức Chúa Trời thì anh em sẽ nhận biết những gì tôi đã nói đi nói lại nhiều lần, đó là khi những người khác tranh cãi với chúng ta thì họ tranh cãi với Đức Chúa Trời vì anh em thuộc về Đức Chúa Trời. Ngay khi những người khác chạm đến anh em thì Đức Chúa Trời đóng [bầu] trời của họ lại, và họ không cách nào khác hơn là phải quay lại và ăn năn, công nhận anh em là uy quyền của Đức Chúa Trời. Vậy, không cần xây dựng uy quyền riêng của mình. Mọi sự đều tùy thuộc vào sự biện minh của Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời “khóa” những người khác lại, điều ấy có nghĩa là Ngài đã chỉ định anh em làm uy quyền.
KHÔNG CÓ NHỮNG CẢM XÚC RIÊNG TƯ
Ở cuối câu 8, Đức Chúa Trời phán: “Vậy, tại sao các ngươi không sợ chỉ trích đầy tớ Ta, là Môi-se?” Đức Chúa Trời biết rằng có vài điều cần phải sợ. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời; Ngài biết tình yêu thương là gì, ánh sáng là gì, vinh quang là gì, và sự thánh khiết là gì. Thậm chí Đức Chúa Trời cũng biết sự sợ hãi là gì vì Ngài e sợ cho A-rôn và Mi-ri-am. Ngài hỏi: “Vậy, tại sao các ngươi không sợ chỉ trích đầy tớ Ta, là Môi-se?” Đức Chúa Trời không sợ gì cả, nhưng Ngài nói với A-rôn và Mi-ri-am rằng chỉ trích Môi-se là một điều ghê sợ. Đối với Đức Chúa Trời, đó là một vấn đề đáng sợ. Lẽ ra họ phải sợ trừ phi họ hoàn toàn ở trong tình trạng tối tăm, ngu dốt và vô lý. Đến đây, Đức Chúa Trời dừng lại. Ngài chưa thi hành sự phán xét của Ngài, nhưng Ngài bỏ đi, cơn giận của Ngài nổi phừng phừng cùng họ (c. 9).
Đức Chúa Trời tốn nhiều sức lực để duy trì uy quyền của Ngài. Tôi xin nghiêm túc lặp lại điều này: Đức Chúa Trời duy trì uy quyền riêng của Ngài; Ngài không duy trì uy quyền của Môi-se. Chúng ta có thể nói một cách cung kính rằng khi đầy tớ của Đức Chúa Trời phạm một lỗi lầm, thì đó là chuyện riêng của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không nói: “Các ngươi đã chỉ trích Môi-se”; mà Ngài nói rằng họ đã chỉ trích “đầy tớ Ta, là Môi-se”. Ở trường hợp này, đầy tớ của Đức Chúa Trời ngẫu nhiên là Môi-se. Nhưng giả như đó là một người nào khác thì cũng sẽ y như vậy; cũng là “đầy tớ Ta” cộng với tên của người đầy tớ ấy. Tại đây, Đức Chúa Trời duy trì uy quyền riêng của Ngài; Ngài không duy trì uy quyền của Môi-se. Đức Chúa Trời không để người nào xúc phạm đến uy quyền của Ngài. Ngay khi con người nổi loạn chống lại uy quyền của Ngài thì Ngài quay đi trong cơn phẫn nộ.
Ngay khi Đức Chúa Trời bỏ đi thì đám mây bị cất đi khỏi chiếc lều ấy (c. 10). Đám mây tượng trựng cho sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Đám mây dời đi có nghĩa là sự hiện diện của Đức Chúa Trời bị cất khỏi. Về mặt biểu tượng thì khi đám mây di chuyển là Đức Chúa Trời di chuyển, và đền tạm cũng di chuyển. Nhưng lần này, khi đám mây di chuyển, thì Mi-ri-am bị phung. Về mặt biểu tượng thì sự di chuyển của đám mây đánh dấu khởi đầu cuộc hành trình của dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng vào ngày ấy, họ không thể tiếp tục cuộc hành trình vì cuộc nổi loạn đã khởi phát. Khi A-rôn nhìn thấy điều ấy, ông lo sợ vì ông đã tham gia vào cuộc nổi loạn này. Vì Mi-ri-am là người cầm đầu cuộc nổi loạn này nên bà là người bị phung.
Môi-se không mở miệng mình. Hễ đền tạm không truyền đạt khải thị nào thì Môi-se không mở miệng. Ông đã học tập bài học của mình. Mặc dầu có tài hùng biện, ông ngậm miệng lại và không mở miệng cho đến khi A-rôn nài xin sự tha thứ. Những người chưa kiềm chế được tấm lòng và môi miệng của mình thì không đủ tư cách làm uy quyền. Nhưng người có uy quyền của Đức Chúa Trời chắc chắn cũng có uy quyền trong lòng cũng như trong miệng mình. Khi A-rôn nài xin Môi-se, thì ông kêu van cùng Đức Giê-hô-va. Trước đó, Môi-se là một người ngoài cuộc. Trong ông không có lời lằm bằm nào. Trong ông không có sự khiển trách hay chỉ trích nào cả. Khi A-rôn nài xin ông, thì ông cầu nguyện. Đó là thập tự giá. Tại đây chúng ta nhận thấy Môi-se là một người không có cảm xúc riêng tư nào cả. Khi ông thấy Mi-ri-am bị phung và A-rôn nài xin vì sợ, lập tức ông kêu van cùng Đức Chúa Trời. Ông không nói một cách lạnh lùng rằng: “Được, để làm ơn làm phước cho anh, có lẽ tôi sẽ cố nài xin Đức Chúa Trời cho anh”. Không! Lập tức Môi-se kêu van cùng Đức Chúa Trời. Ông không có cảm xúc riêng tư nào cả. Ông không có ý tưởng nào về việc thanh minh hay trừng phạt. Khi mục đích của Đức Chúa Trời được thực hiện, lập tức ông tha thứ. Uy quyền là để thi hành mạng lệnh của Đức Chúa Trời chứ không phải để tự tôn cao chính mình. Uy quyền đại diện cần phải đem sự hiện diện của Đức Chúa Trời đến với con cái của Ngài chứ không phải đem đến sự hiện diện của chính mình. Chúng ta ở đây để đem người khác đến dưới uy quyền của Đức Chúa Trời chứ không phải đến dưới uy quyền của chúng ta. Chúng ta bị khước từ là một điều nhỏ nhoi. Trong câu 13, Môi-se cầu nguyện rằng: “Ôi, Đức Chúa Trời! Tôi cầu khẩn Ngài chữa cho chị ấy”. Đây là một người thật sự có đủ tư cách làm uy quyền vì ông không có cảm xúc riêng tư nào. Nguyện Chúa giải cứu chúng ta khỏi những cảm xúc riêng tư của mình. Khi một người vướng vào cảm xúc riêng tư của mình thì công việc của Đức Chúa Trời chịu thiệt thòi và Ngài bị giới hạn.
Môi-se không lấy sự đau khổ của Mi-ri-am và A-rôn làm vui. Ngược lại, ông cầu xin Đức Chúa Trời thương xót và cầu nguyện để Mi-ri-am được chữa lành. Nếu Môi-se không nhận được sự thương xót và không biết gì về ân điển của Đức Chúa Trời thì ông đã nói với A-rôn: “Vì anh đã nói Đức Chúa Trời cũng phán với anh nữa thì tại sao anh không tự mình cầu nguyện với Đức Chúa Trời?” Hay ông có thể nói với Đức Chúa Trời rằng: “Nếu Ngài không biện minh cho con thì con sẽ bỏ cuộc”. Dường như Đức Chúa Trời cho Môi-se cơ hội để tự biện minh. Môi-se không cầu xin cơ hội ấy, mà nó tự đến.Môi-se có thể nói: “Nếu Đức Chúa Trời im lặng thì tôi không thể làm gì được. Nhưng bây giờ, vì Đức Chúa Trời đã làm một điều nên tôi có thể lợi dụng cơ hội này mà tự biện minh”. Nhưng ông đã không lợi dụng cơ hội để tự biện minh hay trả thù. Ông có thể nói với Đức Chúa Trời rằng: “Anh chị con chỉ trích con. Nếu Ngài không làm gì cho con thì con sẽ bỏ cuộc”. Con người dễ dàng nắm lấy dịp Đức Chúa Trời biện minh để tự biện minh và trả thù. Nhưng Môi-se không tự biện minh, cũng không lợi dụng sự biện minh của Đức Chúa Trời. Ông không có cảm xúc riêng tư nào cả; ông là người không sống trong bản ngã của mình. Sự chỉ trích ấy dường như rất tầm thường đối với ông. Xác thịt của Môi-se đã hoàn toàn được xử lý. Ông không trả thù, mà ngược lại, còn cầu xin Đức Chúa Trời chữa lành cho Mi-ri-am. Điều này giống như Đấng Christ cầu nguyện trên thập tự giá cho những kẻ bắt bớ Ngài (Lu. 23:34). Một số người nghĩ rằng làm uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời là một điều dễ dàng. Nhưng đó không phải là một điều dễ dàng. Một người phải hoàn toàn tự làm cho mình trống không rồi mới có thể làm một uy quyền đại diện.
Môi-se thật sự là một người đại diện cho Con Đức Chúa Trời. Ông có thể hành động với tư cách là uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời vì ông thật sự đại diện cho Đức Chúa Trời. Ông không bị xác thịt chạm đến, và không tự bảo vệ hay tự biện minh. Ông không trả thù những kẻ công kích ông. Đó là lý do tại sao uy quyền của Đức Chúa Trời có thể tuôn chảy qua ông mà không bị cản trở. Chúng ta có thể nói rằng ông thật sự là một người đã gặp uy quyền của Đức Chúa Trời. Ông tuyệt nhiên không bị xác thịt, con người thể xác hay bản ngã chạm đến. Do đó, ông có đủ tư cách làm uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời.
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
ĐẶC TÍNH UY QUYỀN ĐẠI DIỆN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI — NHÂN TỪ VỚI NGƯỜI KHÁC
Kinh Thánh: Dân-số Ký chương 16
MÔI-SE XỬ LÝ SỰ NỔI LOẠN THẾ NÀO
Không cuộc nổi loạn nào giữa vòng con dân Y-sơ-ra-ên trầm trọng như cuộc nổi loạn được chép trong Dân-số Ký chương 16. Cô-rê thuộc chi phái Lê-vi cầm đầu, cấu kết với Đa-than và A-bi-ram thuộc chi phái Ru-bên. Ngoài ra, 250 người lãnh đạo của hội chúng liên kết với họ. Họ tự nhóm lại và nói những lời táo bạo chống đối Môi-se và A-rôn. Đó là một cuộc nổi loạn lớn. Việc nhạo báng trong Dân-số Ký chương 12 thu hẹp giữa vòng A-rôn và Mi-ri-am, và chỉ là một sự lằm bằm sau lưng. Nhưng cuộc nổi loạn trong chương mười sáu có tính cách tập thể, và trực tiếp chống lại Môi-se và A-rôn. Những kẻ nổi loạn nói: “Các ông đã đi quá xa!... Tại sao các ông tự tôn cao mình trên hội chúng của Đức Giê-hô-va?” (c. 3). Những lời buộc tội của họ thật nghiêm trọng và cay nghiệt. Chúng ta cần phải lưu ý đến (1) tâm trạng của Môi-se, tức là thái độ của ông, và (2) cách ông đối phó với tình cảnh, tức cách ông trả lời họ.
Phản Ứng Thứ Nhất — Sấp Mặt Xuống
Câu 4 nói rằng phản ứng đầu tiên của Môi-se là sấp mặt mình xuống. Đó là thái độ đúng đắn của đầy tớ Đức Chúa Trời. Tất cả những kẻ nổi loạn đều đứng lên khi họ phát biểu; chỉ có Môi-se là sấp mặt mình xuống. Ở đây chúng ta nhìn thấy một người từng chạm đến uy quyền. Ông thật sự khiêm hòa; ông không có cảm xúc riêng tư nào cả.Ông không tự biện minh hay tranh luận. Điều đầu tiên ông làm là sấp mặt mình xuống.Từ câu 5 đến câu 7, dường như ông nói rằng: “Đức Giê-hô-va sẽ cho biết ai thuộc về Ngài, ai thánh khiết, và Ngài sẽ chọn ai, và Ngài sẽ làm cho người ấy đến gần Ngài.Chúng ta không cần tranh luận. Vào buổi sáng, tất cả chúng ta sẽ biết. Tôi không dám tự biện hộ cho mình. Ngài sẽ cho chúng ta thấy ai thuộc về Ngài một cách rõ ràng. Nếu rốt cuộc hóa ra người ấy là anh em thì cũng tốt, mà nếu là tôi thì cũng tốt. Hãy để Đức Chúa Trời quyết định. Chúng ta không phải quyết định gì cả. Ngày mai, tất cả chúng ta đến trước mặt Chúa và được thử nghiệm bằng những lư hương. Hãy để Chúa quyết định người ấy là ai; chúng ta không phải tranh giành quyền hành. Đức Chúa Trời sẽ chọn người thuộc về Ngài. Chúng ta hãy đến với Đức Chúa Trời và mở ra [tiếp nhận] lời phán của Ngài”. Môi-se nói những lời này một cách khiêm hòa trong khi ông sấp mặt mình xuống. Tuy nhiên, một vài câu sau cùng thật mạnh mẽ và nghiêm trọng: “Hỡi con cháu Lê-vi, các ông đã đi quá xa rồi!” (c. 7). Đó là tiếng thở dài đau buồn của một vị lão thành biết Đức Chúa Trời. Dân Y-sơ-ra-ên đi lang thang trong đồng vắng đã lâu, mà vẫn chưa vào xứ Ca-na-an. Môi-se vẫn hi vọng họ có thể bước vào xứ Ca-na-an; ông vẫn hi vọng mình có thể phục hồi họ.
Khuyên Bảo Và Phục Hồi
Từ câu 8 đến câu 11 là những lời Môi-se khuyên bảo Cô-rê; ông cố gắng phục hồi Cô-rê. Vì phải giải quyết lời tố cáo của họ nên ông phải đợi kết quả vào ngày hôm sau.Đồng thời, ông có ý thức về tính nghiêm trọng của vấn đề ấy, và lo ngại cho họ. Chỉ thở dài và lo ngại không cũng chưa đủ, ông cảm thấy mình phải khuyên bảo họ nữa. Dường như ông nói với Cô-rê rằng: “Các con trai của Lê-vi được Đức Chúa Trời chọn để phục vụ đền tạm của Đức Giê-hô-va không phải là một điều nhỏ nhoi. Các ngươi nên thỏa lòng với nhiệm vụ ấy. Tại sao các ngươi còn muốn làm thầy tế lễ? Khi làm như vậy, các ngươi không chống đối ta mà chống đối Chúa”. Môi-se là một người rộng lượng, và tin tưởng vào những gì ông làm. Ông nhận biết tính nghiêm trọng của vấn đề ấy, và lo ngại cho các con trai của Cô-rê. Đó là lý do tại sao ông khuyên bảo họ. Sự khuyên bảo của ông không phải là một dấu hiệu bày tỏ tính kiêu ngạo mà là lòng khiêm nhường. Người khác công kích ông và gây khó khăn cho ông. Nhưng bất kể họ có sai trật thế nào đi nữa, ông vẫn có thể khuyên bảo họ. Đó là một dấu hiệu cho thấy một người thật sự khiêm hòa. Nếu chúng ta để người khác tiếp tục trong lầm lỗi của họ thì điều đó có nghĩa là lòng của chúng ta đã bị chai cứng và chúng ta không có ý định phục hồi họ.Không chịu khuyên bảo là một dấu hiệu thiếu lòng khiêm nhường; điều ấy cho thấy đó là một người kiêu ngạo. Khi Môi-se bị khiển trách, ông quay lại khuyên bảo những người chống đối mình và công khai giải quyết với họ. Thậm chí ông cho họ một đêm để suy nghĩ về điều đó, hi vọng là họ sẽ ăn năn.
Đối phó với những kẻ nổi loạn, Môi-se giải quyết vấn đề với họ một cách riêng biệt.Trước hết, ông đối phó với Cô-rê thuộc chi phái Lê-vi, rồi đối phó với Đa-than và A-bi-ram. Trong câu 12, ông sai mời Đa-than và A-bi-ram đến, nhưng họ không chịu đến, điều này cho thấy họ muốn tách ra. Ở đây chúng ta nhận thấy thậm chí khi một uy quyền đại diện bị khước từ, người ấy không muốn những kẻ nổi loạn tách ra. Thay vào đó, ông cố phục hồi những kẻ hư mất. Đa-than và A-bi-ram nói: “Ông đã đem chúng tôi ra khỏi xứ đượm sữa và mật” (c. 13). Lời tuyên bố ấy đảo ngược sự thật; đó chính là điều trái ngược với sự thật. Họ quên rằng mình đã làm gạch tại Ai-cập. Không có sữa và mật; thậm chí không có rơm để làm gạch. Điều này cũng như mang một thanh niên đến với Chúa, rồi người ấy quay lại tố cáo anh em đã đem họ vào địa ngục. Điều này cũng giống như mười thám tử rõ ràng nhìn thấy sự trù phú của xứ Ca-na-an nhưng không chịu vào, mà thay vào đó, lại lằm bằm chống đối Môi-se. Khi sự nổi loạn của Đa-than và A-bi-ram lên đến cực điểm, thì không còn làm gì được nữa ngoại trừ phải phán xét. Môi-se hết sức cố gắng phục hồi họ, nhưng họ tuyên bố hai lần rằng họ sẽ không đi lên. Sau những sự kiện ấy, Môi-se không còn hi vọng nữa, ông nổi giận, và đến với Đức Giê-hô-va để giải quyết vấn đề (c. 15). Sau đó, ông nói với Cô-rê: “Ngày mai ngươi và toàn thể phe nhóm ngươi với A-rôn hãy ra mắt Đức Giê-hô-va. Mỗi người hãy lấy lư hương mình bỏ hương ở trong, rồi mỗi người dâng lư hương mình trước mặt Đức Giê-hô-va, tức là hai trăm năm mươi cái lư hương. Ngươi và A-rôn, mỗi người cũng phải có lư hương mình” (cc. 16-17). Sau đó, bè đảng của Cô-rê đến trước lều nhóm họp, lại nhạo báng Môi-se và A-rôn. Lúc ấy, vinh quang của Đức Giê-hô-va xuất hiện cho cả hội chúng.
Đức Chúa Trời bước ra để phán xét. Cô-rê là người chủ mưu, và hội chúng đi theohắn. Đức Chúa Trời chuẩn bị tiêu diệt không những người chủ mưu mà toàn thể hội chúng nữa (c. 21). Nhưng Môi-se lại sấp mình trước mặt Chúa. Lần thứ nhất, Môi-se sấp mặt mình xuống trước các anh em của mình. Lần thứ hai thì ông sấp mình trước mặt Chúa. Ông cầu nguyện cho toàn thể hội chúng và cầu thay cho sự an toàn của họ.Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của ông và truyền hội chúng tránh khỏi lều của những kẻ gian tà (cc. 22-24). Môi-se đứng lên, tiến đến Đa-than và A-bi-ram. (Họ thuộc về chi phái Ru-bên và sống ở một nơi tách biệt). Vì họ không đến với Môi-se nên ông đến nơi họ. Ông truyền hội chúng tránh khỏi họ, và Đức Chúa Trời thi hành sự phán xét của Ngài trên Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram (cc. 25-33).
Không Có Một Linh Xét Đoán
Trong khi Đức Chúa Trời sắp thi hành sự phán xét của Ngài thì Môi-se nói: “Nhờ điều này các ngươi sẽ biết Đức Giê-hô-va đã sai ta làm những việc này, và đó không ra từ tâm trí của ta” (c. 28). Môi-se là một người khiêm hòa. Ông giải thích tại sao ông phải làm như vậy. Ấy là Đức Chúa Trời truyền ông làm điều đó. Theo cảm giác riêng của bản thân thì ông không đoán phạt người nào nổi loạn chống lại ông cả. Ông làm điều đó vì Đức Chúa Trời muốn vậy. Môi-se tiếp tục chứng tỏ mình là đầy tớ của Đức Chúa Trời.Ông không nói họ đã xúc phạm đến ông, mà chỉ nói họ đã xúc phạm đến Chúa. Chúng ta phải học tập chạm đến linh của một người như vậy. Trong Môi-se tuyệt nhiên không có cảm giác đoán xét nào cả. Ông là một đầy tớ của Đức Chúa Trời, và chỉ muốn vâng phục Đức Chúa Trời. Ông không có cảm xúc riêng tư nào cả. Cảm xúc duy nhất ông có là hội chúng đã xúc phạm đến Đức Chúa Trời, tức Đấng đã sai ông đến. Sau đó, ông nói với họ rằng Đức Chúa Trời đã sai ông đến và sẽ có bằng cớ để chứng minh điều này.Chúng ta phải nhận thức rằng ở đây, Môi-se không thể thất bại. Giả như Môi-se thất bại thì cuộc ra đi của dân Y-sơ-ra-ên khỏi Ai-cập đã là một sự thất bại. Môi-se được Đức Chúa Trời sai đến để dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, cũng như Đấng Christ được Đức Chúa Trời sai đến để truyền sự sống đời đời cho loài người. Đức Chúa Trời phải củng cố Môi-se. Kết quả sự phán xét của Ngài là ba gia đình bị tiêu diệt và 250 người lãnh đạo bị lửa thiêu hủy. Đức Chúa Trời thi hành một cuộc phán xét trên một bình diện rộng lớn để củng cố uy quyền đại diện của Ngài. Con đường của những kẻ nổi loạn là con đường xuống Âm-phủ; sự nổi loạn và sự chết liên hệ mật thiết với nhau. Uy quyền được Đức Chúa Trời thiết lập, và khi một người xúc phạm đến uy quyền của Đức Chúa Trời, thì người ấy xem thường Đức Chúa Trời. Ở đây chúng ta thấy thế nào Môi-se đã hành động với tư cách là uy quyền đại diện. Ông không đưa ra lời tuyên án riêng của mình hay nêu lên đề nghị riêng của mình, và không có linh đoán xét ở trong ông.
Cầu Thay Và Vãn Hồi
Khi tất cả dân Y-sơ-ra-ên nhìn thấy mặt đất mở miệng ra, họ sợ hãi và bỏ chạy (c. 34). Nhưng họ chỉ sợ sự phán xét mà không sợ Đức Chúa Trời. Họ vẫn chưa biết Môi-se, và lòng họ chưa xoay chuyển. Vì vậy, sự sợ hãi của họ không mang lại ích lợi gì cho họ. Họ suy nghĩ kỹ qua một đêm, rồi hôm sau họ lại nổi loạn. Cả hội chúng của các con trai Y-sơ-ra-ên lằm bằm chống lại Môi-se và A-rôn, họ nói: “Hai ông đã làm chết dân của Đức Giê-hô-va” (c. 41). Sự thật là nếu một người chưa chạm đến ân điển của Đức Chúa Trời thì đừng hi vọng có sự thay đổi gì trong người ấy. Đức Chúa Trời muốn bước ra và lập tức tiêu diệt toàn thể hội chúng. Ở đây chúng ta nhìn thấy một uy quyền đại diện nên phản ứng thế nào trước sự chống đối. Thật sự Môi-se có thể rất tức giận trước sự công kích của toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên. Đó là hành động của Đức Chúa Trời. Tại sao dân Y-sơ-ra-ên lại trách ông? Họ không chạm trán với Đức Chúa Trời mà quay lại đối xử với uy quyền đại diện một cách gay gắt. Các câu từ 42 đến 45 cho chúng ta biết rằng phản ứng của Đức Chúa Trời nhanh hơn so với phản ứng của Môi-se hay A-rôn.Vinh quang của Chúa thình lình hiện ra, và một đám mây bao phủ trên lều nhóm họp.Đức Chúa Trời sắp sửa phán xét toàn thể hội chúng. Ngài bảo Môi-se và A-rôn đứng lên từ giữa hội chúng. Dường như lệnh ấy nói với Môi-se và A-rôn rằng: “Lời cầu nguyện hôm qua của các ngươi là sai trật, nhưng Ta nhậm lời cầu nguyện ấy. Hôm nay Ta sắp sửa tiêu diệt toàn thể hội chúng. Các ngươi muốn nói gì?” Đức Chúa Trời không bao giờ sai trật, mà đầy dẫy lòng thương xót. Ngài nhậm lời cầu nguyện ngày hôm trước.Nhưng ngày hôm nay, Ngài không chịu được sự nổi loạn của họ nữa.
Do đó, Môi-se và A-rôn sấp mặt mình xuống lần thứ ba. Cảm nhận thuộc linh của Môi-se thật nhạy bén. Ông biết rằng lần này chỉ cầu nguyện thôi sẽ không giải quyết được nan đề. Tội vào ngày hôm trước còn có phần nào ẩn giấu, nhưng tội ngày hôm này thì rõ ràng là tội công khai. Ông bảo A-rôn hãy lập tức đến với ông, và ông cầm lưhương của A-rôn đến với hội chúng để làm lễ vãn hồi cho họ (cc. 45-47). Môi-se thật sự có đủ tư cách làm uy quyền đại diện. Ông biết kết cuộc bi thảm mà dân Y-sơ-ra-ên sẽ gặp phải, và ông nhận thức rằng sự mất mát của họ sẽ là sự mất mát của Đức Chúa Trời. Ông khẩn nài ân điển tha thứ của Đức Chúa Trời; lòng của ông tràn đầy sự trắc ẩn và thương xót. Đó là tấm lòng của một người biết Đức Chúa Trời. Môi-se không phải là một thầy tế lễ; ông không thể dâng lên sinh tế nào cả. Nhưng ông biết rằng tình cảnh thật nguy kịch và không còn thời giờ để nài xin Đức Chúa Trời. Ông truyền A-rôn dâng lên một sinh tế và lập tức làm lễ vãn hồi cho dân chúng. Đó là sự cầu thay cùng với lễ vãn hồi. Khi ấy bệnh dịch đã khởi phát. A-rôn chạy vào giữa hội chúng, đứng giữa kẻ chết và người sống, và bệnh dịch được chặn lại. Mười bốn ngàn bảy trăm người chết vì bệnh dịch (cc. 48-49). Giả như Môi-se và A-rôn phản ứng chậm hơn thì sẽ còn nhiều người bị chết.
Ở đây chúng ta thấy Môi-se là loại người ra sao và hành động với tư cách là uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời thể nào. Ý định của ông là [tìm cách] vãn hồi. Lòng [muốn] vãn hồi của ông cũng rộng lượng như lòng [muốn] vãn hồi của Chúa vậy. Lòng của Môi-se là để vãn hồi và tha thứ. Ông không lấy sự đoán xét làm vui. Loại người có thể phục vụ với tư cách uy quyền đại diện là người một mặt đại diện cho Đức Chúa Trời và mặt khác quan tâm và gánh vác con cái Đức Chúa Trời trên vai mình. Uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời phải quan tâm đến dân của Đức Chúa Trời. Người ấy không những phải gánh vác những người vâng phục trên vai mình mà còn phải gánh vác những kẻ nổi loạn. Nếu người ấy chỉ quan tâm đến chính mình, để tâm đến cách người khác cư xử với mình, và nếu liên tục than phiền rằng mình không thể chịu nổi người này hay người kia, thì người ấy không đủ tư cách làm uy quyền đại diện. Khi Đức Chúa Trời tìm kiếm uy quyền đại diện, Ngài không những xét xem sự vâng phục của cá nhân người ấy đối với Ngài mà còn xét xem phản ứng của người ấy đối với sự chống đối của người khác trong khi người ấy phục vụ với tư cách là một uy quyền đại diện. Phản ứng của một người đối với sự nổi loạn và chống đối của người khác sẽ phơi bày người ấy là loại người nào. Nhiều người chỉ quan tâm đến thể diện của mình. Họ rất lưu tâm đến những sự chỉ trích, lời nói, sự hiểu lầm và sự chống đối. Tâm trí của họ đầy ắp chính họ. Họ tự xem mình là người quan trọng nhất. Những người như vậy không bao giờ có thể làm uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời.
ĐẶC TÍNH CỦA UY QUYỀN ĐẠI DIỆN — ĐẦY ÂN ĐIỂN ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÁC
Lần này, khi bắt tay vào công tác của mình, anh em phải học hỏi [gương] Môi-se. Ông trung tín trong cả nhà Đức Chúa Trời. Ông không trung tín đối với chính mình. Nếu ông để nhà Đức Chúa Trời chịu thiệt thòi, xác thịt của ông có thể hưởng thụ được phần nào thoải mái và dễ chịu. Nhưng nếu làm như vậy thì ông không trung tín. Chúng ta có thể bị khước từ và xem thường. Chúng ta vẫn phải gánh vác công việc của con cái Đức Chúa Trời trên vai mình, và chúng ta đừng để nhà Đức Chúa Trời chịu thiệt thòi. Ở đây chúng ta nhìn thấy một bức tranh đẹp đẽ thể nào Môi-se trung tín trong cả nhà Đức Chúa Trời. Trong khi A-rôn dâng sinh tế cho con dân Y-sơ-ra-ên, Môi-se sấp mình xuống cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Ông không biết Đức Chúa Trời sẽ làm gì. Ông để A-rôn dâng sinh tế và làm lễ vãn hồi cho dân Y-sơ-ra-ên. Mặc dầu dân chúng nổi loạn chống lại Môi-se, ông quay lại gánh vác những tội lỗi của họ trên vai mình. Ông mang lấy cảnh ngộ của họ. Trong khi họ chống đối và khước từ ông, thì ông cầu thay cho họ. Môi-se là bên bị xúc phạm, nhưng lại là người nài xin sự tha thứ. Ông bị nhạo báng, nhưng lại là người cầu thay trước mặt Đức Chúa Trời. Ở đây chúng ta thấy loại người có thể làm uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời. Người làm uy quyền đại diện không được hành động theo cảm xúc riêng, và không được quan tâm đến chính mình hay tự cho mình là trung tâm.
Nếu muốn làm uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời, chúng ta phải học tập gánh vác tất cả con cái của Đức Chúa Trời trên vai mình. Nguyện Chúa làm cho chúng ta trở nên những người đầy ân điển, những người có thể khoan dung đối với mọi con cái Đức Chúa Trời và có thể gánh vác con cái Ngài trên vai mình. Nếu chỉ quan tâm đến cảm giác riêng của mình, chúng ta sẽ không có khả năng gánh vác những gánh nặng của con cái Đức Chúa Trời. Chúng ta phải xưng nhận những tội lỗi của mình. Chúng ta quá hẹp hòi và khắc nghiệt, chứ không như Môi-se. Đức Chúa Trời có ân điển trong chính Ngài, nhưng không muốn trực tiếp ban phát ân điển. Ngài muốn các đầy tớ Ngài tìm kiếm ânđiển của Ngài ở bên trong khi họ thi hành sự công chính của Ngài ở bên ngoài. Công tác của Đức Chúa Trời thì công chính ở bên ngoài, nhưng lòng của Ngài thì đầy dẫy ânđiển. Ngài muốn tất cả những đầy tớ Ngài, tức những người làm uy quyền đại diện của Ngài, cũng có tấm lòng của Ngài và đầy dẫy ân điển. Đức Chúa Trời muốn chúng ta đầyân điển đối với người khác. Chúng ta cần phải cầu xin thêm ân điển ở bên trong. Điều đó làm vui lòng Đức Chúa Trời. Tại sao quá nhiều người có đầu óc hẹp hòi và ích kỷ?Nhiều người hoàn toàn không thể chịu được bất cứ sự xúc phạm nào. Nhưng nếu Đức Chúa Trời có thể chịu được những sự xúc phạm thì chúng ta cũng cần phải chịu được những sự xúc phạm.
Nếu chúng ta thật sự mang gánh nặng của hội-thánh và con cái Đức Chúa Trời, và nếu chúng ta học tập sấp mình trước mặt Chúa, thì ngày nay Đức Chúa Trời sẽ tìm ra uy quyền đại diện của Ngài trên đất. Càng ban phát ân điển thì chúng ta càng đủ tư cách làm uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời. Đầy ân điển đối với người khác là một đặc tính của uy quyền đại diện. Những người [chỉ] đối xử cách công chính với người khác không đủ tư cách làm uy quyền đại diện. Chúng ta phải dành trọn thời giờ cầu nguyện về vấn đề này rồi mới có thể học được bài học này một cách thấu đáo. Chúng ta phải học tập chúc phước khi mình bị nhạo báng, cầu thay cho người khác khi mình bị khước từ, và nài xin sự tha thứ khi mình bị xúc phạm. Các uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời là những người đầy ân điển. Tất cả những người chỉ chú tâm đến sự công chính đều cần sự thương xót của Đức Chúa Trời. Chúng ta cần phải để một mình Đức Chúa Trời thi hành sự công chính của Ngài trong mọi sự, trong khi chính mình cần phải đầy ânđiển đối với mọi người. Đó là đặc tính của uy quyền Đức Chúa Trời.
Watchman Nee