"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:6870110
Đang truy cập:102

Giải nghĩa Sáng Thế Ký 71, 72, 73, 74, 75

accutane without gelatin

buy accutane malaysia click buy accutane 10mg uk

prednisolone dosage

buy prednisolone for dogs

buy prednisolone 5mg uk

buy prednisolone

usa buy abortion pill

medical abortion

symbicort inhaler dosage

symbicort generic name invocal.ru symbicort inhaler dosage

abortion pill online

abortion pill

abortion clinics in huntington wv

abortion clinics in huntington wv saluslab.com

adderall weed high

adderall and weed studying asser.nl

 Bài Bảy Mươi Mốt

Được Xử 

(5)

Phần ghi chép về Gia-cốp trong Sáng Thế Ký chương 30-31 rất thú vị. Dựa trên hai nguyên tắc, đó là Kinh Thánh không có lời nào là uổng phí và mọi điều trong Kinh Thánh đều là lời của sự sống nên chúng ta phải ngửa trông Chúa để có thể thấy sự sống trong phần ghi chép này. Tôi đã dành một lượng thời gian đáng kể trong phần Lời này. Nhiều năm trước, tôi xem phần ghi chép này chỉ như một câu chuyện. Nhưng sau khi nhận thức rằng bất kỳ điều gì được tìm thấy trong Kinh Thánh đều là lời sự sống nên tôi bắt đầu tìm kiếm sự sống trong phần Lời này. Sau khi được soi sáng, tôi nhận thức rằng phần ghi chép này đầy dẫy sự sống.

Tất cả những điểm chính trong 30:25-43 và 31:1-16, 38-42 có thể được phân loại theo 3 tiêu đề: sự bóp chẹt của La-ban, mánh lới của Gia-cốp và phước hạnh của Đức Chúa Trời. Ba bên chính trong phần ghi chép này là La-ban, Gia-cốp và Đức Chúa Trời. Hai bên thì hữu hình, còn một bên thì vô hình. La-ban, bên thứ nhứt, bóp chẹt Gia-cốp; và Gia-cốp, bên thứ hai, lừa gạt La-ban. Tuy nhiên, trong hai bên này, không bên nào đưa ra quyết định sau cùng. Điều này được thực hiện bởi bên thứ ba, bên vô hình, là chính Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, càng bóp chẹt Gia-cốp bao nhiêu, La-ban càng mất mát bấy nhiêu; và những mánh lới mà Gia-cốp đối xử với La-ban thì không phải là điều làm cho ông trở nên giàu có. Phán quyết cuối cùng không do La-ban hay Gia-cốp đưa ra nhưng được Đức Chúa Trời là Chúa của tất cả, đưa ra. Nếu muốn thấy sự sống trong phần Lời này và nhận được sự cung ứng sự sống trong đó, chúng ta phải quan tâm đến ba bên này. Nếu thấy điều đó, chúng ta sẽ đánh giá cao phần Lời này.

Như chúng tôi đã chỉ ra, Áp-ra-ham tiêu biểu cho đời sống được Đức Chúa Trời xưng công chính và sống trong mối tương giao với Đức Chúa Trời, còn Y-sác tiêu biểu cho đời sống vui hưởng ân điển của Đức Chúa Trời. Trong Gia-cốp, chúng ta thấy phương diện thứ ba của đời sống thuộc linh –sự biến đổi. Gia-cốp, người ở dưới bàn tay biến đổi của Đức Chúa Trời, tiêu biểu cho đời sống biến đổi. Việc La-ban bóp chẹt Gia-cốp là sự tể trị của Đức Chúa Trời. Gia-cốp cần bàn tay bóp chẹt của La-ban và Đức Chúa Trời dùng điều đó để biến đổi Gia-cốp.

Khi đọc phần ghi chép về đời sống Gia-cốp, anh em đừng đọc cho người khác. Hãy đọc cho chính mình vì anh em là Gia-cốp duy nhất. Ngay cả chị em cũng là Gia-cốp. Trong khi nhiều chị em có chồng La-ban thì họ, những người vợ mánh lới, là Gia-cốp. Vì họ rất mánh lới nên Đức Chúa Trời đã ban cho họ những người chồng như La-ban để bóp chẹt họ. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nói rằng nhiều người chồng Gia-cốp đã cưới những người vợ La-ban. Hầu như mọi người chồng đều mánh lới. Dù một anh em nào đó đã lập gia đình có vẻ như người lịch sự, nhưng thực ra anh là một Gia-cốp mánh lới. Người chồng nào cũng chơi trò mánh lới với vợ. Nhưng dù chúng ta có thể lừa dối đến đâu, Đức Chúa Trời vẫn là tối cao. Phần ghi chép của Gia-cốp là tiểu sử và bản tự truyện của chúng ta. Phần ký thuật trong Kinh Thánh là tiểu sử của chúng ta và phần ký thuật trong nếp sống hằng ngày của chúng ta là bản tự truyện của chúng ta. Chúng ta đang viết tự truyện mỗi ngày. Trong việc đối xử với người khác, chúng ta gian xảo; trong việc bị người khác đối xử, chúng ta bị bóp chẹt.

Gia-cốp đã được chọn làm sự biểu lộ Đức Chúa Trời. Làm thế nào kẻ tiếm vị như thế có thể trở thành sự biểu lộ Đức Chúa Trời? Không bởi sự sửa sai bên ngoài mà chỉ qua tiến trình biến đổi. Làm thế nào sự biến đổi có thể được hoàn thành? Chỉ bởi chúng ta được đặt vào môi trường nào đó và ở dưới bàn tay của những người nào đó do sự sắp xếp tối thượng của Đức Chúa Trời. Ngài là tối cao trong việc sắp xếp môi trường của chúng ta. Với những anh chị em sắp lập gia đình, tôi muốn nói lời này: Anh em ơi, đừng nghĩ rằng anh em sắp cưới một chị em tốt. Không, anh em sắp lấy một La-ban bóp chẹt. Chị em ơi, hãy chuẩn bị. Chị em sẽ không lấy một người khổng lồ thuộc linh mà là một Gia-cốp xảo quyệt. Đức Chúa Trời tể trị trong vấn đề này.

Dù Đức Chúa Trời đã chọn chúng ta, nhưng chúng ta là những kẻ tiếm vị, kẻ nắm gót và phải được biến đổi, dù có thích hay không. Tôi nghe nhiều người giữa vòng chúng ta nói rằng: “Chúa Jesus ơi, con yêu Ngài”. Anh em có biết nói với Chúa như vậy có nghĩa gì không? Có nghĩa là anh em đồng ý với sự xử lý của Ngài. Khi nói: “Chúa Jesus ơi, con yêu Ngài”, thực ra anh em đang nói: “Chúa Jesus ơi, con là một với Ngài và con sẵn sàng để Ngài xử lý”. Có lẽ anh em không nhận thức những gì bị ràng buộc khi nói rằng: “Chúa Jesus ơi, con yêu Ngài”. Giả sử một thiếu nữ nói với một thanh niên rằng cô yêu anh. Lời này có nhiều ràng buộc và không nên nói cách khinh suất. Do nói lời đơn sơ này, cô bán chính mình cho anh. Cũng vậy, khi nói: “Ô Chúa Jesus, con yêu Ngài”, chúng ta được Ngài bắt lấy và đã bị ràng buộc vào tiến trình biến đổi. Như nhiều người trong chúng ta có thể làm chứng, chúng ta không có nan đề trước khi bắt đầu yêu Chúa. Nhưng từ khi bắt đầu nói: “Chúa Jesus ơi, con yêu Ngài”, chúng ta gặp hết nan đề này đến nan đề khác. Tuy nhiên, những nan đề này không làm chúng ta chết. Đôi khi chúng ta bị quấy rầy với nhiều nan đề đến nỗi muốn chết. Nhưng vào lúc đó, Chúa sẽ phán: “Con có thể muốn chết, nhưng Ta sẽ không để con chết. Ta sẽ giữ con sống để con có thể được biến đổi. Ta không tiền định cho con chết. Ta tiền định cho con được đồng hóa theo hình ảnh của Con Trưởng Đức Chúa Trời”. Nếu đến với phần Lời này trong ánh sáng như vậy, chúng ta sẽ thấy nó sống động là thể nào.

8) Sự Bóp Chẹt Của La-ban

Bây giờ chúng ta hãy xem sự bóp chẹt của La-ban (30:25-43; 31:1-16, 38-42). Trong chương 29, La-ban đón tiếp Gia-cốp vì lòng hiếu khách (29:14). Sau một lát, có lẽ La-ban đã khám phá rằng Gia-cốp khá thông minh và có thể rất có ích cho ông. Tỏ vẻ ân cần, La-ban nói với Gia-cốp: “Vì cháu là bà con của cậu, cháu giúp công không cho cậu thôi sao?” (29:15). Dường như La-ban nói: “Cháu ở với cậu mà không được trả công thì không công bằng. Hãy nói với cậu điều cháu muốn”. Có lẽ La-ban cảm nhận rằng Gia-cốp đã phải lòng Ra-chên, con ông và ông thầm nhủ: “Gia-cốp ơi, cậu sẽ không để cháu có con gái cậu với giá rẻ. Cháu yêu nó và cậu sẽ trao nó cho cháu, nhưng cháu phải trả giá”. La-ban khôn ngoan, không nói điều này với Gia-cốp, nhưng ông biết lòng của Gia-cốp. Khi La-ban hỏi về tiền công, Gia-cốp nói: “Vì Ra-chên, con gái cậu, tôi sẽ phục vụ cậu 7 năm” (29:18). Như chúng tôi đã nói, tình yêu làm người ta mù quáng và ngu dại. Vì tình yêu đối với Ra-chên đã làm cho Gia-cốp ngu dại nên ông đã tự cam kết làm việc trong 7 năm để có được nàng. Nếu là Gia-cốp, tôi sẽ không làm việc lâu hơn 12 tháng. La-ban hài lòng với đề nghị của Gia-cốp. Tuy nhiên, khi 7 năm đã hết, La-ban không đề cập gì về hôn nhân của Gia-cốp với Ra-chên. Điều này cho thấy rằng ông không thật lòng. Vì thế, Gia-cốp buộc phải nói: “Xin cậu giao vợ tôi cho tôi vì hạn tôi đã mãn để tôi đến cùng nàng” (29:21). Nhưng La-ban giao Lê-a cho Gia-cốp thay vì Ra-chên. Khi Gia-cốp nhận ra điều này, La-ban tự biện minh bằng cách nói rằng phong tục ở xứ họ không được gả em trước, chị sau (29:24). Về Ra-chên, La-ban nói: “Hãy ở với đứa này trọn một tuần đi, rồi Ta sẽ gả luôn đứa kia cho; về đứa kia, cháu phải giúp công cho cậu thêm 7 năm nữa” (29:27). Ở đây chúng ta thấy sự bóp chẹt của La-ban. Nếu nhớ lại quá khứ , anh em sẽ thấy mình cũng từng bị bóp chẹt bởi chồng hay vợ mình.

La-ban xảo quyệt và khôn ranh, còn Gia-cốp không thể đánh bại La-ban. Có 2 lần Gia-cốp nói rằng La-ban đã 10 lần thay đổi tiền lương của ông (31:7,41). Gia-cốp đã phàn nàn với La-ban rằng: “Trong 20 năm tôi ở tại nhà cậu là như thế; trong 14 năm giúp việc, để được hai con gái cậu, và 6 năm đặng lãnh lấy bầy gia súc của cậu, mà cậu lại còn thay đổi 10 lần lương tôi” (31:41). Hơn nữa, Gia-cốp nói với ông: “Nếu Đức Chúa Trời của cha tôi, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, là Đấng mà Y-sác kính sợ, không phù hộ tôi, chắc bây giờ cậu đuổi tôi ra tay không” (31:42). Gia-cốp dường như nói: “La-ban ơi, không những tôi đã làm việc 14 năm để được hai con gái cậu và 6 năm để có bầy gia súc, mà cậu thậm chí còn không muốn để tôi đi với vợ, con và bầy gia súc. Cậu đã tìm cách giữ lại tất cả”. Thật là những nỗi khổ Gia-cốp đã trải qua dưới bàn tay bóp chẹt của La-ban.

La-ban bóp chẹt Gia-cốp bằng nhiều cách. Ông đã làm cho Gia-cốp mắc bẫy để làm việc cho ông 14 năm hầu có được hai con gái ông và sau đó bắt ông phải làm việc 6 năm nữa để được bầy gia súc (31:41). Như chúng ta đã thấy, ông đã 10 lần thay đổi lương của Gia-cốp, có lẽ đã hạ lương mỗi lần thay đổi. Càng đòi hỏi Gia-cốp nhiều, La-ban càng trả lương ít. La-ban cũng đòi Gia-cốp phải đền những con bị thú dữ xé hay mất trộm (31:39). Điều này bất công làm sao! Nhưng La-ban cho rằng điều đó hoàn toàn công bằng và nói: “Hãy cẩn thận về gia súc của cậu. Cháu phải đền con nào bị thú dữ xé hay bị mất cắp”. Anh em có chịu nỗi khi làm việc dưới bàn tay bóp chẹt như thế không? Tuy nhiên, Gia-cốp đã kiên nhẫn và chịu đựng sự bóp chẹt của La-ban trong 20 năm. Nhiều lần, La-ban có lẽ đã dọa Gia-cốp rằng: “Nếu không muốn làm cho cậu theo yêu cầu của cậu, cháu có thể đi. Cậu sẽ giữ các con gái, các cháu và bầy gia súc của cậu”. Gia-cốp đã hoảng sợ về viễn cảnh này. Dù đã lớn mạnh nhiều, Gia-cốp vẫn sợ La-ban. Khi muốn trốn đi, ông sợ nói với La-ban rằng ông sẽ đi, sợ rằng La-ban sẽ cướp khỏi ông những người vợ, con cái và gia súc. La-ban là người bản xứ, còn Gia-cốp là khách lạ. Người bản xứ luôn dễ xử khách lạ. La-ban chắc đã đe dọa Gia-cốp về việc mất mọi sự. Tuy nhiên, Gia-cốp đã chịu đựng. Ngoài những điều này, La-ban đã khiến Gia-cốp phải chịu thiêu đốt bởi cái nóng ban ngày và giá lạnh ban đêm (31:40). Vì La-ban đối xử với ông như vậy nên Gia-cốp nói: “Tôi nào ngủ an giấc được” (31:40). Khi đang chăn bầy gia súc của La-ban, ông ở ngoài trời và không có chỗ ngủ. Không một bóng cây che sự thiêu đốt ban ngày và không có sự bảo vệ khỏi sương giá ban đêm. Trong vùng đó, nhiệt độ ban ngày thì nóng, còn ban đêm thì lạnh. Khi phải chịu nóng bức và giá lạnh như vậy, ông không thể ngủ được vì ở dưới sự bóp chẹt của La-ban. Cuối cùng, như chúng tôi đã nói, La-ban đã cố gắng giữ lại vợ con và gia súc của Gia-cốp (30:26; 31:14-15,42). Trong khi không ai trong chúng ta sẵn sàng làm việc cho một người như La-ban thì Gia-cốp đã làm việc cho La-ban 20 năm. Suốt thời gian này, ông ở dưới bàn tay bóp chẹt của La-ban.

Nếu đọc phần ghi chép này trong ánh sáng như vậy, chúng ta sẽ nói: “Chúa ơi, con thờ phượng Ngài. Từ ngày con bắt đầu yêu Ngài, những điều xảy ra cho con theo cùng một cách và cùng một nguyên tắc như vậy”. Hãy nhìn lại những năm anh em sống trong nếp sống Hội Thánh và những lần anh em bị bóp chẹt. Như Gia-cốp thiên nhiên cần một La-ban bóp chẹt thì tính khí thiên nhiên của chúng ta cũng cần được bóp chẹt. Bàn tay bóp chẹt của La-ban không phải là ngẫu nhiên mà là được sắp đặt trước bởi Đức Chúa Trời tối cao. Y-sác, Rê-bê-ca và Ê-sau đã được Đức Chúa Trời dùng để đặt Gia-cốp vào trong lò biến đổi và La-ban là lửa thiêu cháy trong lò. Tất cả những người này được Đức Chúa Trời dùng để biến đổi Gia-cốp. Đừng phàn nàn về tình trạng của anh em. Thỉnh thoảng, khi tôi đang phàn nàn, bỗng nhiên tôi thấy ánh sáng và Đức Chúa Trời dường như phán: “Tại sao con phàn nàn? Con không biết rằng đây là sự sắp đặt của Ta sao? Vợ, con và tất cả những anh em trong Hội Thánh đã được Ta sắp đặt trước. Thật ngu dại khi con phàn nàn”. Vợ, chồng và con cái của anh em chính xác là điều mà tính khí anh em cần. Chúng ta có thể sai lầm, nhưng Đức Chúa Trời không bao giờ sai lầm. Mọi điều đều trong bàn tay Chúa và không cần phải phàn nàn. Thay vì phàn nàn, chúng ta nên đơn sơ nói: “Chúa ơi, cảm ơn Ngài về một La-ban tốt đẹp như vậy”.

9) Mánh Lới Của Gia-cốp

Dù bị La-ban bóp chẹt và đe dọa, Gia-cốp vẫn có thể lừa La-ban (30:31-43). Ngày nọ, Gia-cốp nói với La-ban rằng ông muốn trở về quê hương và xin La-ban giao lại cho ông vợ con mà vì họ, ông đã phục vụ rất nhiều năm (30:25-26). La-ban đáp: “Ước gì cậu được nhờ ơn cháu! Cậu cũng đoán rõ rằng Đức Giê-hô-va đã vì cháu mà ban phước cho cậu vậy” (30:27). La-ban có vẻ tử tế, nhưng thật xảo quyệt. Những người xảo quyệt luôn tử tế. Người nào tử tế với anh em đều xảo quyệt, nhưng ai mạnh bạo với anh em thì chân thật. La-ban rất xảo quyệt với Gia-cốp, nói rằng ông biết do Gia-cốp ở với ông mà ông đã nhận được phước hạnh của Chúa. Khi La-ban nói với Gia-cốp: “Hãy định lương của cháu rồi cậu sẽ trả cho”. Gia-cốp đáp: “Cậu biết tôi giúp đỡ cậu thể nào và về tay tôi bầy gia súc cậu được ra sao. Trước khi tôi đến, gia súc của cậu thật ít, nhưng từ khi tôi đến ở thì thêm nhiều quá bội. Đức Giê-hô-va đã ban phước cho cậu từ khi tôi bước chân vào nhà này; bây giờ biết chừng nào tôi sẽ được lo việc nhà tôi?” (30:28-30). Gia-cốp dường như nói: “Tôi đã làm việc ở đây trong nhiều năm mà vẫn không thể chu cấp cho nhà riêng mình. Khi nào tôi sẽ có thể lo cho gia đình tôi?”. Nhận biết rằng nếu Gia-cốp đi, phước hạnh của Đức Chúa Trời sẽ rời khỏi mình nên La-ban nói: “Hãy ở lại với cậu. Cậu không biết phải trả cho cháu bao nhiêu. Hãy đơn sơ cho cậu biết điều cháu muốn. Miễn là chúng ta ở dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời, mọi việc sẽ ổn”.

Bây giờ chúng ta thấy Gia-cốp, người đã chịu sự bóp chẹt của La-ban, đã có cách để ăn cắp của cải của La-ban và làm cho mình giàu có. Khi La-ban hỏi sẽ trả lương cho ông như thế nào, Gia-cốp nói: “Sẽ chẳng cho tôi chi cả. Nếu thuận theo lời này thì tôi sẽ chăn bầy gia súc của cậu và cho ăn nữa. Ngày nay, tôi sẽ đi kiểm soát các bầy chiên và bầy dê của cậu; trong bầy chiên, bầy dê, hễ con nào có rằn, có đốm, cùng chiên sắc đen thì tôi sẽ để riêng ra; ấy sẽ là phần lương của tôi. Một mai cậu đi xem xét lương của tôi thì lòng ngay thẳng tôi sẽ làm chứng trước mặt cậu. Hễ ở về phần bên tôi, các con dê nào không có rằn và đốm, các chiên con nào không có sắc đen thì sẽ cho là ăn cắp” (30:31-33, Hê.). Gia-cốp dường như nói: “Cậu La-ban, hãy hứa với tôi một điều thì tôi sẽ ở lại. Hãy đem khỏi bầy của cậu tất cả những con có rằn, có đốm, sắc đen và để lại tất cả những con trắng ở với tôi. Từ nay trở đi, con nào có đốm, có rằn và sắc đen sẽ là của tôi”. La-ban nghĩ rằng đây là một đề nghị tuyệt vời vì ông biết rằng con thú trắng chỉ có thể sinh ra thú trắng, không thể sinh ra con nào có rằn, có đốm hay sắc đen được. Vì thế, La-ban cho di chuyển khỏi bầy của ông tất cả những con không hoàn toàn màu trắng và giao chúng cho các con trai ông (30:34-35). Bầy gia súc để lại cho Gia-cốp toàn là những con có màu trắng. Có lẽ La-ban nghĩ rằng, một lần nữa, Gia-cốp đã sập bẫy nên La-ban “để cho bầy của ông và của Gia-cốp ở xa nhau ba ngày đường; và Gia-cốp đã chăn bầy còn lại của La-ban” (30:36). Như chúng ta sẽ thấy, điều này tạo cơ hội cho Gia-cốp lừa La-ban.

Trong trò lừa này, Gia-cốp lấy nhành bạch dương, nhành bồ đào và nhành bá tiên tươi rồi “lột vỏ để bày làn da trắng ở trong ra” (30:37). Sau đó, ông để những nhành đã lột vỏ này trong máng nước, trước mặt những con thú, “để khi đến uống nước thì chúng giao hiệp nhau” (30:38). Trong 30:39, chúng ta được biết rằng: “Các con chiên ngó thấy những nhành đó mà giao hiệp nhau thì sanh chiên con có sọc, có rằn và có đốm”. Đoạn, Gia-cốp để riêng gia súc của mình khỏi bầy gia súc của La-ban. Hơn nữa, khi những con mạnh giao hiệp, “Gia-cốp để các nhành đó dưới mắt chúng trong máng uống nước, đặng chúng nó đối nhành mà giao hiệp cùng nhau. Nhưng khi nào con chiên gầy ốm thì ông không để nhành như vậy; thế thì, các chiên con gầy ốm để về phần La-ban, còn chiên con mạnh mập lại về phần Gia-cốp” (30:41-42). Như thế, những gia súc có rằn, có đốm và có sọc thì mạnh hơn, còn những con màu trắng thì yếu hơn. Tôi không tin rằng trên thực tế mưu đồ của Gia-cốp có công hiệu; nó chỉ là một sáng chế của tâm trí khôn lanh của Gia-cốp. Nhưng dù trò lừa này có công hiệu hay không thì kết quả đã rõ và Gia-cốp nghĩ rằng kế hoạch của ông đã thành công.

Khi Gia-cốp thấy vẻ mặt của La-ban đối với ông chẳng còn như trước, Chúa phán với ông: “Hãy trở về xứ của tổ phụ ngươi và bà con ngươi; Ta sẽ ở với ngươi” (31:2-3). Sau đó, theo 31:4-5: “Gia-cốp bèn sai người gọi Ra-chên và Lê-a đến nơi bầy gia súc của mình ngoài đồng”, và nói với họ rằng vẻ mặt của cha họ đối với ông chẳng còn như trước nữa. Sau điều này, ông thuật lại chiêm bao đã thấy trong lúc bầy gia súc đang giao hiệp. Trong chiêm bao này, ông thấy “các chiên đực đang giao hiệp cùng chiên cái đều có sọc, có rằn và có đốm” và ông nghe Thiên Sứ của Đức Chúa Trời phán: “Hãy nhướng mắt lên mà nhìn: hết thảy chiên đực đang giao hiệp cùng chiên cái đều có sọc, có rằn và có đốm vì Ta đã thấy cách La-ban ăn ở cùng ngươi rồi” (31:10-12). Trước đây, khi đọc phần ghi chép về chiêm bao này, tôi nghi ngờ không biết có thật không. Tôi nghĩ rằng Gia-cốp đang nói dối vì ông không muốn để lộ trò lừa của mình cho vợ biết. Cuối cùng, tôi khám phá rằng chiêm bao này không phải là điều dối vì khi thuật lại, Gia-cốp đã nói rằng Thiên Sứ của Chúa đã phán với ông: “Ta là Đức Chúa Trời của Bê-tên, nơi ngươi đã xức dầu cây trụ và đã thề nguyện với Ta” (31:13). Vì lời này không thể giả dối nên chiêm bao phải có thật. Trong khi Gia-cốp lừa La-ban bằng những nhành cây đã lột vỏ, Đức Chúa Trời phán với ông trong chiêm bao, bảo ông hãy nhìn để thấy rằng tất cả những chiên đực giao hiệp cùng chiên cái đều có sọc, có rằn và có đốm. Bằng cách này, Đức Chúa Trời cho Gia-cốp thấy rằng ông có được bầy gia súc này không do mánh lới nhưng do sự tể trị của Đức Chúa Trời. Nguyên tắc ở đây tương tự với nguyên tắc trong việc Gia-cốp chiếm quyền trưởng nam. Trong khi Gia-cốp cố hết sức để chiếm được điều đó thì thực ra nó đã được ban cho ông. Nhìn bên ngoài, Gia-cốp chiếm được quyền trưởng nam bởi mánh lới; nhưng thực ra, nó đã được ban cho ông bởi sự tể trị của Đức Chúa Trời. Cũng vậy, nhìn bên ngoài, Gia-cốp có được của cải, gia súc bởi mánh lới; nhưng thực ra, những của cải này đến bởi sự tể trị của Đức Chúa Trời.

Có một vấn đề khó hiểu trong phần Lời này. Trong chương 30, chúng ta được bảo rằng chỉ có những chiên trắng đang giao hiệp trước những nhành cây, nhưng trong chiêm bao thì những chiên có rằn, có đốm, có sọc, chứ không phải chiên trắng, đang giao hiệp với nhau. Làm thế nào chúng ta có thể dung hòa điều này? Có hai cách. Cách thứ nhứt là công bố rằng chiêm bao này là lời nói dối. Tôi không thể chấp nhận điều này. Cách thứ hai là nói rằng đây là vấn đề thuộc sự tể trị của Đức Chúa Trời. Theo cách này, Đức Chúa Trời đã thay đổi chiên trắng thành chiên có rằn, có đốm và có sọc theo cách giống như việc Ngài thay đổi những lời rủa sả của Ba-la-am thành những lời chúc phước (Dân. 23:11-12; 24:10). Tuy nhiên, dù giải thích sự kiện này theo cách nào, tôi vẫn không tin rằng những chiên có đốm, có rằn giao hiệp nhau qua thủ thuật của Gia-cốp mà là qua sự tể trị của Đức Chúa Trời. Chiêm bao của Gia-cốp trong chương 31 bày tỏ rằng thực ra chính sự tể trị của Đức Chúa Trời mới tạo nên kết quả này. Hãy so sánh điều này một lần nữa với trường hợp Gia-cốp chiếm quyền trưởng nam. Nếu Đức Chúa Trời không tể trị trong hoàn cảnh đó và không ban quyền trưởng nam cho Gia-cốp, ông không bao giờ có thể có được điều đó qua sự lừa đảo. Nguyên tắc ở đây cũng vậy. Gia-cốp không trở nên giàu có do thủ đoạn của ông nhưng qua sự tể trị của Đức Chúa Trời.

Gia-cốp đã được Đức Chúa Trời chọn và ở dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời. Ông không cần chơi trò lừa để trở nên giàu có. Vì Gia-cốp ở dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời nên Đức Chúa Trời đã ban cho ông phước hạnh của Ngài. Nhìn bên ngoài, Gia-cốp có những của cải này nhờ trò lừa thành công của ông; thực ra, chúng đã được ban cho ông bởi bàn tay ban phước tối cao của Đức Chúa Trời. Về nguyên tắc, điều này tương tự với chúng ta ngày nay. Chúng ta cũng là những người được chọn của Đức Chúa Trời và ở dưới phước hạnh của Ngài. Chúng ta không cần tranh đấu hay chơi trò lừa để có được phước hạnh của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ ban cho chúng ta phước hạnh chúng ta cần. Tuy nhiên, sau khi được cứu, tất cả chúng ta đã tranh đấu và chơi trò lừa để có được phước hạnh. Trong nhiều trường hợp, dường như phước hạnh đến nhờ sự tranh đấu và lừa đảo của chúng ta. Thật ra, phước hạnh đến qua sự tể trị của Đức Chúa Trời. Tương tự với mọi điều liên quan đến chúng ta. Đừng nghĩ rằng phước hạnh đến nhờ những nỗ lực thành công của chúng ta. Đúng ra, chúng ta phải nhận thức rằng mỗi phước hạnh, dù thuộc linh hay thuộc thể, đều đến qua sự tể trị của Đức Chúa Trời.

10) Phước Hạnh Của Đức Chúa Trời

Bây giờ chúng ta cần xem xét phước hạnh của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban phước cho La-ban vì cớ Gia-cốp (30:27,30). Qua sự ban phước của Ngài, Đức Chúa Trời gìn giữ Gia-cốp khỏi sự bóp chẹt của La-ban (31:7-12,16,42). Chúng ta phải quì xuống thờ phượng Đức Chúa Trời và học bài học không quan tâm đến việc bị người khác bóp chẹt bao nhiêu. Là người được chọn của Đức Chúa Trời, chúng ta ở dưới sự ban phước của Ngài. Dù người khác có thể bóp chẹt, nhưng chúng ta không cần lừa họ. Càng lừa người khác, chúng ta sẽ càng bị bóp chẹt. Nhưng dù có lừa hay không, phước hạnh cũng vẫn sẽ là của chúng ta vì chúng ta được định cho điều đó.

Gia-cốp đã bắt đầu lừa gạt từ trong bụng mẹ và không ngừng lừa gạt cho đến khi được biến đổi. Chỉ khi đến với vài chương cuối của Sáng Thế Ký, chúng ta mới thấy Gia-cốp ngưng tính lừa gạt của ông. Sau khi được biến đổi thành hoàng tử của Đức Chúa Trời, Gia-cốp không còn lừa gạt nữa. Cũng vậy, chỉ sau khi được xử lý và biến đổi đầy đủ, chúng ta sẽ ngưng lừa gạt.

Như chúng tôi đã chỉ ra, trong phần ghi chép này có ba bên chính: bên bóp chẹt, bên dùng mánh lới và bên ban phước. Có lẽ Đức Chúa Trời đã phán với La-ban: “Này La-ban, Ta sẽ dùng sự bóp chẹt của ngươi làm phương tiện để biến đổi Gia-cốp, người được chọn của Ta. Ngươi không thể cướp phước hạnh của Ta khỏi nó. Ngươi càng bóp chẹt, Ta sẽ càng ban phước cho nó”. Hơn nữa, có lẽ Ngài cũng phán với Gia-cốp: “Này Gia-cốp, con trở nên giàu có không phải vì mánh lới của con, mà vì sự ban phước tối cao của Ta. Con đã để những chiên trắng trước những nhành có rằn], nhưng chiêm bao cho thấy rằng kết quả đã không đến do những mánh lới của con. Trong mắt Ta, chiên trắng thực ra là những chiên có đốm, có rằn. Chính sự ban phước tối cao của Ta, chứ không phải những mánh lới của con, đã làm cho con thành giàu có”. Tất cả chúng ta phải học tập không sợ hoàn cảnh hay sự bóp chẹt này và không lừa ai. Dù có thể tiếp tục lừa người khác nhưng sẽ có một ngày, bản chất dùng mánh lới của anh em sẽ bị xử lý.

Dù Gia-cốp gian xảo, Đức Chúa Trời vẫn ban phước cho ông. Trong chiêm bao, Đức Chúa Trời không quở trách; trái lại, Ngài yên ủi ông rằng: “Ta đã thấy mọi điều La-ban đã làm cho ngươi rồi” (31:12). Đức Chúa Trời đã thấy sự chịu khổ và hoạn nạn của Gia-cốp dưới bàn tay của La-ban và dường như Ngài phán: “Ta là Đức Chúa Trời của Bê-tên, Đức Chúa Trời của tổ phụ ngươi. Ta sẽ chăm sóc ngươi”. Khi đọc phần lời này, chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời không quan tâm đến điều Gia-cốp đã làm; Ngài chỉ quan tâm đến mục đích Ngài. Tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm đều vì sự xây dựng và biến đổi Gia-cốp.

 

Bài Bảy Mươi Hai

Được Xử 

(6)

11) Hòn Đá Có Dầu Đổ Lên Trên 
Và Nhà Của Đức Chúa Trời

Chiêm bao của Gia-cốp là điểm quan trọng nhất của cả Sách Sáng Thế Ký (28:10-22). Ngay cả 1:26 cũng không quan trọng bằng chiêm bao của Gia-cốp trong chương 28. Một trong các phương diện ấn tượng nhất của chiêm bao này là hòn đá. Sau khi trải qua cuộc hành trình dài, bởi mệt mỏi và cô đơn, Gia-cốp đã lấy một hòn đá làm gối rồi ngủ ngoài trời. Trong lịch sử, có lẽ đây là lần đầu tiên có một người dùng đá gối đầu. Có bao giờ anh em kê đầu trên hòn đá để nghỉ chưa? Tôi chưa bao giờ làm như vậy. Trước hết, Gia-cốp lấy hòn đá làm gối; sau đó, ông dựng nó lên làm trụ (28:18). Cái gối dùng để nghỉ ngơi, còn cây trụ dùng cho việc xây dựng. Anh em có nhận thức rằng một ngày kia cái gối của anh em sẽ trở thành cây trụ không? Sau này, chúng ta sẽ thấy cái gối này là gì. Trong 28:22, Gia-cốp nói: “Hòn đá mà tôi đã dựng làm trụ đây sẽ là Nhà của Đức Chúa Trời”. Cùng với đá, gối và nhà, có dầu được đổ trên chót đá (28:18). Làm thế nào Gia-cốp, một kẻ lang thang đơn độc, lại có mang dầu theo? Tôi không biết. Tuy nhiên, vào sáng sớm, ông đã đổ dầu trên trụ đá đó. Vì vậy, trong chiêm bao này có 4 yếu tố căn bản: đá, trụ, nhà và dầu. Bốn điều này là các yếu tố căn bản tạo nên Kinh Thánh.

Như chúng tôi đã nhiều lần đề cập, ý định của Đức Chúa Trời là làm cho con người thành sự biểu lộ tập thể của Ngài. Trong Sách Sáng Thế Ký, chúng ta không thể thấy Đức Chúa Trời có được một sự biểu lộ như vậy. Trong 1:26, là lời tuyên bố về mục đích của Đức Chúa Trời trong việc tạo dựng con người, chúng ta được biết rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời. Nhưng ở đây, chúng ta không thấy Đức Chúa Trời có được sự biểu lộ của Ngài. Đức Chúa Trời không có sự biểu lộ của Ngài với A-đam, A-bên, Ê-nót, Hê-nóc, Nô-ê, Áp-ra-ham hay Y-sác. Khi đến với Gia-cốp, chúng ta thấy ông là kẻ tiếm vị, kẻ nắm gót, một thanh niên rất khôn khéo. Dưới ánh sáng của cả Kinh Thánh, chúng ta biết rằng kẻ tiếm vị trẻ này đã được Đức Chúa Trời chọn và tiền định để có quyền trưởng nam. Trước buổi sáng thế, trong quá khứ đời đời, Đức Chúa Trời đã tiền định để ông có quyền trưởng nam. Như chúng tôi đã bày tỏ, quyền trưởng nam gồm ba điều: biểu lộ Đức Chúa Trời như các thầy tế lễ, đại diện Ngài như các vua và thừa hưởng cơ nghiệp của Đức Chúa Trời như những người thừa kế. Quyền trưởng nam này hoàn toàn vì sự biểu lộ tập thể của Đức Chúa Trời trên đất. Các biến cố trong Sáng Thế Ký chương 28 đã xảy ra sau khi tạo dựng con người khoảng 22 thế kỷ. Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham sau khi tạo dựng A-đam khoảng 2.000 năm và thời kỳ từ Áp-ra-ham cho đến Gia-cốp là khoảng 200 năm. Suốt thời gian dài này, Đức Chúa Trời đã không đạt được điều Ngài khao khát.

Trong khi Gia-cốp, kẻ tiếm vị trẻ tuổi gặp phải rắc rối do sự tiếm vị của mình, đang đơn độc trong một cuộc hành trình thì ông thấy một chiêm bao. Những gì Gia-cốp thấy là một chiêm bao; chưa phải là sự thật vì Gia-cốp vẫn là một kẻ tiếm vị. Sâu xa bên trong, có lẽ ông vẫn đang nắm gót Ê-sau. Làm thế nào một kẻ tiếm vị như thế có thể là Nhà của Đức Chúa Trời? Điều này không thể. Vì vậy, lúc đó, chiêm bao của Gia-cốp chỉ là chiêm bao. Chẳng hạn, dù bây giờ việc đáp lên mặt trăng là điều không thể xảy ra với chúng ta, nhưng chúng ta có thể nằm mơ thấy mình đã đáp lên mặt trăng. Điều này có thể là một chiêm bao, không thể là sự thật. Chúng ta cần có những chiêm bao trong đời sống thuộc linh. Trước đây, tôi có nhiều chiêm bao và hôm nay tôi muốn có một chiêm bao khác. Nếu anh em không có chiêm bao này từ khi được cứu, tình trạng của anh em hẳn là đáng thương nhất. Thế thì, từ khi được cứu, anh em đã có bao nhiêu chiêm bao? Mỗi khải tượng thuộc linh là một chiêm bao.

Ý nghĩa của chiêm bao là gì? Nguyên tắc của chiêm bao là điều gì đó trong chiêm bao không thể xảy ra cho anh em. Việc anh em được cứu là một chiêm bao, chiêm bao ban đầu của đời sống thuộc linh. Dù được cứu là điều không thể xảy ra, nhưng chúng ta đã được cứu. Bước vào nếp sống Hội Thánh cũng là một chiêm bao thuộc linh. Tất cả những người bước vào nếp sống Hội Thánh đều đã có một chiêm bao, mà trong đó, điều không thể xảy ra, đã xảy ra. Tôi thích những chiêm bao thiên thượng này.

Như chúng ta đã thấy, trong chiêm bao thiên thượng của Gia-cốp, có 4 điều được bày tỏ: đá, trụ, nhà và dầu. Bốn điều này không được tìm thấy trước Sáng Thế Ký chương 28. Chẳng hạn, ngoài mã não được đề cập đến trong 2:12, đá không được đề cập trong 27 chương rưỡi trước đó. Tuy nhiên, chúng ta thấy có đề cập đến gạch dùng để xây thành của Ma-Quỉ và tháp Ba-bên của quỉ (11:3). Khi nghiên cứu chương 11, chúng tôi đã chỉ ra rằng gạch tượng trưng cho công việc của con người, tức là kết quả của nỗ lực con người cùng với  đất sét. Gạch tiêu biểu cho mọi tôn giáo vì mọi tôn giáo đều là nỗ lực của con người cùng với  đất sét. Nhân loại là đất sét và tôn giáo hành động trên nhân loại để sản sinh ra gạch. Không có cây trụ nào được đề cập trước Sáng Thế Ký chương 28. Khi nói về thành và tháp Ba-bên, Kinh Thánh không đề cập đến trụ. Đừng nghĩ rằng Kinh Thánh là tầm thường. Kinh Thánh không tầm thường; trái lại, thật độc đáo. Trong Đền Thờ do Sa-lô-môn xây, có hai cây trụ lớn (1Vua. 7:21). Trong Ga-la-ti 2:9, chúng ta được biết rằng Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng là những cột trụ của Hội Thánh. Hơn nữa, trong Khải thị 3:12, chúng ta thấy những người đắc thắng sẽ được xây dựng thành cột trụ trong Đền Thờ của Đức Chúa Trời. Giống như trụ, nhà và dầu cũng không được đề cập trước chương 28. Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp đều sống trong lều. Nhưng sau khi thấy chiêm bao tại Bê-tên, Gia-cốp đã không nói về lều; ông nói về Nhà của Đức Chúa Trời. Do đó, trong Sáng Thế Ký chương 28, bốn điều này được đề cập lần đầu tiên.

Như chúng ta đã thấy, trong Kinh Thánh, sự đề cập đầu tiên về một điều nào đó luôn luôn thiết lập một nguyên tắc. Ngày từ ban đầu, khi Phi-e-rơ đến với Chúa, Ngài đã đổi tên ông từ Si-môn thành Sê-pha (Giăng 1:42) rằng: “Ngươi là Si-môn, con của Giăng, ngươi sẽ được gọi là Sê-pha (nghĩa là đá)”. Khoảng ba năm sau đó, Chúa hỏi các môn đồ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” (Mat. 16:13). Sau khi Phi-e-rơ đáp: “Ngài là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” thì Chúa Jesus phán cùng ông rằng: “Còn Ta lại bảo ngươi rằng ngươi là đá, Ta sẽ lập Hội Thánh Ta trên vầng đá này”. (Mat. 16:16,18). Khi phán lời này, Chúa nhắc Phi-e-rơ về điều Ngài đã làm cách đó ba năm khi đổi tên ông từ Si-môn thành Sê-pha. Về sau, trong Thư Tín Thứ Nhứt, Phi-e-rơ nói: “Anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thuộc linh” (1Phi. 2:5). Chỉ trong một câu như vậy, Phi-e-rơ đề cập đến cả đá lẫn nhà. Trong 1Cô-rin-tô chương 3, Phao-lô cũng có cùng quan điểm, ông nói với tín đồ Cô-rin-tô rằng họ là Nhà của Đức Chúa Trời (1Cô. 3:9). Trong 1Cô-rin-tô 3:10, Phao-lô bảo hãy coi chừng về cách chúng ta xây dựng. Chúng ta phải cẩn thận về cách xây và vật liệu xây dựng vì công trình của chúng ta sẽ bị lửa thử nghiệm. Nếu xây bằng vàng, bạc và đá quí, công trình của chúng ta sẽ còn lại. Vì thế, chúng ta thấy trong 1Cô-rin-tô chương 3, Phao-lô cũng nói về đá cho sự xây dựng của Đức Chúa Trời. Khi đến Sách Khải Thị, Sách cuối cùng của Kinh Thánh, chúng ta thấy một thành phố được xây dựng bằng đá quí. Theo nguyên tắc Kinh Thánh, thành phố luôn luôn là sự mở rộng của nhà. Khi một ngôi nhà được mở rộng lớn ra, nó trở thành một thành phố. Không có đền thờ nào trong Giê-ru-sa-lem Mới vì Đền Thờ đã được mở rộng thành một thành phố. Thành phố đó sẽ là nhà mở rộng được xây bằng đá quí. Kinh Thánh thật nhất quán biết bao! Bởi tất cả các phần Lời này, chúng ta thấy rằng đá là vật liệu cho sự xây dựng Nhà của Đức Chúa Trời.

Nhà của Đức Chúa Trời là gì? Nhà của Đức Chúa Trời đơn giản là sự thỏa lòng, sự yên nghỉ và sự biểu lộ Đức Chúa Trời. Loại nhà anh em sống trong đó bày tỏ anh em là loại người nào. Nếu là người dơ bẩn, anh em sẽ có một căn nhà dơ bẩn, còn nếu là người sạch sẽ, anh em sẽ có một căn nhà sạch sẽ. Cách đây 10 năm, tôi được chuyển đến một khu gọi là hip-py của San Francisco. Tôi không thể tin rằng người ta có thể sống trong một môi trường bẩn thỉu như vậy. Dù lúc đó không thấy một người híp-py nào, nhưng do điều kiện ăn ở của họ, tôi có thể nói rằng họ là những người dơ bẩn, nhếch nhác. Nhà của chúng ta là sự biểu lộ chúng ta. Nếu đến thăm nhà một gia đình người Nhật đang sinh sống, chỉ nhìn thoáng qua, anh em sẽ biết đó là nhà của người Nhật. Điều này cũng đúng với nhà của người Tô-cách-lan. Cũng vậy, Nhà của Đức Chúa Trời là sự biểu lộ của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, Nhà Ngài sẽ được mở rộng thành một thành phố, và thành phố ấy có cùng một dáng vẻ như Đức Chúa Trời. Theo Khải Thị 4:2-3, Đức Chúa Trời có dáng vẻ như bích ngọc và theo Khải Thị 21:11, cả thành Giê-ru-sa-lem Mới cũng sẽ có dáng vẻ của bích ngọc. Điều này có nghĩa là thành phố ấy có dáng vẻ của Đức Chúa Trời và là sự biểu lộ Ngài. Thậm chí chúng ta có thể nói rằng thành phố này sẽ là sự mở rộng của Đức Chúa Trời.

Dù đá và nhà là quan trọng nhất, nhưng vẫn cần có dầu. Theo hình bóng, dầu tượng trưng cho Đức Chúa Trời đến với con người. Đức Chúa Trời là Tam–Nhất. Cha là Nguồn, Con là Đường Dẫn, và Linh là Sự Tuôn Chảy đến chúng ta. Hành động Gia-cốp đổ dầu trên đá tượng trưng cho Đức Chúa Trời Tam–Nhất tuôn chảy để đến với con người. Đức Chúa Trời ở trên trời, nhưng Ngài đã được đổ ra trên con người. Khi Đức Chúa Trời Tam–Nhất đến với con người, Ngài làm cho con người thành Nhà của Đức Chúa Trời. Trước khi dầu được đổ trên hòn đá, hòn đá ấy chỉ là đá. Nhưng sau khi dầu được đổ trên đó, hòn đá ấy trở nên Nhà của Đức Chúa Trời.

a) Tình Trạng Không Nhà, Không Có Sự Yên Nghỉ.

Trong Sáng Thế Ký chương 28, Gia-cốp ở trong tình trạng không nhà, không có sự yên nghỉ (c. 10). Khi con người không có nhà, Đức Chúa Trời cũng không có nhà (Ês. 66:1). Do đó, trong Sáng Thế Ký chương 28, cả Gia-cốp lẫn Đức Chúa Trời đều không có nhà. Cũng vậy, khi con người khát, Đức Chúa Trời cũng khát và khi con người không thỏa mãn, Đức Chúa Trời cũng không thỏa mãn. Khi Chúa Jesus đến cái giếng ở Si-kha (Giăng 4), Ngài khát nước và một người đàn bà khát nước đã đến với Ngài. Cả người đàn bà Sa-ma-ri và Chúa Jesus đều khát. Khi con người không có nhà và không có sự yên nghỉ, Đức Chúa Trời cũng không có nhà và không có sự yên nghỉ. Sáng Thế Ký chương 28 là một bức tranh cho thấy cả Đức Chúa Trời lẫn con người đều không có nhà. Thế thì, nhà thật của con người là gì? Trong cõi đời đời, nhà của con người sẽ là Đức Chúa Trời. Nếu không có Đức Chúa Trời, anh em không có nhà. Người chưa được cứu không thể cảm thấy mình đang ở nhà vì nhà thật của con người là Đức Chúa Trời. Nhà của Đức Chúa Trời là gì? Là con người. Nhà của con người là Đức Chúa Trời và Nhà của Đức Chúa Trời là con người. Hễ khi nào con người tách rời Đức Chúa Trời thì cả Đức Chúa Trời lẫn con người đều không có nhà. Chẳng hạn, ly dị luôn ảnh hưởng đến cả chồng lẫn vợ. Chúng ta không thể nói người vợ bị ly dị, còn người chồng thì không. Do đó, khi con người không có nhà, Đức Chúa Trời cũng trở thành không nhà, nhưng khi chúng ta có nhà, Đức Chúa Trời cũng có nhà. Khi chúng ta có Đức Chúa Trời làm nhà của mình, chúng ta trở nên Nhà của Đức Chúa Trời. Trong Sáng Thế Ký chương 28, đêm đó Gia-cốp đã lìa khỏi Đức Chúa Trời, và rồi cả ông lẫn Đức Chúa Trời đều không có nhà. Vì Gia-cốp không có nhà nên ông cũng không có sự nghỉ ngơi. Một người không nhà là người không có sự nghỉ ngơi. Ngôi nhà thật thỏa thích vì nó là nơi yên nghỉ. Nhiều lần sau một chuyến đi, khi về đến nhà, tôi đã nói: “Ngợi khen Chúa, con đang ở nhà!” Điều này có nghĩa là tôi có thể nghỉ ngơi. Nhưng đêm ấy, Gia-cốp và Đức Chúa Trời đều không nhà và không có sự nghỉ ngơi.

b) Đá

Chúng ta thấy Gia-cốp đã dùng một hòn đá làm gối. Trong nhiều năm, tôi không thể hiểu ý nghĩa của điều này. Dù không thể hiểu theo lời bên ngoài, chúng ta vẫn có thể hiểu theo kinh nghiệm bên trong của mình. Trước khi được cứu, chúng ta không có sự yên nghỉ. Chúng ta luôn cảm thấy mình lúc ở trên không, khi ở đáy biển. Chúng ta không có gì vững chắc để nắm lấy, nâng đỡ hay giữ vững mình. Dù anh em có thể là triệu phú, nhưng tiền không thể nâng đỡ anh em. Trái lại, nó tước đoạt sự bình an và yên nghỉ của anh em. Dù già hay trẻ, nam hay nữ, trước khi được cứu, chúng ta đã không có sự nâng đỡ vững chắc. Nhưng một ngày nọ, chúng ta được cứu và điều gì đó đã xảy ra bên trong. Điều chúng ta kinh nghiệm sâu xa bên trong đã sản sinh điều gì đó trở thành sự chống đỡ vững chắc của chúng ta. Sau khi được cứu, chúng ta có thể gặp rắc rối. Tuy nhiên, sâu xa bên trong, chúng ta biết chắc rằng có một vầng đá vững chắc mà chúng ta có thể yên nghỉ trên đó. Vầng đá vững chắc này là chính bản chất, chính yếu tố của Đấng Christ được đem vào trong bản thể chúng ta.

Là con người, chúng ta được làm từ bụi đất (2:7). La-mã chương 9 cho biết rằng chúng ta là những chiếc bình bằng đất sét, không phải bằng đá. Nếu là Gia-cốp, hẳn tôi sẽ làm một đống đất sét và nằm nghỉ trên đó. Tuy nhiên, trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, đất sét không bao giờ có thể là sự yên nghỉ của chúng ta. Đời sống con người, sự sống và bản thể con người thiên nhiên không thể là sự yên nghỉ của chúng ta. Vấn đề không phải là  chúng ta được giáo dục tốt đến đâu hay có địa vị gì. Hễ khi nào không có bản chất thần thượng bên trong, chúng ta chỉ là đất sét. Đất sét này không thể là sự chống đỡ vững chắc của chúng ta. Không một ai trong chúng ta tìm thấy sự yên nghỉ cho đến khi được cứu. Vào ngày ấy, một điều gì đó thần thượng, một điều gì đó của Đấng Christ, đã được đem vào trong chúng ta và trở nên sự chống đỡ vững chắc bên trong chúng ta. Đây là sự yên nghỉ, cái gối của chúng ta. Cái gối của chúng ta là yếu tố thần thượng, tức chính Đấng Christ đã được đem vào trong bản thể chúng ta. Khi đang trải qua cuộc hành trình của đời người, thình lình chúng ta có một chiêm bao trong đó chính Đấng Christ được đem vào trong chúng ta. Bản chất của Đấng Christ là đá đã được đem vào trong bản chất bằng đất sét của chúng ta. Do đó, chúng ta có một vầng đá mà mình có thể gối đầu.

Những người vô tín thường nói về Cơ-đốc nhân như vầy: “Tôi để ý thấy trong những lúc gặp rắc rối, anh ta có sự bình an bên trong. Tại sao tôi không có điều đó?” Lý do những người vô tín không có sự bình an là vì họ không có yếu tố thần thượng bên trong. Họ chỉ có đất sét của yếu tố con người sa ngã. Nếu muốn biết đất sét kém phẩm chất như thế nào, anh em hãy đổ nước lên. Sau một thời gian ngắn, nó sẽ trở thành bùn. Nhưng càng đổ nước lên trên đá, nó càng trở nên sạch hơn và sáng hơn. Hãy để cho rắc rối đến. Chúng là nước để rửa sạch. Mỗi rắc rối mà một Cơ-đốc nhân trải qua giống như nước rửa sạch. Cảm tạ Đức Chúa Trời vì tôi đã được sạch nhiều lần bởi những điều rắc rối. Hãy sẵn sàng để được tẩy sạch. Kể từ ngày được cứu, chúng ta đã có một hòn đá để có thể gối đầu trên đó. Bây giờ, dù đêm tối dày đặc đến đâu, chúng ta vẫn có thể gối đầu yên nghỉ trên hòn đá này. Tôi không tin có một văn phẩm Cơ-đốc nào khác nói rằng đá trong Sáng Thế Ký chương 28 tượng trưng cho chính yếu tố thần thượng đã được đem vào trong bản thể chúng ta để trở thành cái gối cho nếp sống con người chúng ta. Những người vô tín không có cái gối này. Cái gối của họ là đất sét kém phẩm chất của bản chất con người. Nhưng cái gối của chúng ta là đá, yếu tố thần thượng, là chính Đấng Christ đã được đem vào trong chúng ta. Càng gặp khó khăn, chúng ta càng cần chiếc gối này. Một hòn đá có vẻ như không phải là nơi yên nghỉ. Nhưng theo kinh nghiệm, nó cho chúng ta một sự yên nghỉ vững chắc. Đá này không phải là Đấng Christ khách quan, Đấng Christ cách xa với chúng ta mà là Đấng Christ đã được đem vào trong bản thể chúng ta, một Đấng Christ chủ quan mà chúng ta có thể gối đầu trên Ngài. Đây là Đấng Christ trở nên kinh nghiệm của chúng ta, Đấng mà yếu tố thần thượng của Ngài đã được đem vào trong chúng ta. Đấng Christ này là Cái Gối của nếp sống con người chúng ta. Ngợi khen Chúa về cái gối này!

Sau khi thấy chiêm bao, Gia-cốp đã dựng hòn đá lên làm trụ (28:18). Hòn đá mà chúng ta gối đầu phải trở thành vật liệu xây dựng. Trước khi bước vào nếp sống Hội Thánh, chúng ta không thể hiểu điều này. Nhưng bây giờ, sau khi đã bước vào Hội Thánh, chúng ta nhận thức rằng chính hòn đá mà chúng ta gối đầu nằm nghỉ phải trở thành cây trụ, nghĩa là, hòn đá đó phải trở thành vật liệu cho sự xây dựng của Đức Chúa Trời. Ngợi khen Chúa vì chúng ta đã được cứu và đang yên nghỉ. Nhưng sự yên nghỉ của Đức Chúa Trời thì sao? Ngài không thể có sự yên nghỉ cho đến khi hòn đá chúng ta gối đầu được dựng lên thành trụ cho sự xây dựng của Ngài. Đức Chúa Trời sẽ không dựng trụ này mà chúng ta phải dựng. Cái gối của chúng ta phải được dựng lên thành trụ. Nói cách khác, kinh nghiệm về Đấng Christ của chúng ta phải trở thành trụ.

Tôi tin rằng ngoài chúng ta ra, không một Cơ-đốc nhân nào biết rằng kinh nghiệm Đấng Christ của họ phải được dựng lên như một cây trụ. Trước khi bước vào nếp sống Hội Thánh, chúng ta đã không dựng trụ. Nhưng sau khi bước vào nếp sống Hội Thánh, hằng ngày chúng ta đang dựng kinh nghiệm về Đấng Christ của mình làm cây trụ. Nó không còn là cái gối nữa mà là cây trụ. Đó không chỉ là vấn đề về sự yên nghỉ của chúng ta mà là vấn đề về sự xây dựng của Đức Chúa Trời để Ngài an nghỉ. Chính Đấng Christ mà anh em đã kinh nghiệm chỉ là sự nghỉ ngơi của anh em hay Ngài là vật liệu để xây dựng Nhà Đức Chúa Trời? Câu trả lời có thể được chứng minh bởi kinh nghiệm của chúng ta. Trước hết, chúng ta gối đầu trên Đấng Christ và tìm được sự yên nghỉ. Cuối cùng, chúng ta chuyển kinh nghiệm về Đấng Christ của mình thành cây trụ, thành vật liệu cho sự xây dựng của Đức Chúa Trời. Hễ điều gì chúng ta đã kinh nghiệm về Đấng Christ phải trở nên vật liệu cho sự xây dựng Nhà Đức Chúa Trời. Nói cách khác, những gì đã làm cái gối của chúng ta phải trở thành cây trụ. Hôm nay, anh em có điều gì? Cái gối hay cây trụ?

Không có sự xây dựng giữa hầu hết các Cơ-đốc nhân vì, trong hoàn cảnh tốt nhất, họ chỉ có cái gối, không có cây trụ. Trước khi bước vào nếp sống Hội Thánh, chúng ta cũng chỉ có cái gối để nghỉ ngơi. Nhưng sau khi bước vào Hội Thánh một thời gian ngắn, chúng ta đã dựng kinh nghiệm về Đấng Christ của mình làm cây trụ, biến nó thành vật liệu có giá trị cho Nhà Đức Chúa Trời. Cách đây 45 năm, cái gối của tôi đã được dựng lên thành cây trụ. Nó không còn chỉ là cái gối ở dưới đầu tôi; nó là một cây trụ cho sự xây dựng Nhà Đức Chúa Trời. Trong khi một cái gối là tốt cho sự nghỉ ngơi của chúng ta thì Đức Chúa Trời cần một ngôi nhà để Ngài an nghỉ. Làm thế nào ngôi nhà này có thể được xây dựng? Chỉ bằng cách cái gối của chúng ta trở thành cây trụ. Trước hết, chúng ta có đá, kế đến chúng ta có sự xây dựng.

c) Dầu Được Đổ Trên Đá

Gia-cốp không chỉ dựng hòn đá đó làm trụ mà còn đổ dầu lên trên đó (28:18). Nhiều Cơ-đốc nhân nói về báp têm Thánh Linh. Không cần nói nhiều về điều này. Hễ khi nào anh em dựng cái gối của mình lên làm cây trụ, dầu sẽ được đổ trên đó. Thật là một kinh nghiệm về dầu mà chúng ta có được từ khi bước vào nếp sống Hội Thánh và cái gối của chúng ta được dựng lên làm cây trụ! Đó là một kinh nghiệm về Thánh Linh! Tôi có thể làm chứng rằng khi nói: “Cái gối, hãy đứng lên” thì tôi kinh nghiệm sự đổ ra của Thánh Linh. Tôi đã kinh nghiệm báp-têm Thánh Linh nhiều lần. Khi cái gối của anh em dựng lên, dầu sẽ được đổ ra. Tôi không nói điều này cách huyễn hoặc. Điều này có thể được chứng minh bởi kinh nghiệm của chúng ta. Khi nói: “Chúa Jesus ơi, con yêu Ngài”, chúng ta có thể được phấn khởi phần nào. Nhưng khi tiến xa hơn và nói: “Chúa Jesus ơi, con yêu Hội Thánh Ngài”, chúng ta được phấn khởi đến nỗi không thể kiềm chế. Một số Cơ-đốc nhân lên án rằng chúng ta làm cho Hội Thánh quan trọng hơn Đấng Christ. Tại sao chúng ta nói quá nhiều về Hội Thánh? Vì càng nói về Hội Thánh, chúng ta càng được phấn khởi. Tất cả người Mỹ đều thích các món tráng miệng như kem, bánh nướng, và bánh ngọt. Nếp sống Hội Thánh giống như món tráng miệng. Nếu chỉ có Đấng Christ mà không có Hội Thánh, giống như bữa ăn của anh em chỉ có vài lát bánh mì kiểu Do-thái. Nó cứng ngắt, không có món tráng miệng. Nếp sống Hội Thánh là món tráng miệng tốt nhất, món tráng miệng thậm chí dư dật, phong phú hơn cả bữa ăn. Đây là lý do vì sao những người trong Hội Thánh thích nói: “A-men, Chúa ơi, con yêu Ngài và yêu Hội Thánh Ngài. Chính con dành cho Đấng Christ và Hội Thánh Ngài. Con dâng mình cho Đấng Christ và Hội Thánh”. Khi cái gối được dựng lên làm cây trụ, nó được báp têm hoàn toàn. Đây là báp têm đích thực của Thánh Linh. Trong Giăng chương 1, chúng ta cũng có sự báp têm, đá và chiêm bao của Gia-cốp (c. 33, 42, 51).

d) Nhà của Đức Chúa Trời

Sau khi dầu được đổ trên trụ, cây trụ này trở thành Nhà của Đức Chúa Trời. Kết quả của việc nói: “Chúa Jesus ơi, con yêu Ngài và yêu Hội Thánh”, là nhà. Trước khi bước vào Hội Thánh, chúng ta đầy tính cá nhân. Nhưng từ khi bước vào Hội Thánh và làm chứng rằng chúng ta yêu Hội Thánh nhiều dường nào thì chúng ta thấy rằng hễ khi nào mang tính cá nhân, chúng ta đánh mất món tráng miệng này. Thay vì món tráng miệng, chúng ta có thuốc đắng. Hễ khi nào vui hưởng nếp sống Hội Thánh kỳ diệu, anh em có món tráng miệng hằng ngày. Nhưng hễ khi nào có một chút cá nhân chủ nghĩa, anh em bắt đầu nếm thuốc đắng. Không nên cá nhân chủ nghĩa. Dù chỉ nói rằng mình không thích anh em kia, anh em sẽ cảm thấy có vị đắng. Nếu anh em nói: “Nếp sống Hội Thánh thật kỳ diệu, nhưng tôi không thích chị em kia” thì sẽ không có món tráng miệng. Đôi khi chúng ta phải uống thuốc bọc đường. Tuy nhiên, sau một lát, vỏ đường chảy ra và chúng ta nếm thấy vị đắng.

Kinh nghiệm thật về Đấng Christ trở nên vật liệu xây dựng, và vật liệu này hoàn thành việc xây dựng Nhà Đức Chúa Trời. Tại đây, Đức Chúa Trời có sự an nghỉ và thỏa mãn và tại đây, chúng ta cũng có sự an nghỉ và thỏa mãn. Chiêm bao của Gia-cốp lần đầu tiên đã trở thành hiện thực khi con cái Ítx-ra-ên dựng Đền Tạm sau khi được giải thoát khỏi Ai-cập. Đó là nhà đầu tiên của Đức Chúa Trời ở giữa loài người, sự ứng nghiệm đầu tiên chiêm bao của Gia-cốp. Đền Tạm ngụ ý rằng Đức Chúa Trời và con người đã tìm được sự yên nghỉ, rằng nơi ở của Đức Chúa Trời trên đất là sự thỏa mãn và yên nghỉ cho cả Đức Chúa Trời lẫn con người. Sau khi con cái Ítx-ra-ên xây dựng Đền Thờ trong miền đất tốt lành, Đức Chúa Trời có một Ngôi Nhà vững chắc hơn trên đất. Sau đó, trong Tân Ước, chúng ta có Hội Thánh là Nhà của Đức Chúa Trời (1Ti. 3:15). Cuối cùng, trong trời mới đất mới, chúng ta sẽ có Giê-ru-sa-lem Mới là nơi cư ngụ đời đời của Đức Chúa Trời (Khải. 22:1-3). Tại đó, Đức Chúa Trời và chúng ta sẽ có sự yên nghỉ đời đời và vui hưởng sự thỏa mãn đời đời. Ngày nay, tất cả chúng ta đang ở trong sự ứng nghiệm chiêm bao của Gia-cốp. Không chỉ có đá và cây trụ, chúng ta còn có nhà. Thực ra, chúng ta là nhà (Hê. 3:6). Nhà này là kết cấu của thần tính và nhân tính, kết cấu này gồm có  Đức Chúa Trời Tam–Nhất với loài người. Tại đây, chúng ta có nhà, nơi trở nên sự yên nghỉ cho cả Đức Chúa Trời lẫn con người. Bây giờ, chúng ta không chỉ ở trong mơ mà còn ở trong sự ứng nghiệm của giấc mơ đó. Cảm tạ Chúa về đá, trụ, nhà và dầu. Trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta kinh nghiệm tất cả 4 điều này.

 

Bài Bảy Mươi Ba

Được Xử Lý 
(7)

Cả Kinh Thánh được Đức Chúa Trời hà hơi (2Ti. 3:16) và cả Kinh Thánh là Sách sự sống. Anh em có thật sự tin rằng Sáng Thế Ký chương 31 mà chúng ta sẽ xem xét trong bài này là hơi thở của Đức Chúa Trời không? Khi còn trẻ, tôi nghĩ rằng chắc chắn từng  từ, ngữ trong Sách Ê-phê-sô đều được Đức Chúa Trời hà hơi, nhưng tôi không đánh giá cao Sáng Thế Ký chương 31 nhiều bằng Ê-phê-sô. Anh em có tin rằng phần ghi chép trong chương này là lời sự sống không? Sự sống không được đề cập đến trong chương này. Đúng ra là đề cập đến việc ăn cắp các hình tượng và tài ăn nói khôn khéo. Đây có phải là lời sự sống không? Nếu muốn thấy Sáng Thế Ký chương 31 là lời sự sống như thế nào, chúng ta cần suy xét chương này với toàn bộ Kinh Thánh.

Trong Sáng Thế Ký chương 28, trên đường đến nhà La-ban, Gia-cốp đã thấy một chiêm bao. Ý nghĩa của chiêm bao đó bày tỏ rằng Đức Chúa Trời khao khát có một ngôi nhà trên đất là thể nào, và ý định của Ngài là làm cho người được kêu gọi thành một viên đá, vật liệu cho sự xây dựng của Ngài. Gia-cốp được bày tỏ trong Sáng Thế Ký chương 31 có phải là vật liệu đúng đắn cho sự xây dựng Nhà Đức Chúa Trời không? Không, khi thấy chiêm bao, ông không phải là người cao trọng mà là kẻ xảo quyệt. Anh em có tin rằng một người xảo quyệt như Gia-cốp có thể trở thành vật liệu quí cho sự xây dựng Nhà Đức Chúa Trời trên đất không? Nếu trả lời “Có” là vì anh em biết mình giống như Gia-cốp. Tất cả chúng ta là Gia-cốp. Nhưng Gia-cốp xảo quyệt đã được định để làm vật liệu cho sự xây dựng Nhà Đức Chúa Trời. Chương này bày tỏ rằng qua những xử lý của Đức Chúa Trời, một kẻ xảo quyệt như vậy có thể trở nên vật liệu cho nơi cư ngụ của Ngài. Chương này tiếp tục phần ghi chép về việc Đức Chúa Trời đối xử với người được chọn của Ngài. Vì chương này cho chúng ta cái nhìn về việc Đức Chúa Trời xử lý Gia-cốp nên chắn chắn đó là lời sự sống.

Gia-cốp ở với La-ban trong 20 năm. Trong Sáng Thế Ký 31:7, Gia-cốp nói rằng La-ban đã 10 lần thay đổi lương của ông. Số 10 tiêu biểu cho sự trọn vẹn của một sự xử lý nào đó. Dường như Gia-cốp nói: “La-ban đã thay đổi lương của tôi không chỉ 9 lần mà đến 10 lần. Ông ta đã xử lý tôi hoàn toàn”. Số 20, gấp đôi số của sự trọn vẹn, là 2 nhân 10. Đức Chúa Trời đã đặt Gia-cốp dưới bàn tay của La-ban trong 20 năm để ông có thể được xử lý cách triệt để. Nhưng sau 20 năm đó, trong Sáng Thế Ký chương 31, chúng ta thấy Gia-cốp vẫn chưa phải là người được biến đổi hoàn toàn. Chúng ta có thể thất vọng và nói: “Nếu tiến trình biến đổi không thể hoàn thành trong 20 năm thì sẽ mất bao lâu? Chúa có thể trở lại trước khi điều đó hoàn tất”. Tuy nhiên, nếu so sánh Gia-cốp trong chương này với Gia-cốp trong các chương trước, anh em sẽ thấy rằng chắc chắn ông đã kinh nghiệm một lượng biến đổi nào đó. Một sự thay đổi lớn đã xảy ra trong Gia-cốp sau 20 năm ở với La-ban. Khởi đầu của 20 năm này, ông thật sự là kẻ tiếm vị, nhưng vào cuối thời gian đó, ít ra ông cũng đã được biến đổi phần nào. Khi đọc chương 31, chúng ta thấy Gia-cốp xảo quyệt đã trải qua sự thay đổi quan trọng. Nhưng dù đã được biến đổi phần nào, trong chương này, ông vẫn còn khá thiên nhiên.

Có lẽ anh em tự hỏi chương này bày tỏ sự thiên nhiên của Gia-cốp như thế nào. Gia-cốp sợ La-ban, có lẽ ông nhận thức rằng mình không thể đánh bại La-ban. Gia-cốp thừa nhận ông không thể làm điều này. Đây là lý do khiến ông trốn chạy, bỏ trốn La-ban. Nếu can đảm, tin chắc rằng mình có thể thắng hơn La-ban, hẳn ông đã không bỏ trốn. Đúng ra, ông sẽ nói: “Cậu La-ban à, cậu đã đối xử với tôi rất tệ. Bây giờ, tôi sẽ đi. Chào tạm biệt!”. Nhưng Gia-cốp không dám làm như vậy. Thay vào đó, ông bỏ trốn. Khi La-ban đuổi theo Gia-cốp thì Đức Chúa Trời phán với La-ban trong chiêm bao trước khi đuổi kịp Gia-cốp rằng: “Dầu lành hay dữ, ngươi hãy chú ý không được nói gì với Gia-cốp” (c. 24). La-ban xảo quyệt hơn Gia-cốp, nhưng lần này Đức Chúa Trời buộc ông phải thành thật. Thậm chí La-ban đã nói với Gia-cốp về những gì Đức Chúa Trời đã phán với ông: “Tay cậu có đủ quyền để làm hại cháu, nhưng Đức Chúa Trời của các tổ phụ của cháu phán với cậu tối hôm qua rằng: Dầu lành hay dữ, ngươi hãy chú ý không được nói gì với Gia-cốp (c. 29). Nếu là La-ban, tôi sẽ không bao giờ nói với Gia-cốp điều này. Tuy nhiên, La-ban đã dại dột nói ra. Sau khi trách La-ban về việc lục soát của cải mình, Gia-cốp nói: “Đức Chúa Trời đã xem thấy nỗi đau khổ tôi và công việc của hai tay tôi và đêm qua đã quở trách cậu” (c. 42). Dường như Gia-cốp muốn nói: “Cậu La-ban àậu có quyền lực trong tay, nhưng tôi có Đức Chúa Trời ở với. Quyền lực của u không thể đánh bại Đức Chúa Trời tôi”. Vì những gì La-ban đã nói, Gia-cốp trở nên khá mạnh mẽ trước La-ban. Đây là phản ứng của người thiên nhiên Gia-cốp. Nếu thật sự thuộc linh thì khi La-ban kể lại chiêm bao, hẳn Gia-cốp sẽ nói: “Ngợi khen Chúa! Ô Chúa, cảm ơn Ngài”. Gia-cốp có thể nói: “Cậu La-ban à, vì Đức Chúa Trời của cha tôi đã phán với cậu nên tôi không cần nói gì nữa. Ngợi khen Ngài!”. Nhưng thậm chí nếu nói mãi câu này, Gia-cốp cũng sẽ lòi cái đuôi của người thiên nhiên ra. Nếu cái đuôi của người thiên nhiên không còn, hẳn ông sẽ không nói gì ngoài lời: “Cậu La-ban ơi, hãy ngợi khen Chúa”. Và ông sẽ xoay về Chúa, nói: “Chúa ơi, con ngợi khen Ngài. Con cám ơn Ngài biết bao vì con ở trong tay Ngài”.

Sau khi nghe thể nào Đức Chúa Trời đã phán với La-ban, truyền cho ông không được làm bất cứ điều gì với mình, Gia-cốp càng mạnh dạn quở trách thẳng vào mặt La-ban, chỉ ra La-ban đã lục soát đồ đạc ông như thế nào, đã buộc ông phải đền những con chiên bị mất cắp thể nào và đã 10 lần thay đổi lương ông là thể nào (c. 36-41). Dường như Gia-cốp nói: “Hãy xem điều cậu đã làm cho tôi! Tôi đã phục vụ cậu 20 năm, còn cậu đã thay đổi lương của tôi 10 lần. Bây giờ, cậu đã lục hết đồ đạc tôi và không tìm thấy gì cả. Điều này nghĩa là gì?”. Dù lời này có vẻ ngay thẳng nhưng đó là sự ngay thẳng của người thiên nhiên. Ở đây Gia-cốp được lộ ra không phải là người xấu hay kẻ xảo quyệt mà là một người thiên nhiên. Điều này cho thấy Gia-cốp chưa được biến đổi đầy đủ.

Trước chương 32, không có lời nào nói rằng Gia-cốp đã cầu nguyện. Trong 32:3-4, Gia-cốp sai sứ giả đến với Ê-sau, truyền cho họ phải gọi Ê-sau là chúa của ông. Các sứ giả trở về nói với Gia-cốp rằng: “Chúng tôi đã đến với Ê-sau, anh của chủ; và người cũng sẽ đem theo 400 người đến gặp chủ” (32:6). Khi nghe tin , Gia-cốp sợ hãi và cầu nguyện với Chúa về việc này. Sợ Ê-sau lập mưu giết ông và gia đình ông, Gia-cốp buộc phải cầu nguyện. Theo phần ghi chép của Sáng Thế Ký, đây là trường hợp cầu nguyện đầu tiên của Gia-cốp. Trước điều này, Gia-cốp đã không cầu nguyện vì ông luôn có đường lối riêng của mình. Khi phải trốn khỏi La-ban, ông đã dùng cách khéo léo của mình, nói với những người vợ bằng giọng đầy thuyết phục khiến họ nghe theo đứng về phía ông chống lại cha họ. Khác với Ê-sau, Gia-cốp không phải là tay chiến đấu giỏi mà là người có tài ăn nói.

Phần ghi chép trong Sáng Thế Ký chương 31 phơi bày tình trạng của chúng ta, cho một hình ảnh chính xác về những gì chúng ta là. Chắc chắn đây là lời sự sống. Mặc dù từ sự sống không được nhắc đến trong chương này, nhưng chính sự sống trong Phúc Âm Giăng –Phúc Âm của sự sống– được tìm thấy ở đây. Trong Giăng 10:10, Chúa Jêsus phán: “Ta đến để chiên có sự sống và có càng dư dật”. Cách để có sự sống dư dật thì ở trong Sáng Thế Ký chương 31, không phải trong Giăng chương 10. Sáng Thế Ký chương 31 là sự khải thị về bản thể chúng ta.

Trải suốt nhiều năm trong chức vụ, tôi đã thấy nhiều trường hợp về mối quan hệ giữa chồng và vợ, và thường được yêu cầu làm trung gian hoà giải giữa hai người. Những chị em đã yêu cầu tôi hòa giải họ với chồng đều mong rằng sau khi tôi cầu nguyện cho họ, chồng họ sẽ được thay đổi thành thiên sứ. Nhiều người trong chúng ta còn bám chặt quan niệm này. Một số chị em có thể tự nhủ: “Chồng tôi rất tệ. Chắc chắn nếu các trưởng lão và các chị em dẫn dắt cầu nguyện cho anh ấy, Chúa sẽ thay đổi anh ấy thành thiên sứ. Nếu chồng tôi không thể là trưởng lão trong Hội Thánh, ít ra anh ấy cũng là một chấp sự”. Dù Chúa chắc sẽ đáp lời cầu nguyện này, nhưng Ngài sẽ không làm theo cách của chúng ta mà theo cách của Ngài. Cách của Ngài không phải là phép thần thông. Đừng mong một ngày kia chồng chị em sẽ thay đổi thành thiên sứ, và chị em sẽ làm chứng về điều đó trong buổi nhóm Hội Thánh sắp đến.

Nhiều anh em đã ở trong nếp sống Hội Thánh nhiều năm. Có lẽ anh em đã thường cầu nguyện cho chính mình, xin Chúa biến đổi. Anh em đã được biến đổi chưa? Phải thừa nhận rằng anh em vẫn còn phần nào thiên nhiên. Trong các buổi nhóm, tất cả chúng ta có vẻ như đã được biến đổi, nhưng anh em biểu hiện như thế nào tại bàn ăn với vợ? Nhiều người trong chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta giống hệt Gia-cốp trong Sáng Thế Ký chương 31. Tôi ngợi khen Chúa vì trải qua nhiều năm, đã có sự thay đổi đáng kể trong nhiều thánh đồ. Nhưng ngày nay anh em ở đâu? Ở Sáng Thế Ký chương 48 hay Sáng Thế Ký chương 31? Phải thừa nhận rằng, cao nhất là anh em đang ở Sáng Thế Ký chương 31. Chúng ta không thể có sự trưởng thành của sự sống, sự biến đổi của sự sống qua một đêm hay thậm chí trong vài năm. Đó là vấn đề của cả đời. Điều đó không lớn nhanh như nấm.

Nếu nghiên cứu tiểu sử của Gia-cốp, anh em sẽ thấy rằng ngay cả khi Gia-cốp ở trong bụng mẹ, Đức Chúa Trời cũng đã bắt đầu xử lý ông. Sự sống thiên nhiên của Gia-cốp nhận thức rằng có hai người đang ở trong bụng mẹ. Dù đã cố hết sức để được sinh ra trước, nhưng Đức Chúa Trời đã để anh ông ra trước. Từ lúc đó, hết chương này đến chương khác, chúng ta thấy sự tranh đấu của Gia-cốp. Nhưng vào cuối Sách Sáng Thế Ký, sự tranh đấu đó đã chấm dứt. Khi Gia-cốp thờ phượng Đức Chúa Trời, bàn tay chiếm đoạt bây giờ đã nương trên đầu gậy, dấu hiệu cho đời sống lữ khách của ông trên đất (Hê-bơ-rơ 11:21). Vào cuối Sáng Thế Ký, Gia-cốp hoàn toàn được biến đổi. Chỉ đến cuối cuộc đời, sự biến đổi của ông mới hoàn thành. Sự biến đổi đòi hỏi cả cuộc đời chúng ta. Đừng mong điều đó được hoàn thành trong vài năm. Tôi tin rằng mỗi ngày, thậm chí mỗi giờ, điều gì đó đang hành động để biến đổi chúng ta. Tuy nhiên, điều này cần một thời gian dài. Trong 50 chương của Sách này, phần ghi chép về Gia-cốp chiếm hơn phân nửa. Đây là phần ghi chép dài về đời sống được biến đổi. Chúa Jêsus có thể cứu chúng ta tức thì, chúng ta có thể dâng mình nhanh chóng, và thậm chí có thể bước vào nếp sống Hội Thánh rất nhanh. Nhưng để được biến đổi phải mất thời gian dài. Chúng ta cần có nhiều sự thăng trầm. Đôi khi trong một ngày có thể lên xuống 3 lần. Đây là bản thể thiên nhiên, sự sống thiên nhiên của chúng ta.

Trong vấn đề về sự tuyển chọn và biến đổi của Đức Chúa Trời, Gia-cốp là nguyên mẫu trong Kinh Thánh. La-mã chương 9 cho biết điều này. Nhưng trải qua nhiều thế hệ, không nhiều Cơ-đốc nhân thấy điều này, họ nghĩ rằng các chương nói về tiểu sử của Gia-cốp chỉ là những câu chuyện hấp dẫn. Rất ít Cơ-đốc nhân thấy các chương này là phần ghi lại về khuôn mẫu của một đời sống được biến đổi.

12) Sự Thay Đổi Hoàn Cảnh Của Gia-cốp

Trong chương 31, hoàn cảnh của Gia-cốp bất ngờ thay đổi. Những người anh em họ ganh tị ông (c. 1) và sắc mặt của La-ban đối với ông không còn như trước (c. 2). Sự thay đổi này là vì ích lợi của Gia-cốp. Trong chương này, Gia-cốp đang ở giữa tiến trình biến đổi. Đức Chúa Trời chuẩn bị mọi điều cách có tể trị để biến đổi chúng ta. Chúng ta phải tin điều này. Trong Sáng Thế Ký chương 31, không điều gì là ngẫu nhiên, mọi điều đã được sắp đặt trước. Theo sự tể trị của Đức Chúa Trời, La-ban có nhiều con trai. Trước đây, tôi nghĩ rằng sẽ tốt hơn cho Gia-cốp nếu La-ban không có con trai mà chỉ có hai con gái. Nhưng La-ban có nhiều con trai. Suốt 20 năm Gia-cốp ở với La-ban, La-ban và các con ông đều xem Gia-cốp là mối lợi cho họ. La-ban thừa nhận rằng việc Gia-cốp ở với ông là một phước hạnh (30:27). Nhưng Sáng Thế Ký 31:1 nói Gia-cốp “nghe lời của các con trai La-ban nói rằng: Gia-cốp đã lấy hết mọi điều của cha ta và nhờ của cải cha ta mà hắn có được mọi vinh quang này”. (Vinh quang ở đây nghĩa là giàu có –c. 16). Đây là sự thật. Theo lời kể lại của Gia-cốp, Đức Chúa Trời đã khải thị trong chiêm bao về cách Ngài lấy gia súc của La-ban và ban cho Gia-cốp (31:11-12). Qua năm tháng, các con trai La-ban thấy bầy gia súc của cha cứ giảm dần nhưng của Gia-cốp cứ liên tục gia tăng. Đến một lúc, bởi sự ganh tị với Gia-cốp, họ không thể chịu đựng được nữa. Điều này không phải là ngẫu nhiên. Đồng thời “Gia-cốp nhìn nét mặt của La-ban thấy đối với ông chẳng còn như trước” (c. 2). Trong suốt 20 năm qua, nét mặt của La-ban có lẽ lúc nào cũng tươi cười với Gia-cốp vì Gia-cốp là nguồn lợi của ông. Nhưng sau khi La-ban nhận biết rằng Gia-cốp không còn là nguồn lợi của mình nữa, nét mặt ông đối với Gia-cốp thay đổi. Khi ai đó thấy anh em đang làm cho nguồn lợi của họ bị thất thoát, nét mặt họ đối với anh em sẽ thay đổi. Đừng tin rằng người ta thực sự tốt với anh em. Mọi người đều ích kỷ và sống cho chính mình. Sau khi ở với La-ban 14 năm, Gia-cốp nói với La-ban rằng ông sẽ ra đi (30:25-26). Tuy nhiên, ông không thật lòng muốn đi. Đó chỉ là kế sách của ông để chiếm điều gì đó từ La-ban. La-ban thấy rõ rằng phước hạnh của Đức Chúa Trời ở với Gia-cốp và ông không muốn để Gia-cốp đi. Vì vậy, họ đã thương lượng và đồng ý về những điều kiện mà theo đó, Gia-cốp phải ở lại với La-ban một thời gian nữa. Nhưng nhiều năm trôi qua, La-ban nhận thấy rằng toàn bộ sự gia tăng ở về phía Gia-cốp; do đó, ông đã đổi sắc mặt với Gia-cốp. Điều này cũng do Đức Chúa Trời sắp đặt trước. Vì đó là thời điểm Gia-cốp phải trở về nên Đức Chúa Trời đã sắp đặt để các anh em họ của Gia-cốp tỏ thái độ và La-ban thay đổi sắc mặt.

Gia-cốp ắt hẳn đã xem xét nghiêm túc về việc nên ở lại hay ra đi. Khi đó, Đức Chúa Trời đã can thiệp và phán với ông: “Hãy trở về xứ của tổ phụ ngươi và bà con ngươi; Ta sẽ ở với ngươi” (c. 3). Nếu Gia-cốp là người đã biến đổi hoàn toàn, ngay lúc đó hẳn ông sẽ ngợi khen Chúa và nói với Ngài rằng ông tin cậy Ngài về sự hướng dẫn rõ ràng của Ngài. Nhưng Gia-cốp đã không cầu nguyện. Thay vào đó, ông gọi hai người vợ đến chỗ bầy gia súc của ông, không dám nói với họ trước mặt cậu mình. Sau khi nói với họ về sự thay đổi hoàn cảnh, họ bằng lòng lìa cha mình (c. 4-16). Những sự thay đổi trong hoàn cảnh và môi trường của Gia-cốp đều do Đức Chúa Trời sắp đặt trước.

13) Gia-cốp Trốn Khỏi La-ban

Tất cả những thay đổi trong hoàn cảnh của Gia-cốp là một dấu chỉ cho thấy ông nên trở về quê hương. Gia-cốp đã đi nhưng không theo cách cao thượng. Anh em có nghĩ rằng Gia-cốp trốn khỏi La-ban cách đúng đắn không? Không, ông đã lẻn trốn La-ban. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu ông không trốn khỏi La-ban theo cách ông đã làm? Có lẽ La-ban sẽ dùng sức mạnh để giữ các con gái của mình, những nàng hầu và tất cả các con của họ lại . Có lẽ La-ban sẽ bảo Gia-cốp: “Gia-cốp à, nếu ngươi muốn đi, hãy đi, nhưng phải để mọi người và mọi điều lại cho ta”. Vì sợ điều này nên Gia-cốp đã lẻn trốn.

Mặc dù cách ra đi của Gia-cốp không đúng đắn, nhưng Đức Chúa Trời đã cho phép điều đó xảy ra. Vì chưa trưởng thành nên Gia-cốp có điểm yếu. Tại sao Gia-cốp không đặt tin cậy vào Đức Chúa Trời? Vì Đức Chúa Trời là toàn năng và hoàn toàn có khả năng, lẽ ra Gia-cốp nên nhờ cậy Ngài bảo vệ vợ con mình. Nói về tin cậy Đức Chúa Trời thì dễ, nhưng thực hành thì không dễ. Tin cậy Đức Chúa Trời không phải là vấn đề giáo lý. Nếu là Gia-cốp, anh em có dám đến với La-ban và nói: “Thưa cậu, tôi sắp đi” không? Không dễ làm điều này vì nó đòi hỏi sự trưởng thành của sự sống và một lượng đức tin nào đó. Để có lượng đức tin cần thiết, chúng ta cần lớn lên trong sự sống. Tuy nhiên, Gia-cốp không có điều này. Tôi không lên án Gia-cốp; trái lại, tôi hoàn toàn cảm thông với ông. Nhiều lần chúng ta cũng bị đặt vào hoàn cảnh mà không có sự lựa chọn nào ngoài bỏ trốn, lẻn đi. Thật dễ trách Gia-cốp không công khai rời La-ban cách đáng tôn trọng và cao thượng. Nhưng nếu kiểm tra chính mình, chúng ta sẽ thấy nhiều lần chúng ta cũng đã làm những điều mà không nói cho chồng hay vợ biết.

Trong chương này, chúng ta được bảo rằng Gia-cốp gạt La-ban (c. 20, Hê.). Trong khi bên trong Gia-cốp gạt La-ban bên trong thì bên ngoài Ra-chên ăn cắp các hình tượng trong nhà (c. 19). Ngay cả giữa vòng những người kính sợ Đức Chúa Trời vẫn có hình tượng. Đây không phải hình tượng trong đền thờ mà là những hình tượng trong nhà, những hình tượng mà họ thờ lạy trong nhà. Vì hình tượng được xem là rất quan trọng nên Ra-chên đã ăn cắp và La-ban đã lục soát để tìm. Đừng nghĩ rằng vì Gia-cốp là một thánh đồ được Đức Chúa Trời kêu gọi nên ông có một gia đình ngay thẳng. Nhìn bên ngoài, một số người trong chúng ta có gia đình rất đúng đắn, nhưng Đức Chúa Trời biết rằng chúng ta vẫn có một số hình tượng trong nhà. Nếu Kinh Thánh không nói đến những hình tượng này, sẽ không ai tin rằng La-ban hay Gia-cốp có hình tượng trong nhà. Nhưng ngay cả sự yếu đuối của Gia-cốp trong việc gạt La-ban cũng được Đức Chúa Trời cho phép.

Tất cả chúng ta đều phạm sai lầm, nhưng Đức Chúa Trời không bao giờ sai. Chắc chắn Gia-cốp không cao thượng khi chạy trốn nhưng ngay cả điều này cũng ở dưới sự cho phép của Đức Chúa Trời. Đừng hối tiếc về những sai lầm của anh em vì ngay cả điều này cũng hiệp lại để biến đổi anh em. Không ai trong chúng ta hoàn toàn chân thật, cao quí, trung tín hay ngay thẳng. Chỉ có Chúa Jêsus là Người như thế. Tất cả chúng ta đều có những yếu điểm, những yếu đuối thiên nhiên. Gia-cốp trốn khỏi La-ban vì ông yếu đuối trong đức tin và trong khả năng hy sinh. Có lẽ Gia-cốp nên nói: “Cho dù mất mát điều gì, ngay cả mạng sống tôi, tôi cũng phải chân thật với Đức Chúa Trời”. Nói điều này thì dễ nhưng hãy thử thực hành điều đó xem. Sẽ đến lúc, anh em cũng bỏ trốn và gạt người khác. Mọi lỗi lầm, ngay cả những việc làm sai trái của chúng ta, đều ở dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời và Ngài dùng điều đó để biến đổi chúng ta. Tôi không khích lệ phạm sai lầm. Tôi hy vọng anh em không phạm sai lầm nào. Bốn mươi năm trước, tôi khuyên người ta đừng phạm lỗi. Nhưng bây giờ tôi không còn làm điều này vì tôi nhận thức rằng làm như vậy là dại dột. Dù tôi có mạnh mẽ khích lệ anh em đừng phạm sai lầm bao nhiêu, anh em vẫn cứ vi phạm. Không ai muốn phạm lỗi. Tôi có thể làm chứng rằng, hằng ngày, hằng năm, tôi luôn cầu xin Chúa gìn giữ để tôi không phạm lỗi lầm nào. Dù tôi ghét lỗi lầm và không có ý vi phạm, nhưng tôi vẫn phạm vài lỗi lầm lớn. Thế thì việc tôi khuyên người khác đừng phạm lỗi có ích gì? Nếu là giáo sư về đạo đức, tôi sẽ yêu cầu anh em đừng phạm lỗi. Nhưng tôi không phải là giáo sư về đạo đức. Tôi là người giúp anh em được biến đổi.

Để biến đổi chúng ta, Đức Chúa Trời sẽ dùng những sai lầm của chúng ta. Tôi có thể làm chứng rằng nếu không phạm những sai lầm nào đó, tôi sẽ không được biến đổi như ngày nay. Lượng biến đổi lớn nhất trong đời sống tôi có được là qua những sai lầm của tôi. Không gì gây rắc rối cho tôi nhiều bằng sự sai lầm. Hễ khi nào tôi tưởng mình đã ổn rồi thì Chúa để tôi phạm sai lầm. Không gì giúp chúng ta biến đổi bằng sự sai lầm. Điều này không có nghĩa là tôi nói chúng ta hãy làm điều ác để điều thiện có thể đến. Không, nếu anh em cố ý phạm sai lầm, những sai lầm đó không giúp anh em biến đổi. Chúng sẽ làm anh em chán nản và lên án anh em. Nhưng khi cố hết sức tránh sai lầm, chúng ta có thể cầu nguyện: “Chúa ơi, xin giữ con trong hiện diện Ngài và đừng bao giờ để con phạm sai lầm. Ôi Chúa, con sợ sệt và run rẩy trong hiện diện Ngài”. Dù có thể cầu nguyện như vậy, nhưng sau một thời gian, chúng ta vẫn có thể phạm sai lầm khác và Chúa sẽ dùng điều đó cách có tể trị để biến đổi chúng ta.

14) La-ban Đuổi Theo Gia-cốp

Như chúng ta đã thấy, La-ban đuổi theo Gia-cốp và bắt kịp ông (c. 22-25). La-ban có sức mạnh để làm hại Gia-cốp, nhưng Đức Chúa Trời đã cảnh báo ông trong chiêm bao rằng chớ làm bất cứ điều gì với Gia-cốp (c. 24). Dù La-ban không thể làm gì, nhưng ông đã làm điều mà mọi người thường làm –than phiền. Ông bày tỏ giận dữ qua việc than phiền Gia-cốp bỏ trốn (c. 26-29). Than phiền là cách tốt nhất làm nguôi cơn giận. Sau đó, La-ban buộc tội Gia-cốp ăn cắp những hình tượng của ông (c. 30-35), và khi La-ban không tìm thấy chúng, Gia-cốp đã trách La-ban về sự ngược đãi của ông (c. 36-42). Sau việc này, La-ban dịu xuống, nhưng ông thay đổi thái độ một cách tinh vi và lập giao ước hòa bình với Gia-cốp. Đây là gương mẫu tốt về tài ngoại giao của con người.

Chương này cho thấy rằng không một người nào là đáng tin cậy. Trong chương 27, Rê-bê-ca, mẹ của Gia-cốp, nghĩ rằng La-ban sẽ là sự bảo vệ và giúp đỡ cho Gia-cốp, con yêu quí của bà. Vì thế, bà đã sai Gia-cốp đến với anh mình. Nhưng hãy xem những gì La-ban đã làm cho Gia-cốp. Không một người nào đáng tin cậy, thậm chí bà con gần nhất. Anh em đừng bao giờ đặt tin cậy vào bất cứ ai. Nếu nhận thức rằng chúng ta là những người được Đức Chúa Trời kêu gọi, và bây giờ đang trải qua tiến trình biến đổi của Ngài thì chúng ta phải nhận biết rằng mọi sự đều là công việc của tay Ngài. Vấn đề không phải là ai đáng tin cậy. Trong khi không nên tin cậy bất cứ ai, chúng ta nên cảm tạ Chúa vì mọi người trong môi trường chúng ta đều ở dưới bàn tay tể trị của Đức Chúa Trời vì ích lợi của chúng ta. Anh em có thể nghĩ rằng mình có người cậu trung tín và đáng tin cậy. Nhưng người cậu như vậy sẽ không hữu ích lắm cho sự biến đổi của anh em. Khi đọc chương này nhiều lần, chúng ta thấy rằng mình không nên tin cậy ai cũng không nên đổ thừa ai. Dù cậu của chúng ta có chân thật hay không, chúng ta vẫn phải nói: “Ngợi khen Chúa, Đức Chúa Trời là tối cao. Con không ở trong tay cậu con, nhưng trong tay của Đức Chúa Trời. Ngay cả người cậu không đáng tin cậy cũng ở trong tay của Đức Chúa Trời để biến đổi con”. Tất cả chúng ta cần thấy điều này và biết rằng không một điều gì trong môi trường của chúng ta là đáng tin cậy. Đừng tin cậy bất kỳ điều gì, bất kỳ ai hay bất kỳ vấn đề nào. Mọi điều và mọi người trong môi trường của chúng ta là một công cụ mà Đức Chúa Trời dùng để biến đổi chúng ta. Vì sự biến đổi, nếu anh em cần một người chân thật, Đức Chúa Trời sẽ ban cho anh em người đó. Nhưng hầu hết chúng ta đều cần La-ban và các anh em giống như các con trai La-ban. Đừng phàn nàn mà hãy cảm tạ Đức Chúa Trời về mọi người, rằng: “Chúa ơi, con cám ơn Ngài về tất cả những anh em họ của con. Và con cám ơn Ngài về cậu con và thậm chí về sự yếu đuối của con”. Ngợi khen Chúa vì ngay cả sự yếu đuối của chúng ta cũng là phương tiện Đức Chúa Trời dùng để biến đổi chúng ta.

Trong cảnh tượng được mô tả ở chương này, nhân vật quan trọng là Đức Chúa Trời vô hình với bàn tay vô hình của Ngài. Chương này không chỉ là câu chuyện về đời sống con người mà là sự khải thị về Đức Chúa Trời Biến Đổi với bàn tay biến đổi của Ngài. Tất cả chúng ta phải thấy Đức Chúa Trời được khải thị trong chương này. Nhân vật chính không phải là La-ban cũng không phải Gia-cốp mà là Đức Chúa Trời ẩn giấu, Đấng sắp đặt hoàn cảnh cách có tể trị để biến đổi chúng ta. Trong chương này, Đức Chúa Trời ẩn mình, dầu vậy Ngài luôn canh chừng, biết can thiệp và phán với Gia-cốp hay La-ban đúng thời điểm. Ngài làm bất kỳ điều gì Ngài đã định. Vì thế, nhân vật chính ở đây là Đức Chúa Trời Tối Cao, Biến Đổi. Nếu thấy bức tranh này, chúng ta sẽ yên nghỉ trong Ngài, tin rằng dù chúng ta là gì và ở đâu, mọi sự đều tốt đẹp vì mọi sự đều ở dưới bàn tay tể trị của Đức Chúa Trời Biến Đổi.

 

Bài Bảy Mươi Bốn

Được Xử 

 (8)

Sáng Thế Ký chương 32 và 33 chứa đựng một kinh nghiệm rất kỳ lạ trong đời sống Gia-cốp, người được chọn. Chúng tôi đã chỉ ra rằng Gia-cốp không tin cậy Chúa. Từ lúc được sanh ra, ông đã dùng khả năng thiên nhiên để làm mọi điều cho mình. Trong chương 31, ông trốn khỏi La-ban, và Đức Chúa Trời đã giải cứu ông khỏi bàn tay chiếm đoạt của La-ban. Vì La-ban nói với Gia-cốp rằng Đức Chúa Trời đã cảnh báo ông không được làm hại Gia-cốp nên Gia-cốp nắm lấy cơ hội đó để dạn dĩ quở trách La-ban (31:24,36). Dầu vậy, Chúa đã đem ông trải qua khó khăn này. Tuy nhiên, trước mặt Gia-cốp là một nan đề nghiêm trọng khác –Ê-sau, anh ông.

15) Gia-cốp Sợ Ê-sau

Gia-cốp ở trong tình thế tiến thối lưỡng nan. Sau lưng là La-ban và trước mặt là Ê-sau. Tôi tin rằng khi Gia-cốp trốn khỏi La-ban để trở về quê cha đất tổ, ông rất lo âu bởi hai người này. Thật khó cho ông ở lại với La-ban và cũng khó cho ông phải trở về nơi Ê-sau ở. Bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời, ông đã được thoát khỏi La-ban, nhưng bây giờ phải đương đầu với Ê-sau.

a) Được Gặp Các Thiên Sứ Của Đức Chúa Trời

Sáng Thế Ký 32:1-2 nói: “Gia-cốp cứ đi đường và các thiên sứ của Đức Chúa Trời gặp người. Và khi thấy họ, Gia-cốp nói: “Đây là trại của Đức Chúa Trời, và ông đã đặt tên nơi đó là Ma-ha-na-im” có nghĩa là hai trại quân (theo tiếng Hê-bơ-rơ). Khi Gia-cốp cứ đi đường, có lẽ ông đang nghĩ cách sẽ đương đầu với anh ông như thế nào. Có lẽ ông tự nhủ: “Ta đã được giải thoát khỏi người cậu nhưng sẽ cư xử với Ê-sau, anh ta, như thế nào?” Trước sự kinh ngạc của ông, các thiên sứ của Đức Chúa Trời đã gặp ông, cho thấy rằng họ bảo vệ ông. Các thiên sứ của Đức Chúa Trời luôn hiện diện cách vô hình với những người được chọn của Ngài. Trong trường hợp này, các thiên sứ đã hiện ra với Gia-cốp và ông đã thấy họ. Ông không thấy một vài thiên sứ; mà đúng ra, ông thấy hai trại thiên sứ. Điều này nhắc chúng ta về Thi-Thiên 34:7 nói: “Thiên sứ của Chúa đóng trại chung quanh những người kính sợ Ngài và giải cứu họ”. Sự hiện diện của hai trại thiên sứ chắc chắn là sự khích lệ lớn cho Gia-cốp đang gặp rắc rối. Tuy nhiên, ông vẫn sợ bị anh đánh bại.

b) Vẫn Còn Tin Cậy Vào Sự Tranh Đấu Của Bản Thân

Sau khi thấy hai trại thiên sứ, lẽ ra ông được an ủi. Tuy nhiên, ông đã không tin cậy hai trại thiên sứ. Mục đích của Đức Chúa Trời trong việc cho ông thấy khải tượng về các thiên sứ chắc chắn là để an ủi ông, làm cho ông mạnh mẽ và tin cậy các đạo quân trên trời của Đức Chúa Trời. Nhưng Gia-cốp không tin cậy vào những gì đã thấy. Đúng ra, Gia-cốp, người vẫn còn tin cậy vào sự tranh đấu của bản thân (c. 3-8), đã bắt chuớc hai trại quân thiên sứ của Đức Chúa Trời bằng cách chia người của mình thành hai trại. Thay vì đặt tin cậy vào những gì đã thấy, ông đã bắt chước kỹ thuật đó. Dù chúng ta chỉ có thể đoán về điều Gia-cốp đang suy nghĩ khi ông làm điều này (có lẽ ông nghĩ rằng mỗi trại trong hai trại của người nhà ông sẽ được hai trại của thiên sứ bảo vệ), nhưng một điều rõ ràng là –Gia-cốp không tin cậy vào Đức Chúa Trời cũng không tin cậy khải tượng về các thiên sứ; đúng ra, ông dùng hết thì giờ và sức lực để vận dụng khả năng thiên nhiên. Câu 7-8 nói: “Gia-cốp rất sợ hãi và sầu não, bèn chia những người đi theo và các bầy chiên, bò, lạc đà ra làm hai trại, mà rằng: Nếu Ê-sau đến hãm đánh một trong hai trại thì trại còn lại sẽ thoát được”. Đây là sự thông minh của Gia-cốp. Nhưng thật ra, điều đó chẳng thông minh gì cả vì nếu Ê-sau có thể đánh vào trại thứ nhất chỉ có phụ nữ và trẻ em thì tại sao lại không thể đánh vào trại thứ hai? Dầu vậy việc chia người ra là cách tốt nhất mà Gia-cốp có thể làm.

c) Cũng Kêu Cầu Chúa

Sau khi sắp xếp như vậy, có lẽ Gia-cốp vẫn chưa bình an. Vì thế, ông đã làm điều gì đó khác thường –ông cầu nguyện (c. 9-12). Đây là phần ghi chép đầu tiên về việc Gia-cốp cầu nguyện trong cả đời sống của ông. (Trong 28:20-22 là lời thề nguyện chứ không phải lời cầu nguyện của ông với Đức Chúa Trời). Trong suốt 20 năm ở dưới bàn tay bóp chẹt của La-ban, không có phần ghi chép nào nói rằng ông đã cầu nguyện. Dù bị La-ban thay đổi lương 10 lần, nhưng Gia-cốp vẫn không cầu nguyện. Về nguyên tắc, tất cả chúng ta là Gia-cốp. Chúng ta đã nhận được lời hứa của Đức Chúa Trời và đã đến chỗ nhận biết Đức Chúa Trời, nhưng vẫn không cầu nguyện. Cho dù điều gì xảy ra với mình, chúng ta vẫn không cầu nguyện. Thay vì vận dụng linh để cầu nguyện, chúng ta dùng tâm trí để suy xét và sức mạnh thiên nhiên để đối diện mọi nan đề. Gia-cốp đã không cầu nguyện khi ông ở với La-ban; thay vào đó, ông dùng sức mạnh thiên nhiên để xoay xở tình thế. Nhưng bây giờ, khi sắp đương đầu với Ê-sau, ông bị đem đến chỗ không còn tài khéo nào nữa. Mọi tài khéo, kỹ thuật, khả năng và sức mạnh của ông đã cạn kiệt. Khi biết rằng Ê-sau đang đến với 400 người, ông sợ hãi. Điều tốt nhất ông có thể làm là chia người của mình thành hai toán, nghĩ rằng nếu toán đầu hi sinh thì toán thứ hai có thể còn lại. Vì đây là điều tốt nhất Gia-cốp có thể làm nên ông buộc phải cầu nguyện.

Gia-cốp đã cầu nguyện một lời cầu nguyện rất tốt. Lời cầu nguyện của ông tốt hơn nhiều so với những lời cầu nguyện của phần lớn Cơ-đốc nhân ngày nay. Ông nói: “Hỡi Đức Chúa Trời của tổ phụ Áp-ra-ham tôi, Đức Chúa Trời của cha Y-sác tôi, tức là Đức Giê-hô-va. Ngài có phán dạy tôi rằng: Hãy trở về xứ ngươi và nơi bà con ngươi, rồi Ta sẽ làm ơn cho ngươi” (c. 9, Hê.). Ở đây chúng ta thấy Gia-cốp đã cầu nguyện bằng cách nắm lấy lời Chúa. Cách cầu nguyện tốt nhất là nắm lấy lời Đức Chúa Trời làm chỗ đứng cho sự cầu nguyện của mình. Dường như Gia-cốp nói: “Chúa ơi, Ngài không phán rằng Ngài sẽ làm ơn cho tôi sao? Bây giờ tôi đứng trên lời Ngài mà xin Ngài làm điều gì đó về việc này”. Dù câu này dường như cho thấy rằng Gia-cốp khá kinh nghiệm trong sự cầu nguyện, nhưng trong phần ghi chép trước đó, không có dấu vết nào cho thấy rằng ông đã cầu nguyện.

Trong câu 10, Gia-cốp nói: “Tôi thật nhỏ bé trước tất cả ân huệ và sự thành tín mà Ngài đã tỏ ra trên tôi tớ Ngài; vì tôi đã vượt qua sông Giô-đanh này chỉ có cây gậy, mà ngày nay tôi đã trở nên hai trại quân” (theo tiếng Hê-bơ-rơ). Tôi thích lời diễn tả của Gia-cốp ở đây. Dường như ông nói: “Chúa ơi, năng lực của tôi nhỏ bé đến nỗi không thể chứa hết ân huệ và sự thành tín của Ngài”. Ở đây Gia-cốp đã khiêm nhường trong hiện diện của Đức Chúa Trời, thừa nhận ông không xứng đáng với ân huệ và sự thành tín dồi dào của Đức Chúa Trời đối với ông, rằng ông đã vượt qua sông Giô-đanh chỉ với cây gậy nhưng Chúa đã làm ông gia tăng thành hai trại quân. Ở đây chúng ta thấy bức tranh sống động về hai trại ở trên trời và hai trại dưới đất. Do điều này, người được chọn chắc chắn được bình an trọn vẹn. Trong câu tiếp theo, Gia-cốp tiếp tục nói: “Vậy, cầu xin Đức Chúa Trời giải cứu tôi khỏi tay Ê-sau, anh tôi vì e rằng người đến đánh tôi và đánh luôn mẹ với con nữa”. Ở đây chúng ta thấy nỗi lo sợ của Gia-cốp đối với Ê-sau.

Đỉnh cao trong lời cầu nguyện của Gia-cốp nằm ở câu 12: “Vả, Ngài có nói rằng: Quả thật, Ta sẽ làm ơn cho ngươi, và làm cho dòng dõi ngươi đông như cát bờ biển, người ta không thể đếm được vì đông đúc quá”. Trong phần này của lời cầu nguyện, Gia-cốp đã chạm đến gia tể Đức Chúa Trời vì ông nói đến dòng dõi. Để cầu nguyện như vậy không những phải đứng trên lời Đức Chúa Trời mà còn phải chạm đến lòng Ngài. Đức Chúa Trời đã chọn Gia-cốp với mục tiêu có được dòng dõi để hoàn thành mục đích của Ngài là có được sự biểu lộ tập thể của chính Ngài trên đất. Có lẽ Gia-cốp không hiểu điều này nhưng ông đã cầu nguyện rất tốt. Khi nghiên cứu lời cầu nguyện này, chúng ta thấy lời cầu nguyện ấy thật kỳ diệu trong mọi phương diện. Tôi hi vọng tất cả chúng ta sẽ cầu nguyện như vậy.

d) Tự Tranh Đấu Hơn Nữa

Sau khi dâng lời cầu nguyện tuyệt diệu như thế, chắc chắn Gia-cốp đã có sự bình an. Nhưng ông vẫn còn năng động. Thay vì ngủ, ông “lấy các vật hiện có trong tay để làm một lễ vật dâng cho Ê-sau, anh mình” (c. 13). Ông chia lễ vật này thành chín bầy “rồi giao mỗi bầy riêng ra nơi tay tôi tớ mình và dặn rằng: Các ngươi hãy đi trước ta và dẫn bầy này cách bầy kia một khoảng” (c. 16). Mục đích của điều này là xem thái độ của Ê-sau đối với Gia-cốp sẽ như thế nào. Gia-cốp thật thông minh, gửi đi một lễ vật gồm chín bầy gia súc cho Ê-sau với khoảng cách bầy này với bầy kia. Điều này làm tăng khoảng cách giữa ông và Ê-sau và cho phép ông có thời gian để biết Ê-sau sẽ làm gì hầu ông có cơ hội chuẩn bị chiến trận.

Hãy xem toàn bộ bức tranh. Trước hết, Gia-cốp chia người của mình thành hai trại quân. Kế đến, sau khi dâng lời cầu nguyện kỳ diệu, lẽ ra ông nên bình an đi ngủ. Nhưng thay vì làm như vậy, ông tạo nên chín bầy gia súc như một lễ vật dâng cho Ê-sau để gia tăng khoảng cách giữa ông và Ê-sau, điều đó tạo cho ông có thời gian để chuẩn bị đối phó với tình thế. Đây là hình ảnh sinh động về một kinh nghiệm rất kỳ lạ. Một mặt, Gia-cốp đã cầu nguyện cách thiết tha; nhưng mặt khác, ông dùng sự khôn ngoan của mình. Đây là hình ảnh về chính chúng ta. Dù Gia-cốp đã làm điều này chỉ một lần, nhưng tôi đã làm điều đó nhiều lần. Một mặt, tôi cố hết sức chuẩn bị để đối phó với tình thế rắc rối, và mặt khác, tôi đã cầu nguyện thiết tha với Chúa. Dù lời cầu nguyện của tôi có tốt đến đâu, tôi vẫn không tin cậy lời cầu nguyện đó. Gia-cốp đã cầu nguyện rất tốt, nhưng ông không đặt tin cậy vào lời cầu nguyện của mình. Nếu có, hẳn sau đó ông sẽ không năng động như thế. Nếu là một tôi tớ của Gia-cốp, có lẽ tôi đã nói: “Gia-cốp ơi, sau khi dâng lời cầu nguyện như vậy, ông không cần làm nhiều điều như thế”.

Gia-cốp đã gọi chín bầy gia súc là lễ vật, nhưng thật ra chúng là của hối lộ. Tôi không tin Gia-cốp có lòng tốt và yêu mến Ê-sau, anh mình như vậy. Lễ vật này không xuất phát từ lòng thương yêu mà từ lòng sợ hãi. Mục đích của nó là làm cho Ê-sau nguôi giận. Thậm chí Gia-cốp đã nói: “Ta sẽ làm người nguôi giận bằng cách gởi lễ vật đi trước” (c. 20).

Trong khi người và tôi tớ của Gia-cốp ngủ bình an thì chính ông không thể yên nghỉ. Ông thiết tha trước mặt Đức Chúa Trời. Đây là vấn đề sinh tử. Gia-cốp đoán trước rằng một cuộc tàn sát sắp xảy đến, cảm thấy chắc chắn rằng Ê-sau sẽ giết ông và gia đình ông. Do đó, Gia-cốp không bình an. Thình lình, khi Gia-cốp ở một mình thì “có một người vật lộn với ông cho đến rạng đông” (c. 24). Người đấu vật này không phải là thiên sứ mà là chính Chúa trong hình dạng một người. Chỉ Kinh Thánh mới có loại câu chuyện này. Trước sự kinh ngạc hết sức của Gia-cốp, trong đêm tối, trong khi ông đang khẩn thiết, một người đến với ông và cố hết sức trói chặt ông. Vì Gia-cốp không chịu thua nên cả hai đã vật lộn suốt đêm cho đến rạng đông. Trước điều này, Gia-cốp sợ bị giết. Bây giờ, sợ bị đánh bại trong cuộc vật lộn này nên ông đã dồn hết sinh lực vào trận đấu. Chúa đã không làm Gia-cốp khuất phục ngay để có thể phơi bày cho ông thấy rằng ông thiên nhiên là thế nào và sức mạnh thiên nhiên của ông lớn dường nào. Sau cùng, Chúa đụng đến chỗ trũng của bắp đùi, làm ông bị què. Dầu vậy, Gia-cốp không để Ngài đi cho đến khi Ngài ban phước cho ông. Chúng ta sẽ xem xét điều này nhiều hơn trong bài tiếp theo.

Trong chiêm bao tại Bê-tên, Gia-cốp đã nhận từ Chúa lời hứa chắc chắn. Chúa phán với ông rằng: “Này, Ta ở cùng ngươi, sẽ gìn giữ ngươi trong mọi nơi ngươi đi và đem ngươi về xứ này; vì Ta không bao giờ bỏ ngươi cho đến khi Ta làm xong những điều Ta đã phán cùng ngươi” (28:15). Hơn nữa, khi đến lúc Gia-cốp phải lìa khỏi La-ban, Chúa đã phán với ông: “Hãy trở về xứ của tổ phụ ngươi, và của bà con ngươi; Ta sẽ ở với ngươi” (31:3). Nhưng Gia-cốp vẫn tin cậy chính mình, dùng kỹ năng và khả năng thiên nhiên để tự cứu mình khỏi tình thế khó khăn. Ông cũng có thì giờ khẩn thiết với Chúa.Dường như sau mọi điều này, Gia-cốp không còn làm gì nữa. Nhưng trong chương 33, chúng ta thấy Gia-cốp chưa ngừng sự tranh đấu riêng của mình. Ngay cả trong chương này cũng không có dấu hiệu nào cho thấy Gia-cốp đã tin cậy Chúa.

Sau khi vật lộn với Chúa, Đấng đến trong hình dạng của một người, “Gia-cốp nhướng mắt lên và nhìn, kìa, Ê-sau dẫn 400 người đi đến” (33:1). Sau tất cả những lời hứa của Chúa, sau khi cầu nguyện, và sau khi vật lộn với Chúa, Gia-cốp vẫn còn làm một điều gì đó mới. Ông lại chia vợ con một lần nữa. Lần chia thứ nhứt là chia người của ông thành hai trại theo hai trại của thiên sứ. Lần chia thứ hai là chia lễ vật thành chín bầy. Nhưng bây giờ, sau khi xem xét lại vấn đề, ông lại chia người của ông theolòng ông. “Người bèn chia các con cho Lê-a, Ra-chên và cho hai nàng hầu; sắp hai nàng hầu và con cái họ ở trước; kế đến, Lê-a và con cái nàng; Ra-chên cùng Giô-sép ở sau chót” (33:1-2, Hê.). Vì yêu Ra-chên và Giô-sép nên Gia-cốp để họ đi sau cùng.Ngay cả ở đây, vào phút cuối, Gia-cốp vẫn còn dùng sự khéo léo để đối phó với tình thế. Hai nàng hầu và con cái của họ đi trước làm vật hi sinh nếu cần. Nhóm thứ hai, gồm Lê-a và các con. Ra-chên, người ông rất yêu mến và Giô-sép, con nàng, sau chót.Đây là việc làm của kẻ tiếm vị, một người hoàn toàn thiên nhiên. Ông đã có lời hứa của Đức Chúa Trời, những xử lý và đau khổ, lời cầu nguyện kỳ diệu, sự vật lộn và việc chia trước những người của mình, dầu vậy ông vẫn còn làm một điều gì đó khác nữa. Đây là điều tôi muốn nói khi nói rằng chương này thuật lại một kinh nghiệm kỳ lạ.

e) Ê-sau Chào Đón Gia-cốp

Sau tất cả điều này, khi Gia-cốp gặp Ê-sau, ông thật dạn dĩ nhưng khiêm nhường, đi trước đến gặp Ê-sau (33:3-4). Câu 3 nói: “Còn người thì vượt lên trên họ và sấp mình xuống đất bảy lần cho đến khi tới gần anh mình”. Trong một ý nghĩa, ông chân thật và trung tín với vợ con, đi trước để mở đường. Việc Gia-cốp đến với Ê-sau theo cách này làm cho Ê-sau hết sức kinh ngạc “chạy đến trước mặt người, ôm choàng lấy cổ mà hôn” (c. 4). Cả hai anh em đều khóc. Bởi điều này, chúng ta thấy rằng tất cả những lo sợ của Gia-cốp là sản phẩm của sự lo lắng của ông và tất cả những gì ông đã làm đều vô ích. Ông không cần chia người của mình thành hai trại quân, dâng lời cầu nguyện tốt nhất, sắp đặt chín bầy gia súc làm lễ vật cho Ê-sau, vật lộn với Chúa trong hình dạng của con người và chia vợ con và các nàng hầu lần thứ hai. Nếu thật sự nhận biết Đức Chúa Trời và tin cậy Ngài, ông sẽ luôn bình an và nói rằng: “Tôi không lo về Ê-sau vì Đức Chúa Trời đã hứa đem tôi trở về xứ của cha tôi. Ngài bảo tôi trở về thì tôi cứ bình an [tin rằng] Ngài sẽ đem tôi đến đó. Dù Ê-sau có làm gì tôi, tôi cũng không quan tâm vì Đức Chúa Trời tôi đã ban cho tôi lời Ngài”.

Tất cả chúng ta cần học tập từ kinh nghiệm của Gia-cốp. Chúng ta không cần làm quá nhiều. Chúng ta không phải là Gia-cốp ngày nay, tức là những người được chọn sao? Chúa không ban cho chúng ta lời hứa của Ngài sao? Chắc chắn Ngài đã ban.Những trại của thiên sứ không đóng xung quanh chúng ta sao? Chúng ta phải tin rằng thiên sứ đang đóng trại. Chúng ta có thể nghĩ rằng người nào đó là kẻ thù của mình. Kẻ thù là Sa-tan có thể tiêm những ý tưởng vào tâm trí chúng ta về La-ban hay Ê-sau của chúng ta. Tất cả những ý tưởng đó là hư không. Hãy nhớ lại quá khứ của anh em.Không phải anh em đã làm nhiều điều mà cuối cùng được chứng tỏ là vô ích sao? Bất kỳ điều gì chúng ta làm đều hư không. Nhiều lần, tôi tự nhủ: “Ồ, ngươi thật ngu dại.Ngươi đã phí thì giờ và sức lực để làm những điều hư không. Không điều gì trong những điều ngươi đã làm là có ích vì Chúa không dùng đến”. Chắc chắn rằng Gia-cốp không hề mơ thấy Ê-sau đến với ông bằng tình yêu tha thiết như thế. Đức Chúa Trời đã cản trở La-ban bằng cách phán  trong chiêm bao của La-ban và Ngài cũng khuấy động tình anh em của Ê-sau đối với Gia-cốp. Vì thế, Ê-sau đã không đến với Gia-cốp bằng một lòng hận thù hay ý muốn báo thù; trái lại, ông đã đến với Gia-cốp bằng tình anh em nồng nàn. Ê-sau đã quên sự đau khổ mà Gia-cốp đã gây ra cho mình. Nhưng Gia-cốp, kẻ tiếm vị thì không quên điều mình đã làm cho anh. Trong điều này, chúng ta thấy những hành động kỳ diệu của Đức Chúa Trời.

Tôi muốn nói đôi lời, đặc biệt với các anh chị em trẻ. Chắc chắn rằng anh chị em đều yêu Chúa. Bởi yêu Chúa, anh em biết chắc rằng mình là một trong những người được chọn. [Vì] là người được chọn nên lời hứa của Chúa, mục tiêu và đích điểm  củaNgài đều vì anh em. Chúa đã truyền cho tất cả chúng ta phải tiến tới mục tiêu, tiến đến miền đất của Cha, nơi chúng ta có thể vui hưởng các sự giàu có của Chúa vì mục đích đời đời của Ngài. Vì thế, chúng ta chỉ cần vui hưởng sự bình an trong Ngài. Đừng khó chịu bởi bất kỳ La-ban hay Ê-sau nào. Bất kỳ điều gì xảy đến, hãy đơn  yên nghỉ trong Ngài. Nếu bây giờ anh em không thể tiếp nhận lời tôi, hãy chờ một thời gian thì anh em sẽ khám phá rằng mọi điều làm anh em lo lắng sẽ không là gì. Anh em không cần làm gì vì thật ra không có sự rắc rối thật sự nào hoặc phía trước hoặc phía sau.Nhìn bên ngoài dường như có rất nhiều sự khó khăn; nhưng thật ra vì anh em là người được chọn của Đức Chúa Trời, ở dưới sự chăm sóc toàn túc của Ngài nên chẳng có sự khó khăn nào cả. Anh em là người được chọn của Đức Chúa Trời, được đảm bảo bằng lời hứa của Ngài và được giao thác mục tiêu của Ngài. Bây giờ, anh em đang đi trên đường này. Tôi không quan tâm về mọi sự chống đối và tin đồn. Nhiều lần tôi đã cười nhạo điều đó. Miễn là chúng ta, những người được chọn, đang ở trên con đường đạt đến mục tiêu của Đức Chúa Trời và có lời hứa của Ngài thì mọi sự sẽ ổn thỏa.

Hai chương này là bức tranh cho thấy Đức Chúa Trời của chúng ta là Đức Chúa Trời như thế nào. Tôi có thể làm chứng về ân huệ và sự thành tín của Ngài. Nếu Gia-cốp là hèn mọn so với ân huệ và sự thành tín của Chúa thì tôi lại hèn mọn hơn. Dù hoàn cảnh chúng ta thế nào, Chúa vẫn đang ở đây. Chúng ta có Ngài, lời hứa, mục tiêu và quân đội của Ngài. Hãy quên đi sự khéo léo, khả năng đối phó tình thế của anh em.Gia-cốp rất khéo léo, ban đầu thì chia người của mình  theo cách này, sau đó lại theo cách khác. Như chúng ta đã thấy, việc chia người lần thứ hai của ông là theo ý muốn của lòng ông để bảo tồn Ra-chên và Giô-sép. Nhưng không điều gì ông làm là có ích; mọi sự đều hư không. Đây thật là một bức tranh tốt cho chúng ta ngày nay.

Khi đang chuẩn bị cho bài này, tôi được giúp đỡ rất nhiều. Tôi tự nhủ: “Hỡi con người đáng thương, ít ra ngươi vẫn có  phần nào giống Gia-cốp. Một mặt, ngươi có lời Đức Chúa Trời, ngươi tin cậy Đức Chúa Trời và cầu nguyện với Ngài. Mặt khác, ngươi vẫn còn rất nhiều loại phân chia. Cuối cùng, người mà ngươi sợ lại trở thành người thương yêu ngươi”. Nhiều lần, những người mà chúng ta sợ đã trở thành người giúp đỡ chúng ta. Điều này đã xảy ra cho Gia-cốp với Ê-sau. Gia-cốp có rất nhiều của cải và cần sự giúp đỡ để chuyên chở . Ê-sau đã đem 400 người đến giúp ông, nhưng Gia-cốp đã sợ hãi khi nghe tin này. Những người mà ông sợ thực ra lại là người giúp đỡ ông.

Đôi khi Kinh Thánh cũng chơi chữ. Chẳng hạn, có hai trại quân của thiên sứ, và Gia-cốp đã chia người của ông cũng thành hai trại quân. Sau đó, ông chia đàn gia súc thành chín bầy. Khi Ê-sau thấy tất cả những bầy gia súc này, ông không gọi là bầy mà là những trại quân, rằng: “ Em có ý gì với toàn bộ trại quân mà anh đã gặp?” (33:8, Hê.).Dường như Ê-sau nói: “Gia-cốp, em phái những trại quân này có phải để đánh lại anh chăng? Điều này nghĩa là gì?” Gia-cốp đáp: “Đó là để tìm được ơn trước mặt chúa tôi. … Em xin anh, hãy nhận lấy phước hạnh mà em dâng cho anh đây” (c. 8,11,Theo Bản Tiêu Chuẩn Mỹ). Xin lưu ý rằng Gia-cốp đã đổi từ lễ vật thành phước hạnh. Dường như ông nói: “Anh Ê-sau, em không đến để đánh lại anh mà là để trao cho anh phước hạnh này. Đây không phải là những trại quân mà là phước hạnh của em dành cho anh”.Sau điều này, Gia-cốp và Ê-sau có hòa bình .

Ê-sau có lòng tốt, nói với Gia-cốp: “Nào, chúng ta hãy lên đường. Anh sẽ đi trước em” (c. 12). Tuy nhiên, vì phần nào vẫn còn sợ Ê-sau nên Gia-cốp đã không muốn ở với anh lâu hơn. Một lần nữa ông lại dùng sự khôn khéo của mình và nói: “Chúa biết rằng các đứa trẻ yếu lắm và em lại mắc coi chừng chiên và bò cái đương có con bú; nếu ép đi mau chỉ trong một ngày, chắc cả bầy phải chết hết. Xin chúa hãy đi trước kẻ tôi tớ chúa, còn em sẽ đi tới chậm chậm theo bước một của gia súc đi trước và của các trẻ, cho đến chừng nào tới nhà chúa tại xứ Sê-i-rơ” (c. 13-14). Nói cách khác, Gia-cốp nói: “Làm ơn đi khỏi tôi. Tôi không muốn ở với anh. Hễ anh còn ở đây, tôi còn bị đe doạ”. Khi Ê-sau nói: “Bây giờ anh để lại vài người tùy tùng của anh”. Gia-cốp đáp: “Để làm gì? Miễn em được nhờ ơn trước mặt chúa thôi”. (c. 15, Theo Bản Tiêu Chuẩn Mỹ). Hễ còn thấy mặt Ê-sau hay người của Ê-sau thì Gia-cốp không thể bình an. Nhiều lần, ngay sau khi đã trải qua điều nào đó, cái đuôi của nan đề vẫn còn bên trong, và chúng ta không muốn bị nhắc lại điều đó. Thật ra, đó không phải là điều rắc rối mà là điều thương yêu. Ê-sau đến với lòng thương yêu. Nhưng nỗi lo sợ của Gia-cốp chưa hoàn toàn lắng xuống. Đây là bức tranh chính xác về kinh nghiệm của chúng ta.

Nếu là Gia-cốp, chắc tôi đã thầm nói: “Hỡi kẻ ngu dại, ngươi không cần làm gì.Ngươi có lời hứa của Chúa và ngươi đang hướng đến mục tiêu của Ngài. Ngươi đã thấy các thiên sứ của Ngài và thậm chí chính Ngài đã vật lộn với ngươi, đổi tên ngươi thành Ítx-ra-ên và ban phước cho ngươi. Ngươi cần điều gì nữa? Ngươi không nên làm gì cả”. Trái lại, Gia-cốp rất bận rộn, chạy nhốn nháo như kiến bò miệng chảo. Trong hai chương này, không có lời gợi ý nào cho thấy rằng Gia-cốp có sự vui hưởng. Tôi không tin rằng ông đã ăn ngon, ngủ yên. Ông luôn bận rộn, nghĩ cách phải đối diện với tình thế và đối phó với Ê-sau. Ngay cả khi Ê-sau đến với ông cách thương yêu, Gia-cốp vẫn không tin và yêu cầu Ê-sau đi trước. Thật ra, Gia-cốp nói: “Anh Ê-sau, đừng ở lại đây.Hãy đem 400 người của anh đi trước đi. Người của anh làm tôi sợ. Tôi không muốn ai trong họ ở lại với tôi”. Đây thật là một kinh nghiệm kỳ lạ!

16) Gia-cốp Trở Về Ca-na-an

Đức Chúa Trời là thành tín, và cuối cùng, Gia-cốp đã trở về Ca-na-an (c. 17-20).Câu 18 nói: “Và Gia-cốp đến Sa-lem, một thành của Si-chem”. Câu này cũng được dịch là: “Và Gia-cốp đến thành Si-chem an toàn”. Ông trở về Ca-na-an bởi con đường “Sa-lem”. Sa-lem, nửa sau của từ Giê-ru-sa-lem có nghĩa là hòa bình, an ninh. Vì thế, việc Gia-cốp trở về Ca-na-an bởi con đường “Sa-lem” có nghĩa là ông đã đến cách an toàn trong sự bình an. Trong bài sau, chúng ta sẽ thấy Gia-cốp theo dấu của Áp-ra-ham. Theo chương 12, khi Áp-ra-ham vào xứ Ca-na-an, thành đầu tiên ông đến là Si-chem. Gia-cốp cũng đến thành Si-chem cách an toàn. Điều này chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời giữ lời Ngài và làm trọn lời hứa Ngài vì Ngài đã hứa với Gia-cốp rằng Ngài sẽ đem ông trở về xứ của tổ phụ ông bình an. Gia-cốp đã không tự mình thực hiện cuộc hành trình này; Đức Chúa Trời đã thực hiện cho ông. Ở đây, tại Si-chem, Gia-cốp đã làm hai điều giống như ông nội đã làm: dựng trại và lập bàn thờ (c. 18,20). Bây giờ, ông bắt đầu có chứng cớ. Suốt 20 năm trước, ông không có bàn thờ cũng không có trại, cho thấy rằng ông đã không có đời sống đúng đắn như một chứng cớ của Đức Chúa Trời.Bây giờ, sau khi đã trở về lập trường đúng đắn tại nơi đúng đắn, ông có một đời sống cùng với chứng cớ của Đức Chúa Trời. Ở đây, chúng ta thấy rằng bởi ân điển của Đức Chúa Trời, người được chọn này của Ngài đã được đem trở lại chỗ đứng đúng đắn để hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời.

 

Bài Bảy Mươi Lăm

Được Phá Vỡ

c. Được Phá Vỡ

Sáng Thế Ký 32:22-32 thuật lại một kinh nghiệm quan trọng trong đời sống Gia-cốp là  người được chọn của Đức Chúa Trời. Đây thật sự là phần Lời Thánh đặc biệt, độc đáo; và trong Kinh Thánh không có phân đoạn nào khác giống như vậy. Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm, phần lớn Cơ-đốc nhân đã không quan tâm đủ đến phần Kinh Thánh này. Bởi sự thương xót của Chúa, trong bài này, chúng ta phải xem xét kinh nghiệm sống động này trong đời sống Gia-cốp và nhận được ích lợi từ đó.

Kinh nghiệm của Gia-cốp trong chương này rất thực tiễn, riêng tư và thân thiết. Điều gì có thể thân thiết hơn sự vật lộn với ai đó vào lúc nửa đêm? Chúa trong hình dạng con người, đã vật lộn với Gia-cốp “cho đến rạng đông” (c. 24). Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ vật lộn với kẻ lạ hay với một tội nhân vô tín. Xin lưu ý rằng chúng ta không được bảo rằng người này “đến” để vật lộn với Gia-cốp. Không có câu nào nói rằng: “Trong khi Gia-cốp ở đó một mình đang suy gẫm nan đề của mình thì Chúa đến vật lộn với ông”. Không, câu này chỉ nói: “Có một người vật lộn với ông”, cho thấy rằng người này đã ở đó rồi và không cần phải đến. Điều này bày tỏ rằng Chúa đã luôn luôn ở với Gia-cốp.

Tại sao bỗng nhiên Chúa bắt đầu vật lộn với Gia-cốp? Chắc chắn phải có nguyên nhân. Đó là do bối cảnh của Gia-cốp. Đang khi trở về quê cha, ông có hai nan đề –La-ban ở đàng sau và Ê-sau ở phía trước. Sau khi đã được thoát khỏi bàn tay chiếm đoạt của La-ban, bây giờ, ông đang tuyệt vọng khi sắp phải đối đầu với Ê-sau, anh mình. Chính lúc này, cuộc vật lộn mới xảy ra. Những sứ giả của Gia-cốp trở về báo cáo rằng Ê-sau đem theo 400 người đang đến đón Gia-cốp. Khi nghe tin này, Gia-cốp kinh hoàng. Theo sự hiểu biết của ông, nếu Ê-sau đến đón thì không cần 400 người kia. Với ông, điều đó có vẻ như Ê-sau là người chỉ huy đang đến với một đội quân . Chắc chắn Gia-cốp nghĩ rằng Ê-sau đến để đánh ông. Tin như vậy nên Gia-cốp buộc phải cầu nguyện. Sau khi dâng lời cầu nguyện kỳ diệu, ông chia gia súc thành 9 bầy để làm lễ vật dâng cho Ê-sau. Nhưng ông không bình an vì nan đề vẫn còn ngay phía trước. Vì thế, như các câu 22-23 nói: “Ban đêm, người thức dậy, dẫn hai vợ, hai nàng hầu và mười một đứa con đi qua rạch Gia-bốc. Người đem họ qua rạch và hết thảy của cải mình qua nữa”. Sau khi làm mọi điều này, Gia-cốp còn lại một mình và có lẽ đang suy nghĩ thêm về tình hình đó, tự hỏi phải làm gì trong trường hợp Ê-sau tấn công. Gánh của Gia-cốp thật nặng, tình thế của ông là nghiêm trọng và ông đã tuyệt vọng.

Kinh Thánh không tỏ dấu hiệu nào rằng Gia-cốp đã cầu nguyện khi ông ở một mình. Nhiều khi không bị rắc rối, anh em cầu nguyện, nhưng khi rắc rối càng sâu, anh em lại không cầu nguyện. Càng rắc rối, anh em càng ít cầu nguyện. Vì sự rắc rối thì nan giải và tình hình nghiêm trọng nên anh em hoàn toàn không thể cầu nguyện. Tại sao? Vì anh em chưa bị đánh gục. Cho dù nan đề nghiêm trọng đến đâu, anh em cũng không bị đánh gục. Như Gia-cốp, một mặt anh em không thể tiến tới, nhưng mặt khác anh em không cầu nguyện. Trái lại, anh em cứ ở đó và suy nghĩ về tình trạng này, tự hỏi mình phải làm gì.

Khi Gia-cốp đang nghĩ cách đối phó với nan đề thì trước sự kinh ngạc quá đỗi của ông, một người bắt đầu vật lộn với ông. Một lần nữa, tôi nói rằng chúng ta không được bảo rằng người đàn ông này đã đến và vật lộn với ông. Bản văn chỉ nói rằng: “Có một người vật lộn với ông”. Ngày nay khi đọc phần Lời này, lập tức chúng ta nhận thức rằng người này là Chúa. Nhưng vào lúc bắt đầu vật lộn, Gia-cốp không nhận thức rằng người này là Đức Chúa Trời. Có lẽ ông nghĩ rằng người xông vào đánh ông là một trong 400 người của Ê-sau. Khi người này bắt đầu vật lộn với ông, Gia-cốp không để cho người thắng. Có lẽ Gia-cốp thầm nói: “Người này đến để bắt giữ ta, ta sẽ không để người làm điều đó”.

 Tại điểm này, chúng ta cần đặt bốn câu hỏi. Thứ nhứt, tại sao Chúa là một người lại vật lộn với Gia-cốp? Để làm gì? Khi Chúa hiện ra với Áp-ra-ham, Ngài đã hiện ra như Đức Chúa Trời vinh hiển. Nhưng ở đây chúng ta không thấy Chúa hiện ra với Gia-cốp mà vật lộn với ông như một người. Thứ hai, tại sao Chúa là  Đấng Toàn Năng lại  không thể thắng hơn Gia-cốp một người nhỏ bé? Thứ ba, tại sao Chúa chờ rất lâu trước khi đụng đến chỗ trũng của bắp đùi Gia-cốp? Tại sao Ngài không làm điều đó ngay từ đầu? Chúa đã phải vật lộn với Gia-cốp ít nhất trong sáu giờ, có lẽ bắt đầu lúc nửa đêm và tiếp tục cho đến bình minh. Tại sao Chúa để cuộc vật lộn này kéo dài như thế? Và thứ tư, tại sao Chúa không cho Gia-cốp biết danh Ngài? Trong nhiều trường hợp, Chúa đã bày tỏ danh Ngài cho nhiều người, cho họ biết Ngài là ai. Nhưng ở đây, sau khi Gia-cốp xin cho biết danh Ngài, Chúa từ chối không nói, vẫn giấu danh Ngài. Dù tôi không khẳng định là có thể trả lời đầy đủ tất cả những câu hỏi này, nhưng qua kinh nghiệm, ít ra chúng ta cũng có thể trả lời phần nào.

Trong phần lời này, chúng ta không có sự hiện ra của Đức Chúa Trời vinh hiển, cũng không có sự viếng thăm của Chúa. Với Áp-ra-ham, đầu tiên Chúa hiện ra như Đức Chúa Trời vinh hiển (Cv. 7:2). Sau đó, trong Sáng Thế Ký chương 18, Chúa đến thăm ông và dùng bữa với ông. Nhưng kinh nghiệm này của Gia-cốp thì không phải là sự hiện ra của Đức Chúa Trời cũng không phải sự viếng thăm của Chúa mà là một sự xử lý. Khi được cứu, Chúa đã hiện ra với anh em và nhiều lần sau đó, anh em đã có những lần được Chúa viếng thăm thật ngọt ngào và thỏa thích. Nhưng ngoài sự hiện ra của Chúa vào thời điểm cứu rỗi và sự viếng thăm của Ngài vào những lúc tương giao, có những lúc Chúa xử lý chúng ta. Khởi đầu của những xử lý này, chúng ta không nhận thức Chúa đang hiện diện. Chúng ta nghĩ rằng chồng, vợ hay một trưởng lão nào đó đang gây khó khăn cho mình. Cuối cùng, chúng ta mới nhận thức rằng đó không phải là vấn đề chồng, vợ hay một trưởng lão mà chính Đức Chúa Trời đang ở đây để xử lý chúng ta.

Điều này cho chúng ta lời đáp của câu hỏi thứ nhứt về việc Chúa vật lộn với Gia-cốp trong hình dạng một người. Đức Chúa Trời không xử lý chúng ta theo cách hiển nhiên, hiện ra như là Đức Chúa Trời vinh hiển. Khởi đầu của mỗi sự xử lý, chúng ta luôn nghĩ rằng một người nào đó đang vật lộn với chúng ta. Thông thường, cuộc vật lộn này kéo dài rất lâu. Với Gia-cốp, có lẽ là sáu giờ; nhưng với chúng ta, có thể là sáu tuần, sáu tháng hay thậm chí sáu năm. Thưa chị em, chị em đã vật lộn với chồng mình bao lâu? Có lẽ chị em vật lộn với anh ấy hằng ngày. Chị em biết rằng là một Cơ-đốc nhân, không thể có sự chia lìa hay ly dị. Nhưng chắc chắn chị em cảm thấy cứ thoải mái lời qua tiếng lại với anh ấy. Có lẽ chị em thầm nói: “Thật bất hạnh vì tôi lấy người này. Dù không thể ly dị nhưng ít ra tôi cũng có thể cãi lại anh ấy”. Một số người vợ đã vật lộn với chồng một thời gian dài. Tất nhiên, điều này cũng đúng với những ông chồng vì họ cũng vật lộn với vợ. Với nhiều người trong chúng ta, đời sống hôn nhân là đời sống vật lộn. Dù nghĩ rằng chúng ta đang vật lộn với người phối ngẫu, nhưng thật ra phía bên kia không phải là người phối ngẫu, trưởng lão hay bất kỳ tình huống nào mà là chính Chúa đang vật lộn với chúng ta. Trong kinh nghiệm, cuối cùng, chúng ta nhận thức rằng Chúa đang ở đây. Chẳng hạn, một chị em cuối cùng có thể nói: “Đó không phải là chồng đang vật lộn với tôi mà là Chúa”.

Nếu hiểu đáp án cho câu hỏi thứ nhứt, chúng ta có thể trả lời cho ba câu hỏi còn lại. Trong sự hiện ra của Chúa để cứu chúng ta, Ngài bày tỏ chính Ngài là Chúa vinh hiển, nhưng trong việc xử lý chúng ta, Ngài giấu mình. Bất cứ khi nào trải qua một sự xử lý, chúng ta thường nghĩ rằng điều đó đến từ một người hay hoàn cảnh nào đó, chúng ta không nghĩ điều đó đến từ Chúa. Nhưng hễ khi nào xử lý đến, chúng ta phải nhận thức rằng Chúa đang ở đó. Đừng hỏi danh Ngài. Thường là các chị em hỏi tôi: “ Anh Lý à, tại sao Chúa ban cho tôi một người chồng như vậy?”. Và các anh em thường nói: “Anh Lý ơi, Chúa không biết mọi điều sao? Vì Ngài biết mọi điều, vậy tại sao Ngài không làm điều gì đó về vợ tôi?” Câu trả lời là: sự xử lý của Chúa là một điều bí mật. Qua kinh nghiệm của Gia-cốp, chúng ta có thể biết danh của Đấng đang vật lộn với chúng ta. Đối với chị em, danh Chúa có thể là “chồng”, và đối với anh em, danh Chúa có thể là “vợ”. Trong một số trường hợp, danh của Chúa có thể là “trưởng lão khó tính”. Nếu thành thật và mở ra, nhiều người sẽ thừa nhận rằng họ có những câu hỏi về hôn nhân. Nhiều người đã hỏi: “Tại sao?” Một anh em có thể hỏi: “Trong tất cả các chị em trẻ trong Hội Thánh, làm thế nào tôi lại đi cưới chị em này?” Mỗi khi bị xử lý, đầu tiên chúng ta không nhận ra rằng đó là hành động của Chúa. Đôi khi chúng ta nhận ra nhưng không chịu thừa nhận. Nếu thừa nhận, chắc chắn chúng ta sẽ lập tức ngưng vật lộn. Vì thế, chúng ta đã cố hết sức để không bị đánh bại; đúng ra, chúng ta cố gắng chinh phục phía bên kia, trong hầu hết trường hợp, chúng ta không nhận thức rằng thật ra chúng ta đang vật lộn với Chúa.

Bây giờ hãy xem câu hỏi thứ hai và thứ ba. Nếu Chúa khuất phục chúng ta ngay, làm thế nào chúng ta bị vạch trần? Một số người có thể hỏi: “Tôi đã liên tục cầu nguyện cho vợ trong nhiều năm. Tại sao Chúa không trả lời tôi? Tại sao cô ấy vẫn không thay đổi?” Câu trả lời là anh em cần bị phơi bày. Chúa vật lộn với Gia-cốp để phơi bày ông thiên nhiên là thể nào. Sự phơi bày này đòi hỏi ít nhất nửa buổi tối. Chúng ta cũng cần một thời gian rắc rối dài. Nhiều người trong chúng ta vẫn đang vật lộn. Chúa đang cố gắng chinh phục anh em, nhưng anh em đang chiến đấu để chinh phục hoàn cảnh của mình. Có lẽ vợ anh em đang được Chúa dùng để chinh phục anh em, nhưng anh em dùng sức mạnh của mình để đánh bại cô ấy. Như thế, cuộc vật lộn cứ tiếp diễn. Tôi hi vọng rằng trong bài này, ánh sáng sẽ chiếu trên anh em và anh em sẽ nói: “Ồ, bây giờ tôi thấy rồi! Trong nhiều năm, tôi đã vật lộn không ngừng. Bây giờ tôi thấy rằng mục đích của điều này là để phơi bày tôi thiên nhiên là thể nào. Nan đề không ở nơi vợ tôi mà ở sức mạnh thiên nhiên của tôi. Tôi vẫn còn là người thiên nhiên”.

Có gì sai với Gia-cốp đến nỗi Chúa phải vật lộn với ông? Không có gì sai. Lý do Chúa vật lộn với Gia-cốp là vì ông vẫn còn rất thiên nhiên. Ở đây sự xử lý không liên quan đến tội mà đến sự sống thiên nhiên, con người thiên nhiên. Phải mất một thời gian dài để phơi bày sự sống thiên nhiên của chúng ta. Chúng ta cần một thời gian vật lộn dài trước khi điều này có thể xảy ra. Qua thời gian vật lộn này, sự thiên nhiên của chúng ta, giống như của Gia-cốp, bị phơi bày hoàn toàn. Khi đọc các chương 31, 32 và 33, chúng ta thấy Gia-cốp thiên nhiên biết bao. Ông đã bị xử lý và đã đau khổ rất nhiều, nhưng trong chương 32, ông vẫn còn thiên nhiên. Ông đã không tin cậy Chúa và hoàn toàn không thể biểu lộ Chúa. Ông thiên nhiên và sự biểu lộ của ông đầy dẫy chính mình.

Vào một lúc nào đó trong cuộc vật lộn suốt đêm ấy, Chúa đã đụng đến chỗ trũng của bắp đùi Gia-cốp. Câu 25 nói: “Khi người đó thấy mình không thắng nổi, bèn đánh vào chỗ trũng bắp đùi ông; và chỗ trũng của bắp đùi Gia-cốp bị trật khớp khi ông vật lộn với người”. Chúa đánh vào gân của bắp đùi Gia-cốp. Gân bắp đùi là cơ bắp mạnh nhất của chúng ta. Ý định của Chúa không phải là đánh bại Gia-cốp mà là phơi bày ông. Sau khi phơi bày sức mạnh thiên nhiên của ông, Chúa đã đánh vào bắp đùi của ông. Lập tức ông bị trật khớp và bị khập khiễng. Như câu 31 cho thấy, Gia-cốp “đã bị vẹo ngay bắp đùi” (theo tiếng Hê-bơ-rơ).

Sau khi bắp đùi bị trật khớp, có lẽ Gia-cốp đã thầm nghĩ: “Đấu sĩ này mạnh hơn mình. Ông ta không giết mình, nhưng chắc chắn đã đánh và làm mình bị khập khiễng”. Nhận thức rằng người vật lộn này mạnh hơn nên Gia-cốp đã xin người ban phước cho (c. 26). Tôi không tin rằng ngay cả vào lúc này, Gia-cốp đã nhận ra người vật lộn này là Đức Chúa Trời. Sau khi đánh ông, người này nói với Gia-cốp: “Hãy để Ta đi vì trời đã rạng đông” (c. 26). Nhưng Gia-cốp nói: “Tôi sẽ không để người đi, trừ khi người ban phước cho tôi” (theo tiếng Hê-bơ-rơ). Sau khi Gia-cốp nói lời này, Chúa hỏi Gia-cốp tên ông là gì (c. 27). Chúa đã biết tên của Gia-cốp rồi, sao Ngài còn hỏi ông câu này? Đó là để Gia-cốp nhận biết ông là ai và buộc ông phải thừa nhận rằng ông là Gia-cốp, kẻ tiếm vị. Sau khi Gia-cốp nói tên mình, Đấu Sĩ này nói: “Tên ngươi sẽ chẳng là Gia-cốp nữa, nhưng là Ítx-ra-ên vì ngươi đã vật lộn với Đức Chúa Trời và người ta; ngươi đều được thắng” (c. 28, Hê.). Tên Ítx-ra-ên có nghĩa là “người vật lộn với Đức Chúa Trời”. Nhiều Cơ-đốc nhân biết rằng Ítx-ra-ên có nghĩa là “Hoàng tử của Đức Chúa Trời”, nhưng như các từ điển ngôn ngữ cổ và bản dịch tốt nhất đã nói rõ, nghĩa này là phụ. Nghĩa chính của tên Ítx-ra-ên là “người vật lộn với Đức Chúa Trời”.

Sau khi nghe tên mình đã được đổi thành Ítx-ra-ên, người vật lộn với Đức Chúa Trời, lập tức Gia-cốp biết rằng đấu sĩ này là Đức Chúa Trời. Có lẽ ông thầm nói: “Ồ, Người này là Đức Chúa Trời, và Người đã gọi tôi là kẻ vật lộn với Đức Chúa Trời”. Rồi Gia-cốp nói: “Xin cho tôi biết tên Người” (c. 29). Chúa đáp: “Vì sao ngươi hỏi tên Ta?” (c. 29). Chúa không cho Gia-cốp biết danh Ngài. Trong kinh nghiệm của chúng ta, là Đấng xử lý, Chúa luôn luôn bí mật. Tuy nhiên, dù không bày tỏ danh Ngài cho Gia-cốp, Chúa vẫn ban phước cho ông. Sau khi ban phước cho Gia-cốp, Kinh Thánh không ghi là Chúa rời khỏi ông. Chúa đã luôn luôn ở với ông và ngay sau cuộc vật lộn này, Ngài vẫn ở đó. Chúa không đến cũng không đi; Ngài chỉ vật lộn với Gia-cốp. Nếu đó là kinh nghiệm của Gia-cốp trong thời Cựu Ước thì điều đó thậm chí còn đúng hơn với chúng ta ngày nay. Chúa không bao giờ lìa khỏi chúng ta. Hễ khi nào chúng ta cần được xử lý, Ngài sẽ có sự xử lý chính xác mà chúng ta cần.

Câu 30 nói: “Gia-cốp đặt tên chỗ đó là Phê-ni-ên vì nói rằng: Tôi đã thấy Đức Chúa Trời mặt đối mặt và mạng sống tôi được bảo tồn”. Sau khi Chúa ban phước cho ông, Gia-cốp hoàn toàn nhận thức rằng người vật lộn đó là Đức Chúa Trời và ông đã đặt tên nơi đó là Phê-ni-ên, có nghĩa là “mặt của Đức Chúa Trời”.

Sau khi xem xét kinh nghiệm của Gia-cốp trong chương này, chúng ta có thể nghĩ rằng ông đã được biến đổi bởi điều đó. Tuy nhiên, trên thực tế, không có sự biến đổi nào cả vì chương 33 bày tỏ rằng Gia-cốp vẫn là Gia-cốp. Không có sự thay đổi trong cách sống của ông. Ông vẫn đang hoạch định, phân chia và làm mọi điều có thể để đối phó với tình thế. Dù không có sự thay đổi trong cách sống, nhưng rõ ràng đã có một sự thay đổi trong sự sống của ông, chính sự  sống của ông đã bị đụng đến. Sau kinh nghiệm tại Phê-ni-ên, ông đi khập khiễng. Cả trước và sau khi Chúa đụng đến, ông đều có thể làm nhiều điều; nhưng sau khi Chúa đụng đến, bất kỳ điều gì ông làm đều được làm với sự khập khiễng.

Với chúng ta là Cơ-đốc nhân, có hai loại thất bại và yếu đuối –những người không khập khiễng và những người bị khập khiễng. Chẳng hạn, chúng ta có thể nổi nóng với hoặc không với sự khập khiễng. Tôi có thể nổi nóng với một anh em, nhưng ngay cả trong việc nổi nóng này, người khác sẽ để ý thấy tôi đang khập khiễng. Nếu anh em không làm gì, người khác sẽ không nhận thấy sự khập khiễng của anh em. Nhưng Gia-cốp càng hành động, sự khập khiễng của ông càng bị phơi bày. Tuy nhiên, tôi nói rằng chúng ta đừng cố bắt chước tật khập khiễng. Bắt chước không bao giờ công hiệu.

Trong các Hội Thánh trong sự khôi phục của Chúa, chúng ta là những người được chọn của Đức Chúa Trời. Chúng ta đang ở trong tay Ngài, đang bước đi trên đường lối Ngài, và tôi hoàn toàn tin chắc rằng chúng ta cũng đang ở dưới sự xử lý của Ngài. Dù có nhận thức, nhận ra hay thừa nhận điều đó hay không, sự thật là anh em đang ở dưới sự xử lý của Chúa. Sớm muộn gì, anh em cũng sẽ có cảm nhận rằng mình đã bị Ngài đụng đến. Khi thời điểm đó xảy đến, anh em sẽ biết rằng mình bị khập khiễng và sẽ không bao giờ trở lại như cũ. Anh em vẫn có thể có những yếu đuối, nhưng sẽ không như trước. Nếu vẫn như trước, đó là dấu hiệu cho thấy anh em chưa bao giờ kinh nghiệm sự đụng chạm của Chúa.

Với Gia-cốp, sự  đụng chạm của Chúa một lần là đủ cả. Nhưng với chúng ta, có thể [Ngài] phải đụng đến nhiều lần. Tuy nhiên, nguyên tắc thì như nhau. Nhiều người trong chúng ta có thể làm chứng rằng từ ngày đầu yêu Chúa, đặc biệt từ khi bước vào nếp sống Hội Thánh và bắt đầu đi theo Chúa trong sự khôi phục của Ngài, chúng ta tìm thấy chính mình trong những hoàn cảnh chúng ta bị xử lý. Chúng ta đã vật lộn không ngừng. Trong một thời gian dài, chúng ta không nhận thức rằng Chúa đang xử lý chúng ta. Một ngày nọ thình lình Chúa chạm đến chúng ta, và chúng ta bước ra trong tình trạng bị khập khiễng. Sau điều đó, chúng ta không như trước nữa. Có thể chúng ta vẫn còn thiên nhiên hay yếu đuối, nhưng không còn như trước.

Đừng mong rằng bởi một sự đụng chạm mà toàn bộ nếp sống anh em sẽ được thay đổi, và anh em sẽ được biến đổi hoàn toàn. Không, với Gia-cốp, sự đụng chạm này xảy ra trong chương 32, nhưng sự trưởng thành, sự chín muồi, đã không được biểu lộ đầy đủ cho đến chương 47. Từ chương 26 đến 32, có nhiều sự thất bại, lỗi lầm và việc làm sai trái. Sau khi được Đức Chúa Trời đụng đến trong chương 33, dường như ông không thay đổi bao nhiêu, nhưng thật ra, ông đã có sự thay đổi lớn trong sự sống. Trước chương 32, Gia-cốp sống thiên nhiên, không bao giờ được Chúa đụng đến. Nhưng sau chương 32, hễ điều gì ông làm, ông đã làm với sự khập khiễng. Từ đó trở đi, ấn tượng ông tạo nơi người ta hoàn toàn khác hẳn. Khi cúi mình trước Ê-sau, ông vẫn còn thiên nhiên, nhưng sự khập khiễng của ông đã làm chứng cho việc Chúa đã đụng đến ông. Có bao giờ anh em nhận thức rằng khi Gia-cốp bước về phía Ê-sau và cúi lạy, ông đang đi khập khiễng không? Ê-sau không thấy cả con người Gia-cốp, nhưng thấy một người đi khập khiễng. Ở đây chúng ta thấy rằng trong khi chưa có sự thay đổi trong nếp sống của ông thì đã  có một sự thay đổi nào đó xảy ra trong sự sống của ông. Đó không phải là nếp sống bên ngoài bị Chúa đụng đến mà là sức mạnh thiên nhiên, bên trong, đã được Ngài đụng đến. Gân bắp đùi của Gia-cốp đã bị đụng đến.

Một vài Cơ-đốc nhân đã nhận thức được ý nghĩa quan trọng về kinh nghiệm của Gia-cốp trong phần Lời này. Hầu hết mọi người dồn hết chú ý vào việc xử lý các tội phạm bên ngoài, những việc làm sai và những điều thế tục mà không hề nghĩ rằng sự sống thiên nhiên, sức mạnh thiên nhiên của họ phải được đụng đến. Nhưng Chúa không những quan tâm đến sự thay đổi nếp sống bên ngoài, mà hơn thế nữa, Ngài còn khao khát đụng đến sự sống thiên nhiên của chúng ta. Dù có cãi vả với vợ hay không, nếu sự sống thiên nhiên của anh em chưa bị đụng đến, anh em vẫn còn thiên nhiên. Trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, không có sự khác biệt nhiều giữa nổi nóng với vợ hay kiềm chế điều đó. Nếu nổi nóng, anh em là anh em; và nếu kiềm chế sự nóng giận của mình, anh em vẫn là anh em. Nhưng một khi Gia-cốp đã bị đụng đến, dù bên ngoài ông vẫn như trước, nhưng bên trong, sự sống thiên nhiên của ông đã bị xử lý. Tất nhiên, nói theo con người, tôi muốn thấy anh chị em thay đổi thái độ đối với người phối ngẫu. Nhưng sâu bên trong, nếu bản thể bề trong của họ vẫn như cũ, tôi không đánh giá cao sự thay đổi bên ngoài. Khi anh em cư xử xấu, Chúa khó mà đem chính Ngài vào trong anh em. Nhưng khi anh em tốt thì cũng vậy. Trên thực tế, vì anh em quá tốt nên có thể Chúa càng khó đem chính Ngài vào trong anh em hơn. Đây không phải là vấn đề thay đổi bên ngoài hay cải thiện mà là sự đụng đến bề trong. Gân bề trong của anh em, sức mạnh thiên nhiên bên trong, phải bị Chúa đụng đến. Tất cả chúng ta cần sự đụng đến này.

Khi bước theo Gia-cốp, chúng ta có thể bị đụng đến nhiều lần vì với chúng ta, sự đụng chạm này có thể không phải một lần đủ cả. Sau khi vật lộn một lát, chúng ta sẽ được thuyết phục sâu xa rằng mình đã bị đụng đến. Chúa luôn đụng đến chúng ta tại một chỗ quan trọng nào đó. Hễ khi nào Ngài đụng đến một phần nào đó, chúng ta bị què và không thể như trước trong bản thể bề trong của mình. Từ đó trở đi, chúng ta đi khập khiễng và không còn nguyên vẹn như trước.

Giữa hàng ngàn người trong nếp sống Hội Thánh, có nhiều loại người khác nhau: người lanh lợi, người khôn ngoan, kẻ xảo quyệt, kẻ kiêu ngạo, người ngạo mạn. Theo tôn giáo, cách đúng đắn là thay đổi hành vi bên ngoài. Nhưng cách của Đức Chúa Trời, cách của sự sống thì khác. Đức Chúa Trời không phán với Gia-cốp: “Này Gia-cốp, Ta đã vật lộn với ngươi, đụng đến người, đổi tên ngươi và ban phước cho ngươi. Từ nay trở đi, ngươi không được dùng sự xảo quyệt hay sức mạnh thiên nhiên để đối phó với Ê-sau, anh ngươi. Đừng xảo quyệt nữa. Hãy tin cậy Ta và để Ta lo vấn đề này”. Không có phần ghi chép như vậy trong Kinh Thánh. Chúa đã đụng vào bắp đùi ông, đổi tên ông và ban phước cho ông –thế là đủ. Không một bài giảng, không một lời chỉ dẫn nào được ban cho ông. Bất kỳ điều gì Gia-cốp làm sau đó, như chia bầy gia súc thành ba nhóm, là do ông. Thông thường, sau khi Chúa đụng đến chúng ta, Ngài không bảo chúng ta làm gì. Nếu kiểm tra kinh nghiệm, chúng ta sẽ thấy là như thế.

Những người chăm sóc người khác, đặc biệt là trưởng lão, đều thích chỉ dạy người ta. Họ thường nói: “Anh à, anh đã phạm lỗi rồi. Bây giờ Chúa đã ban phước cho anh, anh không nên cư xử với vợ như trước nữa. Vì vinh hiển Chúa, chắc chắn là anh phải thay đổi”. Những chị em tham dự vào việc chăn dắt có thể bảo người khác rằng: “Chị ơi, chị không nên cãi lời chồng nữa. Chị không nên làm điều này –chị không nên làm điều kia”. Đây là cách của chúng ta, nhưng không phải cách của Chúa. Sau khi đụng đến bắp đùi của Gia-cốp và ban phước cho ông, Chúa không ban cho ông sự chỉ dẫn nào. Thậm chí Ngài không nói một lời. Trái lại, sau sự đụng chạm đó, Gia-cốp vẫn còn vận dụng chính mình. Dường như ông nói với người của mình rằng: “Tất cả các ngươi hãy ở lại phía sau. Ta đi trước để gặp Ê-sau, anh ta”. Nhưng khi Gia-cốp đến với Ê-sau, ông đã đi khập khiễng. Quan niệm thiên nhiên của chúng ta và đường lối của Đức Chúa Trời thật là khác biệt ! Sự thực hành tôn giáo và sự đụng chạm của Chúa thật là khác biệt !

Tôi không muốn nghe sự chỉ dẫn nào được ban cho anh em, nói đúng hơn, tôi muốn thấy từng người một, nhiều người trong anh em, được Chúa đụng đến. Các chị em thường đến với tôi để than phiền về chồng. Tuy nhiên, khi họ kiện cáo chồng trước mặt tôi, tôi vui vì trong sự kiện cáo đó, tôi thấy họ đang đi khập khiễng. Có lẽ chỉ vài ngày trước, họ đến với tôi mà không có dấu hiệu gì cho thấy rằng họ đã được đụng đến. Những bây giờ, dù vẫn còn phàn nàn và kiện cáo chồng, nhưng người khác có thể thấy sự khập khiễng rõ ràng nơi họ. Tôi không quở trách những chị em yêu dấu này vì tôi vui khi thấy họ đã được đụng đến. Một sự đụng chạm tốt hơn mọi loại giáo huấn. Việc Chúa đụng đến sự sống thiên nhiên của chúng ta thì tốt hơn nhiều so với hàng trăm bài giảng. Đây là nhu cầu của chúng ta ngày nay.

Câu 31 nói: “Khi đi qua Phê-ni-ên thì mặt trời đã mọc trên người và người bị giẹo trên chỗ bắp đùi” (theo tiếng Hê-bơ-rơ). Sau sự đụng chạm đó, mặt trời đã mọc trên Gia-cốp. Ông bị khập khiễng nhưng lại được ở trong ánh sáng. Trong sự khôi phục của Chúa, bất kỳ ai có ánh sáng, phải là người khập khiễng. Không ai ở dưới ánh sáng mà còn nguyên vẹn; mọi người ở dưới ánh sáng của sự chiếu sáng thiên thượng đều bị khập khiễng. Trong đêm tối đó, Gia-cốp thật mạnh mẽ và mọi phần của bản thể ông đều nguyên vẹn. Nhưng sau khi bị đụng đến, mặt trời đã mọc trên ông và ông ngập tràn ánh sáng. Ông ở dưới sự chiếu sáng của ánh sáng thiên thượng, khi ấy, ông là một người bị khập khiễng. Vì chúng ta thật sự ở trong tay Chúa và đi theo đường lối Ngài nên nhiều người trong chúng ta có loại kinh nghiệm này.

 

 

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2