"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:6870121
Đang truy cập:111

Giải Nghĩa Sáng Thế Ký: 51, 52, 53, 54, 55

altace

altace

cialis generic best price

cialis generic best price read

 Bài Năm Mươi Mốt

Sống Trong Mối Tương Giao 
Với Đức Chúa Trời

S Cầu Thay Vinh Hiển

2) Sự Cầu Thay Vinh Hiển

Trong bài này, chúng ta đến với một hạt giống khác của sự khải thị thần thượng được gieo trong Sách Sáng Thế Ký –hạt giống về sự cầu thay. Trong 17 chương đầu của Sáng Thế Ký, không có lời ký thuật nào về sự cầu thay. Dầu chúng ta giả định rằng Mên-chi-xê-đéc đang cầu thay cho Áp-ra-ham cách ẩn giấu, nhưng không có sự ghi lại nào về điều này. Sự đề cập rõ ràng đầu tiên về sự cầu thay trong Kinh Thánh là trong Sáng Thế Ký chương 18, tại đó, chúng ta thấy Áp-ra-ham là người đầu tiên cầu thay.Lời ghi lại về sự cầu thay này không chỉ là một hạt giống vì có chứa đựng một lượng nào đó về sự phát triển. Trong Sáng Thế Ký chương 18, chúng ta không những có câu chuyện về sự cầu thay mà còn có một sự khải thị rõ ràng về những nguyên tắc căn bản của sự cầu thay. Sự cầu thay là một điều lớn trong Kinh Thánh. Không có sự cầu thay, gia tể của Đức Chúa Trời không thể được hoàn thành. Chức vụ tối diệu của Đấng Christ ngày nay với tư cách là Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm hoàng gia và thần thượng của chúng ta là chức vụ cầu thay. Trong La-mã 8:34 và Hê-bơ-rơ 7:25, cả hai đều cho chúng ta biết rằng Đấng Christ đang cầu thay cho chúng ta. Vì vấn đề cầu thay này hết sức quan trọng nên chúng ta cần dành toàn bộ bài giảng cho điều này, chủ yếu xem xét những nguyên tắc căn bản của sự cầu thay.

a) Theo Sự Khải Thị Của Đức Chúa Trời

Nguyên tắc căn bản đầu tiên của sự cầu thay là phải theo sự khải thị của Đức Chúa Trời (18:17,20-21). Sự cầu thay duy nhất được kể đến trong cách nhìn của Đức Chúa Trời là sự cầu thay theo sự khải thị của Ngài. Điều này nghĩa là sự cầu thay đúng đắn không do chúng ta khởi xướng mà bởi Đức Chúa Trời khởi xướng trong sự khải thị của Ngài. Điều này được mô tả rõ trong Sáng Thế Ký chương 18. Áp-ra-ham đã không thức giấc vào một buổi sáng vì lo lắng cho Lót, rồi quì xuống cầu nguyện với Đấng đang ngự ngai trên trời. Không, trong khi Áp-ra-ham đang ngồi trước cửa lều để hóng mát vào một ngày nóng nực, Đức Chúa Trời đã đến với ông trong hình dạng của một người bình thường. Vì Đức Chúa Trời không đến với Áp-ra-ham trong vinh hiển với sự oai nghiêm của Ngài, nên thoạt đầu Áp-ra-ham không nhận ra đó là Giê-hô-va Đức Chúa Trời đang đến thăm ông. Cuối cùng, Áp-ra-ham biết rằng Người Này là chính Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, Áp-ra-ham đã không hoảng sợ, ông rất điềm tĩnh, trò chuyện với Đức Chúa Trời như với một Bạn thân. Cuộc trò chuyện này chắc chắn đã kéo dài trong nhiều giờ vì cần có thời gian để chuẩn bị bữa ăn và dùng bữa. Khi Đức Chúa Trời và hai thiên sứ sắp đi, Áp-ra-ham đã không nói lời chào tạm biệt nhưng đã đưa tiễn họ, có lẽ cùng đi với họ một quãng đường. Ở đây chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời của chúng ta không những là Đức Chúa Trời thương yêu mà còn là Đức Chúa Trời thử nghiệm. Dầu Ngài thương yêu chúng ta và biết mọi sư, nhưng Ngài thường thử nghiệm chúng ta. Ngài biết lòng chúng ta, phần sâu kín nhất của bản thể chúng ta, nhưng Ngài thường không nói gì. Bằng cách thử nghiệm, Ngài phơi bày điều có trong lòng chúng ta.

Mục đích của Đức Chúa Trời khi đến với Áp-ra-ham trong Sáng Thế Ký chương 18 là gì? Chắc chắn là Ngài không đến để dùng bữa, cũng không đến để khẳng định lời hứa của Ngài về việc Sa-ra sẽ sanh một con trai. Đức Chúa Trời đến với Áp-ra-ham vì Ngài đang tìm kiếm một người cầu thay. Đang ngự trên ngai trên trời, Đức Chúa Trời đã quyết định thi hành phán quyết của Ngài trên thành Sô-đôm tội lỗi. Nhưng Đức Chúa Trời không bao giờ quên rằng một người trong vòng dân Ngài, là Lót, đang ở trong thành đó. Ngay cả Lót cũng không biết rằng ông phải được cứu khỏi Sô-đôm.Vậy Đức Chúa Trời có thể làm gì? Ngài phải tìm thấy một ai đó cầu thay cho Lót. Đức Chúa Trời biết rằng không có ai trên đất quan tâm đến Lót và ở với Đức Chúa Trời nhiều bằng Áp-ra-ham. Vì thế, Đức Chúa Trời đã đến cùng Áp-ra-ham với mục đích tìm kiếm một người cầu thay. Không có người cầu thay để cầu thay cho dân Ngài thì Đức Chúa Trời không thể làm điều gì. Đức Chúa Trời có nguyên tắc thần thượng của Ngài. Một trong những nguyên tắc ấy là không có sự cầu thay, Ngài không thể cứu bất kỳ ai. Sự cứu rỗi của mỗi Cơ-đốc nhân được hoàn thành qua sự cầu thay. Đức Chúa Trời không mãi ngự ngai trên trời chờ đợi sự cầu thay như vậy xảy ra. Đúng ra, Ngài ngự xuống để thăm Áp-ra-ham trong hình dạng của một người bình thường để Áp-ra-ham có thể dễ dàng trò chuyện với Ngài và cầu thay cho Lót. Trong Sáng Thế Ký chương 18, Áp-ra-ham đã không cầu nguyện với Đức Chúa Trời hay kêu cầu danh của Đức Chúa Trời, ông trò chuyện với Đức Chúa Trời như với một bạn thân. Vì thế, mục đích của Đức Chúa Trời viếng thăm Áp-ra-ham trong chương này là để Áp-ra-ham có thể tiếp nhận gánh nặng cầu thay cho Lót theo ý muốn của Đức Chúa Trời.

Mặc dù Đức Chúa Trời ở trước lều của Áp-ra-ham nhiều giờ, nói nhiều điều với ông, nhưng Đức Chúa Trời không nói một lời nào về mục đích viếng thăm của Ngài là tìm một người cầu thay. Chúng ta thường hành động giống như vậy. Có lẽ anh em muốn một anh em nào đó làm điều gì đó cho mình. Nếu là người khôn ngoan, anh em sẽ không đến với anh em đó và lập tức nhờ anh ấy làm điều mình muốn. Trước hết, anh em sẽ dò xét tâm trạng của anh em đó bằng cách trò chuyện với anh về những vấn đề khác. Vào phút cuối của cuộc viếng thăm, khi anh em đó thấy anh em ra đến cửa hay đưa tiễn anh em đi, anh em có thể mở chính mình ra với anh và tỏ cho anh ấy ước muốn của mình. Tuy nhiên, nếu anh ấy không nấn ná với anh em nhưng nói: “Hẹn gặp anh vào buổi nhóm tối nay”, anh em sẽ biết rằng lòng của anh em đó quá lạnh lẽo và không quan tâm đến điều anh em muốn anh ấy làm. Nhưng nếu anh em đó nói: “Tôi muốn ở với anh thêm một lát nữa”, anh em sẽ biết rằng có thể mở chính mình ra với anh ấy.

Khi Đức Chúa Trời đến với Áp-ra-ham, Áp-ra-ham tiếp đón Ngài, đem nước để Ngài rửa chân và phục vụ Ngài một bữa ăn ngon. Mặc dù Đức Chúa Trời nói chuyện với Áp-ra-ham trong suốt thời gian chuẩn bị bữa ăn và dùng bữa, nhưng Ngài đã không bày tỏ mục đích của việc Ngài đến. Chỉ khi Đức Chúa Trời đứng dậy, rời khỏi lều và Áp-ra-ham đi theo tiễn Ngài và hai thiên sứ, Đức Chúa Trời mới nói cho Áp-ra-ham biết ý định của Ngài. Trong khi Áp-ra-ham cùng đi với họ, Chúa phán: “Lẽ nào Ta giấu Áp-ra-ham điều chi Ta sẽ làm sao?” (18:17). Đức Chúa Trời không thể giấu ý định của Ngài với Áp-ra-ham, bạn yêu dấu và người được kêu gọi của Ngài.

Vì Áp-ra-ham nấn ná trong hiện diện của Đức Chúa Trời, thậm chí sau khi hai thiên sứ đã rời khỏi đó để đến Sô-đôm mà ông vẫn còn đứng trước mặt Ngài (18:22), nên Đức Chúa Trời đã mở ra với ông. Đức Chúa Trời không mở ra với Áp-ra-ham cách trực tiếp nhưng theo cách hàm ý. Đức Chúa Trời không nói: “Này Áp-ra-ham, Ta sẽ kíp hủy diệt Sô-đôm. Lót đang ở đó và Ta rất lo lắng cho Lót. Ta đã đến để yêu cầu ngươi cầu thay cho Lót”. Đức Chúa Trời đã không nói đơn giản như vậy. Thay vào đó, Ngài phán: “Tiếng kêu oan về Sô-đôm và Gô-mô-rơ thật là quá, tội lỗi các thành đó thật là trọng. Ta muốn ngự xuống để xem xét chúng nó có thật ăn ở như tiếng đã kêu thấu đến Ta chăng; nếu chẳng thật, Ta sẽ biết” (18:20-21). Dù Đức Chúa Trời không nói lời nào về Lót, nhưng ý định của Ngài khi nói về Sô-đôm là muốn nói về Lót. Hai người bạn này đã nói về Lót, nhưng không một ai trong họ nhắc đến tên Lót. Họ nói về Lót theo cách ẩn ý, theo cách hàm ý. Áp-ra-ham biết rằng mối quan tâm của Đức Chúa Trời là Lót và ông đã cầu thay cho Lót mà không nhắc đến tên Lót. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời biết ý định của Áp-ra-ham cũng như Áp-ra-ham biết ý định của Đức Chúa Trời.

Đừng nghĩ rằng sự khải thị của Đức Chúa Trời về sự cầu thay đến theo cách bất ngờ, phi thường, cách “của Ngũ Tuần”. Để nhận được sự khải thị như thế từ lòng Đức Chúa Trời, chúng ta phải trải qua một tiến trình dài. Chúng ta phải đi trọn con đường từ U-rơ thuộc Canh-đê qua nhiều nơi để đến cửa trại tại cây dẻ bộp của Mam-rê ở Hếp-rôn. Trước hết, Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham bằng cách hiện ra với ông như là Đức Chúa Trời Vinh Hiển. Lúc đó, Áp-ra-ham không sẵn sàng cũng không có đủ tư cách để nhận được sự khải thị từ lòng Đức Chúa Trời. Ông đã không ở trong sự tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời. Ngay cả sau khi đã giết Kết-rô-lao-me và các vua khác, Áp-ra-ham vẫn không sẵn sàng trò chuyện với Đức Chúa Trời cách thân mật.Trong các chương 15 và 16, chúng ta thấy rằng dù Áp-ra-ham là người tìm kiếm Đức Chúa Trời và yêu Ngài, nhưng ông vẫn còn ở trong xác thịt quá nhiều. Trong chương 17, ông đã chịu cắt bì và kết liễu, tên ông được đổi từ Ap-ram thành Áp-ra-ham, và trở thành một người khác. Kế đến, trong chương 18, Đức Chúa Trời đã đến với ông tại cây dẻ bộp của Mam-rê ở Hếp-rôn không như Đức Chúa Trời Vinh Hiển cũng không như Đức Chúa Trời Chí Cao, Đấng sở hữu cả trời và đất cũng không như El-Shaddai, nhưng như một người bình thường để thưởng thức bữa ăn với người bạn thân của Ngài. Khi đó, Đức Chúa Trời đã tìm thấy một người theo lòng Ngài. Sự cầu thay vinh hiển mà Áp-ra-ham đã thực hiện trước mặt Đức Chúa Trời trong Sáng Thế Ký chương 18 không phải là lời cầu nguyện của một người trên đất với Đức Chúa Trời trên trời; đó là cuộc trò chuyện mang tính người giữa hai người bạn. Đức Chúa Trời từ trời ngự xuống, hạ mình xuống, mặc lấy hình dạng của một người bình thường và trò chuyện với Áp-ra-ham. Cuối cùng, Ngài cho Áp-ra-ham thấy rằng Ngài là Đức Chúa Trời Toàn Năng, dầu vậy, họ đã tiếp tục trò chuyện như hai người bạn. Khi ở trong tình trạng này, Áp-ra-ham đã được chuẩn bị và có đủ tư cách để nhận được sự khải thị từ lòng Đức Chúa Trời về khát vọng của Ngài. Sự cầu thay là cuộc trò chuyện mật thiết với Đức Chúa Trời theo sự bày tỏ khát vọng của lòng Ngài. Đây là nguyên tắc thứ nhất của sự cầu thay.

Để Đức Chúa Trời bày tỏ khát vọng của lòng Ngài cho một người, người đó phải được chuẩn bị. Dầu hàng triệu người thuộc về danh của Đức Chúa Trời, nhưng rất ít người được chuẩn bị, được kỷ luật, được huấn luyện, được cắt bì và được kết liễu. Dầu chúng ta không giống Áp-ra-ham nhiều, nhưng thỉnh thoảng chúng ta cũng có những kinh nghiệm tương tự. Chúng ta sẵn sàng từ bỏ mình và khước từ xác thịt. Khi đó, trong sự kinh ngạc, Đức Chúa Trời đã đến với chúng ta như một Người Bạn đầy tính người.Chúng ta không cầu nguyện với Ngài hay kêu cầu danh Ngài, chúng ta trò chuyện với Ngài như với một bạn thân!

Để hoàn thành nguyên tắc căn bản thứ nhứt của sự cầu thay –cầu thay theo sự khải thị mật thiết về khát vọng của lòng Đức Chúa Trời– chúng ta cần trải qua một tiến trình dài. Chúng ta cần được xử lý, chịu cắt bì và bị kết liễu. Khi đó chúng ta sẽ sẵn sàng cho sự tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ đến với chúng ta ở mức độ con người, không ở mức độ thần thượng, như Ngài đã đến với Áp-ra-ham. Giả sử hôm nay Đức Chúa Trời đến với anh em theo cách này, anh em sẽ phục vụ Ngài một bữa ăn và trò chuyện với Ngài, nói với Ngài mặt đối mặt. Trò chuyện với Đức Chúa Trời theo cách này thật quí báu làm sao! Khi có sự tương giao như vậy với Đức Chúa Trời, chúng ta không có cảm nhận rằng mình đang nói với một Đức Chúa Trời toàn năng, oai nghiêm nhưng với một người. Đây là ý nghĩa của sự cầu thay theo sự khải thị của Đức Chúa Trời. Sự cầu thay này luôn luôn mật thiết, huyền nhiệm và theocách hàm ý.

b) Dường Như Vì Sô-đôm, Mà Thật Ra Là Vì Lót

Khi Đức Chúa Trời tỏ cho Áp-ra-ham điều của lòng Ngài, Áp-ra-ham lập tức hiểu ngay điều Đức Chúa Trời muốn nói. Nhìn bên ngoài, dường như Áp-ra-ham cầu thay cho Sô-đôm; nhưng thật ra ông cầu thay cho Lót. “Áp-ra-ham đến gần và thưa rằng: Chúa sẽ diệt người công chính luôn với người độc ác sao?” (18:23). Lót được hàm ý ở đây. Dường như Áp-ra-ham nói: “Chúa ơi, Ngài không biết rằng tại Sô-đôm, thành độc ác mà Ngài sắp hủy diệt đó, có một người công chính sao? Có thể cũng có những người công chính khác cùng với ông. Ngài định hủy diệt người công chính luôn với ngươi độc ác sao?” Đức Chúa Trời không nhắc tên của Lót với Áp-ra-ham, nhưng Áp-ra-ham hiểu. Cũng vậy, Áp-ra-ham không đề cập đến Lót với Đức Chúa Trời, nhưng Đức Chúa Trời biết. Họ nói với nhau theo cách huyền nhiệm. Người ngoài cuộc không ai biết họ đang nói về điều gì, nhưng họ hiểu nhau vì họ là bạn thân. Làm thế nào chúng ta có thể minh chứng Áp-ra-ham đang thật sự cầu thay cho Lót? Bằng chứng ở trong 19:29 “Vả, khi Đức Chúa Trời hủy diệt các thành nơi đồng bằng, tức là thành Lót ở, thì nhớ đến Áp-ra-ham, cứu Lót ra khỏi chốn phá tan đó”. Chúng ta không được bảo rằng Đức Chúa Trời nhớ đến Lót mà là nhớ đến Áp-ra-ham. Câu này cho biết rõ rằng Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu thay của Áp-ra-ham bằng cách cứu Lót ra khỏi Sô-đôm. Vì thế, sự cầu thay của Áp-ra-ham trong chương 18 thực sự không phải cho thành Sô-đôm nhưng cho Lót.

Về nguyên tắc, sự cầu thay của Áp-ra-ham cho Lót giống như sự cầu thay trong Hội Thánh thời Tân Ước. Vào thời của Áp-ra-ham, dân Đức Chúa Trời sống trên đất gồm hai gia đình, gia đình của Áp-ra-ham và gia đình của Lót. Một phần của dân Đức Chúa Trời, tức gia đình của Lót, đã trôi giạt vào thành Sô-đôm độc ác. Cũng vậy, một số người trong Hội Thánh đã trôi giạt vào thế giới. Như Áp-ra-ham đã cầu thay cho một phần dân Đức Chúa Trời đã trôi giạt vào Sô-đôm, thì chúng ta cũng phải cầu thay cho anh chị em đã trôi giạt vào thế giới. Sự cầu thay của Áp-ra-ham là trường hợp đầu tiên giống như sự cầu thay trong nếp sống Hội Thánh.

c) Theo Lòng Đức Chúa Trời

Vì tất cả sự cầu thay đúng đắn đều phải theo sự khải thị xuất phát từ lòng Đức Chúa Trời nên lời cầu thay cũng phải theo lòng Đức Chúa Trời. Sự cầu thay không theo lời của Đức Chúa Trời. Như tôi đã lưu ý, dù Đức Chúa Trời không nhắc đến tên Lót, nhưng Áp-ra-ham biết điều của lòng Đức Chúa Trời là gì. Áp-ra-ham không cầu thaytheo lời bên ngoài của Đức Chúa Trời nhưng theo ý định bên trong của lòng Ngài. Lời cầu thay đúng đắn phải luôn chạm đến lòng của Đức Chúa Trời. Khi Áp-ra-ham đang cầu thay, Đức Chúa Trời vui mừng và thầm nhủ: “Thật tốt vì Ta đã tìm thấy một người trên đất biết được lòng Ta!”

Một lần nữa, tôi nói rằng sự cầu thay đúng đắn phải luôn được khởi xướng bởi sự viếng thăm của Đức Chúa Trời ở mức độ con người. Hễ khi nào có cảm nhận sâu xa rằng Đức Chúa Trời đến với chúng ta ở mức độ con người, chúng ta sẽ nhận thức rằng đó là lúc Đức Chúa Trời khởi xướng sự cầu thay để chúng ta thực hiện. Vì điều này, chúng ta phải học tập nấn ná trong hiện diện của Đức Chúa Trời. Nếu Ngài bắt đầu rời khỏi, chúng ta phải ở trong hiện diện Ngài và nói với Ngài: “Chúa ơi, con không muốn mất sự hiện diện của Ngài. Con muốn nấn ná ở đây với Ngài”. Việc anh em nấn ná trong hiện diện Ngài sẽ làm Ngài mở lòng ra và bày tỏ khát vọng của Ngài. Chúng ta đã thấy rằng Áp-ra-ham không bất ngờ nói lời tạm biệt Chúa nhưng đã bước đi với Ngài một quãng đường. Điều này bày tỏ rằng, trong một ý nghĩa nào đó, Đức Chúa Trời rất là người. Nếu chúng ta nấn ná trong hiện diện Ngài, Ngài sẽ rất là người đến nỗi không muốn lìa chúng ta. Ngài sẽ ở với chúng ta vì chúng ta nấn ná với Ngài. Tôi đã kinh nghiệm điều này nhiều lần. Tôi không lìa khỏi hiện diện của Đức Chúa Trời và Ngài đã không lìa khỏi hiện diện của tôi. Kết quả của sự nấn ná đó là Đức Chúa Trời đã bày tỏ lòng Ngài cho tôi và sự cầu thay đúng đắn xảy ra.

Cầu thay không chỉ là cầu nguyện; đó là cuộc chuyện trò thân mật. Trong chương này, Áp-ra-ham không đang cầu nguyện, ông đang chuyện trò với Bạn thân của ông ở mức độ con người, rằng: “Chúa cũng sẽ hủy diệt người công chính luôn với kẻ độc ác sao?” Dường như Áp-ra-ham đang nói với Đức Chúa Trời: “Đây có phải là đường lối của Ngài không? Để tôi nhắc Ngài rằng Ngài không nên làm như vậy. Có thể có 50 người công chính trong thành này. Ngài không tha cho thành đó vì cớ 50 người công chính ở đó sao?” Đây là một cuộc chuyện trò. Sau đó, Áp-ra-ham tiếp tục: “Chúa không bao giờ làm như vậy, diệt người công chính luôn với kẻ độc ác, đến nỗi kể người công chính cũng như người độc ác. Không, Chúa chẳng làm điều như vậy. Đấng xét đoán toàn thế gian lại không làm sự công chính sao?” (18:25). Đây là lời thách thức mạnh mẽ với Chúa. Có bao giờ anh em có cuộc chuyện trò thách thức với Đức Chúa Trời như vậy không? Rất ít người làm điều này. Nhưng khi bước vào sự tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời ở mức độ con người và biết ý muốn của lòng Ngài, anh em có thể thách thức Ngài, rằng: “Chúa ơi, đây có phải là cách của Ngài không?”. Đây không phải là cầu nguyện hay van xin; đó là thách thức Đức Chúa Trời trong một cuộc chuyện trò rất thân mật. Chúa đáp lời Áp-ra-ham rằng: “Nếu Ta tìm thấy trong thành Sô-đôm có 50 người công chính thì Ta sẽ tha cho nơi đó vì cớ họ” (18:26). Một nguyên tắc căn bản của sự cầu thay là: Cầu thay là cuộc chuyện trò thách thức, không phải lời cầu nguyện hay van xin. Đức Chúa Trời muốn chúng ta thách thức Ngài. Khi Áp-ra-ham thách thức Đức Chúa Trời, có lẽ Ngài đã phán: “Ta đã tìm thấy một người biết rõ lòng Ta đến nỗi người đó không cầu nguyện, cầu xin hay van nài; người thách thức Ta. Ta phải làm điều người đó nói vì Ta đã bị thách thức bởi bạn yêu dấu của Ta. Bây giờ Ta không bận tâm về Lót nhiều bằng chính Ta”. Có bao giờ anh em kinh nghiệm loại cầu thay này chưa? Nói với Đức Chúa Trời cách thách thức rằng: “Thưa Chúa, đây có phải là cách làm việc của Ngài không? Đấng xét đoán cả trái đất không làm điều đúng đắn sao? Giết người công chính luôn với kẻ độc ác có phải là cách của Ngài không?Chắc chắn là không!” Đây là sự cầu thay thật sự.

Trong các câu 27 đến 32, chúng ta thấy Áp-ra-ham tiếp tục trò chuyện với Đức Chúa Trời về số người công chính cần có để thành được tha. Sau khi Chúa phán: “Nếu Ta tìm được trong Sô-đôm 50 người công chính, vì cớ họ, Ta sẽ tha hết cả thành”. Áp-ra-ham hỏi liệu Ngài có diệt thành đó hay không nếu ít hơn số đó 5 người. Chúa đáp: “Nếu Ta tìm được 45 người, Ta chẳng diệt thành đâu”. Con số 45 do Chúa phán, chứ không do Áp-ra-ham. Dường như Chúa đang phán: “45 người cũng được, nhưng Ta không tìm thấy nhiều người ở đó”. Sau đó Áp-ra-ham hỏi về 40 người, Chúa đáp: “Ta sẽ chẳng diệt thành vì 40 người này”. Khi Áp-ra-ham đưa ra số 30 người, Chúa phán rằng Ngài sẽ tha cho Sô-đôm nếu tìm thấy trong thành 30 người công chính. Sau đó, về phía Áp-ra-ham, số người giảm xuống 20. Một lần nữa, Chúa phán rằng Ngài sẽ không diệt thành vì cớ 20 người đó. Sau cùng, đến số cuối, Áp-ra-ham đưa ra lời đề nghị thứ sáu, hỏi Chúa rằng liệu Ngài có tha cho thành không nếu tìm thấy ở đó 10 người công chính. Đức Chúa Trời phán thậm chí chỉ 10 người, Ngài cũng sẽ không hủy diệt. Áp-ra-ham đã đưa ra sáu lời đề nghị với Chúa, số người giảm từ 50 xuống 10. Sau đó, ông không có gánh nặng để đưa lời đề nghị thứ bảy. Có lẽ ông được sự hiện diện của Đức Chúa Trời dẫn dắt để không làm như thế. Khi Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham rằng Ngài sẽ không diệt thành vì cớ 10 người công chính (18:32), Áp-ra-ham thất vọng. Lót có vợ, hai con gái chưa gả và vài đứa đã lập gia đình cùng với chồng của chúng. Theo tính toán của Áp-ra-ham, ít nhất phải có 10 người trong gia đình Lót, nếu kể cả con rể.Áp-ra-ham kinh ngạc và thất vọng khi biết rằng ngay cả 10 người công chính cũng không có trong Sô-đôm.

d) Theo Đường Lối Công Chính Của Đức Chúa Trời

Sự thách thức của Áp-ra-ham đối với Đức Chúa Trời là theo đường lối công chính của Đức Chúa Trời (18:23-25). Áp-ra-ham thưa với Chúa: “Ngài là Đấng phán xét toàn thế gian, há sẽ làm như vậy sao? Đây không phải là đường lối công chính của Ngài”.Sự cầu thay đúng đắn không theo tình yêu của Đức Chúa Trời cũng không theo ân điển Ngài, nhưng theo sự công chính của Ngài. Sự thách thức mạnh nhất không phải là nói với Ngài rằng: “Đức Chúa Trời ơi, Ngài không phải là Đức Chúa Trời thương yêu sao?” Nếu chúng ta nói như thế, Đức Chúa Trời có thể nói: “Đúng vậy, Ta là Đức Chúa Trời thương yêu, nhưng yêu hay không tùy thuộc nơi Ta. Khi Ta cảm thấy vui, Ta yêu. Nhưng nếu Ta không thấy vui, Ta không yêu. Như vậy có điều gì sai với hành động của Ta?” Về điều này, chúng ta không có gì để nói. Chúng ta nên nói với Đức Chúa Trời rằng: “Đức Chúa Trời ơi, Ngài không phải là Đấng Công Chính sao?” Nếu chúng ta thách thức Đức Chúa Trời theo sự công chính Ngài, Đức Chúa Trời sẽ đáp: “Chắc chắn Ta là Đấng Công Chính”. Ngài sẽ không bao giờ nói: “Nếu Ta vui, Ta sẽ công chính; nhưng nếu không vui, Ta sẽ không công chính”. Đó là Đức Chúa Trời công chính nào? Chúng ta phải thách thức Đức Chúa Trời theo sự công chính của Ngài vì sự công chính của Ngài ràng buộc Ngài nhiều hơn là tình yêu và ân điển. Đức Chúa Trời không có nghĩa vụ yêu hay bày tỏ ân điển, nhưng Ngài bị ràng buộc phải có trách nhiệm với sự công chính. Không điều gì ràng buộc Đức Chúa Trời mạnh mẽ bằng sự công chính của Ngài. Người cầu thay tốt biết rằng cách ràng buộc Đức Chúa Trời có hiệu quả là thách thức Ngài theo sự công chính Ngài. Chúng ta nên nói: “Đấng phán xét toàn thế gian sẽ làm điều như thế sao?” Và Đức Chúa Trời sẽ phán: “Không, Ta, Đấng Công Chính, sẽ không bao giờ làm điều đó. Nhưng ngươi phải cho Ta biết đúng số người sẽ làm cho thành đó được xưng công chính. Nếu ngươi cho Ta biết số người công chính, Ta sẽ được xưng công chính và Ta sẽ là công chính. Ta sẽ không bao giờ diệt thành đó”. Sự cầu thay đúng đắn không bao giờ nài xin Đức Chúa Trời theo tình yêu của Ngài nhưng thách thức Ngài theo đường lối công chính của Ngài.

Tôi tin rằng nhiều người trong sự khôi phục của Chúa sẽ được đem vào loại cầu thay này. Khi Đức Chúa Trời ngự xuống để thăm Áp-ra-ham ở mức độ con người, Ngài đang tìm kiếm một người cầu thay. Ngày nay, Đức Chúa Trời đã giáng xuống ở mức độ con người một lần nữa, không phải để tìm kiếm một cá nhân mà là một người tập thể. Tôi tin rằng không bao lâu nữa trên đất sẽ có một dân hoàn toàn giống như Áp-ra-ham, biết lòng của Đức Chúa Trời và dâng lời cầu thay thách thức trong hiện diện Ngài.Chúng ta có thể nói với Đức Chúa Trời: “Chúa ơi, Ngài không biết rằng Ngài đã hứa với chúng con rõ ràng trong Tân Ước rằng Ngài sẽ hoàn thành việc lành mà Ngài đã khởi làm sao?”. Áp-ra-ham đã không kêu van hay nài nỉ Đức Chúa Trời tha cho Sô-đôm vì cớ Lót nhưng đã thách thức Ngài. Cũng vậy, chúng ta không nên khóc lóc, van xin nhưng nên thách thức Đức Chúa Trời. Ngài không muốn nghe tiếng kêu van của chúng ta, Ngài muốn nghe lời cầu thay thách thức của chúng ta.

e) Bày Tỏ Khát Vọng Của Đức Chúa Trời

Sự cầu thay của Áp-ra-ham đáp lại khát vọng của lòng Đức Chúa Trời về Lót. Khi Áp-ra-ham đang cầu thay theo lòng Đức Chúa Trời, tự phát lời cầu thay của ông biểu lộ khát vọng của Đức Chúa Trời. Sự cầu thay đúng đắn luôn luôn biểu lộ khát vọng của Đức Chúa Trời. Đây là một nguyên tắc khác của sự cầu thay. Nếu lời cầu thay của chúng ta được khởi xướng bởi việc chúng ta thấy khải thị của Đức Chúa Trời trong mối tương giao mật thiết với Ngài thì bất cứ điều gì chúng ta nói với Ngài trong sự cầu thay sẽ là sự biểu lộ khát vọng của Ngài, đáp lại ý định của Ngài. Sự cầu thay thật không phải để biểu lộ ước muốn của chúng ta mà là ước muốn của Đức Chúa Trời. Sự cầu thay không phải để tìm kiếm điều gì theo ý định của chúng ta nhưng để tìm kiếm sự hoàn thành ý định của Đức Chúa Trời.

f) Thực Hiện Ý Chỉ Của Đức Chúa Trời

Sự cầu thay cũng phải thực hiện ý chỉ của Đức Chúa Trời. Dầu Đức Chúa Trời có ý muốn giải cứu Lót, nhưng nếu Áp-ra-ham không cầu thay, Đức Chúa Trời không cách gì thực hiện ý muốn Ngài. Sự cầu thay đúng đắn luôn luôn dọn đường cho sự hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời. Nó đặt đường ray cho đầu tàu thiên thượng. Đức Chúa Trời muốn cứu Lót khỏi Sô-đôm, nhưng Ngài phải tìm thấy một phương cách để làm điều này. Vì thế, Ngài đã đến thăm Áp-ra-ham với mục đích để ông có thể cầu thay cho Lót. Áp-ra-ham gần lòng Đức Chúa Trời cách mật thiết, và Đức Chúa Trời có thể bày tỏ lòng Ngài cho ông. Tức thì Áp-ra-ham đáp lại Đức Chúa Trời về khát vọng của lòng Ngài trong lời cầu thay thách thức. Sự cầu thay này là sự biểu lộ khát vọng của Đức Chúa Trời và thực hiện ý muốn của Ngài.

Có một nhu cầu cấp bách về loại cầu thay thách thức này trong nếp sống Hội Thánh ngày nay. Tất cả những bài giảng mà Chúa đã và đang ban phát cho chúng ta là để thực hiện ý muốn Ngài. Trong Nghiên Cứu Sự Sống này, chúng ta không quan tâm đến sự dạy dỗ suông của Kinh Thánh. Chúng ta quan tâm đến sự giải phóng lời hiện tại của Chúa cho sự khôi phục của Ngài. Sau khi đọc bài này, sẽ có một sự đáp lại mạnh mẽ vang dội khắp sự khôi phục của Chúa khi có nhiều thánh đồ yêu dấu đáp ứng lời Ngài và được đem vào sự nhận thức đầy đủ về sự cầu thay đích thực. Từ nay về sau, nhiều người trong chúng ta sẽ vận dụng linh để cầu thay cho Hội Thánh bằng cách thách thức Đức Chúa Trời theo khát vọng của lòng Ngài. Chúng ta biết rằng khát vọng của lòng Đức Chúa Trời là cứu dân Ngài ra khỏi thành độc ác, giải cứu những Lót ngày nay ra khỏi tình trạng bị đoán phạt. Nếu gần gũi với Đức Chúa Trời, tương giao với Ngài cách mật thiết, chúng ta có thể đọc được lòng Ngài và đáp lại khát vọng của lòng Ngài bằng sự cầu thay vinh hiển. Trong chương kế tiếp, chúng ta sẽ thấy sự cầu thay của Áp-ra-ham rất có hiệu quả. Trong 19:27-29, chúng ta thấy rằng Áp-ra-ham vẫn ở với lòng của Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham thức dậy vào sáng sớm và nhìn về phía thành, rất lo âu về Lót. Trong 19:29, chúng ta được biết rõ rằng Đức Chúa Trời đã nhớ đến Áp-ra-ham và “cứu Lót ra khỏi chốn phá tan đó, khi Ngài hủy diệt các thành mà Lót đang ở”. Sự cầu thay có hiệu quả này sẽ được nhận thức và thực hành càng ngày càng nhiều hơn giữa vòng chúng ta trong nếp sống Hội Thánh.

g) Cho Đến Khi Chúa Hoàn Thành Lời Phán Của Ngài

Chương này không kết thúc với lời của Áp-ra-ham mà kết thúc với lời phán của Đức Chúa Trời. Câu 33 nói: “Ngay khi Đức Giê-hô-va phán xong với Áp-ra-ham, thì Ngài ngự đi” (Theo Hê-bơ-rơ). Đây là phần ghi lại về sự cầu thay của Áp-ra-ham. Nhưng phần này không nói Áp-ra-ham đã nói xong, mà nói Đức Chúa Trời đã phán xong. Sự cầu thay đúng đắn luôn luôn là tiếng phán của Đức Chúa Trời. Nhìn bên ngoài dường như chúng ta đang nói nhưng thật ra Đức Chúa Trời đang phán trong sự phát ngôn của chúng ta.

Tôi thích câu nói rằng Chúa ngự đi ngay khi Ngài vừa phán xong với Áp-ra-ham.Nhiều lần trong những lời cầu nguyện của chúng ta, chúng ta nói: “A-men”, sau khi cầu nguyện xong. Tiếng “A-men” của chúng ta có nghĩa giống như lời chào tạm biệt. Tôi có thể làm chứng rằng hàng trăm lần tôi đã nói tạm biệt với Chúa như vậy trước khi Ngài phán xong với tôi. Tôi đã cầu nguyện trong một thời gian dài và sau đó nói: “A-men”, nghĩa là tạm biệt. Nhưng sâu xa trong linh, tôi cảm nhận rằng Đức Chúa Trời đang phán: “Con đang làm gì vậy? Ta chưa nói xong với con mà. Tại sao con không ở thêm vài phút nữa?” Nhiều người trong chúng ta đã có loại kinh nghiệm này. Tiếng “A-men”, lời chào tạm biệt của chúng ta, quá nhanh. Chúng ta cần cứ ở trong hiện diện của Đức Chúa Trời cho đến khi Ngài phán xong với chúng ta. Sự cầu thay của chúng ta phải nói lên điều Đức Chúa Trời đang phán.

 

Bài Năm Mươi Hai

Sống Trong Mối Tương Giao 
Với Đức Chúa Trời

Một Người Công Chính Thất Bại

 Kinh Thánh là một Cuốn Sách kỳ diệu. Cùng với phần ghi chép về Áp-ra-ham, Kinh Thánh cho chúng ta tiểu sử tiêu cực của Lót. Trong một thời gian khá lâu, tôi không hiểu vì sao Kinh Thánh lại có phần ký thuật tiêu cực như thế. Có những câu Kinh Thánh nào đó trong Sáng Thế Ký chương 19, nói theo con người, tôi không thích nhắc đến. Nhưng sự khải thị thần thượng của Chúa rất cô đọng, không một lời nào là uổng phí. Vì thế, từng lời trong Kinh Thánh đều rất quan trọng. Thế thì mục đích của Sáng Thế Ký chương 19 là gì? Chương này cho chúng ta một gương cảnh báo. Trong bài này. tôi có gánh nặng là rất nhiều người trong chúng ta, đặc biệt những bạn trẻ, cần thấy gương cảnh báo này. Chúng ta cần một gương như vậy vì tình trạng ngày nay chẳng hơn gì tình trạng của Sô-đôm.

Cảm tạ Chúa vì Lời Ngài ban cho chúng ta cả tiểu sử tích cực của Áp-ra-ham lẫn tiểu sử tiêu cực của Lót. Không có phần ký thuật nào trong toàn bộ Kinh Thánh đầy đủ bằng phần ký thuật về đời sống của Áp-ra-ham. Phần ký thuật này cho thấy cách Áp-ra-ham được Đức Chúa Trời kêu gọi là thể nào, cách ông đáp ứng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời ra sao, cách ông sống bởi đức tin nơi Đức Chúa Trời để tồn tại, cách ông được huấn luyện để nhận biết ân điển hầu hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, cách ông được xử lý qua việc chịu cắt bì, và cách ông được đem vào mối tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời, cộng tác với Ngài ở mức độ con người là thể nào. Tôi đánh giá cao phần ký thuật về một người sa ngã đã được cứu, được biến đổi và được đem vào mối tương giao kỳ diệu ở mức độ con người với Đức Chúa Trời thánh khiết và vinh hiển. Tuy nhiên, cùng với phần ký thuật này, chúng ta có phần ký thuật đen tối, tiêu cực về Lót. Trong bài này, chúng ta phải xem xét chi tiết phần ký thuật này, xem đó như một lời cảnh báo cho chính mình, con cái và thân thuộc của chúng ta.

3) Một Người Công Chính Thất Bại

Nếu đọc 2Phi-e-rơ 2:6-9, chúng ta thấy Phi-e-rơ có nhiều thiện cảm với Lót. Trong câu 8, Phi-e-rơ nói Lót là một “người công chính” mà “hồn công chính” của người thấy đau xót với những việc làm bất pháp của những người tại Sô-đôm. Trong câu 9, ông mô tả Lót là người tin kính. Vì thế, theo quan niệm của Phi-e-rơ, Lót vừa công chính vừa tin kính. Dầu có thể cảm thấy khó tin điều này vì phần ký thuật về Lót trong Sáng Thế Ký rất tiêu cực, nhưng chúng ta phải tin vì Kinh Thánh nói với chúng ta như thế. Nếu anh em vẫn nói rằng Lót không công chính và không tin kính, tôi sẽ hỏi về chính anh em. Anh em có công chính và tin kính hơn Lót không? Trong một ý nghĩa, Lót công chính và tin kính hơn nhiều người trong chúng ta. Nhưng dầu đã được cứu, công chính và tin kính, ông là một người công chính thất bại.

a) Được Đem Vào Con Đường Của Đức Chúa Trời Cách Thụ Động 
Bởi Người Khác

Khi xem xét tiểu sử của Lót, chúng ta thấy ông đã được đem vào con đường của Đức Chúa Trời cách thụ động bởi người khác (11:31; 12:5), đã được đem vào con đường của Đức Chúa Trời bởi ông nội và chú mình. Ông nội của Lót đã đem ông từ U-rơ thuộc Canh-đê đến Cha-ran, dừng lại nửa đường vì ông nội không muốn đi tiếp. Khi Đức Chúa Trời cất ông nội đi, thì Áp-ra-ham, chú của Lót, đã đem Lót từ Cha-ran đến Ca-na-an. Dầu trong cach nhìn của Đức Chúa Trời, khi có những ông nội và chú bác là những người có thể đem các cháu mình vào con đường của Đức Chúa Trời là tốt, nhưng được đem vào cách thụ động bởi người khác thì không phải là điều tốt nhất. Lót đã có một khởi đầu rất yếu. Ông không có một khởi đầu chủ động, tích cực trong những điều thuộc linh. Thưa các bạn trẻ, thụ động về những điều thánh hay thụ động theo Chúa không phải là tốt nhất. Lót công chính và tin kính, nhưng ông đã thất bại vì đã có một khởi đầu rất yếu, thụ động. Sự khởi đầu thụ động của ông là nguyên nhân của sự thất bại sau cùng của ông.

b) Không Hề Có Sự Hiện Ra Của Đức Chúa Trời

Lót không hề có sự hiện ra của Đức Chúa Trời. Khi tôi đọc xuyên suốt các câu về Lót nhiều lần, tôi không thể tìm thấy một gợi ý nào rằng Đức Chúa Trời từng hiện ra với ông. Dầu Đức Chúa Trời và hai thiên sứ đã đến thăm Áp-ra-ham, nhưng chỉ hai thiên sứ này đến với Lót. Có phải điều này nghĩa là Đức Chúa Trời không công bằng hay thiên vị? Tất nhiên là không. Đức Chúa Trời vốn công bằng và không thiên vị. Đức Chúa Trời đã không hiện ra với Lót hay tỏ chính Ngài cho Lót vì Lót thụ động, không tích cực tìm kiếm Ngài và đang sống trong một thành độc ác. Ông không đi theo Đức Chúa Trời cách trực tiếp nhưng gián tiếp, và không bước đi trong đường lối của Đức Chúa Trời. Không như Áp-ra-ham, Lót không có mối quan hệ trực tiếp với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không thiên vị ai, nhưng Ngài tôn trọng cách hành động, xem chúng ta chủ động hay thụ động trong việc tìm kiếm Ngài. Nếu anh em tìm kiếm Ngài, Ngài sẽ hiện ra với anh em. Nhưng nếu anh em không tìm kiếm Ngài, Ngài sẽ không phí thì giờ. Việc Đức Chúa Trời không hiện ra với Lót không phải lỗi của Đức Chúa Trời mà là lỗi của Lót. Đức Chúa Trời muốn hiện ra với anh em, nhưng anh em có đang tìm kiếm Ngài và đi trong đường lối Ngài hay không? Anh em có lòng tìm kiếm Đức Chúa Trời cách tích cực, chủ động và bước đi trong đường lối Ngài hay không? Nếu có, Đức Chúa Trời sẽ không quên anh em đâu. Chắc chắn Ngài sẽ hiện ra với anh em.

c) Không Hề Đi Đầu Trong Việc Đi Theo Con Đường Của Đức Chúa Trời

Lót không hề đi đầu trong việc đi theo con đường của Đức Chúa Trời. Tôi không thể tìm thấy một câu cho thấy Lót đã từng đi đầu trong vấn đề này. Kinh Thánh nói rằng ông nội của Lót đã đem ông đến Cha-ran; không nói Lót đi theo ông. Có một sự khác biệt lớn giữa hai điều này. Tôi phần nào lo lắng về những người trẻ giữa vòng chúng ta. Nhiều người trong họ ở trong nếp sống Hội Thánh vì ai đó đã đem họ đến đây. Họ không khởi sự bước vào nếp sống Hội Thánh. Khi nhìn lại 50 năm qua, tôi có thể làm chứng rằng những người tỏ ra chủ động trong việc đi theo đường lối Hội Thánh thì ngày nay vẫn mạnh mẽ. Tuy nhiên, những ai không chủ động nhưng được đem vào đường lối Hội Thánh cách thụ động đều dần dần rời bỏ. Tôi có thể cho anh em tên của 100 người thân thiết với tôi, được giúp đỡ bởi chức vụ của tôi, đã dần dần bỏ đi vì họ không có sự khởi đầu mạnh mẽ bởi việc chủ động theo Chúa. Lẽ ra Lót phải nói với Áp-ra-ham rằng: “Chú Áp-ra-ham ơi, dù chú có đi con đường của Đức Chúa Trời hay không, thì cháu vẫn đi. Dù trẻ hơn chú, nhưng cháu sẽ là người đi đầu trong việc bước theo Đức Chúa Trời và muốn chú theo cháu”. Nói như vậy không phải là kiêu ngạo mà là chủ động.

d) Mối Quan Hệ Của Ông Với Đức Chúa Trời 
Chịu Ảnh Hưởng Của Người Khác

Mối quan hệ của Lót với Đức Chúa Trời chịu ảnh hưởng của người khác (13:1). Khi người khác đi lên, ông đi lên. Khi người khác đi xuống, ông đi xuống. Lót giống như mảnh gỗ trôi giạt. Khi người dẫn dắt thuộc linh của ông trôi xuống Ai-cập, ông đã trôi theo đến đó. Ông hoàn toàn ở dưới ảnh hưởng của người khác. Khi Áp-ra-ham trôi về hướng nam, về phía Ai-cập và thế giới, lẽ ra Lót nên cản lại và nói: “Chú Áp-ra-ham, nếu chú đi xuống, cháu sẽ đi lên”. Nhưng chúng ta thấy không có khuynh hướng như vậy trong đời sống Lót. Tôi e rằng trong nếp sống Hội Thánh ngày nay có loại gỗ trôi giạt này. Mối quan hệ của anh em với Đức Chúa Trời ở dưới sự hiện ra trực tiếp của Ngài hay chịu ảnh hưởng của người khác? Đừng nghĩ rằng Lót bất ngờ trôi giạt vào Sô-đôm. Không, đó là sự phát triển tiệm tiến bắt đầu từ sự khởi đầu rất yếu ớt của ông. Nếu khi đọc bài này, anh em cảm thấy mình không có một khởi đầu mạnh mẽ, hãy được khích lệ rằng vẫn không quá trễ để lập một nền tảng vững chắc.

e) Lìa Bỏ Ảnh Hưởng Thuộc Linh Của Người Khác Do Của Cải Vật Chất

Lót đã lìa bỏ ảnh hưởng thuộc linh của người khác do của cải vật chất (13:5-13). Khi chỉ có ảnh hưởng thuộc linh, Lót tự giữ mình dưới ảnh hưởng đó. Nhưng khi phải đối diện với sự chọn lựa giữa ảnh hưởng thuộc linh và của cải vật chất, Lót chọn của cải vật chất. Ngày nay, nguyên tắc này cũng vậy. Của cải vật chất, tức những điều thuộc thế giới là một thử nghiệm cho những ai đi theo sự thuộc linh của người khác. Giống như Lót, họ có thể công chính nhưng vẫn chọn của cải vật chất.

Kinh Thánh không cho thấy trong cuộc tranh đấu giữa Lót và Áp-ra-ham trong chương 13, Áp-ra-ham đã sai. Tuy nhiên, tôi tin rằng trong một ý nghĩa rất sâu, cảm xúc của Lót đã bị tổn thương. Ở đây tôi muốn nói một lời với các anh em dẫn dắt. Cư xử với anh em là điều rất khó. Áp-ra-ham đã không làm điều gì sai trong việc cư xử với Lót, nhưng chỉ vì ông đã cư xử với Lót như vậy, nên Lót không bao giờ trở lại với ông. Áp-ra-ham không bao giờ quên Lót. Khi ông hay tin Lót bị Kết-rô-lao-me bắt giữ, ông đã lãnh đạo một cuộc chiến chống lại các vua này và giải cứu Lót. Khi Áp-ra-ham biết rằng Đức Chúa Trời sắp hủy diệt Sô-đôm, ông đã cầu thay cho Lót. Trong 19:27 và 28, Áp-ra-ham thức dậy lúc sáng sớm, nhìn về hướng Sô-đôm và Gô-mô-rơ vì ông hết sức lo cho Lót. Tuy nhiên, do cảm xúc bị tổn thương, Lót đã không quay về với Áp-ra-ham, nhưng có lẽ đã nói: “Tôi chẳng có quan hệ gì với chú. Dù chú đã cứu tôi khỏi cảnh phu tù, nhưng tôi sẽ không bao giờ trở lại với chú”. Khi Lót được giải cứu khỏi thành Sô-đôm, ông đã không quan tâm đến việc trở về với Áp-ra-ham. Nếu ông trở về, đời sống ông hẳn sẽ không có một kết cuộc đáng thương như thế.

Tôi có gánh nặng là những anh chị em trẻ sẽ thấy rằng bất đồng với thế hệ đi trước mình trong Chúa và lìa bỏ họ là một điều nguy hiểm. Khi còn là một cậu bé bị mẹ quở trách, tôi đã ngoảnh mặt, không nhìn bà trong nhiều ngày. Tôi đã sai và biết rằng bà đã quở trách tôi trong sự thương yêu, nhưng chỉ vì bà đã quở trách tôi nên tôi không nhìn mặt bà nữa. Trong nếp sống Hội Thánh, nguyên tắc cũng như vậy. Mặc dù có thể người khác thương yêu chúng ta, nhưng chúng ta không thích bị họ quở trách. Tôi đã học tập rằng quở trách người khác tạo nên sự thù nghịch. Trong sự thương yêu, tôi đã nói lời thẳng thắn với những anh em nào đó, và sự thẳng thắn của tôi đã làm họ phật lòng. Điều này có thể là lý do vì sao Lót không trở lại với Áp-ra-ham. Trong Lời, không có dấu hiệu nào cho thấy Lót đã cám ơn Áp-ra-ham về việc được cứu khỏi cảnh phu tù. Điều đó có thể là ông đã không bỏ cảm xúc bị tổn thương và không hạ mình. Chúng ta không nên khư khư nắm giữ những cảm xúc con người như vậy. Không như Lót, chúng ta nên hạ mình, chịu mất sỉ diện, trở lại với Áp-ra-ham và ở với ông. Làm điều này càng sớm và càng nhiều, thì càng tốt.

f) Trôi Giạt Vào Một Tình Trạng Đầy Gian Ac Và Tội Lỗi 
Trước Mặt Đức Chúa Trời

Lót đã bị trôi giạt vào một tình trạng đầy gian ác và tội lỗi trước mặt Đức Chúa Trời (13:11-12). Một khi anh em rời bỏ nguồn ảnh hưởng thuộc linh, tự nhiên anh em sẽ xuống dốc. Anh em sẽ không bao giờ đi lên. Đừng bao giờ từ bỏ ảnh hưởng thuộc linh đúng đắn, vì đó là sự bảo vệ của anh em. Nếu từ bỏ, anh em sẽ mất sự bảo vệ và giống như Lót, sẽ trôi giạt vào Sô-đôm. Dầu sự thật là Lót biết Sô-đôm là gian ác trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, nhưng cuối cùng, ông đã bước vào nơi gian ác đó và sống ở đó.

U-rơ thuộc Canh-đê là nơi của hình tượng, Ai-cập là nơi đầy những của cải và thú vui thế giới còn Sô-đôm là thành tội lỗi. Ba nơi này hình thành một tam giác có ranh giới bao quanh xứ Ca-na-an. Chúng ta, những người được kêu gọi của Đức Chúa Trời, sống bên trong tam giác này và phải cẩn thận kẻo rơi trở lại thành của hình tượng, đi xuống nơi của thú vui thế giới hay trôi giạt vào thành tội lỗi. Dầu đã lìa bỏ vùng đất của hình tượng và nơi có thú vui thế giới, nhưng Lót đã trôi giạt vào thành tội lỗi, như một mảnh gỗ.

g) Bị Cảnh Cáo Qua Việc Bị Bắt Cách Có Tể Trị

Lót đã bị cảnh cáo cách có tể trị qua việc bị bắt (14:11-12). Đức Chúa Trời đã thương xót ông, không để ông sống trong Sô-đôm cách bình an. Như một lời cảnh cáo và kỷ luật, Đức Chúa Trời đã khiến cho Lót bị bắt.

h) Được Giải Cứu Khỏi Sự Lưu Đày Bởi Người Đắc Thắng Của Chúa 
Nhưng Không Chịu Giúp Đỡ Để Trở Lại Con Đường Của Đức Chúa Trời

Dầu Lót đã được cứu khỏi sự lưu đày bởi người đắc thắng của Chúa, nhưng ông đã không chịu giúp đỡ để trở lại con đường của Đức Chúa Trời (14:12-16). Trong một thời gian dài, tôi bối rối bởi việc Lót không quay trở lại con đường của Đức Chúa Trời. Có lẽ ông đã cứng lòng. Đừng nghĩ rằng những người thụ động là thuận phục. Hầu như tất cả những người thụ động đều phản loạn. Lót đã không học được bài học này và đã không quay lại con đường của Đức Chúa Trời.

i) Quay Lại Sống Trong Thành Gian Ac 
Là Thành Bị Đức Chúa Trời Đoán Phạt Và Sắp Bị Hủy Diệt 
Bởi Sự Phán Xét Của Đức Chúa Trời

Lót đã trở lại sống trong thành gian ác là thành bị Đức Chúa Trời đoán phạt và sắp bị hủy diệt bởi sự phán xét của Ngài (19:1-13). Lót không đến đó để thăm viếng nhưng để sống. Khi hai thiên sứ đến để thi hành sự phán xét của Đức Chúa Trời trên Sô-đôm, Lót đang ngồi trước cửa thành, trái với Áp-ra-ham đang ngồi nơi cửa lều. Theo phong tục thời xưa, hễ ai ngồi tại cửa thành đều là một trong các trưởng lão, vì chỉ họ mới có đặc quyền ngồi đó. Lót đã trở thành một người lãnh đạo tại Sô-đôm! Giả sử Chúa hay thiên sứ của Ngài sắp đến thăm anh em. Họ sẽ tìm thấy anh em ở đâu –đang ngồi nơi cửa trại hay tại cổng của thế giới gian ác? Nơi anh em đang ngồi sẽ quyết định Chúa có đến thăm anh em hay không.

Các thiên sứ từ chối vào nhà Lót (19:2). Hãy so sánh điều này với cuộc viếng thăm mà Chúa và các thiên sứ đã dành cho Áp-ra-ham trong chương trước. Khi Áp-ra-ham mời họ ở lại, họ lập tức đồng ý. Nhưng hai thiên sứ này đã không muốn bước vào nhà Lót và ở lại đó vì nhà ông ở trong thành gian ác. Sau khi Lót hết sức nài nỉ, họ đã bước vào và ở lại với ông (19:3).

Trong khi các thiên sứ đang ở trong nhà Lót, dân Sô-đôm từ mọi ngõ  ngách của thành đã kéo đến để buông mình vào tư dục đồng tính của họ (19:4-11). Sô-đôm là đồng tính luyến ái. Phao-lô nói về họ trong La-mã 1:24 và 27. Ngày nay, có nhiều người Sô-đôm và nhiều tư dục đồng tính lộ ra. Người Sô-đôm dường như không có linh, họ giống như những con vật đầy thú tính.

Thậm chí Lót sẵn sàng hi sinh hai con gái để làm thỏa mãn tư dục của người Sô-đôm (19:7-9). Dầu có bị buộc phải làm điều này hay không, lẽ ra ông đừng bao giờ làm như vậy. Điều này cho thấy cảm nhận về đạo đức của Lót đã bị tê liệt. Chúng ta có thể dùng mùi tỏi để minh họa điều này. Nếu suốt cả ngày chúng ta ăn tỏi, cuối cùng, cảm nhận của chúng ta về mùi tỏi sẽ bị tê liệt. Nếu có ai nhậy mừi bước vào giữa vòng những người ăn tỏi, lập tức họ sẽ nhận ra mùi tỏi. Lót và các con ông đã ở trong căn phòng Sô-đôm đầy mùi tỏi suốt nhiều năm và cảm nhận của họ về đạo đức đã bị tê liệt. Lót nghĩ đến việc hi sinh những con gái chưa chồng để cứu hai vị khách. Làm thế nào ông có thể nghĩ đến một việc như thế! Dầu là người công chính, nhưng Lót đã đánh mất cảm nhận về đạo đức và sự xấu hổ.

Để đối phó với tình trạng gian ác như vậy, các thiên sứ đã đánh dân Sô-đôm bằng sự mù lòa (19:11), cho thấy rằng tất cả những ngươi nam trong Sô-đôm đều bị mù và ở trong sự tối tăm. Toàn thể dân Sô-đôm đều bị mù. Nếu một ai đó không mù, làm thế nào người đó có thể là người Sô-đôm? Điều này cho thấy rằng tội lỗi đã làm người ta bị mù.

j) Các Con Của Ông Bị Hư Hỏng

Các con của Lót đã bị hư hỏng do sống trong thành gian ác đó. Lời của các thiên sứ trong 19:12 cho thấy Lót có lẽ đã có các con trai cũng như con gái. Trong chương 18, có lẽ Áp-ra-ham đã cho rằng trong gia đình Lót, ít nhất có 10 người. Các thiên sứ nói với Lót: “Ngươi còn có ai tại đây nữa chăng? Rể, con trai, con gái và ai trong thành thuộc về ngươi, hãy đem ra khỏi hết đi. Chúng ta sẽ hủy diệt chỗ này, vì tiếng kêu oan về dân thành này đã thấu lên đến Đức Giê-hô-va, nên Ngài sai chúng ta xuống mà hủy diệt” (19:12-13). Lót phải nói với các con rể và con mình rằng Đức Chúa Trời sắp đoán phạt thành này. Nhưng khi Lót giảng Phúc Âm cho họ, một số không tin lời của Lót, nghĩ rằng ông đang đùa. Câu 14 nói: “Lót bèn đi ra và nói với các con rể đã cưới các con gái mình rằng: Hãy chỗi dậy, đi ra khỏi chốn này, vì Đức Giê-hô-va sẽ hủy diệt thành. Nhưng các chàng rể tưởng người nói chơi” (Nguyên văn Hê-bơ-rơ).

Những người con khác của Lót không có cảm nhận về đạo đức (19:30-35). Hãy nhìn vào những gì các con gái ông đã làm sau khi họ thoát khỏi thành! Sau khi thoát khỏi Sô-đôm, Lót và các con gái ông vẫn đem theo rượu (19:32). Nếu không đem rượu theo, làm thế nào họ có rượu trong hang nơi họ đang ở? Họ đã bị mê muội bởi tình trạng tội lỗi trong Sô-đôm là thế nào! Khi tôi đi thăm một số thánh đồ ở Las Vegas năm 1963, họ đã biện hộ cho lối sống của họ trong thành đó rằng: “Lưu lại trong thành cờ bạc này thì chẳng có gì sai với chúng tôi, vì chúng tôi ở đây làm chứng cớ cho Chúa”. Tôi đã không tranh luận với họ, nhưng sâu xa bên trong, tôi nói: “Nếu anh em ở đây trong vài năm, con cái anh em sẽ không có cảm nhận về tính gian ác của cờ bạc”. Nhiều người trẻ ngày nay đã bị mê muội. Hãy nhìn cách họ ăn mặc –không có sự cảm nhận về đạo đức hay cảm xúc xấu hổ nào. Nhiều khi đi trên đường phố, tôi phải nhắm mắt lại. Với những thiếu nữ trẻ, không có cảm nhận về sự xấu hổ là không có sự bảo vệ. Trên khắp thế giới, cảm nhận về sự xấu hổ và đạo đức đã bị tê liệt. Vì phần lớn những người trẻ đã được nuôi dưỡng trong bầu không khí tội lỗi nên những cảm nhận của họ đã bị tê liệt. Nhưng nếu họ bước vào nếp sống Hội Thánh và cứ ở trong bầu không khí thuần khiết trong vài tháng, họ sẽ không bao giờ trở lại với thế giới tội lỗi. Họ sẽ không thể chịu nỗi mùi của nó.

Chúng ta sống trong thời đại gian ác và cần được bảo vệ. Gia đình và con cái chúng ta phải được bảo vệ. Tất cả chúng ta phải thoát khỏi Sô-đôm và đóng cửa đối với bầu không khí gian ác của nó. Nếu không, con cái chúng ta sẽ bị mê muội. Làm thế nào Lót và các con ông lại có thể cư xử như vậy sau khi Sô-đôm bị hủy diệt? Vì cảm nhận của họ về đạo đức đã rơi xuống quá thấp. Nếu cứ ở trong bầu không khí trong lành, lập tức chúng ta sẽ cảm nhận mùi hôi thối của sự phi đạo đức. Nhưng nếu không biện biệt bất kỳ mùi hôi nào, điều này nghĩa là cảm nhận của chúng ta về đạo đức đã bị tê liệt.

k) Chính Ông Được Cứu Cách Trần Trụi 
Nhờ Sự Cầu Thay Của Người Đắc Thắng

Chính Lót đã được cứu cách trần trụi nhờ sự cầu thay của người đắc thắng (19:15-25,29). Thậm chí sau khi các thiên sứ nói với Lót rằng Sô-đôm sắp bị hủy diệt, ông vẫn còn nấn ná ở đó. Ông không sẵn sàng để thoát khỏi thành, nhưng các thiên sứ đã nắm tay ông và kéo ra. Câu 16 nói: “Nhưng Lót lần lữa; vì cớ Đức Giê-hô-va thương xót Lót, nên hai thiên sứ nắm lấy tay kéo người, vợ cùng hai con gái người, và dẫn ra khỏi thành”. Lót không trung tín, nhưng Chúa đã thương xót, kéo ông ra khỏi Sô-đôm như kéo một khúc củi ra khỏi đống lửa.

l) Vợ Ông Được Cứu Khỏi Sự Hủy Diệt Nhưng Trở Thành Một Trụ Muối

Vợ Lót đã được cứu khỏi sự hủy diệt nhưng đã trở thành một trụ muối (19:15-17,26; Lu. 17:32). Muối ở dạng bột thì có ích. Nhưng khi muối đóng thành khối, thật vô dụng. Việc vợ Lót trở thành trụ muối có nghĩa là bà đã đánh mất sự hữu dụng của mình trong tay Đức Chúa Trời và trở thành dấu hiệu của sự xấu hổ. Ngày nay, Cơ-đốc Giáo giúp người ta chỉ quan tâm đến được cứu rỗi hay bị diệt vong. Nhưng Kinh Thánh bày tỏ rằng ngoài vấn đề được cứu rỗi hay bị diệt vong, còn có vấn đề về sự vinh hiển hay xấu hổ. Vợ Lót đã không hư mất, bà được cứu khỏi sự hủy diệt. Dầu vậy cuối cùng, bà trở thành một sự xấu hổ. Vì thế, trong Lu-ca 17:32, Chúa phán rằng: “Hãy nhớ lại vợ của Lót”, cảnh báo chúng ta rằng, dầu đã được cứu, nhưng vào lúc Chúa trở lại, chúng ta có thể thể bị hổ thẹn như vợ Lót. Dầu đã được cứu, nhưng chúng ta có thể bị hổ thẹn khi Chúa trở lại (1Giăng 2:28).

Trong Lu-ca 17:28-33, Chúa cảnh báo chúng ta đừng ngó lại phía sau. Tại sao vợ Lót ngó lại đàng sau? Vì vài đứa con của bà, đặc biệt các con gái vẫn còn ở trong Sô-đôm, và vì nhà cửa, quần áo của bà cũng ở đó. Nếu đọc cẩn thận Sáng Thế Ký chương 19, anh em sẽ thấy rằng bà ở đàng sau Lót. Là đôi vợ chồng, lẽ ra họ nên đi cùng với nhau; lẽ ra bà không nên ở đàng sau chồng. Nhưng vì ở đàng sau chồng, bà đã ngó lại phía sau và hóa thành một trụ muối. Bà nhìn lại nơi bà thích sống và đã trở thành một dấu hiệu của sự xấu hổ để cảnh báo chúng ta. Đây không chỉ là một câu chuyện hay giáo lý. Từ điều này chúng ta thấy rằng ngoài vấn đề cứu rỗi còn có vấn đề về sự xấu hổ. Khi đến ngày phán xét, anh em sẽ dự phần trong sự vinh hiển hay trong sự xấu hổ? Chúng ta sẽ không bị diệt vong vì sự cứu rỗi của chúng ta là chắc chắn. Tuy nhiên, như gương cảnh báo này cho thấy, chúng ta có thể bị xấu hổ.

m) Đời Sống Ông Dẫn Đến Sự Ra Đời Của Dân Mô-áp Và Am-môn.

Đời sống của Lót dẫn đến sự ra đời của dân Mô-áp và Am-môn (con cái của Bên Am-mi), những người đã bị Đức Chúa Trời khước từ thậm chí đến đời thứ mười (19:36-38; Phục. 23:3). Thật là một kết cuộc đáng thương cho đời sống của Lót! Ông đã không sanh ra một Y-sác nhưng là dân Mô-áp và Am-môn, những người bị Đức Chúa Trời khước từ. Ở đây, trong câu chuyện của Lót, chúng ta thấy lời ký thuật về một người công chính thất bại. Bên cạnh lời ký thuật tươi sáng về một Áp-ra-ham đắc thắng, chúng ta có lời ký thuật ảm đạm về một Lót thất bại. Lời ký thuật về đời sống của Lót nên là một lời cảnh báo mạnh mẽ cho tất cả chúng ta.

 

Bài Năm Mươi Ba

Sống Trong Mối Tương Giao 
Với Đức Chúa Trời

Trụ Muối

 Bài trước nói về Lót là người công chính bị thất bại. Trong bài này, chúng ta đến với vợ Lót là người đã trở thành một trụ muối (19:26). Sáng Thế Ký chương 19 có lẽ là lời ký thuật duy nhất trong lịch sử con người về trụ muối và chúng ta cần xem xét cách cẩn thận. Trụ muối này không do Đức Chúa Trời tạo nên. Vợ Lót đã trở thành một trụ muối. Thật đầy ý nghĩa về lời nghiêm nghị của Ngài được ghi trong Lu-ca chương 17, lúc người ta hỏi về sự đến của vương quốc, Chúa Jesus phán: “Hãy nhớ lại vợ của Lót” (Lu. 17:32). Trong một ý nghĩa, dường như Chúa đang phán với các môn đồ Ngài rằng: “Đừng nói về Vương Quốc. Trái lại, các ngươi phải biết thời đại này là như thế nào khi Vương Quốc đến. Vương Quốc sẽ giống như thời của Nô-ê và của Lót. Cả hai đều là hình ảnh báo trước về ngày hiện đến của Ta”. Vì thế, trong lời phán nghiêm nghị, trang trọng, và chín chắn của Chúa, có ba thời đại được đề cập: thời đại của Nô-ê, thời đại của Lót, và thời đại vào lúc Chúa trở lại.

Trong một số bài trước của [loạt bài] Nghiên Cứu Sự Sống này, khi đề cập đến Nô-ê, chúng tôi đã lưu ý rằng ông đã sống trong thời đại mê muội và con người vào thời của ông đã bị mê muội, ru ngủ, và mê muội bởi tư dục và những thú vui xấu xa. Tuy nhiên, trong Lu-ca 17:27, khi Chúa phán về thời của Nô-ê, hôn nhân được đề cập đến. Nhưng khi Ngài nói về thời của Lót, không đề cập đến hôn nhân, vì trong Sô-đôm, hôn nhân đã hoàn toàn bị suy thoái và người ta đã buông mình vào tư dục đồng giới. Trong Lu-ca 17:28 và 30, Chúa phán: “Lại cũng như đã xảy ra trong ngày của Lót: người ta ăn, uống, mua, bán, gieo trồng, xây cất… ngày Con Người hiện ra cũng thể ấy”. Sau khi phán lời này và ngay trước khi bảo chúng ta hãy nhớ lại vợ của Lót, Chúa phán: “Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà, có của cải ở trong nhà, thì chớ xuống mà chuyển đi; ai ở ngoài đồng, cũng đừng trở về” (Lu. 17:31). Tại Pa-les-tin, nhà cửa đều có mái bằng. Chúa muốn phán rằng: “Nếu các ngươi ở trên mái nhà lúc Ta hiện đến, đừng xuống nhà để chuyển đồ đạc đi. Nếu làm vậy, các ngươi sẽ bị bỏ lại. Nếu các ngươi đang làm việc ngoài đồng, chớ trở về nhà. Các ngươi phải quên mọi điều, ngoại trừ Ta”. Ngay sau lời này, Chúa phán: “Hãy nhớ lại vợ của Lót”

Ngày nay, giống như con người trong thời Nô-ê và Lót, nhiều Cơ-đốc nhân đã bị đờ đẫn và mê muội, mất sự cảm nhận đúng đắn về những điều của Đức Chúa Trời. Thậm chí một số người đã dạy rằng tín đồ có thể được cất lên trong khi đang chơi đá banh. Nhưng theo sự khải thị của Lời Thánh, khi Chúa Jesus trở lại, Ngài sẽ không cất bất kỳ thánh đồ nào còn đang tham dự vào những thú vui thế giới. Là Cơ-đốc nhân, chúng ta là cây trồng của Đức Chúa Trời, đang lớn lên với Đấng Christ là Hạt Giống Sự Sống (Mat. 13:3-8,18-23). Không một Cơ-đốc nhân nào trưởng thành trong sự lớn lên của sự sống mà còn tham dự vào bất kỳ thú vui thế giới nào. Bởi lẽ những Cơ-đốc nhân nào tiếp tục tham dự vào những thú vui thế giới thì chưa chín, mà còn xanh và sống, Chúa sẽ không gặt họ khỏi cánh đồng. Những Cơ-đốc nhân mê muội ngày nay cần nghe lời nghiêm túc này.

4) Trụ Muối

Phần ghi chép về vợ Lót trở thành trụ muối được tìm thấy trong phần nói về sống trong mối tương giao với Đức Chúa Trời. Mặc dầu trong Sáng Thế Ký, phần này bao gồm các chương từ 18 đến 24, là phần ghi lại đời sống ở trong mối tương giao với Đức Chúa Trời, nhưng cũng bao gồm lời ký thuật ảm đạm về một người được cứu thất bại, vợ và hai con gái của ông. Lót có nhiều con hơn là chỉ có hai cô con gái này, nhưng khi các thiên sứ đến Sô-đôm, họ không thể tìm thấy những người kia. Sáng Thế Ký 19:15 nói: “Đến sáng, hai thiên sứ hối Lót và phán rằng: Hãy thức dậy, dẫn vợ và hai con gái ngươi là những người được tìm thấy, e khi ngươi cũng chết lây về việc hình phạt của thành nữa chăng” (Nguyên văn Hê-bơ-rơ). Dường như các thiên sứ nói: “Này Lót, chúng ta chỉ tìm thấy hai người trong số các con ngươi. Chúng ta đã được Đức Chúa Trời sai đến đây để giải cứu ngươi và toàn thể gia đình ngươi, nhưng chỉ tìm thấy được những người này. Nhiệm vụ của chúng ta là hủy diệt thành. Bây giờ ngươi, vợ ngươi và các con gái ngươi phải thoát đi”. Câu tiếp theo nói rằng Lót nán lại. Theo nguyên bản, Lót không chỉ nán lại; ông còn do dự, không sẵn sàng rời bỏ thành. Vì ông do dự, nên các thiên sứ “đã nắm lấy tay ông, vợ và hai con gái ông; Chúa thương xót ông, thiên sứ đem ông ra khỏi và để ông bên ngoài thành”. Khi đã đem bốn người trong họ ra ngoài thành, các thiên sứ nói: “Hãy chạy trốn cứu lấy mạng, đừng ngó lại sau” (c. 17). Nhưng câu 26 nói rằng vợ Lót “ngó lại đàng sau nên hóa ra một trụ muối”. Vợ Lót đã được cứu vì bà đã được kéo ra khỏi thành và đã được cứu khỏi sự hủy diệt. Nhưng dầu đã được cứu, bà lại trở thành một trụ muối. Chắc chắn rằng việc trở thành một trụ muối không phải là điều tốt mà là một sự xấu hổ.

Như tôi đã nói nhiều lần, Sách Sáng Thế Ký chứa đựng những hạt giống của hầu hết các lẽ thật thần thượng. Trụ muối trong Sáng Thế Ký 19:26 cũng có thể được xem là một hạt giống. Sự lớn lên của hạt giống này là trong Lu-ca 17:32, tại đó Chúa bảo rằng hãy nhớ lại vợ của Lót và trong 1Giăng 2:28 bảo rằng chúng ta có thể bị hổ thẹn khi Chúa hiện đến. Mùa gặt là trong Khải Thị 16:15, tại đó Chúa phán: “Kìa, Ta đến như kẻ trộm. Phước cho kẻ thức canh và giữ áo xống mình, kẻo e người đi lõa lồ và người ta thấy sự xấu hổ người chăng”. Chúa sẽ đến như kẻ trộm, không thông báo trước. Nếu vào lúc đó, sự lõa lồ của chúng ta bị phơi bày, chúng ta sẽ bị xấu hổ. Vì thế, hạt giống về việc bị xấu hổ đã được gieo trong Sáng Thế Ký chương 17, lớn lên trong Lu-ca chương 17, 1Giăng chương 2, và được gặt trong Khải Thị chương 16. Gánh nặng của tôi trong bài này là tạo cho anh em ấn tượng rằng Sách Sáng Thế Ký không chỉ có hạt giống về Áp-ra-ham mà cũng có hạt giống về Lót và vợ ông, người đã trở thành trụ muối, dấu hiệu của sự xấu hổ.

Ý tưởng căn bản của bài này là người thật sự được cứu cũng có khả năng bị xấu hổ. Đừng nghe những lời dạy dỗ mê muội của đời này. Nhiều sự dạy dỗ trong Cơ-đốc Giáo ngày nay làm ru ngủ người khác và những ai tiếp thu sự dạy dỗ đó không có tâm trí tỉnh táo cũng không đang sống trong linh. Trong bài này, chúng ta cần nghe một lời tỉnh táo đến từ Chúa, một lời làm tâm trí chúng ta tỉnh táo và kích hoạt linh chúng ta.

a) Vợ của Lót

Như chúng tôi đã chỉ ra, chắc chắn vợ Lót đã được cứu khỏi sự hủy diệt. Điều này được bày tỏ cách dứt khoát và rõ ràng đến nỗi không ai có thể tranh luận. Nhưng, như chúng ta đã thấy, từ phía sau chồng, bà đã quay lại nhìn và trở thành một trụ muối. Việc đi sau chồng cho thấy bà không sẵn sàng rời bỏ Sô-đôm như chồng và cũng chẳng vui gì khi theo ông ra khỏi thành. Nếu bà vui mừng trốn khỏi Sô-đôm, hẳn bà sẽ đi bên cạnh chồng. Ngay cả trước khi quay lại đàng sau và trở thành trụ muối, bà đã ở đàng sau chồng rồi. Ở điểm này, tôi muốn nói một lời với những người vợ. Trong việc phạm tội, người vợ miễn cưỡng theo chồng là tốt, nhưng về những điều của Đức Chúa Trời, họ chậm chạp theo chồng là không tốt. Về những điều của Đức Chúa Trời, điều tốt nhất mà người vợ phải làm là đi theo và sánh bước với chồng. Thưa chị em, trong những điều của Đức Chúa Trời, đừng đi sau chồng. Nếu làm như vậy thì giống như vợ của Lót, chị em có thể đau khổ và trở thành trụ muối. Đây là lời cảnh báo cho tất cả chúng ta.

Vợ Lót đã trở thành một trụ muối có nghĩa là bà đã đánh mất chức năng và trở thành biểu tượng của sự xấu hổ. Khi muối ở dạng mịn thì rất có ích. Muối càng được xay mịn, chức năng càng tốt. Không một ai dùng muối ở dạng một khối. Chúa Jesus phán rằng chúng ta, những người được cứu và được tái sanh, là muối của đất (Mat. 5:13). Chức năng của chúng ta là giết chết vi trùng của thế giới hư hoại này. Tuy nhiên, nếu mất mặn (Lu. 14:34), có nghĩa là, giống như vợ của Lót, chúng ta đã mất chức năng. Là người của Đức Chúa Trời, vợ Lót lẽ ra phải đầy vị mặn và có khả năng giết chết những vi trùng của sự hư hoại chung quanh, nhưng bà đã đánh mất mùi vị và trở nên mất chức năng. Bà là biểu tượng của sự xấu hổ.

Trong khi viết Sách Sáng Thế Ký, Linh của Đức Chúa Trời không muốn gọi tên của vợ Lót. Mặc dầu Sa-ra, tên của vợ Áp-ra-ham, được đề cập nhiều lần, nhưng tên của vợ Lót không hề nhắc đến, không đáng nhắc đến. Thánh đồ đáng thương đó đã đi sau chồng và quay lại nhìn thành Sô-đôm. Có thể bà đã quay lại vì các con, vì nhà cửa và vì những gì thuộc về mình. Tất cả tài sản của bà đã bị bỏ lại trong Sô-đôm. Mối quan tâm, tấm lòng, ước muốn, và hồn của bà vẫn còn ở đó dầu thân thể bà đã được kéo ra khỏi thành. Vì thế, vào lúc bà nhìn lại nơi đó, Chúa đã khiến bà thành một trụ muối để làm gương cảnh báo cho tất cả chúng ta.

Trong Lu-ca chương 17, Chúa đã dùng vợ của Lót như một gương cảnh cáo cho các môn đồ Ngài. Tuy nhiên, không nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay sống dưới lời cảnh báo này. Dầu vậy, chúng ta phải chú ý đến lời cảnh báo này: một người thật sự được cứụ hoàn toàn có thể bị xấu hổ khi Chúa hiện đến. Chắc chắn tôi không muốn trở thành trụ muối. Còn anh em thì sao? Trở thành trụ muối không phải là điều vinh hiển, trái lại, là một sự xấu hổ. Thật xấu hổ cho một tín đồ trở thành trụ muối không có sự sống đứng giữa trời cách vô ích mà chỉ chịu đau khổ!

b) Những Người Không Tuyệt Đối Trong Việc Theo Chúa

Lu-ca 14:25-33 nói về sự tuyệt đối trong việc theo Chúa. Chúng ta phải theo Chúa cách tuyệt đối. Mặc dầu Kinh Thánh dạy chúng ta yêu người khác, nhưng ở đây, trong Lu-ca14:26, Lời Thánh ra từ miệng Chúa Jesus phán rằng: “Nếu ai đến cùng Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống hồn mình nữa, thì không thể làm môn đồ Ta”. Không ai có thể theo Chúa cách đúng đắn mà không tuyệt đối. Cha mẹ, vợ con, anh chị em và sự sống hồn của chúng ta đều là thứ yếu. Chỉ có Chúa mới là đầu nhứt và chúng ta phải theo Ngài cách tuyệt đối. Khi Chúa nói đến việc ghét người thân thuộc của chúng ta vì cớ Ngài, Ngài không có ý nói đến ghét thật sự mà là ghét thương yêu.

Trong phần lời từ miệng Chúa thốt ra này, chúng ta thấy phải theo Ngài cách tuyệt đối. Vấn đề không phải là thờ phượng Đức Chúa Trời vào Chúa Nhật cũng không phải là nghiên cứu Kinh Thánh ở nhà theo sở thích của chúng ta. Sự nghiên cứu Kinh Thánh ở nhà như vậy có thể là một loại sở thích hay giải trí khác. Trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, sự nghiên cứu Kinh Thánh ở nhà có thể không khác gì chơi bóng rổ. Anh em chơi bóng Kinh Thánh trong sự nghiên cứu Kinh Thánh, dùng phòng khách làm sân chơi. Anh em không tuyệt đối trong việc theo Chúa. Tôi không nói đùa; tôi đang nói sự thật. Tôi không chỉ nói điều này cho người khác mà cũng cho chính tôi. Chúa có thể làm chứng cho tôi rằng khi tôi đang chuẩn bị bài này, Ngài đã hỏi tôi: “Còn con thì sao? Ta đã truyền cho con giảng bài này, nhưng con có tuyệt đối trong việc theo Ta hay không?” Nguyện Chúa thương xót để tôi không giảng cho người khác mà chính mình bị bỏ. Nguyện Chúa cũng thương xót tất cả thánh đồ yêu dấu của Ngài. Ô, chúng ta cần một lời cảnh tỉnh để không còn mê muội nữa! Nếu tin Giăng 3:16, chúng ta cũng phải tin Lu-ca 14:26-35. Nhiều bài giảng đã được rao ra và nhiều cuốn sách nhỏ về Giăng 3:16 đã được xuất bản, nhưng những bài giảng và những cuốn sách nhỏ về Lu-ca 14:26-35 ở đâu? Trong sự khôi phục của Chúa, chúng ta không nên giấu dân Ngài bất kỳ một lẽ thật nào.

Những người không tuyệt đối trong việc theo Chúa sẽ trở nên vô dụng. Hãy cho tôi biết ngày nay có bao nhiêu Cơ-đốc nhân thực sự hữu dụng trong tay Chúa cho gia tể Đức Chúa Trời? Hầu hết Cơ-đốc nhân đã trở nên vô dụng đối với gia tể Đức Chúa Trời. Họ giống như muối mất mặn (Lu. 14:34).

Những Cơ-đốc nhân như thế không chỉ mất mặn, mà theo Lu-ca 14:35, họ cũng “không đáng để bón đất hay trộn làm phân” mà chỉ đáng quăng ra ngoài. Đất ở đây là đồng ruộng làm cho sinh vật lớn lên để Đức Chúa Trời có thể hoàn thành mục đích của Ngài. Đống phân trong vũ trụ là Hồ Lửa, nơi chất chứa mọi điều dơ bẩn. Lu-ca14:35 chủ yếu chỉ về thời đại Vương Quốc sắp đến. Trong thời đại Vương Quốc, sẽ có trái đất, đất để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, và cũng sẽ có hồ lửa, tức đống phân. Cơ-đốc Giáo luôn luôn dạy người ta rằng chỉ có hai nơi –thiên đàng hoặc địa ngục. Nhưng trong câu này, Chúa Jesus nói về nơi thứ ba, rằng muối mất mặn, chẳng đáng cho đất cũng chẳng đáng để làm phân mà chỉ đáng quăng ra ngoài. Trụ muối mà vợ của Lót đã trở thành nằm ở đâu? Ở trên trời hay trong Sô-đôm? Nó không ở trong hai nơi này mà ở trong nơi thứ ba. Dầu đã đọc hết Phúc Âm Lu-ca, có bao giờ anh em thấy rằng trong chương này có ba nơi không? Anh em sẽ ở đâu –trên đất, trong đống phân hay bị ném vào nơi thứ ba?

Trong Ma-thi-ơ 25:30, Chúa phán rằng người đầy tớ vô ích sẽ bị ném vào nơi tối tăm ở ngoài. Nơi tối tăm ở ngoài chắc hẳn cũng là nơi thứ ba. Kinh Thánh không nói nơi này sẽ là gì và ở đâu. Tuy nhiên, Kinh Thánh nói rằng nếu anh em là người đầy tớ biếng nhác, thì vào lúc Chúa đến, anh em sẽ không đáng cho đất vì anh em vô dụng, cũng không thích hợp cho đống phân vì anh em đã được cứu. Thế thì anh em sẽ ở đâu? Ở nơi thứ ba, một nơi bên ngoài Vương Quốc vinh hiển và ngoài Hồ Lửa. Rất ít Cơ-đốc nhân thấy rằng trong Kinh Thánh có một nơi thứ ba sắm sẵn cho những người được cứu nhưng thất bại. Đây là một lời cảnh tỉnh cho chúng ta.

Chúng ta cần được ấn tượng sâu xa rằng trong sự khải thị đầy đủ của Lời thần thượng về con người, có ba nơi –một nơi dành cho sự cứu rỗi, một nơi dành cho sự diệt vong và một nơi dành cho sự xấu hổ. Vợ của Lót ở đâu? Dầu đã được cứu, nhưng bà đã ở trong nơi thứ ba, nơi xấu hổ. Đây là sự dạy dỗ của Chúa Jesus trong Phúc Âm Lu-ca. Đừng cố tranh cãi về điều này.

c) Những Tín Đồ Sống Trong Thế Gian Như Người Thế Gian 
Và Tìm Cách Cứu Hồn Mình

Những tín đồ sống trong thế gian như những người thế gian và tìm cách cứu hồn, sự sống thuộc hồn, sẽ bị xấu hổ như vợ của Lót và sẽ đánh mất hồn mình khi Chúa trở lại (Lu. 17:28-33). Phần lớn Cơ-đốc nhân đều giống như vậy. Dầu là tín đồ, nhưng họ sống như những người thế gian, mua sắm và ăn mặc như người thế gian. Vì họ sống và bước đi giống như người thế gian nên không có sự khác biệt giữa họ và người thế gian.

Cứu hồn nghĩa là từ chối chịu khổ vì cớ Chúa. Những Cơ-đốc nhân cứu hồn mình thích có niềm vui riêng. Họ nói: “Có gì sai khi đi xem thi đấu thể thao? Chẳng có gì tội lỗi cả”. Dầu điều đó có thể không là tội, nhưng thuộc về thế giới. Tôi không nói rằng Cơ-đốc nhân không nên rèn luyện thân thể để có sức khỏe. Chắc chắn chúng ta cần điều đó. Nhưng một khi bất kỳ hình thức tập luyện nào trở thành môn thể thao hay sự giải trí, nó là thế giới. Nếu anh em vui hưởng và thích thú với nó, nghĩa là anh em đang cứu hồn mình. Hễ có bất kỳ sự vui hưởng nào thuộc tâm lý và thế giới là cứu hồn mình.

Ngày nay không phải lúc để chúng ta, là Cơ-đốc nhân, có sự thỏa mãn hay sự thưởng thức thuộc tâm lý và thế giới; đây là lúc để chúng ta chịu khổ trong hồn, trong tâm lý của mình. Miễn là chúng ta vẫn còn hiện hữu thì tốt rồi. Chúng ta không nên tìm kiếm sự thỏa mãn thuộc tâm lý và thế giới. Kể từ Thế Chiến II, ai là người đã rao giảng một lời cảnh tỉnh như vậy? Trong suốt 31 năm qua, tôi vẫn thường xuyên quan sát và theo dõi, nhưng không nghe được một lời cảnh tỉnh hay cảnh báo nào bảo rằng Cơ-đốc nhân không nên sống trên đất này để vui hưởng những điều thuộc tâm lý và thế giới, rằng chúng ta phải chịu mất mát mọi loại thú vui và giải trí. Việc vui hưởng âm nhạc ở nhà có thể là một sự cứu hồn anh em. Nhiều Cơ-đốc nhân không thể đắc thắng cái ti-vi của họ. Việc xem ti-vi có thể là một sự cứu hồn. Tôi không tôn giáo cũng không luật pháp, nhưng tôi nói rằng hôm nay không phải là lúc để chúng ta vui thích những điều thuộc tâm lý và thế giới; đây là lúc để chúng ta chịu khổ trong hồn. Sự chịu khổ trong hồn như vậy là để cứu hồn. Nếu không sẵn sàng chịu khổ để cứu hồn, anh em sẽ bị hổ thẹn như vợ của Lót và đánh mất hồn mình khi Chúa trở lại.

Thật sai lầm khi dạy rằng tất cả Cơ-đốc nhân sẽ được cất lên cùng một lúc khi Chúa trở lại. Sự dạy dỗ đó làm mê muội cảm nhận thuộc linh của dân Chúa. Trong Lu-ca 17:34-35, Chúa phán: “Ta nói cùng các ngươi, trong đêm đó sẽ có hai người trên một giường, người này được đem đi, còn kẻ kia bị để lại. Sẽ có hai người đàn bà xay chung, người này được đem đi, còn kẻ kia bị để lại”. Anh em có thể tranh luận rằng: “Người được đem đi là tín đồ, còn người kia là kẻ không tin”. Nhưng đó là sự giải thích của anh em. Trong khi cả hai là như nhau, làm cùng một điều, ở cùng một nơi, nhưng chỉ có Chúa mới biết ai đang thực sự vì Ngài. Nếu đọc ngữ cảnh của Lu-ca 17:22-37, anh em sẽ thấy rằng lời này không được nói cho kẻ vô tín nhưng cho các môn đồ của Chúa. Đó là lời được giảng cho họ liên quan đến thời điểm trở lại của Ngài. “Hai” trong các câu 34 và 35 chỉ về hai loại môn đồ của Chúa, một loại người sẽ được cất đi và loại người kia sẽ bị để lại. Loại môn đồ sẽ được cất đi chắc chắn không giống vợ Lót. Môn đồ bị để lại sẽ giống như vợ của Lót. Đây là một lời cảnh tỉnh.

d) Những Người Con Của Đức Chúa Trời Không Ở Trong Chúa 
Như Ơn Xức Dầu Dạy Dỗ

Những người con của Đức Chúa Trời không ở trong Chúa là ơn xức dầu dạy dỗ sẽ bị hổ thẹn khi Chúa trở lại (1Giăng 2:27-28). Chúng ta, những người ở trong sự khôi phục của Chúa, đều biết sự dạy dỗ bề trong của ơn xức dầu bên trong là gì. Nhưng chúng ta có ở trong Chúa theo sự dạy dỗ của ơn xức dầu sống động bên trong chúng ta không? 1Giăng 2:27-28 truyền cho chúng ta hãy cứ ở trong Chúa theo ơn xức dầu này. Chẳng hạn, nếu anh em sắp đi mua sắm, và ơn xức dầu nói rằng đừng đi, anh em có đáp “Chúa ơi, A-men” không? Nếu có thì tốt. Nhưng nếu anh em đáp: “Chúa ơi, con sẽ không mua thứ gì xấu”, Chúa có thể đáp: “Ta không quan tâm việc con mua món hàng tốt hay xấu; chỉ là đừng đi!”. Chúng ta nên đơn sơ đáp: “Thưa Chúa, A-men, con chỉ cứ ở trong Ngài theo sự dạy dỗ của ơn xức dầu của Ngài bên trong”. Tất cả chúng ta cần ở trong Chúa như vậy.

Nếu không ở trong Chúa theo sự xức dầu, chúng ta sẽ “bị đặt vào chỗ hổ thẹn cách xa Ngài” (1Giăng 2:28). Cảm thấy xấu hổ là một điều, bị xấu hổ là một điều khác. Câu này không nói rằng chúng ta sẽ cảm thấy xấu hổ nhưng là “sẽ bị đặt vào chỗ xấu hổ”. Xin lưu ý rằng theo Hi văn, câu này không nói, như Bản King James, là “trước mặt Ngài” nhưng là “cách xa Ngài”. Giới từ Hi-lạp ở đây là apo, có nghĩa là “cách xa”. Nếu ở trong Chúa theo sự xức dầu, thì khi Ngài hiện ra, chúng ta sẽ có sự tin tưởng, biết chắc, dạn dĩ và bình an, không bị đặt cách xa Ngài. Theo nguyên văn, những từ trong tiếng Hi-lạp được dịch là “vào lúc Ngài đến” có nghĩa là “trong sự hiện diện Ngài”. Từ Hi-lạp của từ hiện diện  parousia, bao gồm cả nghĩa là hiện đến. Chúng ta có thể có sự hiện đến của Ngài nhưng không ở trong hiện diện Ngài. Chẳng hạn, Tổng Thống Hoa Kỳ có thể đến Anaheim tối nay, nhưng chỉ một số ít người bước vào trong hiện diện của ông, nghĩa là, vào trong parousia của ông. Chúa Jesus sẽ đến, nhưng anh em có xứng đáng ở trong hiện diện của Ngài không? Nếu sống theo cách thế giới, yêu mến thế giới và đặt Chúa sau hết trong đời sống mình, làm thế nào anh em có thể được đem vào hiện diện Ngài khi Ngài hiện đến? Chúng ta phải cứ ở trong Chúa theo sự xức dầu bề trong để có sự tin chắc, dạn dĩ và bảo đảm trước mặt Ngài trong hiện diện Ngài lúc Ngài hiện ra và không bị đặt vào chỗ hổ thẹn cách xa Ngài.

 Khi Chúa hiện ra, Ngài sẽ xử lý những người tin Ngài. Nếu những người tin Ngài ngày nay bước theo Ngài bằng cách cứ ở trong Ngài theo sự xức dầu bề trong thì họ sẽ có sự bình an, dạn dĩ, bảo đảm, tin chắc và sẽ được đem vào trong parousia, vào trong hiện diện Ngài. Nếu ngày nay họ không cứ ở trong Ngài, thì lúc Ngài hiện ra, họ sẽ bị đặt vào chỗ hổ thẹn cách xa Ngài. Bị đặt vào chỗ xấu hổ cách xa Ngài chắc chắn có nghĩa là bị đem đến nơi thứ ba, nơi không phải là lĩnh vực để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, cũng không phải là đống phân trong Hồ Lửa. Đó là nơi xấu hổ ở bên ngoài hiện diện Ngài. Một tín đồ bị đặt vào chỗ hổ thẹn cách xa Ngài thì không hư mất. Người đó vẫn là người đã được cứu, nhưng phải bị đặt vào chỗ xấu hổ. Việc bị đặt vào chỗ xấu hổ sẽ là một sự xử lý và kỷ luật đối với họ; đó sẽ là hình phạt mà Chúa tối cao thi hành trên tín đồ bị thất bại. Vấn đề này hoàn toàn rõ ràng và rất nghiêm trọng.

e) Những Tín Đồ Không Chăm Chú Chờ Đợi Sự Trở Lại Của Chúa 
Và Không Sống Một Đời Sống Đúng Đắn

Những tín đồ không chăm chú chờ đợi sự trở lại của Chúa và không sống một đời sống đúng đắn sẽ bị hổ thẹn (Khải. 16:15). Trong Khải Thị 16:15, Chúa bảo chúng ta phải gìn giữ áo xống. Trong Kinh Thánh, áo xống luôn tượng trưng cho những gì chúng ta là trong bước đi và nếp sống. Chúng ta phải có một bước đi trong sạch, và áo xống thuộc linh của chúng ta phải tinh sạch, trắng và được Đức Chúa Trời chấp nhận. Chúng ta phải chăm chú chờ đợi sự hiện đến của Chúa và giữ áo xống tinh sạch. Nếu sống một đời sống tinh sạch như vậy, chúng ta sẽ không bị lõa lồ khi Ngài đến và người ta sẽ không thấy sự xấu hổ của chúng ta. Câu này cũng nói rằng Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngài sẽ không đến như một vị khách công bố trước giờ đến. Khi chúng ta nghĩ rằng kẻ trộm sẽ không đến, thì nó đến. Tôi được biết rằng kẻ trộm thường đến khoảng ba hay bốn giờ sáng, vào lúc mọi người đều ngủ say. Chúng ta cần tỉnh táo và thức canh. Bằng không, Chúa sẽ đến như kẻ trộm, và sự lõa lồ của chúng ta sẽ bị phơi bày. Một lần nữa, lời này bảo chúng ta rằng có khả năng là người được cứu sẽ bị hổ thẹn lúc Chúa trở lại.

f) Những Người Của Đức Chúa Trời 
Không Sống Và Bước Đi Theo Gia Tể Ngài

Những người của Đức Chúa Trời không sống và bước đi theo đường lối Ngài, tức theo gia tể Ngài, sẽ không hoàn thành mục đích của Ngài và sẽ bị hổ thẹn. Như chúng ta đã thấy, đây là ý nghĩa của trụ muối. Đừng tiếp nhận điều này chỉ như một sự nghiên cứu Kinh Thánh, nhưng như một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta. Ngay cả chúng ta là những người ở trong sự khôi phục của Chúa cũng không thể phóng túng hay dửng dưng. Chúng ta phải tỉnh táo và xem tình trạng này là hết sức nghiêm trọng. Chúng ta cần có một đời sống và bước đi hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Khi đó, vào lúc Chúa hiện ra, chúng ta sẽ ở trong parousia của Ngài, không bị ném vào nơi thứ ba, nơi xấu hổ.

 

Bài Năm Mươi Bốn

Sống Trong Mối Tương Giao 
Với Đức Chúa Trời

Dòng Dõi Bởi Tội Loạn Luân

 Như tôi đã nhiều lần bày tỏ, hầu như tất cả các hạt giống của sự khải thị thần thượng đều được tìm thấy trong Sách Sáng Thế Ký. Hạt giống là hình thức sơ khai của một điều gì đó. Dù kích thước nhỏ bé và hình dạng đơn giản, nhưng một khi đã được gieo vào cánh đồng, hạt giống sẽ lớn lên. Khi lớn lên, nó sẽ có một hình dạng khác. Ban đầu là mầm, sau đó nó phát triển đầy đủ. Mặc dù hình dạng sau cùng của sự phát triển đó khác với hình dạng của hạt giống, nhưng mọi nguyên tắc và phương diện chính yếu của nó đều được tìm thấy bên trong hạt giống. Nếu muốn hiểu Sáng Thế Ký chương 19, chúng ta phải xem nó như một hạt giống có sự lớn lên, phát triển, và mùa gặt của nó trong các Sách tiếp theo của Kinh Thánh. Mặc dù phần ghi chép về Lót và các con gái của ông trong Sáng Thế Ký 19:30-38 là một hạt giống tiêu cực, nói về một điều rất xấu xa là tội loạn luân, nhưng lại phục vụ cho một mục đích tích cực là cho chúng ta lời cảnh báo mạnh mẽ, nghiêm trọng.

5) Dòng Dõi Bởi Tội Loạn Luân

Trong bài này, chúng ta phải thấy chân dung của một điều xấu xa nhất –tội loạn luân. Sáng Thế Ký 19:30-38 có lẽ là trường hợp loạn luân đầu tiên được ghi lại trong lịch sử loài người, là một phần trong phân đoạn nói về việc sống trong mối tương giao với Đức Chúa Trời. Khi xem xét vấn đề này, chúng ta phải đề cập đến sáu điểm: gia đình, người cha, người mẹ, các con gái, dòng dõi và sự thương xót cao vời không dò lường được của Đức Chúa Trời.

Thứ nhất, chúng ta có gia đình, một nhóm người; thứ hai, chúng ta có người cha –người đứng đầu nhóm người này. Thứ ba, chúng ta có người mẹ –người giúp đỡ cho người đứng đầu này. Người đứng đầu của bất kỳ nhóm người nào đều cần sự giúp đỡ. Người giúp đỡ đúng đắn trong một gia đình là người vợ, và trong Kinh Thánh, người vợ được gọi là người giúp đỡ. Theo hình bóng, người vợ trong gia đình tiêu biểu cho người giúp đỡ trong sự sống. Quan niệm này phù hợp với những nguyên tắc của Kinh Thánh. Hãy xem trường hợp của Sa-ra. Áp-ra-ham có gia đình là vì mục đích của Đức Chúa Trời, vì chỉ riêng Áp-ra-ham không thể làm gì để hoàn thành mục đích của Ngài. Ông cần một người giúp đỡ trong sự sống. Dù ông đã quay sang A-ga để tìm sự giúp đỡ, nhưng A-ga không phải là người giúp đỡ trong sự sống mà là người giúp đỡ trong xác thịt. Sa-ra là người giúp đỡ duy nhất, người có chức năng trong sự sống. Không có bà, Áp-ra-ham không bao giờ có thể sinh ra Y-sác để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Ngày nay, Hội Thánh là gia đình thuộc linh, trong đó cũng cần đến chức năng đúng đắn trong sự sống để sản sinh “Y-sác” nhằm hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Như chúng ta sẽ thấy, vào một thời điểm nào đó, nhóm gia đình của Lót đã đánh mất chức năng trong sự sống vì người vợ đã trở thành trụ muối. Lẽ ra bà phải mặn và cứ giữ hương vị quí báu này, nhưng vì yêu mến thế giới, bà đã đánh mất chức năng trong sự sống. Theo hình bóng, trở thành một trụ muối cho thấy việc đánh mất chức năng trong sự sống. Mặc dù đã có một nhóm với một người dẫn dắt, nhưng không có người vợ có chức năng trong sự sống, mà chỉ có một cây trụ xấu hổ. Điều này đúng với nhiều nhóm Cơ-đốc nhân ngày nay. Mặc dù các nhóm này có những người lãnh đạo, nhưng họ không có người vợ đúng đắn với chức năng đúng đắn trong sự sống.

Vì gia đình Lót đã đánh mất chức năng trong sự sống nên họ có các thành viên không đúng đắn –các con gái. Tôi không vui khi gọi các thành viên trong nhóm của Lót là các con gái, vì các con gái là một từ tốt đẹp. Thế thì, họ là loại người gì? Họ là các con gái hay các người vợ hay các người mẹ? Tôi hoàn toàn không biết gọi họ là gì. Nếu gọi họ là các con gái, anh em phải nói rằng họ là những cô con gái loạn luân. Mặc dù họ có thể là những người mẹ, nhưng họ là những người mẹ loạn luân. Tôi cảm thấy xấu hổ ngay cả khi nói về những gì họ đã làm. Sau khi đã nằm với cha, cô gái lớn đã khích lệ cô thứ hai cũng làm như vậy. Thật xấu hổ biết bao! Đây là các thành viên trong nhóm của Lót. Ngày nay, nhiều nhóm Cơ-đốc cũng có các thành viên không đúng đắn như vậy. Như các con gái của Lót, họ ao ước có dòng dõi, nhưng không quan tâm đến phương tiện đúng đắn. Họ có thể nói “Chúng ta hãy đi chinh phục hồn người”, nhưng họ chinh phục hồn người bằng đường lối loạn luân thuộc linh.

Trong Sáng Thế Ký 19: 30-38, chúng ta có nhóm người, người lãnh đạo, người giúp đỡ trong sự sống, các thành viên, và dòng dõi bởi tội loạn luân. Nhưng ngợi khen Chúa, cuối cùng, sự thương xót cao vời và không dò lường được của Đức Chúa Trời được nhìn thấy nơi một trong những hậu tự ra từ sự loạn luân này. Ru-tơ, một người Mô-áp, hậu tự của Lót với con gái ông, đã trở thành tổ mẫu của Đa-vít và là tổ mẫu của Đấng Christ. Điều này không phải là sự thương xót cao vời, không dò lường được của Đức Chúa Trời sao? Tuy nhiên khi nghe điều này, chúng ta không được nói rằng: “Vậy, chúng ta hãy làm ác để điều thiện có thể đến”.

a) Gia đình –Nhóm

Bây giờ chúng ta hãy xem xét sáu điểm này cách chi tiết hơn. Dựa trên nguyên tắc mọi điều trong Sáng Thế Ký đều là hạt giống, chúng ta có thể nói rằng lều trại của Áp-ra-ham, nơi ông có mối tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời ở mức độ con người, là bức tranh thu nhỏ về Đền Tạm mà Đức Chúa Trời đã truyền cho hậu tự Áp-ra-ham phải xây dựng như nơi cư ngụ của Ngài trên đất. Lều trại của Áp-ra-ham là hạt giống, và Đền Tạm mà con cái Ítx-ra-ên dựng lên trong đồng vắng là sự lớn lên. Đền Thờ được xây dựng trong miền đất Ca-na-an tốt lành là sự phát triển hơn nữa của hạt giống này. Là nơi cư ngụ thật của Đức Chúa Trời trên đất, Hội Thánh ngày nay là sự hoàn thành của những gì được mô tả trong Cựu-ước bởi lều trại của Áp-ra-ham, Đền Tạm Và Đền Thờ. Cuối cùng Giê-ru-sa-lem Mới sẽ là mùa gặt sau cùng của hạt giống này. Khải Thị 21:3 nói rằng “Đền Tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người và Ngài sẽ ở với họ”. Do đó, trong Sáng Thế Ký chương 18, chúng ta có hạt giống còn trong Khải Thị chương 21 chúng ta có mùa gặt.

Cùng một nguyên tắc, trong thời của Áp-ra-ham và Lót, Đức Chúa Trời đã có một dân trên đất. Dân của Ngài gồm hai gia đình, gia đình của Áp-ra-ham và gia đình của Lót. Đây là hạt giống, bức tranh thu nhỏ về dân của Đức Chúa Trời trong các thời đại tiếp theo. Trước hết, con cái Ítx-ra-ên là sự phát triển của hạt giống về dân của Đức Chúa Trời, và bây giờ Hội Thánh ngày nay là sự tiếp nối của sự phát triển này. Cuối cùng, trong Giê-ru-sa-lem Mới chúng ta sẽ thấy tất cả những người được chuộc trải qua các thời đại sẽ là mùa gặt đầy đủ về dân của Đức Chúa Trời trên đất. Một lần nữa chúng ta có hạt giống, sự phát triển và mùa gặt. Bởi điều này, chúng ta thấy những gì có trong hạt giống cũng sẽ được tìm thấy trong sự phát triển [của hạt giống].

Ban đầu, gia đình của Áp-ra-ham và gia đình của Lót, dân của Đức Chúa Trời, là một. Tuy nhiên, vào một thời điểm nào đó, sự chia rẽ bước vào và họ bị chia ra. Khi là một, họ không phải là một nhóm; họ là dân của Đức Chúa Trời, một dân của Đức Chúa Trời. Khi sự chia rẽ đến, nó tạo ra một nhóm tự do. Nhóm tự do thời xưa này là hạt giống và bức tranh thu nhỏ của các nhóm tự do ngày nay. Các nhóm tự do giữa vòng dân Đức Chúa Trời ngày nay thực ra là sự phát triển thêm của hạt giống này. Sự chia rẽ do Lót gieo ra đã phát triển sau thời của Sa-lô-môn khi con cái Ítx-ra-ên bị chia rẽ và một nhóm tự do được sản sinh. Nhóm tự do đó, tức nước Ítx-ra-ên, không bao giờ được Đức Chúa Trời công nhận. Đức Chúa Trời chỉ công nhận nước Giu-đa vì nước này ở trên lập trường đúng đắn. Nguyên tắc tương tự trong thời đại Hội Thánh. Toàn thể Hội Thánh nên là một dân của Đức Chúa Trời. Vào những ngày đầu, Hội Thánh là một duy nhất. Nhưng hết sự chia rẽ này đến sự chia rẽ khác đã đến, tạo ra nhiều nhóm tự do. Ngợi khen Chúa vì sự chia rẽ này sẽ không tiếp tục trong trời mới đất mới. Nó sẽ bị kết liễu bởi sự trở lại của Chúa.

(1) Ở Ngoài Chứng Nhân Và Chứng Cớ Của Đức Chúa Trời

Chúng ta đã thấy việc Lót phân rẽ khỏi Áp-ra-ham là hạt giống của cả sự chia rẽ lẫn các nhóm tự do ngày nay. Ai là nguyên nhân của sự chia rẽ đó? Lỗi lầm không về phía Áp-ra-ham, nhưng về phía Lót. Các thành viên của gia đình Lót có thể tranh luận: “Chúng tôi không phải là dân Đức Chúa Trời sao? Tại sao anh em, những thành viên của gia đình Áp-ra-ham, luôn nói rằng anh em là dân của Đức Chúa Trời?” Đúng, gia đình Lót là một phần của dân Đức Chúa Trời, nhưng họ đã lìa bỏ chứng nhân và chứng cớ của Đức Chúa Trời, tức là Áp-ra-ham và những gì ông đang làm chứng. Chứng nhân và chứng cớ của Đức Chúa Trời ở nơi lều trại của Áp-ra-ham, cạnh cây dẻ bộp của Mam-rê tại Hếp-rôn, không ở với Lót trong thành Sô-đôm. Trong chương 18 và 19, chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời và hai thiên sứ vui vẻ ở lại với Áp-ra-ham, thưởng thức bữa ăn tối và sự tương giao thân mật với ông. Nhưng khi các thiên sứ đi đến thành Sô-đôm gian ác, Đức Chúa Trời đã không đi với họ, Ngài vẫn ở lại với Áp-ra-ham. Cả hai nhóm đều là dân của Đức Chúa Trời, nhưng sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở đâu? Chỉ với gia đình của Áp-ra-ham. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở với gia đình Áp-ra-ham vì gia đình của ông là dân tiêu biểu của Đức Chúa Trời và có chỗ đứng đúng đắn là chứng cớ của Đức Chúa Trời. Dù Lót là một phần của dân Đức Chúa Trời, ông không ở trên lập trường đúng đắn, tại cây dẻ bộp của Mam-rê ở Hếp-rôn; nhưng ông đã ở trong Sô-đôm, trên lập trường chia rẽ và các nhóm tự do. Toàn thể dân của Đức Chúa Trời, tức gia đình của Ngài, nên ở tại cây dẻ bộp của Mam-rê ở Hếp-rôn, nơi Đức Chúa Trời có thể đến thăm họ cách thân mật, gần gũi. Ở đây, chúng ta có thể thấy sự khác nhau giữa Hội Thánh và các nhóm tự do: tất cả các nhóm tự do đều là dân của Đức Chúa Trời, nhưng Hội Thánh ở tại “cây dẻ bộp của Mam-rê” ở “Hếp-rôn”, đang liên tục vui hưởng sự hiện diện thân mật của Đức Chúa Trời. Còn các nhóm tự do thì sao? Giống như trường hợp của gia đình Lót, Đức Chúa Trời không gặp gỡ họ. Họ là dân Ngài và Ngài chăm sóc họ, không quên họ, nhưng sự hiện diện Ngài không ở với họ. Sau khi các thiên sứ rời khỏi đó đi đến Sô-đôm để giải cứu Lót và gia đình ông, sự hiện diện của Đức Chúa Trời vẫn ở với Áp-ra-ham –bạn yêu dấu của Ngài. Anh em ở đâu –với gia đình của Áp-ra-ham tại Hếp-rôn hay với nhóm tự do của Lót ở Sô-đôm?

Kinh Thánh không nói Lót là một người công chính sao? Đúng, trong 2Phi-e-rơ 2:7-8 nói rõ rằng Lót là người công chính. Những người trong các nhóm tự do không được cứu sao? Chắc chắn họ được cứu. Nhưng hãy nhìn xem tình trạng: những người trong các nhóm tự do đang ở một nơi chịu sự định tội của Đức Chúa Trời. Điều này thật sáng tỏ trong sự soi sáng của sự khải thị thần thượng. Giả sử anh em đang sống trong thời của Áp-ra-ham và Lót, anh em sẽ ở với nhóm nào? Có lẽ anh em sẽ nói “Anh nói rằng nhóm của Lót là một sự chia rẽ. [Thế thì,] nhóm của Áp-ra-ham không là một sự chia rẽ sao? Cả nhóm của Áp-ra-ham lẫn nhóm của Lót đều không phải là toàn bộ Thân Thể. Cả hai đều như nhau. Tại sao anh em tạo quá nhiều sự khác biệt giữa gia đình của Áp-ra-ham và gia đình của Lót trong khi cả hai đều là dân của Đức Chúa Trời? Vì cả hai đều là dân của Đức Chúa Trời, nên hôm nay tôi sẽ ở với Lót và ngày mai tôi sẽ đến thăm Áp-ra-ham”. Dù anh em có thể ở với Lót, nhưng Đức Chúa Trời thì không. Điều này tạo nên một khác biệt lớn.

Ngoài gia đình đứng trên lập trường có sự tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời, còn có một nhóm tự do. Tình trạng ngày nay là sự phát triển thêm của hạt giống này. Hãy thành thật và thẳng thắn về các nhóm tự do. Có chứng cớ của Đức Chúa Trời giữa họ không? Không, Đức Chúa Trời không được biểu lộ trong các nhóm này. Họ làm bất cứ điều gì họ thích và với họ, không có chứng nhân hay chứng cớ. Gia đình Lót đã trở thành một nhóm tự do như vậy vì đã lìa khỏi Áp-ra-ham và những gì ông làm chứng. Nếu tôi là Lót, và nếu có ánh sáng mà chúng ta có ngày nay, tôi sẽ nói: “Chú Áp-ra-ham ơi, dù chú có buộc cháu phải rời chú, cháu cũng sẽ không đi. Nếu chú không thích cháu, cháu vẫn sẽ ôm hôn chú. Cháu sẽ ở với chú vì chú là chứng nhân của Đức Chúa Trời và vì chứng cớ của Đức Chúa Trời ở với chú. Cháu sẽ không bao giờ rời bỏ chứng cớ này”. Ngày nay, chúng ta phải có thái độ này. Mặc dù có thể không vui với các anh em trong Hội Thánh chúng ta phải nói “Anh em ơi, dù tôi không thấy vui với anh em và dù anh em có thể ngược đãi tôi, tôi sẽ không bao giờ lìa bỏ chứng cớ của Đức Chúa Trời”. Nguồn, gốc rễ của nan đề về nhóm tự do thời xưa là do lìa bỏ chứng nhân và chứng cớ của Đức Chúa Trời.

Nhiều người trong chúng ta có thể làm chứng, khi lìa khỏi các giáo phái, chúng ta vui mừng và cảm thấy như thể mình ở trên các từng trời. Nhưng lìa khỏi Hội Thánh là một vấn đề hoàn toàn khác. Nếu bỏ Hội Thánh, sự vui mừng của anh em sẽ biến mất và sẽ không trở lại cho đến khi anh em quay về với chứng cớ của Đức Chúa Trời. Tôi không nói điều này cách khinh suất. Không có trường hợp ngoại lệ, những ai rời bỏ Hội Thánh đều đánh mất sự vui mừng. Khi một người lìa khỏi Hội Thánh, thật khó để anh ta trở lại. Hãy nhìn xem Lót: mặc dù được giải cứu sau khi các vua bị giết, nhưng ông đã từ chối trở về với Áp-ra-ham. Ngay cả sau khi được giải thoát khỏi sự hủy diệt Sô-đôm, ông vẫn không chịu trở lại với Áp-ra-ham. Phần sau chúng ta sẽ thấy Lót vẫn có sự chọn lựa riêng của mình . Việc chúng ta vui mừng sau khi lìa khỏi các giáo phái nhưng lại mất niềm vui sau khi lìa bỏ Hội Thánh chứng tỏ Hội Thánh là gì và giáo phái là gì. Hội Thánh có sự hiện diện của Đức Chúa Trời còn giáo phái không có sự hiện diện của Ngài. Mặc dù không thể phân biệt sự khác nhau giữa hai điều này bằng tâm trí, nhưng có thể biện biệt bởi cảm nhận của sự sống sâu trong linh chúng ta.

(2) Bị Trôi Giạt Vào Thành Gian Ac

Sau khi nhóm của Lót lìa bỏ chứng nhân và chứng cớ của Đức Chúa Trời, họ bị trôi vào thành Sô-đôm gian ác (13:12-13; 19:1). Nếu lìa bỏ nếp sống Hội Thánh, anh em sẽ thất bại. Như khúc gỗ trôi giạt không thể kiểm soát phương hướng mà bị cuốn theo dòng nước, anh em cũng sẽ trôi theo trào lưu của thời đại này và cứ trôi xuống cho đến khi thấy mình ở trong một thành gian ác.

(3) Được Giải Cứu Nhưng Vẫn Có Lựa Chọn Riêng

Sau khi được giải cứu khỏi sự hủy diệt của Sô-đôm, Lót vẫn có lựa chọn riêng (19:20-23). Ông nài xin thiên sứ giải cứu cho phép ông đến một thành nhỏ tên là Xoa. Đức Chúa Trời thương xót và các thiên sứ chấp nhận lời yêu cầu của ông. Nếu xem xét lịch sử của nhiều nhóm bất đồng, anh em sẽ thấy nó giống như vậy. Đầu tiên, họ ở trong một thành lớn và Đức Chúa Trời không ban phước cho họ. Và sau khi Đức Chúa Trời can thiệp, họ dời đến thành Xoa, một thành nhỏ cách xa chứng cớ của Đức Chúa Trời. Trước hết, họ lìa bỏ chứng cớ của Đức Chúa Trời và trôi giạt vào tình trạng bị Đức Chúa Trời kết án, và sau đó, vì vẫn có sự chọn lựa riêng nên họ đến một nơi nhỏ hơn.

(4) Người Cha Bị Cách Ly 
Với Chứng Nhân Và Chứng Cớ Của Đức Chúa Trời

Cuối cùng, Lót đến ở trong một cái hang (19:30). Giống như Lót, một số nhóm tự do sau khi lìa thành phố lớn và đi đến một thành nhỏ, đã sống trong một cái hang. Họ tự cô lập mình với phần còn lại của dân Đức Chúa Trời, từ chối tương giao với dân Ngài. Họ có thể nói: “Tại sao anh em nói rằng anh em là Hội Thánh còn chúng tôi không phải Hội Thánh?” Nếu họ là Hội Thánh, họ không nên ở trong hang, nhưng bước ra để tương giao với dân Đức Chúa Trời. Nhưng họ chỉ quan tâm đến nhóm nhỏ của mình trong hang đó. Điều họ có là nếp sống trong hang, không phải nếp sống Hội Thánh.

b) Người Cha –Người Lãnh Đạo

(1) Say Rượu Thế Giới Do Ước Muốn Có Dòng Dõi Vững Chắc

Bây giờ chúng ta đến với người cha –người lãnh đạo. Ở trong hang, Lót say rượu (19:32-35). Như tôi đã nói trước, thật kỳ lạ khi những người trốn thoát này có rượu ở trong hang. Họ nghiện rượu đến nỗi phải đem theo khi trốn khỏi Sô-đôm. Rượu là chất làm cho mê muội. Khi ở trong hang, các con gái của Lót không có sự tương giao đúng đắn với ông, họ không nói: “Thưa cha, mẹ đã trở thành trụ muối và chúng con không có chồng. Làm thế nào chúng con có dòng dõi? Chúng con phải làm gì cho vấn đề này. Tất cả chúng ta cùng cầu nguyện đi?” Nếu họ làm điều này hẳn sẽ không phạm tội loạn luân. Nhưng họ đã không tương giao trong linh và cũng không cầu nguyện với Chúa. Cô lớn –người có nhiều kinh nghiệm hơn về những chất gây nghiện của Sô-đôm và đã từng mê mẩn bởi chúng– đề nghị với cô em rằng họ sẽ làm cho cha say rượu rồi ăn nằm với ông, để bởi ông họ có thể có dòng dõi. Nếu suy xét tình trạng ngày nay, anh em sẽ thấy rằng hầu như người lãnh đạo của mỗi nhóm tự do đều bị say và mê muội bởi một loại rượu nào đó. Một người lãnh đạo đúng đắn phải tỉnh táo. Lẽ ra Lót phải nói với con gái khi đem rượu đến với ông rằng “Con đang làm gì vậy? Hãy ném ngay”. Nhưng Lót không phải là người tỉnh táo; ông đã uống, thậm chí uống một cách không tự chủ. Ông say đến mức các con gái đến nằm với ông mà ông không hay biết gì. Phần lớn những người lãnh đạo của các nhóm tự do mà đã bị say bởi một loại rượu nào đó thường nói, hành động và quyết định nhiều điều cách mê muội. Do tình trạng mê muội của rất nhiều người lãnh đạo nên hầu hết các thành viên trong nhóm của họ đã bị đờ đẫn.

(2) Lim Dim Và Ngủ

Sau khi say, Lót lim dim và ngủ. Tình trạng tương tự rất phổ biến giữa các nhóm tự do ngày nay. Về chứng cớ của Đức Chúa Trời, những người lãnh đạo đều đang lim dim và ngủ. Họ có thể rất năng động trong những điều họ theo đuổi, nhưng về chứng cớ của Đức Chúa Trời thì họ buồn ngủ.

(3) Bị Mê Muội

Hơn nữa, Lót đã bị mê muội, mất cảm nhận của sự sống (19:33b, 35b). Khi con gái lớn đến nằm với ông, “ông chẳng hay lúc nào nàng nằm, lúc nào nàng dậy”. Điều đó cũng xảy ra với cô con thứ trong đêm kế tiếp. Còn tội nào vượt hơn tội này không? Thậm chí ông không biết gì về việc các con gái nằm với mình! Những người lãnh đạo của nhiều nhóm tự do ngày nay cũng đã mất cảm nhận của sự sống! Họ không ý thức về sự vi phạm một số nguyên tắc quản trị mà Đức Chúa Trời ấn định.

c) Người Mẹ –Người Giúp Đỡ Trong Sự Sống

Chúng ta đã thấy người mẹ, cũng là người vợ, lẽ ra là người giúp đỡ trong sự sống, nhưng đã trở thành trụ muối vì yêu mến thế giới (19:26). Khi gia đình Lót vào trong hang, không có sự thực hiện chức năng của sự sống vì không có chức năng của người vợ đúng đắn. Kết quả là họ phạm tội loạn luân, dùng điều tội lỗi như vậy để thay thế chức năng sự sống đã bị mất. Đây cũng chính là tình trạng giữa nhiều nhóm gọi là Cơ-đốc. Họ đã đánh mất chức năng của Thân Thể Đấng Christ, chức năng đúng đắn của sự sống, và dùng các phương pháp thế giới để lấp đầy khoảng trống đó. Như nhóm của Lót, họ không thể sản sinh “Y-sác đúng đắn” để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Vì dùng sự loạn luân để có dòng dõi nên họ đã sản sinh những “Mô-áp” và “Am-môn”.

d) Các Con Gái –Các Thành Viên

Chúng ta đã thấy người lãnh đạo đã bị say, u mê và chức năng của sự sống đã bị mất. Nhưng các con gái, các thành viên của nhóm tự do này vẫn muốn kết quả và có sự gia tăng. Dù không có sự lãnh đạo đúng đắn cũng không có chức năng của sự sống, nhưng họ có một phương cách tội lỗi để đạt được dòng dõi. Giữa các nhóm tự do ngày nay cũng đúng như vậy. Để kết quả, chúng ta nên sống bởi Đấng Christ, sống ra Đấng Christ, cầu nguyện và giúp người khác tiếp nhận Lời Sống của Đức Chúa Trời để họ có thể được tái sinh. Đây là cách sản sinh kết quả đúng đắn là “Y-sác” để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Nhưng hãy nhìn tình trạng ngày nay: một số nhóm dùng nhạc rock, khiêu vũ, kịch nghệ, phim ảnh và trò chơi để thỏa mãn sự khao khát được gia tăng. Trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, đây là sự loạn luân thuộc linh. Các nhóm tự do chấp nhận những phương pháp này vì người vợ yêu mến thế giới đã đánh mất chức năng. Trong các Hội Thánh, chúng ta cần chức năng của sự sống để sinh sản dòng dõi. Một khi đã đánh mất người vợ đúng đắn với chức năng trong sự sống, người ta đã dùng những phương tiện xấu xa, thế giới để bảo đảm sự gia tăng. Đây là cách “loạn luân”, sinh ra những “Am-môn” và “Mô-áp”.

(1) Mất Cảm Nhận Về Đạo Đức

Các con gái của Lót đã mất cảm nhận về đạo đức vì đã bị mê muội bởi trào lưu gian ác của thế giới tội lỗi. Nếu có một chút cảm nhận về đạo đức, họ sẽ không bao giờ nghĩ đến việc nằm với cha. Cô lớn đã nằm với cha mà không có bất kỳ cảm nhận xấu hổ nào và đã khuyến khích cô em cũng làm như vậy. Họ nói với nhau về điều này một cách bình an, không có cảm nhận tội lỗi nào. Khi tất cả họ còn ở trong Sô-đôm, thậm chí Lót đã đề nghị hy sinh các con gái ông để thỏa mãn những người Sô-đôm đang buông mình trong tư dục đồng giới của họ. Làm thế nào một người có cảm nhận đúng đắn về đạo đức thuộc linh lại có thể đề nghị một điều như vậy? Lẽ ra ông phải nói “Hãy giết tôi và các vị khách của tôi, chứ tôi không bao giờ làm điều này với các con gái đồng trinh của tôi”. Cảm nhận về đạo đức của Lót ở đâu? Lót đã bị mê muội. Hậu quả là các con gái của ông đã không có cảm nhận về đạo đức, và nhân tính của họ đã suy đồi đến mức thấp nhất. Ngày nay, một số nhóm tự do cũng đã bị mê muội bởi trào lưu gian ác của thế giới tội lỗi, và chỉ quan tâm đến sự thành công, không quan tâm đến phương tiện. Họ cần được giải mê bởi lời tỉnh thức của Đức Chúa Trời.

(2) Khao Khát Có Dòng Dõi Bất Kể Phương Tiện

Các con gái bị mê muội của Lót khao khát có dòng dõi bất kể phương tiện (19:31-35). Họ chỉ quan tâm đến mục đích, không quan tâm đến phương cách. Nhiều nhóm Cơ-đốc giống như vậy. Họ nói: “Có gì sai với sự rao giảng Phúc Âm theo cách này miễn là chúng tôi đem nhiều người đến với Đấng Christ? Chúng tôi đã chinh phục nhiều người. Còn các anh đã chinh phục được bao nhiêu hồn người?” Họ quan tâm chinh phục hồn người nhưng không quan tâm đến cách đúng đắn để làm điều đó.

(3) Phạm Tội Loạn Luân

Các con gái của Lót đã phạm tội loạn luân, phá vỡ nguyên tắc quản trị mà Đức Chúa Trời đã ấn định (19:36). Ở đây chúng ta cần liên hệ đến Ma-thi-ơ 7:21-23. Chúa phán rằng khi Ngài trở lại, những người gọi là công nhân Cơ-đốc sẽ nói: “Lạy Chúa, chúng tôi há chẳng từng nhơn danh Chúa mà nói tiên tri sao? Nhơn danh Chúa mà đuổi quỉ sao? Và nhơn danh Chúa mà làm nhiều việc quyền năng sao?” (7:22). Nếu không làm những điều này, họ sẽ không thể nói như vậy. Chúa không phủ nhận rằng họ đã làm những việc như vậy. Nhưng trong Ma-thi-ơ 7:23, Chúa phán Ngài sẽ “công bố với họ rằng Ta không biết các các ngươi bao giờ, hãy lui khỏi Ta, ớ những kẻ bất pháp kia”. Với Chúa, phán rằng: “Ta không biết ngươi bao giờ” có nghĩa là “Ta không bao giờ ưng thuận các ngươi vì các ngươi là người làm công bất pháp”. Những người chạy đua trong cuộc đua phải chạy trong lằn ranh của họ. Dù chạy nhanh bao nhiêu, họ cũng không được phép chạy ra ngoài ranh giới của họ cách bất pháp. Cũng vậy, chúng ta cần nguyên tắc chi phối cho hoạt động thuộc linh của mình. Vấn đề không phải là nói tiên tri, đuổi các quỉ hay là làm các phép lạ. Vấn đề là làm theo ý chỉ của Cha (Ma-thi-ơ 7:21). Hoạt động thuộc linh của chúng ta phải là làm theo ý chỉ của Cha. Sự rao giảng, thương yêu lẫn nhau và mọi điều chúng ta làm phải là ý chỉ của Cha. Nếu sâu xa trong linh, chúng ta thiếu tin chắc rằng điều chúng ta đang làm là ý chỉ của Cha thì chúng ta đừng làm điều đó. Nếu làm những việc mà không có sự tin chắc như vậy, chúng ta sẽ phá vỡ nguyên tắc chi phối và phạm tội loạn luân thuộc linh. Đây là bất pháp trong cách nhìn của Đức Chúa Trời. Chúa sẽ không bao giờ chấp nhận những người làm công bất pháp như vậy.

e) Dòng Dõi Bởi Tội Loạn Luân

Các con gái của Lót đã sinh ra dòng dõi bởi tội loạn luân. Tên hai con trai của họ rất có ý nghĩa. Con đầu tên “Mô-áp” nghĩa là “từ cha” (19:37). Khi cô lớn đặt tên con là “từ cha”, cô muốn nói rằng: “Tôi có một đứa con từ cha tôi”. Cô đặt tên này cho con để nhắc nhở cô về điều này. Cô em sanh một con trai tên “Bên Am-mi” nghĩa là “con trai của dòng họ tôi” (19:38). Đối với các cô con gái này, miễn là họ có con nối dõi thì mọi sự đều tốt đẹp. Nếu họ không có dòng dõi, nhóm tự do của họ hẳn sẽ chấm dứt. Tình trạng ngày nay hoàn toàn giống như vậy. Nhiều nhóm tự do chỉ quan tâm đến sự tiếp nối của dòng dõi họ, tức nhóm của họ. Họ không quan tâm đến ý chỉ của Đức Chúa Trời hay phương cách đúng đắn, nhưng quan tâm đến việc sản sinh dòng dõi bởi các hoạt động loạn luân.

Dòng dõi sinh ra bởi tội loạn luân trở thành sự thiệt hại lớn cho dân của Đức Chúa Trời qua tội tà dâm (Dân 25:1-5). Khi dân Đức Chúa Trời lưu lạc trong đồng vắng, người Mô-áp đến. Trước hết, họ mướn một tiên tri ngoại bang là Ba-la-am để rủa sả dân Đức Chúa Trời (Dân 22:2-7) nhưng Đức Chúa Trời đã đổi sự rủa sả đó thành phước hạnh (Dân 23:11; 24:10). Kế đến, Ba-la-am cố vấn cho người Mô-áp dụ dỗ con cái Ítx-ra-ên thờ hình tượng và phạm tội gian dâm (Dân 31:16). Thờ hình tượng luôn dẫn đến sự gian dâm, vì hai “chị em” tội lỗi này thường đi đôi với nhau. Ngày nay, trong Cơ-đốc Giáo có sự dạy dỗ của Ba-la-am được đề cập trong Khải Thị 2:14. Chúa phán với Hội Thánh ở Bẹt-găm, một Hội Thánh suy thoái, thế tục rằng giữa vòng họ có một số người giữ sự dạy dỗ của Ba-la-am, là điều làm thiệt hại dân Đức Chúa Trời qua sự thờ hình tượng và gian dâm.

Đức Chúa Trời đã phán xét nghiêm khắc những người Ítx-ra-ên phạm tội thờ hình tượng và gian dâm với người Mô-áp, bảo Môi-se “bắt các đầu trưởng của dân sự và treo lên trước mặt Đức Giê-hô-va, đối cùng mặt trời, để cơn giận của Đức Giê-hô-va xoay khỏi Ítx-ra-ên” (Dân 25:4). Hơn nữa, Đức Chúa Trời đã khước từ người Mô-áp và Am-môn với sự gớm ghét thánh và thần thượng, truyền cho dân Ítx-ra-ên trong đời mình “không tìm kiếm hòa bình hoặc lợi ích từ họ”, và tuyên bố rằng không một người “Am-môn hay Mô-áp nào được vào hội của Đức Giê-hô-va, dầu đến đời thứ 10 cũng chẳng hề vào được” (Phục 23:3-6). Mọi sự liên quan đến người Mô-áp và Am-môn đều ở dưới sự đoán phạt của Đức Chúa Trời, và con cái Ítx-ra-ên bị cấm tìm kiếm hòa bình hay sự thịnh vượng từ họ (tức là từ người Mô-áp và Am-môn).

Trong Sáng Thế Ký chương 16 đến 21 có 3 loại sanh ra: Sự sanh ra Ích-ma-ên, sự sanh ra Mô-áp, Bên Am-mi và sự sanh ra Y-sác. Sự sanh ra Ích-ma-ên là bởi nỗ lực của xác thịt và sự sanh của Mô-áp và Bên Am-mi là bởi loạn luân. Nhưng sự sanh ra Y-sác là bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Ích-ma-ên được sanh bởi nỗ lực xác thịt, đã bị Đức Chúa Trời khước từ. Mô-áp và Bên Am-mi sanh bởi tội loạn luân là một sự xấu hổ trong lịch sử. Chỉ Y-sác sanh bởi ân điển của Đức Chúa Trời mới được dùng để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Tất cả chúng ta phải tra xét chính mình để xem chúng ta đang sinh ra loại dòng dõi nào –Ích-ma-ên, Mô-áp hay Y-sác? Có thể chúng ta có một ít sự gia tăng, một số bông trái nhưng đó là Ích-ma-ên, Mô-áp hay Y-sác?

f) Sự Thương Xót Cao Vời Không Dò Lường Được Của Đức Chúa Trời

Mặc dù người Mô-áp bị khước từ cho đến đời thứ 10, nhưng trong trường hợp của Ru-tơ, chúng ta thấy sự thương xót cao vời và không dò lường được của Đức Chúa Trời (Ru-tơ 1:2,4-5,8,15-19,22; 4:13,17). Ê-li-mê-léc, chồng của Na-ô-mi, đã đem gia đình từ xứ Giu-đa đi tìm sự hòa bình và thịnh vượng của người Mô-áp. Sau khi Ê-li-mê-léc chết, hai con trai ông “cưới vợ trong người nữ Mô-áp” (Ru-tơ 1:4). Khi hai người con trai chết, còn lại Na-ô-mi với hai nàng dâu ở xứ Mô-áp. Khi Na-ô-mi trở về Giu-đa, Ru-tơ đã không chịu lìa bà, nói rằng: “Xin chớ nài tôi phân rẽ mẹ, vì mẹ đi đâu, tôi sẽ đi đó, mẹ ở nơi nào, tôi sẽ ở nơi đó. Dân của mẹ, tức là dân của tôi” (Ru-tơ 1:16). Qua việc tìm kiếm Đức Chúa Trời một cách tuyệt đối, Ru-tơ, một góa phụ người Mô-áp, đã bước vào hội chúng thánh của dân Đức Chúa Trời, cưới Bô-ô và trở nên tổ mẫu của vua Đa-vít. Cuối cùng, bà không những bước vào hội chúng thánh của dân Đức Chúa Trời mà còn bước vào gia phả của Đấng Christ, trở nên tổ mẫu của Đấng Christ và dự phần trong sự nhục hóa của Ngài (Ma-thi-ơ 1:1,5). Đây là sự thương xót cao vời và không dò lường được của Đức Chúa Trời. Sự thương xót của Ngài đang chờ đợi chúng ta tìm kiếm Ngài và dân Ngài. Đừng ở lại Mô-áp. Hãy đến Giu-đa. Hội chúng của Đức Chúa Trời và sự nhục hóa của Đấng Christ đang ở với dân Ngài tại Giu-đa. Chỗ đứng đúng đắn có ý nghĩa rất lớn. Anh em phải thay đổi chỗ đứng và lập trường của anh em. Nếu muốn ở trong hội chúng thánh và dự phần trong sự nhục hóa của Đấng Christ, anh em phải ra khỏi Mô-áp và ở với dân của Đức Chúa Trời tại Giu-đa.

Lót, một người trong dân Đức Chúa Trời, và gia đình ông đã rời bỏ chứng nhân và chứng cớ của Đức Chúa Trời. Kết cuộc đời sống của ông là sinh ra dân Mô-áp và Am-môn. Ru-tơ, một góa phụ người Mô-áp, đã tìm kiếm Đức Chúa Trời, đến với dân của Ngài và chứng cớ của Ngài. Kết cuộc đời sống của bà là sinh ra Đấng Christ. Sự thương xót kỳ diệu của Đức Chúa Trời luôn có sẵn cho những người tìm kiếm Ngài! Ngay cả một con cháu của Mô-áp, người sanh bởi sự loạn luân, mà qua sự cứu chuộc, cũng có thể dự phần trong sự nhục hóa của Đấng Christ.

 

Bài Năm Mươi Lăm

Sống Trong Mối Tương Giao 
Với Đức Chúa Trời

Sự Yếu Đuối kín Giấu 
Và Sự Cầu Thay Đáng Thẹn

Kinh Thánh là một Sách trung thực. Sau Sáng Thế Ký chương 18 và 19, trong đó chúng ta thấy sự thành đạt cao của Áp-ra-ham trong kinh nghiệm về Đức Chúa Trời, thì có phần ghi lại về sự yếu đuối của ông trong Sáng Thế Ký chương 20. Anh em có tin rằng sau khi có mối tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời như thế và sau khi dâng một lời cầu thay vinh hiển như thế, Áp-ra-ham lại có thể có kinh nghiệm như được chép trong chương 20 không? Thật khó tin và hiểu được làm thế nào Áp-ra-ham lại thể hiện một sự yếu đuối như thế. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng Kinh Thánh không do con người tạo ra. Nếu là sản phẩm của con người, tác giả hẳn sẽ không ghi phần ký thuật này về sự yếu đuối và thiếu sót của Áp-ra-ham. Nhưng Kinh Thánh vốn trung thực nên Sáng Thế Ký chương 20 là lời ký thuật thần thượng.

6) Sự Yếu Đuối Kín Giấu Và Sự Cầu Thay Đáng Thẹn

Khi còn trẻ, tôi đánh giá cao các chương 18,21,22 và 24 mà không thích chương 20. Trong chương này ghi lại hai điều chính: sự yếu đuối kín giấu và sự cầu thay đáng thẹn.Áp-ra-ham, người của Đức Chúa Trời, có một sự yếu đuối kín giấu sâu xa bên trong.Trong chương 18, ông có sự cầu thay vinh hiển, nhưng trong chương 20, chúng ta thấy lời ghi lại về sự cầu thay đáng xấu hổ.

a) Sự Yếu Đuối Kín Giấu

(1) Hành Trình Về Phương Nam

Trước hết, chúng ta hãy xem xét sự yếu đuối kín giấu của Áp-ra-ham (20:1-16). Trong câu 1, chúng ta được biết rằng: “Áp-ra-ham từ đó đi xuống phương nam”. Việc Áp-ra-ham hành trình về phương nam có nghĩa là ông đã lìa bỏ vị trí của sự tương giao tại cây dẻ bộp Mam-rê ở Hếp-rôn. Lẽ ra ông nên ở lại Hếp-rôn vì tại đó ông đã có sự tương giao thân mật với Đức Chúa Trời. Không gì quý hơn điều này. Không lâu sau khi có mối tương giao thân mật với Đức Chúa Trời, ông đã bỏ Hếp-rôn và đi về phương nam. Giữa thời điểm Chúa phán với Áp-ra-ham về sự sinh ra Y-sác trong Sáng Thế Ký 17:21 và Sáng Thế Ký 18:14 và thời điểm Y-sác được sinh ra trong chương 21, có thể không quá 1 năm. Tại sao Áp-ra-ham thình lình rời khỏi Hếp-rôn mà đi về phương nam trong năm đó? Theo hình bóng, phương nam tượng trưng cho sự dễ dãi còn phương bắc tượng trưng cho sự gian khó. Phương nam thì ấm áp, còn phương bắc thì lạnh lẽo, nhưng Đức Chúa Trời ngự ở phương bắc (Thi Thiên 48:2; 75:6-7; Êxê. 1:4). Ở phương bắc, chúng ta có sự gian khó với sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Ở phương nam, chúng ta có sự dễ dãi nhưng không có hiện diện của Đức Chúa Trời. Trong Sáng Thế Ký chương 20, không có lời nào gợi ý rằng Đức Chúa Trời bảo Áp-ra-ham đi về phương nam. Khi thực hiện cuộc hành trình này, Áp-ra-ham đã hành động một mình.

Có lẽ Áp-ra-ham muốn có một sự thay đổi và một kỳ nghỉ mát. Dù có thể đang vui hưởng nếp sống Hội Thánh tại Anaheim, nhưng một ngày kia, anh em cảm thấy mình cần một sự thay đổi và muốn đi về phương nam đến thành phố Mexico. Nếp sống Hội Thánh thật tuyệt diệu và tất cả chúng ta đều vui hưởng rất nhiều. Nhưng một số anh em có thể hơi chán và muốn thực hiện một chuyến du lịch đến Las Vegas. Nếu đến Las Vegas và gặp ai đó hỏi anh em ở nhà làm gì, anh em sẽ thấy khó trả lời cách trung thực. Trong hai trường hợp, khi Áp-ra-ham ở trong tình trạng như vậy, ông đã không nói thật (12:9-12). Trong chương 12, Áp-ra-ham đi xuống phương nam vì trong xứ có đói kém. Nạn đói đó tạo cho ông lời bào chữa về việc xuống phương nam để đến Ai-cập. Nhưng trong chương này, Áp-ra-ham không có lý do. Ông và vợ có lẽ đã buồn chán và muốn có một kỳ nghỉ. Nếu cứ ở gần cây dẻ bộp của Mam-rê tại Hếp-rôn, Áp-ra-ham hẳn sẽ không cần nói dối. Ông nói dối là do ở vị trí sai. Bởi điều này, chúng ta thấy rằng chỗ đứng đúng đắn có ý nghĩa lớn. Tôi không tin anh em nào đó có thể đọc–cầu nguyện hay làm chứng sống động tại một sòng bạc ở Las Vegas. Tại đó, anh ấy không có chỗ đứng để làm như vậy. Để làm bất kỳ điều gì cho Đức Chúa Trời, chúng ta phải có một chỗ đứng đúng đắn. Khi Áp-ra-ham bỏ chỗ đứng là sự tương giao thân mật với Đức Chúa Trời, và hành trình về phương nam, ông đã đánh mất sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh không nói rằng ttại đất nước phía nam đó, Đức Chúa Trời đã hiện ra với Áp-ra-ham, cũng không nói Áp-ra-ham đã lập một Bàn Thờ và kêu cầu danh Chúa. Ông đã hoàn toàn đánh mất chỗ đứng đúng đắn để có thể tương giao với Đức Chúa Trời. Thưa các bạn trẻ, phải thấy rằng anh em cần ở trong vị trí đúng đắn. Nếu ở trong Hội Thánh, anh em sẽ được gìn giữ và được bảo vệ. Nhưng nếu di hành về phương nam, anh em sẽ bỏ chỗ đứng đúng đắn và đánh mất hiện diện của Đức Chúa Trời. Tự phát, người cũ của anh em sẽ trở lại.

Trước chương 20, Áp-ra-ham đã được cắt bì. Trong chương 20, lẽ ra ông nên là người đã được cắt bì, không sống như người thiên nhiên nữa vì ông đã thật sự được Đức Chúa Trời xử lý. Một số Cơ-đốc nhân tuyên bố rằng một khi đã kinh nghiệm một phước hạnh nào đó, họ không còn có thể ở trong xác thịt nữa. Nhưng hãy nhìn gương của Áp-ra-ham. Dù đã được cắt bì cả thuộc thể lẫn thuộc linh, nhưng khi lìa bỏ chỗ đứng đúng đắn là sự tương giao với Đức Chúa Trời, ông lại ở trong xác thịt. Sau khi đạt đến mức độ cao như vậy trong kinh nghiệm với Đức Chúa Trời thì Áp-ra-ham, tổ phụ của đức tin, đã hành động giống như hơn 20 năm trước trong Sáng Thế Ký chương 12. Bởi điều này, chúng ta thấy rằng hễ vẫn còn sống trong sáng tạo cũ, chúng ta đều có thể làm bất cứ điều gì trong xác thịt. Nếu không cứ ở trong sự tương giao với Đức Chúa Trời, chúng ta có thể làm những điều giống như người thế giới. Đừng nói rằng vì đã được tái sinh, kinh nghiệm báp-têm của Linh hay đã có phước hạnh thứ hai thì anh em không còn có thể ở trong xác thịt nữa. Dù đã nhận bao nhiêu phước hạnh từ Đức Chúa Trời, nhưng nếu không cứ ở trong sự tương giao với Ngài, anh em sẽ ở trong xác thịt. Kinh nghiệm của anh em chứng minh điều này là thật.

Đừng bao giờ tin cậy chính mình. Chính mình tuyệt đối không đáng tin cậy. Chúng ta phải đặt tin cậy vào sự hiện diện của Chúa, nói với Ngài rằng: “Ôi Chúa, nếu Ngài cất sự hiện diện Ngài khỏi con, con chỉ là một con chó. Nhưng ngợi khen Chúa vì trong hiện diện Ngài, con là một thánh đồ, một người thuộc dân Ngài”. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời đối với chúng ta có ý nghĩa nhiều biết bao! Trong chương 18, khi Áp-ra-ham tiễn Đức Chúa Trời, ông là một thánh đồ kỳ diệu, một người có thể đứng trước Đức Chúa Trời và trò chuyện mặt đối mặt với Ngài như với bạn thân. Nhưng trong chương 20, con người kỳ diệu này đã trở nên rất hèn hạ. Sau khi đã bỏ chỗ đứng là sự tương giao với Đức Chúa Trời, ông có thể nói dối khi hi sinh vợ. Dường như không thể tin được, nhưng Áp-ra-ham đã làm điều đó. Nếu xem xét kinh nghiệm trước đây của mình, chúng ta sẽ thấy rằng ít ra cũng có vài lần chúng ta đã làm cùng một điều như vậy. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc cứ ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Sự bảo vệ chúng ta không phải là chính mình mà là sự hiện diện của Ngài.

(2) Lập Lại Thất Bại Cũ

Sau khi lìa khỏi hiện diện của Đức Chúa Trời và đi về phương Nam, Áp-ra-ham đã lập lại sự thất bại cũ: nói dối bằng cách hy sinh vợ (20:2; so với 12:11-13). Nói dối là một điều; hy sinh vợ là một điều khác. Mặc dù nhiều anh em có thể nói dối, nhưng có lẽ không ai trong họ muốn hy sinh vợ. Nhưng Áp-ra-ham đã làm điều đó. Tôi khâm phục Sa-ra vì bà là một người vợ tốt đến thế. Bà đã không phàn nàn nhưng đồng tình với sự nói dối của chồng.

(3) Sự Yếu Đuối Kín Giấu Bị Phơi Bày

Trong Sáng Thế Ký 20:8-13, chúng ta thấy sự yếu đuối kín giấu của Áp-ra-ham bị phơi bày. Áp-ra-ham đã không tình cờ nói dối mà đã sắp xếp trước từ ngày ông bắt đầu đi con đường của Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham nói với A-bi-mê-léc: “Khi Đức Chúa Trời làm cho tôi phải lưu lạc xa nhà cha, thì tôi có nói với nàng rằng: Này là ơn của ngươi sẽ làm cho ta: hễ nơi nào chúng ta sẽ đến, hãy nói về ta rằng ấy là anh tôi” (c. 13). Sự yếu đuối kín giấu này đã được giữ trong lòng Áp-ra-ham ngay cả sau khi ông chịu cắt bì. Về nguyên tắc, hầu hết chúng ta ngày nay đều giống như vậy. Một mặt, chúng ta đang theo Chúa trong Hội Thánh; mặt khác, chúng ta có một sự dự phòng. Trong trường hợp có điều gì xảy ra, chúng ta có một kế hoạch dự trù để giải quyết. Anh em có muốn tuyệt đối với Chúa không? Nếu muốn, hãy hỏi Ngài là anh em có còn nắm giữ một dự trù kín giấu nào hay không? Dù có thể anh em không cho rằng mình có một dự trù nào đó, nhưng khi anh em rời khỏi nếp sống Hội Thánh để đi nghỉ, điều đó sẽ bị phơi bày. Nhiều chị em trẻ đang theo Chúa trong Hội Thánh, đã có một dự trù nào đó sâu bên trong. Họ tự nhủ: “Có thể một ngày nào đó sẽ có một điều gì đó xảy ra. Nếu như vậy, tôi biết rõ điều mình sẽ phải làm”. Đây là điều dự trù được hoạch định từ khi họ bắt đầu theo Chúa. Đúng vậy, chúng ta đang sống bởi đức tin trong nếp sống Hội Thánh. Nhưng chúng ta sẽ làm gì khi đức tin của chúng ta thất bại? Chúng ta sẽ dùng điều dự trù của mình. Có lẽ sau một thời gian ngắn, sự yếu đuối của anh em sẽ bị phơi bày. Điều này chứng tỏ rằng dù tuyên bố là tuyệt đối, anh em cũng không thể tuyệt đối 100%.

Tôi tin rằng mục đích của phần ghi lại trong chương 20 này là cho chúng ta thấy rằng sớm hay muộn, sự dự trù kín giấu của chúng ta sẽ bị phơi bày. Kinh Thánh khác với bất kỳ quyển sách thế tục nào, vì đó là bản ký thuật chân thật và trung thực về một dân tìm kiếm Đức Chúa Trời. Dù tìm kiếm Đức Chúa Trời nhiều bao nhiêu, chúng ta vẫn có một dự trù. Tôi run rẩy và sợ sệt vì có lẽ sâu xa bên trong, tôi vẫn còn một dự trù ẩn giấu mà một ngày kia nó sẽ bị phơi bày.

(4) Được Gìn Giữ Bởi Sự Chăm Sóc Tối Thượng Của Đức Chúa Trời

Trong Kinh Thánh, về hình bóng, Áp-ra-ham đại diện cho đức tin, còn Sa-ra đại diện cho ân điển. Nói cách khác, trong hiện diện của Đức Chúa Trời, người chồng luôn đại diện cho đức tin còn người vợ luôn đại diện cho ân điển của Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham là cha của đức tin và đời sống của ông là đời sống đức tin. Vì Sa-ra là hình bóng về ân điển của Đức Chúa Trời, nên với Y-sác, được sinh ra bởi bà có nghĩa là được sinh ra bởi ân điển. Trái lại, Ích-ma-ên được sinh ra bởi A-ga, bởi luật pháp, bởi sự nô lệ. Về hình bóng, hễ khi nào thiếu đức tin, ân điển bị tổn hại. Điều này có nghĩa là khi thiếu đức tin về phía chúng ta thì ân điển bị tổn hại về phía Chúa. Mỗi lần Áp-ra-ham thất bại, thì Sa-ra bị tổn hại, và khi Sa-ra bị tổn hại, ân điển bị tổn hại.

Hơn nữa, ân điển và chứng cớ đi đôi với nhau. Hễ khi nào có ân điển, chúng ta có chứng cớ. Khi Áp-ra-ham nói dối, ông không có sự vui hưởng ân điển. Vì thế, ông đã đánh mất chứng cớ. Hễ khi nào đức tin thất bại, ân điển bị tổn hại và chứng cớ của ân điển bị mất.

Đức Chúa Trời đã hiện đến để giải cứu và phục hồi Sa-ra. Về hình bóng, điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời hiện đến để chăm sóc ân điển và chứng cớ của Ngài. Đức Chúa Trời biết cách bảo vệ ân điển Ngài và gìn giữ chứng cớ Ngài cách có tể trị. Chúng ta không biết bao nhiêu lần mình đã ở trong hiểm họa làm thiệt hại ân điển và đánh mất chứng cớ vì đã bỏ chỗ đứng đúng đắn. Nhưng vào một lúc nào đó, Đức Chúa Trời đã hiện đến để giải quyết hoàn cảnh hầu chứng cớ của ân điển Ngài có thể được giữ gìn. Nếu sáng tỏ điều này, Áp-ra-ham hẳn sẽ không nói dối nhưng tin rằng Đức Chúa Trời sẽ chăm sóc ân điển và chứng cớ của Ngài.

Dù đức tin của Áp-ra-ham thất bại, nhưng Đức Chúa Trời vẫn gìn giữ ông bởi sự chăm sóc tối thượng của Ngài (3-7, 14-16). Vì kinh nghiệm của Áp-ra-ham đã trở nên bất thường, nên Đức Chúa Trời không hiện ra với ông. Trong các chương 18 & 19, Đức Chúa Trời đã hiện ra với Áp-ra-ham, nhưng không hiện ra với Lót. Ở đây trong chương 20, Ngài không hiện ra với Áp-ra-ham, nhưng hiện ra với A-bi-mê-léc trong chiêm bao (c. 3). Theo một ý nghĩa, chỗ đứng của Áp-ra-ham trong chương 20 này gần giống như chỗ đứng của Lót trong chương 19. Do đó, Đức Chúa Trời đã hiện ra với A-bi-mê-léc, một vua ngoại bang, nói với ông rằng người đã nói dối ông là tiên tri của Ngài. A-bi-mê-léc đã kinh ngạc khi nghe rằng một trong các tiên tri của Đức Chúa Trời đã nói dối ông khi hy sinh vợ mình. Trong chương này, chúng ta thấy sự khôn ngoan, quyền tể trị, sự công bằng và sự chăm sóc của Đức Chúa Trời. Lìa khỏi Áp-ra-ham, người đã nói dối, Đức Chúa Trời phán với A-bi-mê-léc, người bị lừa, rằng: “Này, ngươi sẽ chết, bởi cớ người đàn bà mà ngươi đã bắt đến, vì nàng có chồng rồi” (c. 3). A-bi-mê-léc sửng sốt. Sau đó, Đức Chúa Trời bảo ông phải trả lại vợ của Áp-ra-ham và Áp-ra-ham sẽ cầu thay cho ông (c. 7). Đức Chúa Trời không cảm thúc Áp-ra-ham cầu nguyện cho A-bi-mê-léc; trái lại, Ngài tỏ cho A-bi-mê-léc rằng Áp-ra-ham là một tiên tri và có vị trí để cầu nguyện cho vua và gia đình vua. Khi làm điều này, Đức Chúa Trời đã không quở trách Áp-ra-ham.

Mặc dù Áp-ra-ham ở ngoài hiện diện của Đức Chúa Trời, nhưng Ngài vẫn gìn giữ chứng cớ Ngài và ban cho Áp-ra-ham nhiều của cải (c. 14-16). Khi Áp-ra-ham đánh bại Kết-rô-lao-me và các vua khác để giải cứu Lót, ông đã không nhận bất cứ điều gì từ vua Sô-đôm vì ông có Đức Chúa Trời Chí Cao (14:21-24). Tuy nhiên, khi A-bi-mê-léc cho Áp-ra-ham chiên, bò, người đầy tớ và bạc, Áp-ra-ham đã không dám nói: “Tôi không cần sự giúp đỡ của vua, tôi đã có Đức Chúa Trời Chí Cao”. Ông không có vị trí để nói như vậy và miệng của ông đã ngậm lại. Tôi không tin rằng Áp-ra-ham đã cảm ơn A-bi-mê-léc về các quà tặng hay đã vui vẻ nhận chúng. Khi nhận tất cả các quà tặng này từ A-bi-mê-léc trước mặt Sa-ra, chắc chắn ông đã xấu hổ. Đức Chúa Trời đã trả lại Sa-ra cách có tể trị và khôn ngoan, chăm sóc ân điển và chứng cớ của Ngài, và đồng thời cũng kỷ luật Áp-ra-ham.

b) Một Sự Cầu Thay Xấu Hổ

Sau khi nhận quà tặng từ A-bi-mê-léc, Áp-ra-ham đã cầu nguyện cho ông (c. 17-18). A-bi-mê-léc cần sự cầu thay của Áp-ra-ham vì Chúa đã đóng tất cả tử cung của nhà A-bi-mê-léc. Anh em có nghĩ rằng mình có thể cầu nguyện trong tình trạng xấu hổ như vậy không? Có lẽ A-bi-mê-léc đã nói với Áp-ra-ham rằng: “Tại sao ngươi là một tiên tri của Đức Chúa Trời lại nói dối ta? Hãy xem điều gì đã xảy ra! Bây giờ mọi sự đã được giải quyết và ta đã trả lại vợ ngươi, ta muốn ngươi cầu nguyện cho ta”. Nhiều lần sau khi đã thất bại đối với Chúa, chúng ta không thể cầu nguyện trong nhiều ngày dù không ai biết về sự thất bại của chúng ta. Thật khó biết bao để Áp-ra-ham cầu nguyện trong hiện diện của A-bi-mê-léc! Dầu vậy, Áp-ra-ham đã cầu nguyện và “Đức Chúa Trời đã chữa lành cho A-bi-mê-léc, vợ và các con đòi của ông và họ đều có con” (c. 17).

Để có thể cầu thay cho A-bi-mê-léc, Áp-ra-ham phải đắc thắng hai điều: ký ức về sự thất bại của ông trước A-bi-mê-léc và nghĩ đến sự son sẻ của vợ mình. Ông phải quên sự thất bại của mình trước A-bi-mê-léc và không nghĩ đến sự son sẻ của vợ mình. Nếu là Áp-ra-ham, hẳn tôi sẽ nói: “Hỡi A-bi-mê-léc, thật đáng tiếc vì tôi đã quên Chúa và bây giờ tôi không có đức tin để cầu nguyện cho ông”. Tất cả chúng ta phải học tập rằng sự cầu thay cho người khác không tùy thuộc sự thành công của chúng ta mà tùy thuộc vào nhu cầu. Khi có một nhu cầu được Đức Chúa Trời đặt để, chúng ta phải cầu thay cho điều đó. Có thể Áp-ra-ham đã nói với Chúa: “Tôi đã thất bại, tôi đã nói dối A-bi-mê-léc và ông ta đã quở trách tôi. Làm thế nào tôi có thể cầu thay cho ông ấy?” Khi cầu thay cho người khác, chúng ta phải quên chính mình, môi trường xung quanh, và hoàn cảnh của mình, và cầu thay như thể trên đất này không có ai ngoài chúng ta và Đức Chúa Trời. Dù có những thất bại, chúng ta vẫn phải vận dụng linh và cầu nguyện với sự dạn dĩ.

Mặc dù Đức Chúa Trời buộc phải lìa Áp-ra-ham để đến với A-bi-mê-léc, nhưng Áp-ra-ham vẫn cao hơn A-bi-mê-léc. Dù Áp-ra-ham đã thất bại, nhưng A-bi-mê-léc vẫn thua xa Áp-ra-ham. Kinh Thánh nói rằng người trên luôn chúc phước cho người dưới (Hê-bơ-rơ 7:7). Vì Áp-ra-ham cao hơn A-bi-mê-léc nên ông có thể cầu thay cho A-bi-mê-léc.

Hơn nữa, chúng ta không nên nghĩ rằng vì Đức Chúa Trời không đáp lời cầu nguyện cho các nhu cầu của mình, nên chúng ta không thể cầu thay cho người khác. Nếu là Áp-ra-ham, hẳn tôi đã nói: “A-bi-mê-léc, ông yêu cầu tôi cầu nguyện cho ông sao. Tôi đã cầu nguyện cho vợ tôi nhiều năm mà chưa được đáp lời. Vì cớ đó, tôi không chắc là Đức Chúa Trời sẽ đáp lời cầu thay của tôi cho ông và tôi cũng không dạn dĩ để cầu nguyện”. Chúng ta cần quên những lời cầu nguyện chưa được đáp lời của mình và hãy cầu thay cho người khác. Nếu không cầu thay cho người khác, có thể Đức Chúa Trời sẽ không đáp lời cầu nguyện cho các nhu cầu của chúng ta. Đừng nói rằng vì nhu cầu anh em không được đáp ứng nên anh em không thể cầu thay cho người khác. Khi Áp-ra-ham quên nhu cầu của ông và cầu thay cho A-bi-mê-léc và nhà người, thì không chỉ nhu cầu của họ được đáp ứng mà nhu cầu của ông cũng được thỏa đáp. Nếu quên nhu cầu của anh em và cầu thay cho nhu cầu của người khác, Đức Chúa Trời không những sẽ đáp lời cầu thay của anh em cho họ mà còn đáp lời cầu nguyện cho chính anh em. Ngài sẽ chăm sóc nhu cầu của anh em.

Sự cầu thay của Áp-ra-ham cho A-bi-mê-léc là một sự cầu thay đáng thẹn. Trong tình trạng xấu hổ như vậy, thật khó để ai đó cầu thay. Kinh Thánh không ghi lại đầy đủ về sự cầu thay của Áp-ra-ham cho A-bi-mê-léc như khi ông cầu thay cho Lót. Có lẽ Áp-ra-ham đã không dạn dĩ hay mạnh mẽ trong linh. Tuy nhiên, ông đã cầu thay cho A-bi-mê-léc và lời cầu thay của ông đã được đáp. Bởi điều này, chúng ta thấy rằng dù có thể không dạn dĩ trong linh, nhưng ngay khi cầu thay cho người khác theo sự đặt để của Đức Chúa Trời, lời cầu thay của chúng ta sẽ được nhậm. Tôi có thể làm chứng cho điều này từ kinh nghiệm. Nhiều khi tôi gặp khó khăn và cầu nguyện cho điều đó, nhưng tôi không được đáp lời. Thình lình, những người có cùng sự khó khăn như tôi đến với tôi và xin tôi cầu nguyện cho họ. Sau khi tôi cầu nguyện cho họ, Đức Chúa Trời không chỉ đáp lời cầu thay của tôi cho họ mà cũng đáp lời cầu nguyện cho tình trạng của tôi.

Tất cả chúng ta phải học tập không cầu thay theo sự đắc thắng của mình. Thật dễ để cầu nguyện sau khi chúng ta đắc thắng nhưng không dễ chút nào sau khi đã thất bại. Mặc dù không khích lệ ai thất bại, nhưng tôi nói rằng chúng ta không nên buồn bởi những thất bại của mình. Đức Chúa Trời không kể đến sự thất bại của chúng ta, Ngài chỉ kể đến những gì chúng ta là. Trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, chúng ta là Người Mới. Đây là điều chúng ta là và chúng ta phải cầu nguyện theo điều này. Vì vẫn còn trong sáng tạo cũ, chúng ta có thể lại sa ngã và thất bại. Nhưng chúng ta có thể quên sự thất bại đó trong sáng tạo cũ và đứng trên vị trí trong sáng tạo mới. Khi Áp-ra-ham đứng trên vị trí là tiên tri của Đức Chúa Trời, ông có thể cầu thay cho A-bi-mê-léc.

Sáng Thế Ký chương 20 là một chương rất quý báu và chúng ta cần dành thì giờ để xem xét tất cả những điểm chính trong đó: sự yếu đuối kín giấu của một người tìm kiếm Đức Chúa Trời; cách ông bị A-bi-mê-léc quở trách và tạm thời bị Đức Chúa Trời gạt qua bên; sự cầu thay của ông cho A-bi-mê-léc và gia đình A-bi-mê-léc; và cách Đức Chúa Trời đáp lời cầu thay của ông. Nếu suy gẫm chương này trong vài giờ, linh anh em sẽ được nuôi dưỡng cách phong phú. Hôm nay khi suy gẫm chương này, tôi thấy nó cần thiết hơn chương 18. Mặc dù chương 18 thật ngọt ngào, nhưng chương 20 thật quý báu, dạy chúng ta những bài học quý báu.

Chương này dạy rằng cầu thay cho người khác không tùy thuộc vào tình trạng của chúng ta mà tùy thuộc vào chỗ đứng của chúng ta; tùy thuộc chúng ta là ai. Chúng ta là tiên tri của Đức Chúa Trời, một sáng tạo mới, Chi Thể của Thân Thể Đấng Christ. Ở trong nếp sống Hội Thánh như một Chi Thể của Thân Thể Đấng Christ sẽ tạo cho chúng ta một chỗ đứng để cầu thay cho người khác. Hãy quên đi hoàn cảnh và sự thất bại của anh em. Nếu nắm giữ cảm xúc, miệng anh em sẽ ngậm lại, Sa-tan sẽ thắng hơn và anh em sẽ chết trong nhiều ngày. Điều này rất nghiêm trọng. Phải quên những thất bại và nhu cầu của chúng ta mà nhận lấy vị trí đúng đắn để cầu thay cho người khác theo sự đặt để của Đức Chúa Trời, và tin vào Đức Chúa Trời vì người khác.

Chúng ta cũng phải học biết chính mình. Đừng nghĩ rằng nếu có những thành đạt cao như những điều được chép trong Sáng Thế Ký chương18 &19, chúng ta sẽ không có nan đề. Chúng ta không thể rời khỏi sự tương giao với Đức Chúa Trời để đi nghỉ mát. Đừng có bất kỳ sự tin cậy nào vào người cũ của anh em. Dù người cũ chúng ta đã được Đức Chúa Trời xử lý, nó vẫn không đáng tin cậy cho dù đã được cắt bì hoàn toàn. Dù có nhận thức về điều đó hay không thì sâu xa bên trong, chúng ta vẫn có một dự phòng nào đó trong việc theo Chúa. Một ngày kia, sự dự phòng này, điều dự trù của sự yếu đuối thiên nhiên này của chúng ta sẽ bị phơi bày. Đừng ngạc nhiên khi điều đó xảy ra. Hãy sẵn sàng nhận lấy ân điển, quên đi những thất bại và nhu cầu của anh em và cầu thay cho người khác. Hãy đứng trên vị trí của anh em là Chi Thể của Thân Thể Đấng Christ, một phần của Người Mới và là thánh đồ trong sự khôi phục của Chúa và cầu nguyện, cho dù anh em cầu nguyện với cảm nhận xấu hổ. Sự cầu thay của anh em có thể là xấu hổ và không có sự vinh hiển, nhưng Đức Chúa Trời vẫn đáp lời. Cùng với việc Ngài đáp lời cầu thay xấu hổ của anh em, Ngài cũng sẽ trả lời cho những lời cầu nguyện chưa được nhận trước kia của mình về nhu cầu của anh em. Điều này thật kỳ diệu biết bao!

Là tiên tri của Đức Chúa Trời, khi Áp-ra-ham nói dối người khác, họ trở nên chết. Nhưng khi ông quên sự thất bại của mình trước mặt họ và cầu thay cho họ, họ nhận được sự sống, và chính ông được phục hưng. Cũng vậy, nếu quên những thất bại của mình và cầu thay cho nhu cầu của những người mà chúng ta đã thất bại trước mặt họ, chúng ta sẽ cung ứng sự sống không những cho họ mà cũng cho chính mình. Nguyện tất cả chúng ta học được những bài học trong chương này.

 

Witness Lee

 

 

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2