-
Khi bé gái này thôi bú, Gô-me lại mang thai và sinh đứa thứ ba, được Chúa đặt tên là Lô-Am-mi, hay “không phải dân ta”. Chúa đang cảnh báo: “Các ngươi không phải dân Ta và Ta không phải Đức Chúa Trời các ngươi”. Chúa đã phán rằng Ngài sẽ đặt tên những đứa trẻ này làm dấu hiệu cho Ngài, nhưng sẽ có một ngày phục hưng hầu đến:
Đoạn ta sẽ gieo nó cho ta trong đất, và sẽ làm sự thương xót cho kẻ chưa được thương xót. Ta sẽ nói cùng những kẻ chưa làm dân ta rằng: Ngươi là dân ta, và nó sẽ trả lời rằng: Ngài là Đức Chúa Trời tôi (2:23).
-
Ngay cả lúc Chúa tuyên bố sự đoán phạt, Ngài vẫn tạo cơ hội và vẫn chứng minh tình yêu thương cùng ân điển của Ngài.
Sau sự kiện này không còn đứa con nào được sinh ra trong gia đình Ô-sê nữa. Gô-me bắt đầu làm ứng nghiệm lời tiên báo đáng buồn mà Chúa đã phán khi Ngài bảo Ô-sê cưới nàng. Thật là một nỗi đau xé lòng xảy đến cho diễn giả trẻ tuổi này khi ông nghe được những lời bàn tán về vợ mình bắt đầu lan truyền và những hành vi của nàng khi ông đang trên những hành trình truyền giáo xa xôi. Có lẽ các con của ông đã kể về những người đàn ông đến nhà khi cha đi vắng. Những đứa con sớm bị bơ vơ trong khi Gô-me lãng phí tất cả thời gian của nàng để chạy theo những gã đàn ông khác.
Một ngày nọ, Ô-sê về nhà và tìm thấy một lá thư từ Gô-me: Nàng sẽ rời bỏ ông và các con để đến với người đàn ông mà nàng yêu thực sự. Bạn cũng biết những dòng thư này thế nào rồi: “Anh Ô sê thân yêu…”.
-
Vào khoảng thời gian này, sự giảng đạo của Ô-sê mang một sắc thái mới. Ông vẫn cảnh báo về sự đoán phạt hầu đến và thực tế rằng Đức Chúa Trời sẽ gửi quân A-si-ri tràn sang xứ - nhưng ông không còn loan báo điều đó với giọng nói sấm truềng nữa. Ông nói với họ bằng nước mắt. và ông bắt đầu nói về một ngày khi tình yêu rồi sẽ chiến thắng, khi dân Y-sơ-ra-ên sẽ phải học bài học cay đắng, và dân tộc sẽ quay lại với Đức Chúa Trời yêu thương của họ.
Người vợ phản bội của Ô-sê trở thành một bài học thực tế sống động, gây sửng sốt về điều sắp sửa xảy đến trong Y-sơ-ra-ên. Nó mở ra cái gì đó đại khái như thế này: Khi Gô-me chuyển từ người đàn ông này sang người khác, cuối cùng nàng rơi vào tay một gã không có khả năng chi trả cho lương thực và quần áo của nàng. Người tình đầu tiên của nàng đã cho nàng một chiếc khăn choàng da chồn, nhưng gã này bắt nàng phải mặc đồ mua từ một cửa hiệu đồ cũ – hoặc từ đống giẻ rách đằng sau cửa hiệu đồ cũ, là thứ tả tơi đến nỗi không thể nào bán được.
Tin tức về tình cảnh khốn khổ của nàng đến tai tiên tri Ô-sê và ông đã tìm gã đàn ông mà nàng đang sống cùng. Ông biết tìm gã ta ở đâu, tại quán rượu trong làng, và khi ông gặp được người này, ông hỏi: “Ông có phải là người đang ở với Gô-me, con gái của Đíp-la-im?” Gã đó hẳn đã nói rằng: “Nếu can hệ gì đến ông, thì tôi đây”.
-
“À, tôi là Ô-sê”, vị tiên tri nói, “chồng của nàng”. Một phút đầy căng thẳng theo sau đó. Rồi gã đàn ông đáp rằng mình không làm gì sai và không muốn có rắc rối nào. Ô-sê đáp lại: “Nghe này, tôi chẳng thích rắc rối. Nhưng tôi biết ông cầm số tiền này mua cho Gô-me vài bộ quần áo và mua cho nàng đầy đủ thức ăn. Nếu ông cần thứ gì nữa thì tôi sẽ cho ông”. Gã đàn ông chắc đã nghĩ rằng: Già mà còn dại. Nếu tên ngu này muốn giúp ta thanh toán tiền tiêu xài của cô ấy, với ta không thành vấn đề! Vậy là gã cầm tiền và mua cho Gô-me một số tạp phẩm rổi trở về nhà.
Có lẽ (cùng với gã đàn ông tại quán rượu) bạn nói rằng: “Thật là một việc làm ngu ngốc!” Nhưng ai có thể giải thích được động lực của tình yêu? Tình yêu không hành động dựa trên lý trí; tình yêu có những lý lẽ của riêng của nó mà bản thân lý trí không thể hiểu được. Vì vậy Ô-sê đã hành động trên cơ sở của tình yêu. Chắc hẳn từ xa ông đã dõi theo hòng thấy được bóng dáng người phụ nữ ông yêu khi nàng vội mở cửa ra để đón nhận những tạp phẩm từ đôi tay của gã đàn ông này và cám ơn gã ta về những thứ mà gã đã mang về cho nàng – những món quà mà tình yêu chân thực đã cưng ứng, nhưng lại được một tên hèn hạ trao cho, và được tiếp nhận một cách nực cười.
Chúng ta không biết hoàn cảnh này kéo dài bao lâu. Nhưng cuối cùng, lời đồn đến tai Ô-sê rằng người phụ nữ ông yêu đã bị bán ở chợ nô lệ. Gã đàn ông nàng chung sống đã chán ngán nàng và quyết định đổi nàng để lấy tiền. Vị tiên tri đau lòng đến khóc than với Chúa, và Chúa phán rằng: “Ô-sê, ngươi có yêu người nữ này bất chấp mọi điều nàng đã làm cho ngươi không? Vậy thì hãy đi chứng tỏ tình yêu của ngươi dành cho nàng theo cách mà Ta yêu dân Y-sơ-ra-ên”.
-
Vậy là Ô-sê đi đến chợ và ông thấy Gô-me bị đem tới và đặt trên trên bến tàu. Nàng bị lột hết quần áo và bị sỉ nhục trong sự lõa lồ của mình trước đám đông ngờ nghệch. Phiên trả giá bắt đầu. Ai đó trả ba miếng bạc và Ô-sê nâng giá lên năm miếng. Ai đó nâng giá lên tám và Ô-sê trả mười. Ai đó trả mười một, ông trả mười hai. Cuối cùng, Ô-sê ra giá mười lăm miếng bạc cùng một giạ lúa mạch. Búa của người điều khiển phiên đấu giá nện xuống và Ô-sê chuộc lại được vợ mình.
Ông đến cùng nàng, mặc quần áo cho nàng, và âu yếm đưa nàng về nhà. Tiếp theo sau là một trong những câu văn dịu dàng nhất và hay nhất trong cả Kinh Thánh:
Rồi ta bảo nó rằng: Ngươi khá chờ đợi ta lâu ngày; đừng làm sự gian dâm và chớ làm vợ cho người nam nào, thì ta đối với ngươi cũng sẽ làm như vậy (3:3).
Ông đã hứa nguyện bắt đầu tình yêu lại từ đầu. và đó là tất cả những gì mà người phụ nữ khốn khổ này có được. Nàng đã rơi vào vùng bùn lấm của sự tủi nhục, hổ thẹn, và bần cùng – nhưng tình yêu kiên định, vô điều kiện của Ô-sê đã làm tan vỡ tấm lòng ương bướng của nàng và nâng nàng lên một lần nữa. Từ đó trở đi, Gô-me chung thủy với Ô-sê. Trong phần cuối của sách, Ô-sê tiếp tục nói về tác động của câu chuyện này trên đất nước Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời phán cùng dân chúng: “Làm sao Ta có thể bỏ ngươi được?” Ông nhắc nhở họ về tình yêu của Ngài dành cho họ trong suốt những năm đó, mặc dù họ đã quay lung lại với Ngài. Đó là một câu chuyện về tình yêu cứu chuộc của Chúa cho một dân đã tự bán mình vào cảnh nô lệ, bần cùng, và tủi nhục. Nó cũng chính là câu chuyện được nhắc lại trong Tân Ước khi Chúa giê-xu đến và trả giá để cứu chuộc chúng ta, hầu cho Ngài có thể mang cô dâu của Ngài, là hội thánh, ra khỏi cảnh nô lệ và khôi phục lại một địa vị cao trọng và thủy chung.
Chúng ta thấy một số lời tiên báo đáng chú ý trong sách Ô-sê. Một trong số đó xuất hiện ở cuối đoạn 3. Cũng theo dòng kể câu chuyện đời tư của Ô-sê và cô dâu phản bội, Đức Chúa Trời phán về dân Y-sơ-ra-ên:
-
Vì con cái Y-sơ-ra-ên sẽ trải qua nhiều ngày, không vua, không quan trưởng, không của lễ, không trụ tượng, không ê-phót, và không thê-ra-phim (O6s 3:4).
Lời tiên tri đó ngày nay đang được ứng nghiệm. Con cháu Y-sơ-ra-ên đã sống nhiều năm không có vua. Suốt từ cuộc hủy diệt Giê-ru-sa-lem vào năm 70SC bởi tay hoàng đế Titus của La Mã, Y-sơ-ra-ên đã không có một vị vua hay quan trưởng nào, không ai có đủ quyền hành để cai trị Y-sơ-ra-ên.
Y-sơ-ra-ên cũng sống mà không có của lễ. Khi dân Do Thái trên thế giới kỷ niệm tiệc Lễ Vượt Qua, họ nhớ lại bữa tối đầu tiên tại Ai Cập khi Y-sơ-ra-ên được giải thoát khỏi tay Pha-ra-ôn. Đức Chúa Trời đã bảo Y-sơ-ra-ên rằng mỗi khi dự Lễ Vượt Qua thì họ phải giết một con chiên. Nhưng trong suốt hai ngàn năm dân Do Thái chẳng hề giết con chiên nào. Tại sao vậy? Tại sao họ lại dâng một khúc xương, một khúc xương cháy làm của lễ? Chúa phán rằng họ sẽ trả qua nhiều ngày không có của lễ, và kể từ khi đền thờ bị phá hủy thì không có của lễ nào trong Y-sơ-ra-ên, cũng không có ê-phót hay thê-ra phim nào nữa. Họ sống mà không thờ thần tượng nào.
Hết