buy abortion pill
usa buy abortion pill
anvly.com buy abortion pill online usa
medical abortion pill
abortion pill
price CHƯƠNG BẢY
ĐỨC CHÚA TRỜI CÓ Ý ĐỊNH LÀ CON NGƯỜI PHẢI THUẬN PHỤC UY QUYỀN ĐẠI DIỆN
Kinh Thánh: Rô. 13:1; 1 Phi 2:13-14; Êph. 5:22-24; 6:1-3; Côl. 3:18, 20, 22; 1 Tê 5:12-13; 1 Tim. 5:17; 1 Phi 5:5; 1 Côr. 16:15-16
CÁC HỆ THỐNG UY QUYỀN
ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI THIẾT LẬP
Trong Thế Gian
Trong vũ trụ, Đức Chúa Trời là nguồn của mọi uy quyền. Mọi uy quyền trên đất đều được Ngài lập nên. Như vậy, những uy quyền ấy đại diện cho uy quyền của Đức Chúa Trời và thậm chí sở hữu uy quyền của Đức Chúa Trời. Chính Đức Chúa Trời đã lập nên các hệ thống uy quyền để bày tỏ Ngài hầu khi con người gặp các uy quyền ấy thì họ gặp chính Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời hiện diện, thì con người nhờ sự hiện diện của Ngài mà có thể biết Ngài. Khi Đức Chúa Trời không hiện diện, thì con người có thể gặp Đức Chúa Trời bằng cách gặp uy quyền của Ngài. Trong vườn Ê-đen, khi có sự hiện diện của Đức Chúa Trời, thì con người có thể biết Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời không có mặt, thì con người có thể tự nhắc nhở mình về mạng lịnh của Đức Chúa Trời, là lịnh cấm ăn trái cây ấy. Đó là một cách khác để con người biết Đức Chúa Trời.Trong thế gian, con người không thường gặp Đức Chúa Trời. (Tất nhiên, điều này không bao gồm sự kiện là trong hội-thánh, khi sống trong linh, thì con người có thể luôn luôn tiếp xúc với Đức Chúa Trời). Sự biểu hiện của Đức Chúa Trời thường được thấy nhiều nhất trong những mạng lịnh của Ngài. Chỉ những kẻ trông vườn nho ngu dại mới cần người chủ vườn nho đích thân xuất hiện. Thật ra, các đầy tớ và con của người chủ cũng đủ để đại diện cho người chủ (Mác 12:1-9).
Một số người được Đức Chúa Trời lập nên để ban hành mạng lịnh và để làm uy quyền cho Đức Chúa Trời. Tất cả những người có uy quyền đều được Đức Chúa Trời chỉ định. Vậy nên, mọi uy quyền mà Đức Chúa Trời đã lập nên cần phải được tôn trọng.Ngày nay, Đức Chúa Trời đã giao phó uy quyền cho con người. Sau khi giao phó uy quyền cho con người, nhiều người trên thế giới đã được Đức Chúa Trời lập nên để biểu hiện uy quyền của Ngài. Nếu muốn học tập thuận phục Đức Chúa Trời thì chúng ta cần phải biết Đức Chúa Trời giao phó uy quyền của Ngài cho ai. Nếu chúng ta hiểu uy quyền của Đức Chúa Trời chỉ ở trong chính Ngài thì rất có thể hơn phân nửa thời gian [trong cuộc sống] của mình, chúng ta sẽ xúc phạm đến uy quyền của Đức Chúa Trời. Có bao nhiêu người mà trong họ anh em nhận thấy uy quyền của Đức Chúa Trời? Không có chuyện lựa chọn giữa uy quyền trực tiếp của Đức Chúa Trời và uy quyền đại diện của Ngài. Không những chúng ta phải thuận phục uy quyền trực tiếp của Đức Chúa Trời, mà còn phải thuận phục uy quyền đại diện của Ngài vì không uy quyền nào là không phát xuất từ Đức Chúa Trời.
Về uy quyền thế tục, Phao-lô không những đưa ra một lời [khuyên] tích cực là phải thuận phục, mà về mặt tiêu cực cũng cảnh cáo rằng chống lại uy quyền cũng giống như chống lại mạng lịnh của chính Đức Chúa Trời (Rô. 13:1). Con người phủ nhận uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời là con người phủ nhận chính uy quyền của Đức Chúa Trời. Trong Kinh Thánh, uy quyền chỉ mang một tính chất. Không uy quyền nào là không thuộc về Đức Chúa Trời. Chống lại uy quyền là chống lại Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ không bỏ qua điều đó. Những người chống đối sẽ tự mình nhận lấy sự phán xét.Chúng ta không thể nào phản loạn mà không bị trừng phạt. Vậy, người nào chống lại uy quyền là mang sự chết chóc đến cho mình. Đối với vấn đề uy quyền thì không có quyền lựa chọn.
Vào thời A-đam, Đức Chúa Trời ủy thác quyền cai trị cho con người và truyền con người cai trị trái đất (Sáng 1:28). Khi ấy, con người chỉ cai trị các thú vật. Mãi đến thời trận lụt xảy ra, Đức Chúa Trời mới giao phó cho Nô-ê quyền quản trị để cai trị trên con người. Ngài phán: “Hễ kẻ nào làm đổ máu người, thì sẽ bị người ta làm đổ máu lại” (9:6). Từ lúc đó trở đi, Đức Chúa Trời ủy thác cho con người uy quyền để cai trị trên con người. Từ thời Nô-ê, Đức Chúa Trời mới bắt đầu lập nên các chính quyền, và đặt con người dưới các chính quyền ấy.
Trong Xuất Ê-díp-tô Ký chương 20, sau khi dân của Đức Chúa Trời rời Ai-cập và vào đồng hoang, Mười Mạng Lịnh được ban hành. Theo sau điều đó là những qui định liên quan đến hành vi của dân chúng. Một trong những qui định ấy nói: “Ngươi không được... rủa sả người cai trị của dân ngươi” (22:28). Điều này chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời đã đặt họ dưới các quyền cai trị. Vì vậy, thậm chí vào thời Môi-se, chúng ta có thể đã nhận thấy rằng việc dân Y-sơ-ra-ên chống lại uy quyền là họ chống lại Đức Chúa Trời.
Mọi quốc gia trên thế giới đều có những nhà cai trị. Tuy họ không tin Đức Chúa Trời, và tuy toàn thể vương quốc của họ ở dưới [quyền] Sa-tan, nhưng nguyên tắc của uy quyền vẫn còn đó, [uy quyền] đã được Đức Chúa Trời thiết lập. Vương quốc của Y-sơ-ra-ên là vương quốc của Đức Chúa Trời. Tất nhiên, vua Đa-vít được Đức Chúa Trời lập nên. Nhưng vua của Phe-rơ-sơ cũng được Đức Chúa Trời lập nên (Ê-sai 45:1). Khi Chúa ở trên đất, Ngài cũng thuận phục chính quyền và thuận phục uy quyền của thầy tế lễ thượng phẩm. Đó là lý do tại sao Chúa trả thuế và nói rằng những gì thuộc về Sê-sa phải trả về Sê-sa. Khi Ngài bị thầy tế lễ thượng phẩm xét xử và thầy tế lễ ấy nhân danh Đức Chúa Trời mà truyền lệnh cho Ngài, thì Ngài đã phải vâng phục. Chúa công nhận họ là các uy quyền trên đất. Ngài không bao giờ cố khơi dậy một cuộc cách mạng.
Trong Rô-ma 13:4, Phao-lô cho chúng ta thấy rằng tất cả những nhà cai trị đều là đầy tớ của Đức Chúa Trời. Vào thời ấy, chính quyền ở trong tay người Rô-ma. Nói về mặt con người thì không cần thuận phục những kẻ ngoại xâm. Nhưng Phao-lô không bảo chúng ta phản loạn chống lại chính quyền nước ngoài. Không những chúng ta phải thuận phục đối với quốc gia và dân tộc của chính mình, mà còn phải thuận phục chính quyền tại bất cứ nơi nào chúng ta ở nữa. Tôi không thể không vâng phục chính quyền địa phương chỉ vì tôi thuộc về một quốc gia khác. Pháp luật không làm khiếp sợ những người tốt mà làm khiếp sợ những kẻ ác. Bất kể pháp luật của các quốc gia có khác nhau thế nào đi nữa thì tất cả đều vẫn bắt nguồn từ luật của Đức Chúa Trời. Nguyên tắc căn bản vẫn là thưởng người tốt và phạt kẻ xấu. Mỗi chính quyền đều có pháp luật riêng, và chức năng của chính quyền là duy trì và thi hành pháp luật ấy với mục đích là người tốt được thưởng và kẻ ác bị trừng trị. Họ không mang gươm giáo một cách vô ích. Tuy có các chính quyền nâng đỡ kẻ xấu và đàn áp người tốt, nhưng họ buộc phải thay đổi sự thật mà gọi xấu là tốt và tốt là xấu. Trong bất cứ trường hợp nào, họ cũng không thể nói rằng họ nâng đỡ người này người kia vì người ấy gian ác hay họ trừng trị người này người kia vì người ấy lương thiện. Cho đến ngày nay, mọi chính quyền đều duy trì nguyên tắc thưởng người tốt và phạt kẻ xấu. Nguyên tắc này không thể thay đổi được. Do đó, chúng ta nói rằng các chính quyền vẫn ủng hộ nguyên tắc của Đức Chúa Trời. Một ngày kia, khi kẻ bất pháp (Anti-christ) xuất hiện, hắn sẽ đảo lộn mọi uy quyền.Đó sẽ là thời điểm tận cùng của thế giới. Khi ấy người tốt sẽ thật sự bị xem là kẻ ác và kẻ ác được xem là người tốt. Người tốt sẽ bị giết và kẻ ác sẽ cai trị.
Có bốn dấu hiệu thuận phục đối với uy quyền trên đất: (1) nộp thuế cho người nào cần phải nộp, (2) đóng quan thuế cho người nào cần phải đóng, (3) kính sợ người nào cần phải kính sợ, và (4) tôn trọng người nào cần phải tôn trọng.
Đối với một Cơ-đốc-nhân, tuân giữ pháp luật không phải là thực hiện điều gì đó vì sợ bị trừng trị mà vì vận dụng lương tâm mình trước mặt Đức Chúa Trời. Nếu không thuận phục thì lương tâm người ấy sẽ lên án. Đó là lý do tại sao chúng ta phải học tập thuận phục chính quyền địa phương của mình. Con cái Đức Chúa Trời không thể chỉ trích hay nhạo báng chính quyền một cách khinh suất. Thậm chí một viên cảnh sát trên đường cũng là uy quyền được Đức Chúa Trời thiết lập. Người đó là viên chức của Đức Chúa Trời liên tục chăm lo đến chính vấn đề ấy. Khi đối diện với việc trả thuế thu nhập, thì thái độ của chúng ta thế nào? Chúng ta có xem chính quyền địa phương của mình là uy quyền của Đức Chúa Trời không? Chúng ta có thuận phục chính quyền ấy không? Nếu chưa từng gặp uy quyền thì con người không thể thuận phục. Anh em càng yêu cầu một người như vậy thuận phục thì người ấy càng khó thuận phục. 2 Phi-e-rơ 2:10 chỉ về “những kẻ buông theo xác thịt, miệt mài trong tư dục ô uế mà khinh dể bậc chủ quyền.Bọn đó táo tợn, bướng bỉnh, chẳng run sợ mà nhạo báng các bậc tôn trọng”. Có nhiều người mất đi quyền năng và cạn dần sự sống là do nhạo báng. Con người đừng để bị savào tình trạng vô chính phủ. Đức Chúa Trời xử lý một chính quyền bất chính thế nào không phải là mối quan tâm của chúng ta. Tất nhiên, khi chúng ta cầu nguyện để Đức Chúa Trời thi hành sự công chính của Ngài, thì đó là một vấn đề khác. Nhưng đối với chúng ta, bất cứ sự không vâng phục uy quyền nào cũng là không vâng phục uy quyền của Đức Chúa Trời. Nếu không thuận phục thì chúng ta thật ra đang củng cố nguyên tắc của Anti-christ. Khi huyền nhiệm của sự bất pháp hành động, thì chúng ta là những người kiểm chế hay là những người giúp đỡ nó?
Trong Gia Đình
Đức Chúa Trời đã thiết lập uy quyền của Ngài trong gia đình. Nhiều con cái Đức Chúa Trời không chú ý đúng mức đến vấn đề gia đình. Nhưng trong các Thư-tín, đặc biệt là trong Ê-phê-sô và Cô-lô-se, tức hai quyển sách có tính thuộc linh cao nhất, thì vấn đề gia đình vẫn không bị bỏ qua. Hai sách ấy nói đến sự thuận phục trong gia đình một cách cụ thể. Lơ là trong vấn đề này sẽ gây rắc rối trong sự phục vụ Đức Chúa Trời. 1 Ti-mô-thê và Tít là các sách về công tác, mà cũng nói đến gia đình, vì sợ gia đình ảnh hưởng đến công tác. 1 Phi-e-rơ là một quyển sách đặc biệt về vương quốc, và trong sách ấy chúng ta nhìn thấy rằng nổi loạn chống lại uy quyền trong gia đình là nổi loạn chống lại vương quốc. Khi con người đối diện uy quyền, thì các nan đề gia đình sẽ giảm bớt.
Đức Chúa Trời thiết lập người chồng làm uy quyền đại diện của Đấng Christ, và người vợ làm người đại diện cho hội-thánh. Trừ phi người vợ nhìn thấy uy quyền mà người chồng đại diện, tức uy quyền Đức Chúa Trời đã lập nên, thì nàng khó mà thuận phục. Người vợ phải nhận thấy rằng đó không phải là vấn đề chồng bà mà là vấn đề uy quyền Đức Chúa Trời. Tít 2:5 nói những thiếu phụ cần phải “thuận phục chồng, hầu cho lời của Đức Chúa Trời khỏi bị nhạo báng”. 1 Phi-e-rơ 3:1 nói: “Cũng vậy, hỡi người làm vợ, hãy thuận phục chồng mình, hầu cho nếu có người chồng nào không vâng phục lời, mà không [cần phải dùng đến] lời nói, họ cũng có thể nhờ cách ăn ở của vợ mà được chiếm hữu”. Câu 5 và 6 nói: “Vì cũng theo cách ấy mà các phụ nữ thánh khiết xưa kia, là những người đặt hi vọng nơi Đức Chúa Trời, từng trang sức mình, thuận phục chồng mình, như Sa-ra vâng phục Áp-ra-ham, gọi ông là chúa”.
Ê-phê-sô 6:1-3 nói: “Hỡi những người con, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa, vì điều đó là phải lẽ. ‘Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi’, là mạng lịnh thứ nhất có kèm theolời hứa, ‘Để ngươi được an lành và sống lâu trên đất’ ”. Trong Mười Mạng Lịnh, duy mạng lịnh này là có phần thưởng đặc biệt. Khi hiếu kính cha mẹ mình, thì người ấy sẽ được phước và sống lâu trên đất. Có lẽ nhiều người chết sớm vì họ không hiếu kính cha mẹ mình. Một số anh em xung đột với cha mẹ mình. Do đó, họ thường bị bệnh. Mãi cho đến khi họ vâng phục thì mới khỏe mạnh. Cô-lô-se 3:20 nói: “Những người làm con, hãy vâng phục cha mẹ mình trong mọi sự, vì đó là làm vui lòng Chúa”. Chính mình chúng ta phải thuận phục dưới uy quyền của cha mẹ. Điều này cũng đòi hỏi chúng ta trước hết phải nhìn thấy uy quyền của Đức Chúa Trời.
Các đầy tớ cần phải vâng phục chủ mình, cũng như vâng phục Chúa. Họ cần phải có thái độ sợ sệt và run rẩy, không dối trá hay xảo quyệt, chỉ làm để người ta thấy. Dù một người có thấy chủ mình hay không, người ấy vẫn phục vụ như vậy. Người ấy không nên chỉ phục vụ khi chủ mình thấy được, mà cần phải phục vụ theo lòng chân thành, không phải cho người ta mà là cho Chúa, vì chúng ta phục vụ Chúa Christ. 1 Ti-mô-thê 6:1 nói: “Bao nhiêu người đang ở dưới ách nô lệ đều nên xem chủ mình là đáng tôn trọng mọi mặt, kẻo danh Đức Chúa Trời và lời dạy dỗ của chúng ta bị nhạo báng”. Tít 2:9-10 nói: “Hãy khuyên các nô lệ phải thuận phục chủ mình trong mọi sự, làm cho chủ mình thật hài lòng, đừng cãi lại, đừng ăn cắp, nhưng bày tỏ lòng trung thành hoàn toàn để họ có thể làm tăng vẻ đẹp cho sự dạy dỗ của Đấng Cứu Rỗi chúng ta là Đức Chúa Trời trong mọi sự”. Trước hết chính anh em phải duy trì uy quyền của Chúa, rồi những người khác sẽ duy trì uy quyền của Chúa, là điều đang ở với anh em. Khi nói những lời này, Phao-lô và Phi-e-rơ vẫn ở dưới Đế-quốc Rô-ma mà việc mua bán nô lệ rất thịnh hành. Chế độ nô lệ đúng hay sai là một việc khác, nhưng Đức Chúa Trời đã ấn định nô lệ cần phải vâng phục chủ mình.
Trong Hội-Thánh
Đức Chúa Trời có các uy quyền được Ngài chỉ định trong hội-thánh. Họ là các trưởng lão hướng dẫn tốt và là những người lao khổ trong lời và việc dạy dỗ. Đức Chúa Trời truyền mọi người phải thuận phục họ. Ngoài ra, tất cả những người trẻ tuổi cần phải thuận phục những người lớn tuổi. 1 Phi-e-rơ 5:5 nói: “Cũng vậy, hỡi người trẻ tuổi, hãy thuận phục người lớn tuổi”. Chương 5 nói đến những người tuổi tác lớn hơn, trong khi 1 Cô-rin-tô 16:15 nói đến nhà Sê-pha-na là “trái đầu mùa của A-chai (chỉ về mức độ thâm niên theo thứ tự thời gian được cứu rỗi), và họ đã tận tâm phục vụ các thánh đồ”.Sê-pha-na vô cùng khiêm nhường và tận tâm phục vụ các thánh đồ. Trong câu 16, vị sứ đồ nói thêm rằng: “Anh em hãy thuận phục những người như vậy, cùng cả mọi người đồng công đồng lao”.
Trong hội-thánh, người nữ cũng phải thuận phục người nam. 1 Cô-rin-tô 11:3 nói: “Tôi muốn anh em biết rằng Đấng Christ là đầu mỗi người nam, người nam là đầu của người nữ, và Đức Chúa Trời là đầu của Đấng Christ”. Đức Chúa Trời chỉ định người nam làm uy quyền là một biểu tượng về Đấng Christ và người nữ thuận phục là một biểu tượng về hội-thánh. Do đó, phụ nữ cần phải có uy quyền ở trên đầu vì cớ các thiên sứ.Hơn nữa, người phụ nữ phải thuận phục chồng mình. 1 Cô-rin-tô 14:34 nói: “Phụ nữ phải im lặng giữa hội-thánh; vì không được phép nói tại đó, nhưng phải thuận phục cũng như luật pháp dạy”. Nếu muốn học hỏi điều gì thì họ có thể hỏi chồng mình ở nhà. Có lẽ một vài chị em hỏi rằng: “Trường hợp chồng tôi không biết thì sao?” Nếu Đức Chúa Trời truyền chị em hỏi thì hãy đơn giản hỏi đi. Nếu chị em kiên trì hỏi thì một thời gian sau, chồng của chị em sẽ biết. Vì bị hỏi nên người chồng phải tìm hiểu để trả lời. Nhờ vậy, chị em tự giúp đỡ mình và giúp đỡ chồng mình nữa. 1 Ti-mô-thê 2:11 cũng nói đến việc phụ nữ phải học biết “im lặng trong sự thuận phục hoàn toàn”. Phụ nữ không được phép hành quyền trên người nam, vì A-đam được tạo ra trước rồi mới đến Ê-va (cc. 12-13).
Giữa vòng con cái Đức Chúa Trời, mọi người cần phải thắt lưng bằng tính khiêm nhường và cần phải thuận phục lẫn nhau. Một số người thích khoe khoang địa vị hay uy quyền của mình một cách tự phụ. Điều đó thật thấp hèn và đáng xấu hổ.
Không những Đức Chúa Trời đã lập nên uy quyền đại diện của Ngài trong vũ trụ, mà Ngài cũng thiết lập uy quyền của Ngài trong thế giới thuộc linh. 2 Phi-e-rơ 2:10-11 nói: “Đặc biệt là những người buông theo xác thịt trong dục vọng ô uế, và khinh dể chủ quyền. Họ táo tợn, theo ý riêng, nhạo báng các bậc đáng tôn kính mà không hề run rẩy; dầu các thiên sứ có sức mạnh và quyền năng lớn hơn, vẫn không quở trách mà xét đoán họ trước mặt Chúa”. Tại đây, chúng ta có một vấn đề rất quan trọng. Trong vũ trụ thuộc linh có các bậc chủ quyền cùng bậc tôn trọng, và Đức Chúa Trời thậm chí đã đặt các thiên sứ ở dưới họ. Mặc dầu một số bậc chủ quyền và bậc tôn trọng đã thất bại, ngày nay các thiên sứ vẫn không dám nhạo báng họ, vì đã có lần các bậc chủ quyền và bậc tôn trọng ấy là các uy quyền trên họ. Ngày nay, tuy một số bậc chủ quyền và bậc tôn trọng đã sa ngã, nhưng các thiên sứ khác chỉ có thể nhắc đến những sự kiện ấy.Họ không thể đưa ra lời xét đoán của mình. Nếu thêm lời xét đoán của mình vào các sự kiện thì họ đang nhạo báng. Giu-đe câu 9 nói: “Khi thiên sứ trưởng Mi-ca-ên giành với ma quỉ mà tranh luận về thi hài của Môi-se, còn chẳng dám lấy lời nhạo báng mà tố cáo hắn, chỉ nói rằng: ‘Nguyện Chúa quở trách ngươi!’ ” Đã có lần, Đức Chúa Trời thiết lập Sa-tan đứng đầu các thiên sứ trưởng. Là một trong các thiên sứ trưởng, Mi-ca-ên từng ở dưới quyền của Sa-tan. Một ngày kia, Môi-se sẽ sống lại. Có lẽ sự kiện ấy sẽ xảy ra trên núi biến hình. Mi-ca-ên theo mạng lịnh của Đức Chúa Trời tìm kiếm thân thể của Môi-se, nhưng Sa-tan đã ngăn cản thiên sứ ấy. Mi-ca-ên có thể chống lại linh phản loạn bằng một linh phản loạn. Mi-ca-ên có thể thẳng thừng quở trách Sa-tan, nhưng [thiên sứ ấy] không dám làm như vậy. Mi-ca-ên chỉ nói: “Nguyện Chúa quở trách ngươi”. (Đối với loài người thì khác. Đức Chúa Trời chưa bao giờ đặt loài người dưới quyền Sa-tan.Chúng ta đã bị sa ngã dưới năng lực của hắn; chúng ta chưa bao giờ bị đặt dưới uy quyền của hắn). Cùng một nguyên tắc ấy áp dụng cho Đa-vít. Ông từng ở dưới [quyền] Sau-lơ là uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời; vì vậy, ông không dám lật đổ uy quyền trước kia của Sau-lơ. Một uy quyền đại diện trong các vấn đề thuộc linh đáng được tôn trọng biết bao! Uy quyền ấy không thể bị nhạo báng. Những người nhạo báng sẽ bị mất đi năng lực thuộc linh của mình.
Một khi chạm đến uy quyền, anh em sẽ nhìn thấy uy quyền của Đức Chúa Trời ở bất cứ nơi nào anh em đến. Câu hỏi đầu tiên anh em cần phải hỏi là mình cần phải thuận phục ai và lắng nghe lời nói của ai. Một Cơ-đốc-nhân cần phải có hai loại cảm nhận: một là cảm nhận về tội và hai là cảm nhận về uy quyền. Khi hai anh em đến với nhau thảo luận và suy xét các ý kiến, cả hai đều có thể phát biểu. Nhưng khi đến lúc quyết định, thì chỉ một người đưa ra lời phán quyết. Công-vụ chương 15 ghi chép về một hội đồng lớn. Mọi người dầu già hay trẻ đều có quyền tự do đứng lên phát biểu. Mọi anh em đều có thể phát biểu. Sau đó, Phi-e-rơ và Phao-lô nói. Rồi, Gia-cơ quyết định. Phi-e-rơ và Phao-lô đưa ra những sự kiện; Gia-cơ quyết định. Thậm chí giữa vòng các trưởng lão và sứ đồ cũng có thứ bậc. Phao-lô nói ông là người thấp kém nhất giữa vòng các sứ đồ (1 Côr. 15:9). Ngay cả giữa vòng các sứ đồ cũng có sự phân biệt lớn nhỏ. Đây không phải là vấn đề có người nào đó sắp xếp chúng ta. Trái lại, điều này liên quan đến việc [chúng ta] nhận biết vị trí của mình. Đây là một chứng cớ tốt đẹp nhất và là một hình ảnh kỳ diệu nhất. Điều này làm cho Sa-tan run sợ, và điều này sẽ lật đổ vương quốc của hắn. Khi tất cả chúng ta đi con đường thuận phục, thì Đức Chúa Trời sẽ phán xét thế gian.
CHÚNG TA CẦN PHẢI CÓ SỰ TIN TƯỞNG
KHI THUẬN PHỤC UY QUYỀN ĐẠI DIỆN
Việc Đức Chúa Trời thiết lập uy quyền [đại diện] cho chính Ngài thật là một sự liều lĩnh nguy hiểm! Ngài phải chịu khổ biết bao nếu uy quyền đại biểu mà Ngài đã lập nên lại đại diện cho Ngài một cách sai trật! Nhưng Đức Chúa Trời tin tưởng vào uy quyền Ngài thiết lập. Việc chúng ta tin tưởng khi thuận phục các uy quyền đại diện còn dễ dàng hơn nhiều so với việc Đức Chúa Trời phải tin tưởng khi thiết lập các uy quyền ấy. Nếu Đức Chúa Trời tin tưởng giao uy quyền cho con người, thì chúng ta không tin tưởng thuận phục con người sao? Chúng ta cần phải tin tưởng trong việc thuận phục uy quyền mà Đức Chúa Trời tin tưởng khi thiết lập. Nếu có lỗi lầm thì đó không phải là lỗi lầm của chúng ta. Đó là lỗi lầm của uy quyền. Chúa nói rằng mỗi người cần phải thuận phục uy quyền ở trên mình (Rô. 13:1). Phần của Đức Chúa Trời khó hơn phần của chúng ta. Khi Đức Chúa Trời tin tưởng con người, thì chúng ta cũng có thể làm như vậy. Khi Đức Chúa Trời tin tưởng về sự tín nhiệm của Ngài, thì chúng ta cần phải hơn thế nữa.
Lu-ca 9:48 nói: “Hễ ai vì danh Ta mà tiếp nhận đứa bé này, tức là tiếp nhận Ta; còn hễ ai tiếp nhận Ta, tức là tiếp nhận Đấng đã sai Ta”. Việc Chúa đại diện cho Cha không có vấn đề gì cả, vì Cha giao phó mọi sự cho Ngài. Chúng ta tin nơi Ngài có nghĩa là chúng ta tin nơi Cha. Nhưng theo cái nhìn của Chúa thì thậm chí một đứa trẻ cũng có thể đại diện cho Chúa. Chúa có thể giao thác chính Ngài cho một đứa trẻ. Đó là lý do tại sao Chúa nói tiếp nhận một đứa trẻ nhỏ là tiếp nhận Chúa. Trong Lu-ca 10:16, Chúa sai các môn đồ ra đi và nói: “Ai nghe các ngươi, ấy là nghe Ta; ai khước từ các ngươi, ấy là khước từ Ta”. Mọi lời nói, huấn lệnh, quyết định và ý kiến của các môn đồ đều đại diện cho Chúa. Chúa rất tự tin đến nỗi đã giao phó mọi uy quyền cho các môn đồ. Bất cứ điều gì họ nói trong danh Chúa, Ngài đều công nhận. Vì vậy, khước từ các môn đồ cũng giống như khước từ Chúa. Chúa có thể bình an trọn vẹn mà giao phó chính Ngài cho họ. Ngài không nói rằng họ nên cẩn trọng trong lời nói hay không nên sai phạm trong lời nói khi họ ra đi. Chúa tuyệt nhiên không quan tâm đến chuyện gì sẽ xảy ra nếu như họ phạm sai lầm. Chúa có đức tin và can đảm để tin tưởng giao uy quyền cho các môn đồ.
Nhưng những người Do-thái lại không như vậy. Họ nghi ngờ và nói: “Làm sao có thể vậy được? Làm thế nào tôi biết mọi điều Ngài nói là đúng? Chúng tôi cần suy gẫm thêm!” Họ không dám tin. Họ rất e ngại. Giả sử anh em đang làm việc với tư cách là một ủy viên quản trị trong một công ty, và anh em sai một người đi và nói: “Hãy làm hết sức mình. Bất cứ điều gì anh làm, tôi sẽ công nhận. Khi người ta nghe anh, thì họ nghe tôi”.Nếu là trường hợp đó thì có lẽ anh em sẽ yêu cầu người ấy gởi về một bản báo cáo hằng ngày về công việc của mình, vì sợ có lầm lỗi. Nhưng Chúa có thể ủy nhiệm chúng ta làm những đại diện của Ngài. Đó thật là một sự tin cậy lớn lao biết bao! Nếu Chúa tin cậy uy quyền đại diện của Ngài như vậy thì chúng ta cần phải tin cậy uy quyền ấy còn hơn nữa.
Một số người có thể nói: “Trường hợp uy quyền phạm sai lầm thì sao?” Nếu Đức Chúa Trời dám tin tưởng những người được ủy nhiệm làm uy quyền, thì chúng ta cũng cần phải có đủ can đảm để thuận phục. Dầu uy quyền có phạm lỗi lầm hay không thì cũng không liên quan gì đến chúng ta. Nói cách khác, uy quyền đại diện đúng hay sai là một vấn đề mà người ấy phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước mặt Chúa. Những người thuận phục uy quyền chỉ cần thuận phục một cách triệt để. Cho dù vì thuận phục mà họ phạm lỗi, Chúa sẽ không kể đó là tội. Chúa sẽ bắt uy quyền đại diện chịu trách nhiệm về tội ấy. Không vâng phục là phản loạn. Về điều này, người thuận phục phải chịu trách nhiệm trước mặt Đức Chúa Trời. Do đó không có yếu tố con người liên quan đến sự thuận phục. Nếu chúng ta chỉ thuận phục một con người thì ý nghĩa của sự thuận phục bị mất đi. Hơn nữa, vì Đức Chúa Trời đã thiết lập uy quyền đại diện của Ngài rồi nên Ngài phải duy trì uy quyền ấy. Những người khác có đúng hay không là việc của họ. Tôi có đúng hay không là việc của tôi. Mỗi người phải chịu trách nhiệm đối với Chúa về chính mình.
KHƯỚC TỪ UY QUYỀN ĐẠI DIỆN
LÀ KHƯỚC TỪ CHÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI
Toàn bộ ẩn dụ trong Lu-ca 20:9-16 là nói về uy quyền đại diện. Đức Chúa Trời cho người làm vườn thuê vườn nho, nhưng không đích thân đến thâu tiền thuê. Lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba, Ngài đều sai đầy tớ của Ngài đến; lần thứ tư Ngài sai Con Ngài đến. Tất cả những người ấy đều là đại diện của Ngài. Đức Chúa Trời có thể tự mình đến, nhưng thay vào đó Ngài sai những đại diện của Ngài đến. Theo cái nhìn của Đức Chúa Trời, tất cả những người khước từ các đầy tớ của Ngài đều khước từ Ngài.Chúng ta không thể lắng nghe lời của Đức Chúa Trời, nhưng lại khước từ lời từ uy quyền đại diện của Ngài. Chúng ta phải thuận phục uy quyền của Đức Chúa Trời cũng như phải thuận phục uy quyền đại diện của Ngài. Chúa giao phó uy quyền của Ngài cho các uy quyền đại diện trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, ngoại trừ trong Công-vụ 9:4-15, là phân đoạn nói đến uy quyền trực tiếp của Chúa. Có thể nói rằng hầu hết mọi uy quyền đều được giao phó cho con người. Nhiều người nghĩ điều này có nghĩa là thuận phục con người. Nhưng nếu đã từng gặp uy quyền thì anh em sẽ nhận biết đó là uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời. Một người không cần phải khiêm nhường để thuận phục uy quyền trực tiếp của Đức Chúa Trời. Nhưng để thuận phục uy quyền đại diện thì phải có sự khiêm nhường và sự tan vỡ. Chỉ nhờ hoàn toàn để xác thịt sang một bên, một người mới có thể chấp nhận và vâng phục uy quyền đại diện. Chúng ta phải liên tục nhìn biết rằng Đức Chúa Trời không đích thân đến thâu tiền cho thuê. Đức Chúa Trời sai những người đại diện đến thâu tiền thuê. Chúng ta nên làm gì đối với Đức Chúa Trời? Chúng ta có nên chờ Đức Chúa Trời đích thân đến không? Khi Ngài đích thân đến, đó không phải để thâu tiền thuê mà để phán xét.
Một lần kia, Chúa chỉ cho Phao-lô thấy rằng việc ông chống cự Chúa là đá vào gậy nhọn (Công 26:14). Khi nhìn thấy ánh sáng, thì Phao-lô cũng nhìn thấy uy quyền nữa. Ông nói: “Thưa Chúa, tôi phải làm chi?” (22:10). Đó là Phao-lô tự đặt mình trực tiếp ở dưới chính uy quyền của Chúa. Nhưng sau đó Chúa đặt Phao-lô dưới uy quyền đại diện mà Ngài chỉ định. Chúa nói: “Hãy đứng dậy, vào thành phố, ngươi sẽ được chỉ bảo những điều phải làm” (9:6). Từ đó trở đi, Phao-lô biết đến uy quyền. Ông không nói rằng: “Rất hiếm khi tôi gặp chính Chúa; hãy để Ngài cho tôi biết phải làm gì”. Khi ấy, Chúa đặt Phao-lô ở dưới một uy quyền đại diện. Chúa không thích trực tiếp cho Phao-lô biết. Từ khi tin Chúa đến nay, chúng ta đã thuận phục bao nhiêu uy quyền đại diện? Chúng ta thuận phục họ bao nhiêu lần? Trước kia, chúng ta không có ánh sáng, nhưng ngày nay chúng ta phải nghiêm túc nhìn thấy uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời. Chúng ta đã nói đến sự thuận phục trong năm hay mười năm, nhưng chúng ta đã thuận phục uy quyền gián tiếp được bao nhiêu? Điều Đức Chúa Trời nhìn đến không phải là uy quyền trực tiếp của riêng Ngài. Ngài nhìn đến các uy quyền gián tiếp được Ngài thiết lập. Tất cả những ai không thuận phục uy quyền gián tiếp của Đức Chúa Trời thì không thể thuận phục uy quyền trực tiếp của Ngài.
Để giải thích rõ ràng, chúng tôi đã phân biệt giữa uy quyền trực tiếp và uy quyền gián tiếp. Thật ra, theo cái nhìn của Đức Chúa Trời thì chỉ có một uy quyền. Chúng ta không thể xem thường uy quyền trong gia đình hay trong hội-thánh. Chúng ta không thể xem thường bất cứ uy quyền đại diện nào. Tuy Phao-lô bị mù, nhưng dường như ông đang mở to cặp mắt trông đợi A-na-nia. Khi nhìn thấy A-na-nia, thì như thể ông nhìn thấy Chúa. Khi lắng nghe A-na-nia, thì như thể ông lắng nghe Chúa. Uy quyền đại diện liên quan đến những vấn đề nghiêm trọng như vậy đến nỗi nếu xúc phạm đến uy quyền ấy thì chúng ta bị rắc rối với Đức Chúa Trời. Anh em khước từ ánh sáng từ uy quyền đại diện mà lại hi vọng nhận được ánh sáng từ Chúa là điều không thể xảy ra được. Phao-lô không nói: “Vì Cọt-nây đã mời Phi-e-rơ đến nên tôi cũng xin Đức Chúa Trời sai Phi-e-rơ hay Gia-cơ đến. Tôi không muốn người anh em nhỏ bé này là A-na-nia làm uy quyền trên tôi”. Việc chúng ta khước từ uy quyền đại diện và trực tiếp thuận phục Đức Chúa Trời là điều không thể xảy ra được. Đó là vì khước từ uy quyền đại diện là khước từ chính Chúa. Chỉ những người ngu dại mới muốn uy quyền đại diện thất bại. Ai không thích người đại diện của Đức Chúa Trời cũng không thích chính Đức Chúa Trời. Bản chất phản loạn của con người thích thuận phục uy quyền trực tiếp của Đức Chúa Trời, nhưng khước từ uy quyền đại diện được Đức Chúa Trời chỉ định.
ĐỨC CHÚA TRỜI TÔN TRỌNG UY QUYỀN ĐẠI DIỆN CỦA NGÀI
Dân-số Ký chương 30 nói đến sự hứa nguyện của một người nữ. Khi một người nữ còn trẻ ở trong nhà cha mình, cha nàng phải im lặng chấp nhận lời hứa nguyện ấy trước khi nó trở nên hiệu nghiệm. Nếu người cha không chấp nhận thì lời hứa nguyện ấy sẽ không hiệu nghiệm. Nếu nàng lập gia đình thì lời hứa nguyện phải được người chồng im lặng chấp nhận. Nếu người chồng không công nhận thì lời hứa nguyện ấy bị hủy bỏ (cc. 3-8). Khi uy quyền đại diện bằng lòng, thì uy quyền trực tiếp thi hành điều đó. Nếu uy quyền đại diện không công nhận điều đó thì uy quyền trực tiếp cũng không nhìn nhận điều đó. Đức Chúa Trời hài lòng đối với việc có uy quyền đại diện. Ngài cũng tôn trọng uy quyền đại diện. Khi một người nữ ở dưới uy quyền của chồng mình, hễ người chồng không chấp nhận lời hứa nguyện của nàng thì Đức Chúa Trời sẽ không ủng hộ lời hứa nguyện ấy. Đức Chúa Trời chỉ muốn nàng thuận phục uy quyền. Nhưng nếu uy quyền đại diện sai trật thì Đức Chúa Trời sẽ xử lý uy quyền ấy; người ấy phải chịu trách nhiệm về hành động sai trật của vợ mình, còn người vợ thuận phục thì vô tội (c. 15). Chương này cho chúng ta biết rằng con người không thể vượt quá uy quyền đại diện để thuận phục uy quyền trực tiếp. Vì Đức Chúa Trời đã trao cho uy quyền của Ngài nên thậm chí chính Ngài cũng không vượt quá uy quyền đại diện của Ngài. Thậm chí chính Đức Chúa Trời cũng bị uy quyền đại diện của Ngài ràng buộc. Đức Chúa Trời thiết lập [điều gì] qua việc thiết lập uy quyền đại diện, và Ngài hủy bỏ [điều gì] qua việc hủy bỏ uy quyền đại diện. Đức Chúa Trời muốn duy trì uy quyền đại diện của Ngài. Vì vậy, chúng ta chỉ có một con đường đối với uy quyền đại diện, đó là con đường thuận phục.
Toàn bộ Tân Ước ủng hộ uy quyền đại diện. Chỉ trong Công-vụ 5:29, khi Công-hội bắt bớ Phi-e-rơ bằng cách cấm ông giảng trong danh Chúa, Phi-e-rơ mới nói: “Cần phải vâng phục Đức Chúa Trời hơn là vâng phục người ta”. Chỉ khi nào uy quyền đại diện rõ ràng thách thức mạng lịnh của Đức Chúa Trời và xúc phạm đến thân-vị của Chúa thì chúng ta mới có thể cự tuyệt uy quyền đại diện. Vậy nên, loại lời nói như vậy chỉ có thể nói ra dưới một tình huống như vậy. Còn trong những trường hợp khác, chúng ta phải thuận phục uy quyền đại diện trong bất cứ hoàn cảnh nào. Chúng ta không thể khinh suất. Chúng ta đừng thực hiện sự thuận phục bằng hành động phản loạn.
CHƯƠNG TÁM
UY QUYỀN TRONG THÂN THỂ
Kinh Thánh: 1 Côr. 12:12-21; Math. 18:15-18
THÂN THỂ LÀ NƠI BÀY TỎ CAO NHẤT VỀ UY QUYỀN
Biểu hiện cao nhất của uy quyền Đức Chúa Trời thì ở trong Thân Thể Đấng Christ, tức hội-thánh. Mặc dầu Đức Chúa Trời đã thiết lập hệ thống uy quyền trên thế giới, nhưng không mối liên hệ nào đối với chính quyền hay giữa cha con, chồng vợ và chủ tớ có thể biểu hiện uy quyền một cách hoàn hảo. Tuy Đức Chúa Trời đã lập nên nhiều uy quyền trên thế giới, nhưng chúng chỉ là các hệ thống uy quyền được Đức Chúa Trời lập nên. Con người có thể thuận phục chúng cách bề ngoài mà trong lòng không [thật sự] thuận phục. Ví dụ, nếu chính quyền thông qua một sắc lịnh, người ta có thể vâng theosắc lịnh ấy từ trong tấm lòng, hay họ có thể vâng theo mà không phải tự đáy lòng.Không cách nào nhận ra [họ] đang vâng phục như thế nào. Cũng vậy, không cách nào nói được một đứa trẻ thuận phục cha mẹ từ tấm lòng hay đó chỉ nông cạn và có tính cách hành vi [bề ngoài]. Vậy nên, con cái thuận phục cha mẹ mình hay đầy tớ thuận phục chủ mình không thể tiêu biểu cho sự thuận phục uy quyền, huống chi là việc người ta thuận phục chính quyền. Tất nhiên, nếu không có sự thuận phục thì không có sự thiết lập uy quyền của Đức Chúa Trời. Thuận phục bên ngoài mà không có sự tương ứng bên trong thì vẫn không thiết lập được uy quyền của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, nhiều loại thuận phục căn cứ trên mối quan hệ giữa con người với con người — ví dụ, cha với con, hay chủ với tớ. Nhưng chủ tớ có thể tách rời, và cha con cũng vậy. Vậy nên, chúng ta không nhìn thấy sự thuận phục tuyệt đối và hoàn hảo trong các mối liên hệ ấy.
Chỉ Đấng Christ và hội-thánh mới có biểu hiện cao nhất về uy quyền và sự thuận phục. Đức Chúa Trời đã không thiết lập hội-thánh để làm cho hội-thánh trở nên một tổ chức mà làm cho trở nên Thân Thể Đấng Christ. Chúng ta nghĩ rằng hội-thánh là sự tập hợp các tín đồ có cùng một đức tin với nhau, hay đó là một sự tụ họp lại với nhau trong tình yêu thương. Nhưng Đức Chúa Trời lại thấy một cách khác. Hội-thánh không chỉ là một sự đồng tâm nhất trí trong đức tin hay tình yêu thương, mà hội-thánh còn là một thân thể. Hội-thánh là Thân Thể của Đấng Christ, và Đấng Christ là Đầu của hội-thánh.Cha con, chủ tớ hay ngay cả vợ chồng cũng có thể bị tách rời, nhưng thân thể và đầu không bao giờ có thể tách ra, mà mãi mãi được kết hiệp làm một. Tương tự như vậy, Đấng Christ và hội-thánh không bao giờ có thể tách rời nhau. Đối với Đấng Christ và hội-thánh có một sự thuận phục tuyệt đối và một uy quyền tuyệt đối vượt trổi hơn mọi uy quyền và mọi sự thuận phục khác. Dù cha mẹ yêu thương con cái, họ vẫn có thể phạm lỗi. Họ có thể lạm dụng uy quyền của mình. Cũng vậy, uy quyền của một người chủ cũng có thể sai trật. Trên thế giới, không những sự thuận phục bất toàn, mà uy quyền cũng bất toàn. Do đó, Đức Chúa Trời phải thiết lập một uy quyền tuyệt đối và một sự thuận phục hoàn toàn, là Đấng Christ và hội-thánh, tức Đầu và Thân Thể. Có một số cha mẹ làm hại con cái mình; có những người chồng làm hại vợ mình; có những người chủ làm hại đầy tớ mình; và có những người cai trị làm hại dân mình. Nhưng không có cái đầu nào lại làm hại thân thể của chính nó. Vậy nên, uy quyền của đầu không thể sai trật, mà hoàn hảo. Hãy nhìn xem sự thuận phục của thân thể đối với đầu; sự thuận phục ấy rất hoàn hảo. Hễ đầu mong muốn điều gì thì ngón tay sẽ chuyển động. Không cần đến lời nói; không cần phải bắt buộc. Mọi sự đều rất hài hòa. Ý chỉ của Đức Chúa Trời là chúng ta thuận phục cách hoàn toàn. Chúng ta phải được Đức Chúa Trời mang đến một tình trạng giống như thân thể thuận phục đầu. Chỉ khi ấy Đức Chúa Trời mới thỏa lòng.Điều này không thể được tiêu biểu bởi [mối liên hệ] vợ chồng và những liên hệ tương tự như vậy. Uy quyền thuộc về Ngài, và sự thuận phục cũng thuộc về Ngài. Uy quyền và sự thuận phục là một điều. Không phải như thế gian, là nơi mà uy quyền và sự thuận phục là hai điều khác biệt. Thân thể muốn chuyển động thì không cần đầu phải dùng hết sức mạnh mà truyền lệnh. Ngay khi một ý tưởng xuất hiện thì thân thể sẽ chuyển động.Trong điều này có sự hòa hợp hoàn toàn. Nếu chúng ta chỉ có thể thuận phục đến mức độ như con cái thuận phục cha mẹ hay vợ thuận phục chồng, thì Đức Chúa Trời sẽ không thỏa lòng. Đức Chúa Trời mong muốn sự thuận phục của chúng ta cũng như thân thể thuận phục đầu. Đó không phải là một sự thuận phục bởi ép buộc, như được thấy tại các quốc gia. Nhưng, đó là sự thuận phục của thân thể đối với đầu. Ngay khi đầu có một ý định nhỏ thì có một sự thuận phục hài hòa.
Nếu thường xuyên thuận phục Đức Chúa Trời, anh em sẽ nhận thấy rằng mạng lịnh và ý chỉ của Đức Chúa Trời hoàn toàn khác biệt. Mạng lịnh của Ngài là một lời ra từ miệng Ngài, và ý chỉ của Ngài là một ý niệm ra từ lòng Ngài. Một mạng lịnh phải được phát biểu, nhưng một ý chỉ không cần phát biểu. Chúa Giê-su không những thuận phục đối với lời Đức Chúa Trời mà còn thuận phục đối với ý chỉ của Ngài. Nơi nào có một ý chỉ thì Chúa chuyển động và hành động. Đức Chúa Trời phải hành động để đem vào trong Đấng Christ và hội-thánh một mối liên hệ giống như mối liên hệ giữa Đấng Christ và Cha. Đức Chúa Trời phải hành động trong chúng ta cho đến khi chúng ta có thể thuận phục Đấng Christ như Đấng Christ thuận phục Đức Chúa Trời. Trong phần thứ nhất của công tác Ngài, Đức Chúa Trời lập chính Ngài làm Đầu của Đấng Christ. Trong phần thứ hai của công tác Ngài, Đức Chúa Trời lập Đấng Christ làm Đầu của hội-thánh. Ngài phải hành động cho đến khi có sự thuận phục mà thậm chí không cần đến Thánh Linh xử lý.Hễ Ngài có một nỗi ao ước thì lập tức chúng ta sẽ vâng phục. Trong phần thứ ba của công tác Ngài, Đức Chúa Trời sẽ làm cho các vương quốc của thế gian trở nên vương quốc của Chúa và của Đấng Christ Ngài. Phần thứ nhất đã được hoàn thành rồi, và phần thứ ba chưa xảy ra. Ngày nay chúng ta đang ở phần giữa. Nếu công tác trong phần thứ hai chưa hoàn thành thì công tác trong phần thứ ba không thể bắt đầu. Chúng ta ở đây thuận phục và để Đức Chúa Trời tự do hành động, hay chúng ta ở đây bất tuân và cản trở Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời chưa bao giờ có được uy quyền trong vũ trụ. Nơi mà uy quyền của Ngài sẽ nhìn thấy sự thành công trọn vẹn và nơi mà tình thế sẽ được xoay chuyển là hội-thánh. Hội-thánh là phần giữa; đó là bước ngoặt. Do đó, Đức Chúa Trời để dành vinh quang lớn lao nhất cho chúng ta. Nếu không nhìn thấy uy quyền thì không có cách nào tiếp tục tiến lên. Nếu vấn đề này chưa được giải quyết trong chúng ta thì sẽ không được giải quyết trong những người khác. Tất cả chúng ta đều chịu trách nhiệm biểu hiện uy quyền.
THÂN THỂ THUẬN PHỤC ĐẦU LÀ ĐIỀU TỰ PHÁT VÀ HÒA HỢP NHẤT
Ngày nay Đức Chúa Trời đã làm sẵn mọi sự rồi. Thân Thể và Đầu đã có cùng một sự sống và bản chất rồi. Vì vậy, sự thuận phục rất tự phát, trong khi không thuận phục thì hơi kỳ lạ. Ví dụ, nếu bàn tay đưa lên theo ý muốn của đầu thì điều đó không có gì lạ cả. Nhưng nếu bàn tay không thể chuyển động thì đó là một chuyện lạ. Có lẽ bàn tay bị bệnh. Linh sự sống mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta cũng giống như Linh ở trong Chúa. Cũng vậy, sự sống và bản chất mà Ngài ban cho chúng ta giống như sự sống và bản chất ở trong Chúa. Một lần nữa, ở đây, sự không hòa hợp hay bất tuân không thể xảy ra. Một số chuyển động trong thân thể chúng ta có ý thức, trong khi những chuyển động khác thì vô thức. Sự hiệp một của thân thể đối với đầu không những tùy thuộc vào sự thuận phục có ý thức mà còn tùy thuộc vào sự thuận phục một cách vô thức. Điều này cũng giống như việc hít thở. Có thể có loại hít thở sâu cách có ý thức hoặc có thể có loại hít thở bình thường, tự phát và không có ý thức. Điều đó cũng giống như tim đập mà không có ý thức. Không cần phải truyền lệnh; tự động quả tim cứ tiếp tục đập. Đó là sự thuận phục trong sự sống. Thân thể mà thuận phục đầu thì không còn sự ồn ào, ép buộc và xích mích. Mọi sự đều hài hòa. Một số người chỉ phục tùng những mạng lịnh thì vẫn chưa đủ. Trong những mạng lịnh là ý chỉ, và trong ý chỉ là luật sự sống. Chỉ khi nào một người thuận phục luật sự sống thì sự thuận phục của người ấy mới hoàn hảo. Nếu sự thuận phục không giống như thân thể thuận phục đầu thì không thể gọi là sự thuận phục. Sự thuận phục của một số người thật miễn cưỡng đến nỗi hành động ấy không thể được xem là sự thuận phục.
Chúa đã đặt chúng ta vào Thân Thể. Tại đây, sự liên hiệp thật hoàn toàn, và sự thuận phục thật hoàn hảo. Thật là một điều kỳ diệu, thậm chí tâm trí của Thánh Linh có thể được các chi thể hướng dẫn. Không thể nào tách rời hai chi thể khỏi các chi thể khác để làm cho chúng thành một tổng thể riêng biệt. Một sự hòa hợp hiện hữu giữa các chi thể một cách tự phát. Thậm chí không cần phải suy nghĩ về sự thuận phục ấy. Sự hòa hợp của nó vượt quá lời mô tả của con người, và sự thuận phục uy quyền của nó là điều hoàn hảo nhất có thể tìm thấy được. Do đó, chúng ta không thể làm một chi thể bệnh hoạn, tức một chi thể làm ồn ào và gây xích mích. Chúng ta đang sống trong sự hành động của uy quyền Đức Chúa Trời; cần phải có một sự thuận phục rất tự nhiên.Hội-thánh không chỉ là nơi tương giao của các anh chị em, mà còn là nơi biểu hiện uy quyền.
KHƯỚC TỪ UY QUYỀN TRONG CÁC CHI THỂ
LÀ KHƯỚC TỪ ĐẦU
Uy quyền trong Thân Thể đôi khi không được biểu hiện một cách trực tiếp mà được biểu hiện một cách gián tiếp. Không những thân thể thuận phục đầu, mà các chi thể của thân cũng thuận phục và giúp đỡ lẫn nhau. Tay trái và tay phải không có mối tương giao trực tiếp với nhau. Đầu chuyển động tay phải, và chuyển động tay trái. Tay trái không điều khiển tay phải, cũng như tay phải không điều khiển tay trái. Bàn tay không ra lịnh cho mắt phải nhìn thấy, mà chỉ báo cho đầu biết. Sau đó, đầu hướng dẫn cặp mắt để nhìn. Bất kể các chi thể có cách xa đầu bao nhiêu đi nữa, mối liên hệ của chúng với đầu cũng như nhau, và mọi công tác của chúng đều liên hệ trở lại với đầu. Nếu cặp mắt của tôi nhìn thấy, đôi tay của tôi làm việc hay đôi chân của tôi di chuyển, thì tôi nói rằng tôi nhìn thấy, tôi làm việc hay tôi di chuyển. Vậy, nhiều khi quyết định của các chi thể là quyết định của đầu. Uy quyền của các chi thể là uy quyền của đầu. Bàn tay tự nó không thể nhìn thấy, mà cần đến quyết định của cặp mắt. Bàn tay cầu xin đầu để được nhìn thấy hay tự đòi hỏi nó phải nhìn thấy là điều sai trật. Cả hai điều ấy đều không thể xảy ra được. Nhưng đây thường là nan đề đối với con cái Đức Chúa Trời. Vậy, chúng ta phải chấp nhận các chi thể khác làm uy quyền đại diện của Đầu. Chức năng của bàntay chỉ thuộc về bàn tay, chức năng của bàn chân chỉ thuộc về bàn chân, và chức năng của cặp mắt chỉ thuộc về cặp mắt. Chúng ta phải chấp nhận chức năng của những người khác làm chức năng của mình. Chúng ta không thể khước từ chức năng của các chi thể. Nếu bàn chân khước từ bàn tay thì nó khước từ đầu. Do đó, khi chúng ta chấp nhận uy quyền của các chi thể, là chúng ta chấp nhận uy quyền của Đầu. Mỗi chi thể đều là uy quyền của tôi trong mối tương giao. Tuy chức năng của bàn tay thật to tát, nhưng nó phải chấp nhận chức năng của bàn chân trong vấn đề đi lại. Bàn tay không thể cảm thấy màu sắc, mà cần đến uy quyền của cặp mắt. Chức năng của các chi thể là uy quyền của các chi thể.
UY QUYỀN LÀ SỰ PHONG PHÚ CỦA ĐẤNG CHRIST
Ngày nay, mỗi chi thể trở nên toàn bộ thân thể là điều không thể có được. Do đó, mỗi người cần phải đứng vào vị trí của mình với tư cách là một chi thể, tiếp nhận chức năng của các chi thể khác. Khi những người khác nhìn thấy và lắng nghe, thì tôi nhìn thấy và lắng nghe. Tiếp nhận chức năng của các chi thể là tiếp nhận sự phong phú của Đầu. Không có một chi thể nào là độc lập cả. Tôi chỉ là một chi thể. Một chi thể không thể làm công tác của Thân Thể. Những gì các chi thể khác thực hiện là những gì Thân Thể thực hiện. Đó cũng là những gì các chi thể thực hiện. Trong tình trạng ngày nay thì mắt đã nhìn thấy, nhưng bàn tay lại nói rằng nó chưa nhìn thấy và đang chờ đợi để được nhìn thấy. Con người muốn có mọi sự và có khả năng làm mọi sự, mà không muốn tiếp nhận sự cung ứng của các chi thể. Điều đó làm cho người ấy nghèo nàn, và hội-thánh bị sa vào tình trạng nghèo nàn. Uy quyền là sự phong phú của Đấng Christ.Tiếp nhận chức năng của những người khác, có nghĩa là chấp nhận uy quyền của họ, là tiếp nhận sự phong phú của toàn Thân Thể. Nếu thuận phục uy quyền của mỗi chi thể thì chúng ta có được sự phong phú của mọi chi thể. Nếu khước từ uy quyền thì chúng ta sống trong tình trạng nghèo nàn. Khi cặp mắt được soi sáng, thì cả thân thể được soi sáng. Khi đôi tai lắng nghe, cả thân thể lắng nghe.
Chúng ta luôn luôn nghĩ rằng mục đích của uy quyền là để đàn áp, đập vỡ và làm cho chúng ta khó chịu. Nhưng Đức Chúa Trời không có ý tưởng như vậy. Chúng ta thật sai lầm. Đức Chúa Trời dùng uy quyền để bù vào những gì thiếu hụt trong chúng ta. Đức Chúa Trời lập nên uy quyền của Ngài để ban phát sự phong phú của Ngài cho chúng ta và để bù vào sự thiếu hụt của tất cả những người yếu đuối. Đức Chúa Trời không thể chờ đợi cho đến khi chúng ta đạt đến một giai đoạn nào hay cho đến khi một số năm tháng nào trôi qua rồi Ngài mới chỉ cho chúng ta thấy một điều gì đó. Nếu như vậy thì chúng ta phải trải qua vô số những ngày tháng tối tăm và đau khổ, và vô số người sẽ bị dẫn vào sự tối tăm. Đó thật là người mù dẫn dắt người mù. Đức Chúa Trời sẽ phải chịu mất mát biết bao! Đó là lý do tại sao trước hết Đức Chúa Trời hành động một cách triệt để trong những người được Ngài dùng hầu khi Ngài ban họ cho chúng ta với tư cách là uy quyền của chúng ta để giúp đỡ chúng ta học biết sự thuận phục, thì chúng ta có thể tiếp nhận những gì mình không bao giờ có thể nhận được bằng một cách nào khác. Sự phong phú của họ sẽ trở nên sự phong phú của chúng ta. Nếu bỏ qua điều ấy thì chúng ta có thể phải trải qua năm mươi năm mà vẫn không đạt đến được những gì họ đã học biết.
Ân điển của Đức Chúa Trời ban cho chúng ta có hai mặt. Một mặt, ân điển trực tiếp đến với chúng ta. Điều này không thường xuyên xảy ra. Mặt khác, [ân điển] có sự phong phú [đến với chúng ta cách] gián tiếp. Trong hội-thánh, Đức Chúa Trời đã lập các anh chị em đi trước chúng ta để làm uy quyền của chúng ta. Nhờ sự biện biệt của họ trở nên sự biện biệt của chúng ta, chúng ta có thể nhận được sự phong phú của họ mà khỏi phải trải qua những nỗi khổ của họ. Trong hội-thánh có nhiều ân điển Đức Chúa Trời chỉ ban cho những người khác chứ không ban cho anh em. Mỗi vì sao đều có vinh quang riêng của nó. Vì vậy, uy quyền là sự phong phú của hội-thánh. Sự phong phú của mỗi cá nhân là sự phong phú dành cho nhiều người. Nổi loạn là đi con đường nghèo nàn. Khước từ uy quyền là khước từ đường lối tiếp nhận ân điển và sự phong phú.
CHỨC NĂNG ĐƯỢC ỦY THÁC LÀ UY QUYỀN ĐẠI DIỆN
Không ai dám nói rằng mình sẽ không thuận phục uy quyền của Chúa. Nhưng cũng có uy quyền của các chi thể trong sự phối hợp mà chúng ta phải thuận phục. Chúng ta phải nhận thức rằng mọi chi thể đều được kết hiệp với nhau. Nếu chúng ta không tiếp nhận sự giúp đỡ từ các chi thể khác thì chúng ta ở trong tình trạng nổi loạn. Đôi khi Chúa trực tiếp dùng một chi thể. Vào những lúc khác, Chúa dùng chi thể này để cung ứng cho chi thể khác. Khi đầu hướng dẫn mắt để nhìn, thì toàn thân thể tiếp nhận sự nhìn thấy của mắt làm sự nhìn thấy của chính mình vì khi mắt nhìn thấy, toàn thân thể cũng nhìn thấy. Chức năng được ủy thác này, tức uy quyền đại diện, cũng là uy quyền của Đầu. Nếu các chi thể nào khác nghĩ rằng họ có thể tự nhìn thấy thì họ đang ở trong tình trạng nổi loạn. Chúng ta không thể ngu dại đến nỗi nghĩ rằng mình toàn năng.
Đừng bao giờ quên rằng chúng ta chỉ là các chi thể. Chúng ta cần tiếp nhận chức năng của các chi thể khác. Khi thuận phục đối với uy quyền của chức năng thị giác, chúng ta sẽ không còn ngăn cách với Đầu, vì nguồn cung ứng ở trong uy quyền. Người nào có ân tứ thì có chức vụ; và người nào có chức vụ thì có uy quyền. Không chi thể nào khác có thể nhìn thấy ngoại trừ cặp mắt. Nếu muốn nhìn thấy thì chúng ta phải thuận phục uy quyền của cặp mắt và tiếp nhận sự cung ứng của chúng. Chức vụ được Đức Chúa Trời chỉ định là uy quyền của Ngài. Đừng ai khước từ điều này. Mọi người đều muốn tiếp nhận uy quyền trực tiếp của Đức Chúa Trời. Nhưng Đức Chúa Trời lại muốn chúng ta thuận phục các uy quyền gián tiếp (chẳng hạn như uy quyền đại diện) để chúng ta có thể nhận được nguồn cung ứng thuộc linh.
DỄ DÀNG THUẬN PHỤC BẰNG SỰ SỐNG
Đối với những người vô tín và người Do-thái, thuận phục là một vấn đề khó khăn vì họ không liên hệ với những người vô tín và người Do-thái khác trong sự sống. Tuy nhiên, chúng ta liên hệ với nhau trong sự sống. Vì vậy, thuận phục không phải là điều khó, vì ở bên trong tất cả chúng ta là một, chia sẻ cùng một sự sống và cùng một Thánh Linh.Thánh Linh hướng dẫn mọi sự. Sự thuận phục hỗ tương mang đến một trạng thái vui tươi và một cuộc đời yên nghỉ cho chúng ta. Nếu chúng ta tự mình mang vác mọi gánh nặng thì đó sẽ là một công việc mệt nhọc. Nếu các gánh nặng ấy được phân phối giữa vòng các chi thể, thì vấn đề đó sẽ thoải mái. Nếu sẵn lòng để Chúa giới hạn thì chúng ta sẽ có sự yên nghỉ thật sự. Vậy nên, thuận phục uy quyền của các chi thể là một sự giải thoát lớn lao. Nếu không thì chúng ta đứng vào vị trí của những người khác, trong khi chúng ta tự gây cho mình [sống] trong tình trạng vô cùng căng thẳng. Đối với chúng ta, thuận phục là điều tự phát, và bất tuân là điều không thoải mái dễ chịu. Tại sao chúng ta phải cắn nuốt lẫn nhau? Tại sao chúng ta phải chỉ trích lẫn nhau? Đối với chúng ta, những hành động ấy cần phải là những điều không thoải mái dễ chịu.
Chúa đã dạy chúng ta không những học biết thuận phục trong gia đình và trong thế gian, mà còn phải học biết thuận phục trong Thân Thể, tức trong hội-thánh. Nếu học biết thuận phục trong Thân Thể một cách tốt đẹp, chúng ta sẽ học biết thuận phục trong mọi nơi khác một cách tốt đẹp. Đó là chỗ duy nhất để bắt đầu. Vậy, hội-thánh là nơi thử nghiệm, và cũng là nơi để làm cho hoàn hảo. Nếu tại đây chúng ta không học tập một cách tốt đẹp thì có làm gì ở bất cứ nơi nào cũng không thành công. Nếu bài học này được học tập tại hội-thánh một cách tốt đẹp thì nan đề của vương quốc sẽ được giải quyết, các nan đề trên thế giới sẽ được giải quyết, và các nan đề trong vũ trụ sẽ được giải quyết.
Trước kia, uy quyền đã quá khách quan đối với nhiều người, và sự thuận phục cũng quá khách quan. Chúng ta đã cố gắng áp dụng sự thuận phục theo bề ngoài cho một thân thể có thể kinh nghiệm được bên trong. Ngày nay, uy quyền đã trở nên vấn đề sự sống. Nói cách khác, uy quyền đã trở nên vấn đề ở bên trong. Trong Thân Thể Đấng Christ, uy quyền và sự thuận phục gặp nhau trong một Thân Thể, và cả hai đều đã trở nên kinh nghiệm, sống động và liên kết [với nhau]. Đó là biểu hiện cao nhất của uy quyền Đức Chúa Trời. Uy quyền và sự thuận phục ở trong một Thân Thể, và chúng được nâng lên đến tuyệt đỉnh. Chúng ta hãy để cho mình được làm cho hoàn hảo tại đây. Nếu không thì chúng ta sẽ không còn cách nào khác để tiếp tục tiến lên. Nơi để gặp uy quyền là ở trong Thân Thể. Đầu là nguồn của uy quyền ở trong hội-thánh. Các chi thể hoạt động theo mức lượng của mỗi phần, với một sự cung ứng hỗ tương giữa những người đại diện cho uy quyền và những người thuận phục uy quyền, cũng ở trong hội-thánh. Nếu chúng ta không gặp uy quyền tại đây thì chúng ta không còn hi vọng ở nơi nào khác.
Watchman Nee