"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:6870270
Đang truy cập:220

Giải Nghĩa Sáng Thế Ký: 46, 47, 48, 49, 50

tamoxifen mechanism of action

tamoxifen uk price link tamoxifen uk price

buy naltrexone uk

buy naltrexone blog.zycon.com naltrexone uk

buy naltrexone 3mg

where can i buy low dose naltrexone

buy sertraline online

buy sertraline uk

viagra cena dr max

viagra na prodej open

Bài Bốn Mươi Sáu

Nhận Biết Ân Điển Đ Hoàn Thành 
Mục Đích Của Đức Chúa Trời

Nghĩa Bóng VỀ Hai Người NỮ

 Sáng Thế Ký là một Sách phong phú về sự khải thị thần thượng của Đức Chúa Trời. Càng lưu lại với Sách này, tôi càng vui hưởng sự phong phú ngọt ngào của nó. Khi đọc Sách Sáng Thế Ký, chúng ta cần sự soi sáng thần thượng, vì nếu bởi tâm trí con người, chúng ta không thể nhận được gì từ Sách này ngoài những lời ký thuật về lịch sử và một số câu chuyện thú vị. Khi còn trẻ, tôi thích nghe những câu chuyện trong Sách này, nhưng nếu chỉ hiểu Sáng Thế Ký như một Sách về truyện tích, chúng ta sẽ đánh mất rất nhiều.

3) Nghĩa Bóng Về Hai Người Nữ

Sa-ra và A-ga, vợ và vợ lẽ của Áp-ra-ham là người được kêu gọi của Đức Chúa Trời, là biểu tượng về hai giao ước (Gal. 4:24). Nếu sứ đồ Phao-lô không viết Sách Ga-la-ti trong đó ông cho chúng ta biết rằng hai người nữ này là cách nói bóng về hai giao ước, thì không ai trong chúng ta từng nghĩ đến một điều như thế. Mặc dầu một số Cơ-đốc nhân chỉ trích việc hình bóng hóa Kinh Thánh, nhưng Phao-lô đã dẫn đầu trong việc hình bóng hóa Cựu Ước. Nếu muốn đánh giá cao kho báu trong Sách Sáng Thế Ký, chúng ta phải nhận thức rằng Sáng Thế Ký là một Sách của những lời nói bóng. Tiểu sử của Áp-ra-ham là một cách nói bóng. Vợ và vợ lẽ của ông đặc biệt là một cách nói bóng rất ý nghĩa. Trong bài này, chúng ta sẽ cố hết sức để tìm hiểu kỹ ý nghĩa của cách nói bóng này.

Tuy nhiên, trước khi đến với cách nói bóng này, chúng ta cần thấy một điều gì đó về Sách Sáng Thế Ký. Tại sao Sách Sáng Thế Ký ngọt ngào và quí báu như thế? Vì đó là Sách chứa nhiều hạt giống của sự khải thị thần thượng mà chính Đức Chúa Trời đã gieo. Sách này chứa tất cả các phương diện chính của sự khải thị thần thượng của Đức Chúa Trời. Ngay chương đầu tiên, chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời có ý định bày tỏ chính Ngài qua con người, và vì mục đích này, Ngài đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài (1:26). Con người đã được làm nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời với ý định là con người có thể trở nên sự biểu lộ chính xác của Đức Chúa Trời, và qua sự biểu lộ này, Đức Chúa Trời có thể có một sự cai trị, một vương quốc, trong đó Ngài có thể thi hành uy quyền của Ngài. Đây là ý định sau cùng của Đức Chúa Trời, mục đích đời đời của Ngài. Nếu đọc Kinh Thánh với ánh sáng thiên thượng này, anh em sẽ thấy cả Kinh Thánh đề cập đến ý định thần thượng này. Để Đức Chúa Trời hoàn thành ý định của Ngài là chính Ngài được biểu lộ và nhận được sự cai trị trên đất, Ngài cần có dòng dõi và miền đất, cả hai đều liên quan đến Đấng Christ. Đấng Christ này phải được đem vào trong dân Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời muốn làm điều này với A-đam, nhưng A-đam đã thất bại. Cuối cùng, Đức Chúa Trời đã có một khởi đầu mới với một dòng dõi mới, dòng dõi của những người được kêu gọi, mà người đầu tiên là Áp-ra-ham. Nếu đọc tiểu sử của Áp-ra-ham, anh em sẽ thấy Đức Chúa Trời nhiều lần đã đến với ông cùng với lời hứa liên quan đến hai điều –dòng dõi và miền đất (12:7; 13:15-16; 15:5,7,18). Áp-ra-ham không còn trẻ khi lần đầu tiên được Đức Chúa Trời kêu gọi; ông đã 75 tuổi khi đáp ứng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời cách đầy đủ.

Mặc dầu đã 75 tuổi, Áp-ra-ham vẫn chưa có con. Đối với Đức Chúa Trời, điều đó rất tốt. Nếu khi Đức Chúa Trời kêu gọi anh em, anh em không có gì, điều đó rất tốt, vì nếu anh em có quá nhiều, nó sẽ cản trở sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Khi Áp-ra-ham được Đức Chúa Trời kêu gọi, ông không có con và đang sống trong một xứ của quỉ, bị định tội, một xứ mà Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông ra khỏi. Sau khi được kêu gọi, Áp-ra-ham không có con cũng không có đất. Giả sử ngày nay có một cặp vợ chồng không con và không đất đai, họ sẽ không cho mình là người đáng thương nhất trên đất sao? Có lẽ Áp-ra-ham đã nói với vợ: “Chúng ta ở đây để làm gì? Anh đã 75 tuổi, còn em đã 65 mà không có ngay cả một đứa con. Chúng ta cũng đã được kêu gọi ra khỏi miền đất của mình. Chúng ta đang ở đâu? Chúng ta đang làm gì ở đây? Chúng ta sẽ đi đâu?” Dường như họ ở trong tình trạng đáng thương. Nhưng càng đáng thương theo cách này, chúng ta càng tốt cho mục đích của Đức Chúa Trời. Tôi hi vọng rằng không ai trong chúng ta có con bên trong cũng như có đất bên ngoài. Nếu cả bên trong lẫn bên ngoài chúng ta không có gì, điều đó sẽ kỳ diệu. Tại sao? Vì Đức Chúa Trời không muốn chúng ta có bất kỳ điều gì để hoàn thành mục đích của Ngài. Điều Đức Chúa Trời muốn là đem Đấng Christ vào trong chúng ta như Dòng Dõi, và sau đó làm cho Đấng Christ từ chúng ta biểu lộ ra như Miền Đất. Trước hết, dòng dõi này được đem vào trong chúng ta; kế đến, nó phải được biểu lộ từ chúng ta để trở nên miền đất. Cả dòng dõi và miền đất đều là Đấng Christ.

Chúng ta đã thấy Áp-ra-ham đáp ứng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời theo cách rề rà. Vì Đức Chúa Trời không ban cho ông người con nào nên Áp-ra-ham đã đem theo Lót, cháu ông. Áp-ra-ham không thể nói ông không có gì, vì ông đã đem Lót theo. Hơn nữa, cũng có thể là khi đi qua Đa-mách, ông đã thấy Ê-li-ê-se và đem theo. Sau điều đó, có thể là sau khi Áp-ra-ham sa vào Ai-cập, trôi theo dòng nước giống như khúc gỗ trôi giạt, ông có được A-ga. Dầu có ý định hi sinh vợ tại Ai-cập, nhưng dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời, vợ ông đã được gìn giữ, và theo kế hoạch tốt lành của Đức Chúa Trời, Áp-ra-ham đã có được nhiều của cải, kể cả người tớ gái Ai-cập là A-ga. Tại Cha-ran, Áp-ra-ham đã đón nhận Lót, ở Đa-mách ông kiếm được Ê-li-ê-se và tại Ai-cập ông có được A-ga. Nhưng trong miền đất tốt lành, ông không chiếm được điều gì. Tất cả những gì ông nhận được trong miền đất tốt lành là lời hứa của Đức Chúa Trời về dòng dõi và miền đất.

Dầu không công khai tranh luận với Đức Chúa Trời, nhưng bên trong có lẽ Áp-ra-ham đã nói với Đức Chúa Trời rằng: “Đức Chúa Trời ơi, Ngài không cần hứa với con nhiều lần rằng Ngài sẽ ban cho con một con trai. Ngài đã phán với con rằng dòng dõi con sẽ trở thành một dân lớn. Ba lần Ngài đã nói rằng con sẽ có một dòng dõi, nhưng sao Ngài không làm gì cả? Đức Chúa Trời ơi, Ngài không biết rằng một hành động thì tốt hơn hàng ngàn lời nói sao? Ngài không những đã hứa mà còn lập một giao ước nữa. Ngài nói với con rằng mưa sẽ giáng xuống, nhưng con vẫn chưa thấy ngay cả một giọt. Cũng vậy, Ngài phán rằng Ngài sẽ cho con miền đất này. Tại sao Ngài không ban nó cho con ngay bây giờ? Ngài luôn phán rằng: ‘Ta sẽ ban nó cho ngươi,’nhưng Ngài không biết rằng bây giờ con đang cần nó sao?” Đây là một thử nghiệm thật sự đối với Áp-ra-ham. Đầu tiên, Áp-ra-ham cậy vào Lót. Cuối cùng, Lót trở thành nan đề cho ông và phân rẽ khỏi ông. Sau đó, Áp-ra-ham để lòng tin cậy vào Ê-li-ê-se, nói với Đức Chúa Trời rằng Ê-li-ê-se sẽ là người thừa kế của ông. Khi Đức Chúa Trời phán rằng Ê-li-ê-se không phải là người thừa kế, có lẽ Áp-ra-ham đã nói: “Đức Chúa Trời à, Ngài đang làm gì vậy? Ngài vừa mới tước đoạt tôi. Ngài nói không với điều này và nói không với điều kia. Ngài không ban cho tôi ngay cả một tiếng ‘có’”. Để làm mạnh mẽ đức tin của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời đã lập một giao ước với ông theo cách khác thường, dùng ba gia súc và hai con chim còn sống. Giao ước được lập bởi Đức Chúa Trời thì mạnh hơn là chỉ có lời hứa.

Sau điều này, Áp-ra-ham và Sa-ra có lẽ đã có nhiều sự tương giao đau buồn. Áp-ra-ham hẳn đã nói với vợ rằng: “Sa-ra à, cách đây nhiều năm, Đức Chúa Trời đã hứa rằng chúng ta sẽ có một dòng dõi. Điều đó ở đâu? Đức Chúa Trời cũng hứa ban cho chúng ta miền đất. Để làm mạnh mẽ đức tin chúng ta, Ngài đã lập một giao ước với chúng ta. Chúng ta không thể nói giao ước này không thể tin được hay không đáng tin cậy vì anh đã dâng gia súc và những con chim như Chúa đã phán dặn. Nhưng chúng ta vẫn chưa có gì”. Trong những lần như vậy, những người vợ thường giống như Sa-ra. Thường những người vợ thì tinh tế hơn và nhìn sự việc cách chi tiết hơn. Có lẽ khi Áp-ra-ham đang buồn bã nói như vậy, Sa-ra đã đưa ra cho ông lời đề nghị tốt đẹp rằng: “Áp-ra-ham à, chúng ta không thể nói rằng lời Đức Chúa Trời không đáng tin cậy, nhưng hãy xem chúng ta già chừng nào. Phải chăng Đức Chúa Trời không bảo anh rằng từ nơi anh, một ai đó sẽ được sanh ra để là dòng dõi của anh sao? Bây giờ em có một đề nghị tốt này. Việc chúng ta có được A-ga ở Ai-cập hẳn phải là trong sự tể trị. Sao anh không đến với cô ấy để bởi đó có một đứa con? Khi đó, chúng ta sẽ có dòng dõi để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời”. Nếu là Áp-ra-ham, có lẽ chúng ta sẽ nói: “Ồ, thật là diệu kế. Anh không hề nghĩ đến, nhưng cảm tạ Đức Chúa Trời vì em thật khôn ngoan khi đề xuất một kế hoạch như thế”. Áp-ra-ham nhận lấy lời đề nghị của Sa-ra, và Ích-ma-ên đã được sinh ra. Có lẽ sau khi Ích-ma-ên ra đời, Áp-ra-ham đã nói: “Ai có thể phủ nhận đứa con này? Chắc chắn rằng nó đã được sinh bởi tôi. Anh em không tin rằng Đức Chúa Trời đã tể trị trong việc ban cho chúng tôi A-ga ở Ai-cập và trong việc cô ấy sanh một con trai, không phải con gái sao? Đức Chúa Trời có tể trị trong ba điều này –ban cho chúng tôi A-ga, khiến cô ấy có thai, và qua cô ấy, đã sinh cho chúng tôi một con trai. Ngợi khen Chúa! Chắc chắn đây là sự tể trị của Đức Chúa Trời”. Nhưng sau khi Ích-ma-ên ra đời, Đức Chúa Trời đã ẩn mặt với Áp-ra-ham trong 13 năm (16:16; 17:1).

Về một phương diện, suốt khoảng thời gian đó có lẽ Áp-ra-ham đã vui mừng vì có một đứa con, nhưng về phương diện khác, ông đã đau khổ vì không có sự hiện ra của Đức Chúa Trời. Có lẽ ông đã nói với vợ: “Tại sao chúng ta không có sự hiện ra của Đức Chúa Trời? Điều gì đã xảy ra? Chúng ta đã không đi xuống Ai-cập nữa hoặc làm điều gì sai. Chúng ta đã hành động theo đề nghị của Ngài để có một dòng dõi hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Điều gì sai đối với chúng ta? Chúng ta có một đứa con, nhưng không có sự hiện diện của Đức Chúa Trời”. Như chúng ta sẽ thấy trong bài tiếp theo, sau 13 năm, cuối cùng, Đức Chúa Trời đã hiện ra phán với Áp-ra-ham: “Ta là Đức Chúa Trời Toàn Túc, hãy bước đi trước mặt Ta, và hãy làm cho mình hoàn hảo” (17:1, Hê-bơ-rơ). Dường như Đức Chúa Trời đang phán với Áp-ra-ham: “Áp-ra-ham, con phải hoàn hảo. Dầu con không làm điều sai, nhưng chắc chắn rằng con không hoàn hảo”. Sau đó, Đức Chúa Trời bảo ông rằng một dòng dõi không những sẽ được sanh ra từ ông mà còn ra từ vợ ông, rằng Ngài sẽ ban cho Áp-ra-ham một con trai qua bà (17:16). Ích-ma-ên đã được sanh bởi Áp-ra-ham nhưng không bởi Sa-ra. Áp-ra-ham rất miễn cưỡng khi từ bỏ Ích-ma-ên, ông đã nói với Đức Chúa Trời: “Ôi chớ chi Ích-ma-ên vẫn sống trước mặt Ngài!” (17:18). Đức Chúa Trời đáp lại Áp-ra-ham rằng: “Thật vậy, Sa-ra vợ ngươi sẽ sanh một con trai, rồi ngươi đặt tên là Y-sác” (17:19). Dường như Đức Chúa Trời đang phán với Áp-ra-ham: “Áp-ra-ham, con đã hiểu lầm Ta. Dòng dõi này không chỉ ra từ con mà cũng phải ra từ Sa-ra. Và tên nó sẽ là Y-sác, không phải Ích-ma-ên”. Đức Chúa Trời đã khước từ Ích-ma-ên.

Trong Ga-la-ti, Phao-lô bảo rằng Sa-ra và A-ga, hai người nữ, là một cách nói bóng tiêu biểu cho hai giao ước. Phao-lô chỉ có thể thấy điều này qua sự khải thị của Đức Chúa Trời. Nếu Phao-lô không nói về điều này, có bao giờ anh em nghĩ rằng Sa-ra là biểu tượng của giao ước ân điển và A-ga là biểu tượng của giao ước thuộc Kinh Luật không? Chúng ta không nên hài lòng chỉ với việc biết những câu chuyện trong Sáng Thế Ký mà cũng nên tiến đến chỗ hiểu nghĩa của cách nói bóng này.

Trong Ga-la-ti 3:17, Phao-lô nói: “Vậy, tôi nói rằng: Giao ước mà Đức Chúa Trời đã định trước kia không có thể bị bãi bỏ bởi Luật Pháp đến sau nó 430 năm, mà khiến cho lời hứa ra vô hiệu được đâu” 430 năm bao trùm khoảng thời gian từ Sáng Thế Ký 12:1 cho đến khi ban Kinh Luật trong Xuất Ai-cập Ký 20. Trước khi Kinh Luật được ban hành, có một cách nói bóng. Nói cách khác, trước khi Kinh Luật được ban hành, Đức Chúa Trời đã chụp một tấm hình về những gì sẽ xảy ra với Kinh Luật sau đó 430 năm. Tất cả chúng ta phải thấy điều này.

a) Người Nữ Tự Do, Sa-ra, 
Tượng Trưng Cho Giao Ước Của Lời Hứa (Ân Điển)

Sa-ra, người nữ tự do, tượng trưng cho giao ước của lời hứa (Gal. 4:23). Giao ước lời hứa của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham là giao ước ân điển. Trong giao ước này, Đức Chúa Trời hứa rằng Ngài sẽ ban cho Áp-ra-ham dòng dõi, mà không có ý định rằng Áp-ra-ham phải làm bất kỳ điều gì để có được. Đức Chúa Trời sẽ đem điều gì đó vào trong ông để ông có thể sinh ra một dòng dõi hầu hoàn thành mục đích của Ngài. Đó sẽ là việc làm của Đức Chúa Trời, không phải của Áp-ra-ham. Đây là ân điển. Sa-ra, người nữ tự do, người vợ chính thức của Áp-ra-ham, là biểu tượng về giao ước ân điển này. Bà sanh Y-sác không bởi sức mạnh của con người nhưng bởi ân điển của Đức Chúa Trời.

b) Người Nữ Nô Lệ, A-ga, Tượng Trưng Cho Giao Ước Của Kinh Luật

A-ga, người nữ nô lệ, tượng trưng cho giao ước của Kinh Luật (Gal. 4:25). Chính lúc con cái Ítx-ra-ên không nhận biết công tác ân điển của Đức Chúa Trời trên họ và tự cố gắng làm đẹp lòng Đức Chúa Trời thì Kinh Luật được đem vào. Khi một người không biết ân điển của Đức Chúa Trời, người ấy luôn nỗ lực làm điều gì đó để đẹp lòng Ngài, và điều này đem Kinh Luật đến, mà A-ga, người nữ nô lệ, người vợ không chính thức của Áp-ra-ham, làm biểu tượng của Kinh Luật đó. Vì là vợ không chính thức nên lẽ ra bà đừng bước vào. Điều này có nghĩa là Kinh Luật lẽ ra không nên bước vào và sản phẩm Kinh Luật không có vị trí trong việc hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. A-ga sanh Ích-ma-ên, người đã bị Đức Chúa Trời khước từ, bởi nỗ lực con người, không bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Sản phẩm của nỗ lực con người qua Kinh Luật không có phần gì trong sự hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời.

Theo gia tể của Đức Chúa Trời, một người nam chỉ nên có một vợ. Vì thế, lời đề nghị của Sa-ra để Áp-ra-ham có một dòng dõi bởi A-ga hoàn toàn nghịch lại gia tể của Đức Chúa Trời. A-ga không phải là người vợ chính thức mà là nàng hầu. A-ga, vợ lẽ của Áp-ra-ham, là biểu tượng của Kinh Luật. Bởi điều này, chúng ta thấy rằng vị trí của Kinh Luật là vị trí của vợ lẽ. Trong khi ân điển là người vợ chính thức, mẹ của những người thừa kế chính thức (Gal. 4:26,28,31), thì Kinh Luật là vợ lẽ, mẹ của những người bị khước từ quyền thừa kế. Theo phong tục thời xưa, người đàn ông lấy vợ lẽ vì vợ họ không thể có con. Điều này hết sức ý nghĩa. Khi ân điển chưa hành động , nhưng anh em lại vội vàng, anh em sẽ tự kết hiệp với vợ lẽ, tức với Kinh Luật. Sa-ra là biểu tượng của ân điển, giao ước của lời hứa, và A-ga là biểu tượng của Kinh Luật. Ân điển là người vợ chính thức và Kinh Luật là vợ lẽ.

c) Giao Ước Của Lời Hứa (Ân Điển) Được Lập Trước

Lời hứa được ban cho trong 12:2,7; 13:15-17; 15:4-5 và giao ước này đã được lập trong 15:7-21. Theo ý định của Đức Chúa Trời, giao ước của lời hứa đến trước. Đức Chúa Trời không có ý định đem Kinh Luật vào, và không muốn con người nỗ lực giữ Kinh Luật để hoàn thành mục đích của Ngài. Ý định ban đầu của Ngài là đem chính Ngài vào trong con người, để qua con người đó, mục đích của Ngài được hoàn thành.

d) Giao Ước Của Kinh Luật Được Đem Vào Sau

Giao ước của Kinh Luật đã được đem vào sau bởi nỗ lực của xác thịt trong Sáng Thế Ký chương 16. Điều chúng ta có trong Sáng Thế Ký 16 là nỗ lực của xác thịt để đem A-ga, biểu tượng của Kinh Luật vào. Lời hứa đã được ban khi Áp-ra-ham được kêu gọi trong Sáng Thế Ký chương 12, tức khoảng năm 1921 trước Chúa, còn Kinh Luật đã được ban trong Xuất Ai-cập Ký chương 20, tức 430 năm sau đó, sau cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập, khoảng năm 1491 trước Chúa (Gal. 3:17). Ân điển luôn luôn đến trước, nhưng Kinh Luật theo sau để cản trở. Không nhiều Cơ-đốc nhân thấy rằng vị trí của Kinh Luật là vị trí của vợ lẽ, nghịch lại gia tể của Đức Chúa Trời, và sản phẩm của Kinh Luật phải chịu sự khước từ của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, họ đã đánh giá cao Kinh Luật và cố hết sức để giữ Kinh Luật, tự làm cho họ thành những Ích-ma-ên, con của người nữ nô lệ.

e) Sự Sản Sinh (Ích-ma-ên) Bởi Nỗ Lực Của Xác Thịt Với Kinh Luật

Không có ngoại lệ, mọi Cơ-đốc nhân đều giống Áp-ra-ham. Sau khi được cứu, chúng ta đến chỗ nhận thức rằng Đức Chúa Trời muốn chúng ta sống đời sống giống như Đấng Christ, đời sống thiên thượng, đời sống đắc thắng, đời sống liên tục làm đẹp lòng Đức Chúa Trời và tôn vinh Ngài. Đúng vậy, Đức Chúa Trời muốn chúng ta sống một đời sống như thế, nhưng Ngài sẽ đem Đấng Christ vào trong chúng ta để thay chúng ta sống một đời sống thiên thượng đẹp lòng Đức Chúa Trời và tôn vinh Ngài. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều chú trọng đến ý định này và xao lãng ân điển. Ý định này là chúng ta sống một đời sống thiên thượng vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và ân điển là Đức Chúa Trời sẽ đem Đấng Christ vào trong chúng ta để hoàn thành mục đích của Ngài. Vì thế, lúc đầu chúng ta dựa vào Lót mà chúng ta đem theo từ xuất thân thiên nhiên của mình, cố gắng dùng ông để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời trong việc sống đời sống thiên thượng vì vinh hiển của Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời không cho phép chúng ta dựa vào Lót, chúng ta xoay qua Ê-li-ê-se, mong rằng ông sẽ làm chúng ta có thể sống đời sống thiên thượng vì vinh hiển của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, Đức Chúa Trời bảo chúng ta rằng: “Ta không muốn điều đó. Ta không muốn điều khách quan nhưng muốn điều gì đó chủ quan từ bên trong bản thể của con”. Một khi nhận thức rằng Đức Chúa Trời muốn điều này, chúng ta bắt đầu dùng năng lực riêng, sức mạnh thiên nhiên để hoàn thành mục đích của Ngài. Tất cả chúng ta đều có A-ga, một tớ gái luôn sẵn sàng hợp tác với chúng ta. Có thể chúng ta không có Kinh Luật được ban hành bởi Môi-se, nhưng chúng ta có nhiều luật-tự-lập. Tất cả chúng ta là những người ban luật và làm ra luật cho chính mình.

Hãy xem một vài ví dụ về những luật-tự-lập này. Có lẽ chị em nói rằng mình sẽ không bao giờ nổi giận với chồng hay không có thái độ tiêu cực đối với anh ấy. Đây là điều răn thứ nhứt của chị em. Điều răn thứ hai là, là một chị em và là người vợ Cơ-đốc, chị em cần dễ thương, dịu dàng và khiêm nhường. Điều răn thứ ba của chị em là không bao giờ chỉ trích người khác, và điều răn thứ tư là luôn thương yêu mọi người và không bao giờ ghét ai. Những luật-tự-lập này là những A-ga của chúng ta. Dù thành công hay không trong việc giữ luật của mình, thì điều đó cũng không tạo nên sự khác biệt nào trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, vì trong cách nhìn của Ngài, ngay cả những thành công của chúng ta cũng không được kể đến. Những năm trước đây, một số chị em gần như thành công trong việc hoàn thành những luật-tự-lập của họ. Họ có một nhân cách mạnh mẽ, ý chí và ý định mạnh mẽ, và suốt cả ngày, họ cố hết sức kiểm soát tính khí để luôn dễ thương, dịu dàng và khiêm nhường. Dầu các chị em như vậy có thể thành công về điều này, nhưng điều họ sản sinh chỉ là một Ích-ma-ên. Các chị em này vui mừng với Ích-ma-ên của họ, và trong một ý nghĩa, họ tự hào về Ích-ma-ên. Với các anh, nguyên tắc cũng giống như vậy.

Dầu có thể có một Ích-ma-ên tốt đẹp theo cách nhìn của mình, nhưng chúng ta có cảm nhận sâu xa rằng mình đang thiếu điều gì đó. Chúng ta đã mất sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, Ích-ma-ên này sẽ luôn nhạo báng những điều thuộc linh (21:9). Một mặt, chúng ta không thích yếu tố nhạo báng này, nhưng mặt khác, chúng ta vẫn cảm thấy rằng vì Ích-ma-ên là do chúng ta sản sinh, nên nó không tệ. Nhưng nếu mất sự hiện diện của Đức Chúa Trời, chúng ta thấy mình gặp rắc rối. Như hậu tự của Ích-ma-ên là nan đề cho Ítx-ra-ên ngày nay, thì Ích-ma-ên mà chúng ta sản sinh cũng là một nan đề cho chúng ta. Một khi sáng tỏ về điều này, chúng ta sẽ cầu nguyện: “Chúa ơi, xin giữ con trong ân điển Ngài. Xin giữ con trong lời hứa. Dù lời hứa của Ngài sẽ được hoàn thành hôm nay hay nhiều năm nữa đều không thành vấn đề. Con chỉ muốn quan tâm đến lời hứa của Ngài”. Dù nói lời này thì dễ nhưng sống lời này thì không dễ.

Điều gì đúng trong đời sống Cơ-đốc thì cũng đúng trong công tác Cơ-đốc. Tân Ước nói rằng sau khi được cứu, chúng ta cần rao giảng Phúc Âm và kết quả. Nhưng trong vấn đề gọi là chiếm được hồn người, nỗ lực và sức mạnh thiên nhiên được sử dụng nhiều biết bao! Nhiều loại A-ga, tất cả những A-ga đạt được tại Ai-cập, đều được sử dụng để chiếm hồn người. Mọi phương tiện thế tục để chiếm hồn người đều là A-ga. Đúng vậy, anh em có thể dùng A-ga để chinh phục hồn người, nhưng anh em sẽ chinh phục loại hồn người nào? Họ sẽ không phải là Y-sác nhưng là Ích-ma-ên. Theo Tân Ước, sự kết quả và rao giảng Phúc Âm đúng đắn đều bởi sự tuôn đổ của sự sống bề trong, bởi Đức Chúa Trời đem Đấng Christ vào trong, qua và ra từ chúng ta. Điều này nghĩa là việc rao giảng Phúc Âm đúng đắn là bởi Đấng Christ như ân điển cho chúng ta.

Ngày nay, trong thế giới Cơ-đốc có rất nhiều A-ga. Anh em có muốn tự mình sống đời sống Cơ-đốc không? Tốt hơn là anh em nên dừng lại. Anh em có muốn rao giảng Phúc Âm bằng phương tiện thế tục không? Tốt hơn là anh em cũng nên dừng lại. Hãy chấm dứt việc tự mình sống đời sống Cơ-đốc, và hãy chấm dứt công tác cho Chúa bằng phương tiện của thế giới. Khi đó, anh em có thể nói: “Nếu dừng lại, tôi sẽ chấm dứt”. Điều này đúng. Đó chính xác là điều Đức Chúa Trời mong đợi. Dù Áp-ra-ham đáp ứng hoàn toàn với sự kêu gọi của Đức Chúa Trời khi ông 75 tuổi, nhưng Đức Chúa Trời đã không làm điều gì với ông cho đến khi ông 99 tuổi, vì đến khi đó, ông vẫn còn sức mạnh thiên nhiên. Ông có Lót và Ê-li-ê-se để nương dựa và A-ga để đáp ứng với sức mạnh thiên nhiên của ông. Cuối cùng, Đức Chúa Trời buộc phải ẩn mặt khỏi ông. Chừng nào chúng ta còn sức mạnh thiên nhiên để sản sinh Ích-ma-ên thì Đức Chúa Trời không thể làm điều gì. Sau việc sinh ra Ích-ma-ên, Ngài đã ẩn mặt trong một thời gian. Khi Áp-ra-ham 99 tuổi, theo thể lực của ông, ông là một người không thể sinh sản. La-mã 4:19 nói rằng: “Người nhìn thấy thân thể mình dường như đã chết rồi vì đã gần trăm tuổi”. La-mã chương 4 cũng cho thấy Sa-ra đã mất khả năng sinh sản. Cả Áp-ra-ham lẫn Sa-ra hoàn toàn được thuyết phục rằng họ đã già và không thể làm gì. Vào thời điểm này, Đức Chúa Trời hiện ra.

Tất cả những sứ giả phục hưng đều khuấy động người khác, bảo họ sống và làm việc cho Đấng Christ. Nhưng trong chức vụ của mình, chúng ta nói rằng anh em phải dừng lại việc tự mình sống đời sống Cơ-đốc và làm công tác Cơ-đốc bằng phương tiện của thế giới. Đừng khó chịu về lời này của chúng tôi vì dù chúng tôi có nói bao nhiêu với người khác hãy dừng lại, thì hầu như không ai chịu dừng. Nếu ai muốn dừng lại việc tự cố gắng sống đời sống Cơ-đốc hay hầu việc Chúa bằng phương tiện của thế giới, người đó sẽ được phước. Chấm dứt tự nỗ lực trong đời sống Cơ-đốc và chấm dứt sự nhiệt thành thiên nhiên trong công tác Cơ-đốc là không dễ. Dù được Đức Chúa Trời kêu gọi là dễ, nhưng chấm dứt nhiệt thành thiên nhiên là khó nhất. Nếu Chúa hiện ra để làm anh em dừng lại, anh em có thể nói: “Không, thưa Chúa. Hãy nhìn vào tình trạng hôm nay. Hầu như không ai làm việc cho Ngài theo điều mà con có gánh nặng để làm. Gần như con là người duy nhất. Làm sao con có thể dừng lại công việc con đang làm cho Ngài?” Nhưng phước hạnh ở nơi người chịu dừng lại, vì khi anh em dừng lại, Đức Chúa Trời sẽ hiện ra. Sự kết thúc của nhân tính là khởi đầu của thần tính. Khi sự sống con người của chúng ta kết thúc, sự sống thần thượng sẽ bắt đầu.

Khi Áp-ra-ham 86 tuổi, ông vẫn còn quá nhiều sức mạnh riêng, khiến Đức Chúa Trời phải chờ 13 năm nữa. Có lẽ Đức Chúa Trời ngự trên trời nhìn Áp-ra-ham và nói: “Hỡi Áp-ra-ham, bây giờ ngươi 86 tuổi, nhưng Ta vẫn phải chờ 13 năm nữa”. Đang khi anh em cầu xin Đức Chúa Trời làm điều gì đó, Đức Chúa Trời đang cầu nguyện để anh em dừng lại. Trong khi anh em cầu nguyện: “Chúa ơi, xin giúp con làm điều gì đó”, Đức Chúa Trời sẽ phán: “Điều thực sự tốt cho con là dừng lại”. Trong khi Áp-ra-ham hết sức bận rộn trên đất, có thể Đức Chúa Trời đã nhìn ông và nói: “Này, Áp-ra-ham đáng thương, con không cần bận rộn như vậy. Con không dừng lại để Ta hiện ra sao? Hãy dừng lại và để Ta thực hiện điều đó. Vì con không dừng lại, Ta sẽ phải chờ đến khi con 99 tuổi”. Đức Chúa Trời đã chờ cho đến khi Áp-ra-ham trở thành người chết, hết chức năng sinh sản. Khi đó, Ngài hiện ra và có thể phán: “Bây giờ là sự khởi đầu của Ta. Bây giờ là lúc Ta bắt đầu điều gì đó”.

Sản phẩm của nỗ lực xác thịt là Ích-ma-ên nhưng Ích-ma-ên đã bị Đức Chúa Trời khước từ (17:18-19; 21:10-12a; Gal. 4:30). Ích-ma-ên không những bị Đức Chúa Trời khước từ mà còn ngăn cản sự hiện ra của Đức Chúa Trời. Ngày nay, kinh nghiệm của chúng ta cũng cho biết như vậy –Ích-ma-ên của chúng ta phá vỡ sự tương giao của chúng ta với Đức Chúa Trời và ngăn chúng ta khỏi sự hiện ra của Ngài. Bởi đó chúng ta thấy rằng đây không phải là vấn đề chúng ta làm gì hay là gì mà hoàn toàn là vấn đề chúng ta có sự hiện ra của Đức Chúa Trời hay không. Anh em có sự hiện ra của Đức Chúa Trời luôn luôn không? Chúng ta phải quên đi việc làm, hành động của mình, và quan tâm đến sự hiện ra của Đức Chúa Trời. Khi sự hiện ra của Đức Chúa Trời ở với chúng ta, chúng ta ở trong ân điển, trong giao ước của ân điển. Nhưng ngày nay, phần lớn Cơ-đốc nhân chỉ quan tâm đến hành động và việc làm của họ, không quan tâm đến sự hiện ra và hiện diện của Đức Chúa Trời. Dù có sinh ra nhiều Ích-ma-ên, nhưng họ không có hiện diện của Đức Chúa Trời. Điều chúng ta cần là sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Điều chúng ta cần không phải là bông trái bên ngoài của công việc bên ngoài mà là sự hiện ra bên trong của Đức Chúa Trời. Anh em có sự hiện diện của Đức Chúa Trời bên trong không? Đây là sự thử nghiệm quan trọng nhất.

f) Sự Sản Sinh (Y-sác) Bởi Lời Hứa Của Ân Điển

Sản phẩm của lời hứa ân điển, tức Y-sác, là dòng dõi để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời (17:19; 21:12b). Dòng dõi để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời không gì khác hơn là chính Đấng Christ được Đức Chúa Trời đem vào trong, qua và ra từ chúng ta. Những gì Đức Chúa Trời đã đem vào trong chúng ta sẽ sản sinh Đấng Christ là dòng dõi (Gal. 3:16). Dòng dõi này cuối cùng sẽ trở nên miền đất của chúng ta. Bây giờ chúng ta có dòng dõi là sự sống của chúng ta và miền đất là nếp sống của chúng ta. Bên trong chúng ta có Đấng Christ là dòng dõi mà bởi đó chúng ta sống, và bên ngoài chúng ta có Đấng Christ là miền đất mà trong đó chúng ta sống. Đây là nếp sống Hội Thánh với Đấng Christ là sự sống của chúng ta. Đây là cách duy nhất để chúng ta hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời.

Chúng ta không còn xem câu chuyện này trong Sáng Thế Ký chỉ là một loại tiên đoán nhưng là cách nói bóng về tình trạng ngày nay. Ân điển, Kinh Luật và sức mạnh thiên nhiên của chúng ta đều có ở đây và chúng ta luôn bị cám dỗ để sử dụng sức mạnh thiên nhiên nhằm hợp tác với A-ga để sản sinh một Ích-ma-ên hầu hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Nhưng chúng ta có một sự canh giữ –để kiểm tra xem chúng ta có sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong đời sống hằng ngày và trong công tác Cơ-đốc của mình hay không. Sự canh giữ này không phải là chúng ta kết quả bao nhiêu mà là sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Anh em có biết chắc, tin chắc rằng hằng ngày Đấng Christ liên tục được đem vào bản thể mình để là sự sống bề trong mà bởi đó anh em sống không? Anh em có biết chắc rằng Đấng Christ này thậm chí đang trở nên lĩnh vực mà trong đó anh em sống không? Lĩnh vực này là nếp sống Hội Thánh. Chúng ta cần có dòng dõi và miền đất, tức đời sống Cơ-đốc đúng đắn cộng với nếp sống Hội Thánh. Chúng ta cần sống bởi Đấng Christ bên trong và sống trong Đấng Christ bên ngoài. Đây là cách đúng đắn để chúng ta hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Chúng ta cần thấy điều này không phải cho người khác nhưng cho chính mình. Tiểu sử của Áp-ra-ham là bản tự truyện của chúng ta và biểu tượng về hai người nữ này là chân dung của đời sống chúng ta. Ngày nay chúng ta sống, chúng ta cần Đấng Christ là Dòng Dõi và Miền Đất.

 


Bài Bốn Mươi Bảy

Nhận Biết Ân Điển Đ Hoàn Thành 
Mục Đích Của Đức Chúa Trời

Giao Ước Của Đức Chúa Trời 
Được Xác Quyết Bằng Sự Cắt Bì

4) Giao Ước Của Đức Chúa Trời Được Xác Quyết

Trong bài này, chúng ta đến với Sáng Thế Ký chương 17, một bản ký thuật về cách cư xử của Đức Chúa Trời đối với Áp-ra-ham trong sự xác lập giao ước của Ngài. Chúng ta đã thấy Áp-ra-ham được kêu gọi và ông đã tiếp nhận sự kêu gọi, lời hứa và giao ước của Đức Chúa Trời. Sau khi kêu gọi Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời đã ban cho ông lời hứa, và rồi Ngài xác quyết lời hứa này bằng cách lập một giao ước với ông. Sau khi nhận được giao ước, Áp-ra-ham đã chấp nhận lời đề nghị của vợ là dùng xác thịt của ông cùng với sự bằng lòng của A-ga để sinh ra một dòng dõi. Kết quả là Ích-ma-ên. Ở đây, chúng ta thấy 3 điều: Lời đề nghị của Sa-ra, sự đồng tình của A-ga, và sự vận dụng xác thịt của Áp-ra-ham để sinh ra Ích-ma-ên.

a) Sự An Mặt Của Đức Chúa Trời Trong 13 Năm 
Vì Áp-ra-ham Dùng Xác Thịt

Có thể Áp-ra-ham nghĩ rằng không có gì nghiêm trọng khi ông dùng xác thịt để sinh ra Ích-ma-ên. Nhưng theo gia tể của Đức Chúa Trời vì mục đích đời đời của Ngài thì điều này rất nghiêm trọng. Nếu so sánh câu 1 của chương 17 với câu cuối của chương 16, chúng ta có thể thấy giữa 2 chương này là khoảng thời gian 13 năm, và suốt 13 năm này, không có lời ký thuật nào về đời sống của Áp-ra-ham. Khi Áp-ra-ham sinh Ích-ma-ên, ông đã 86 tuổi, và 13 năm sau, khi ông 99 tuổi, Đức Chúa Trời lại hiện ra với ông. Suốt thời gian 13 năm lâu dài đó, Áp-ra-ham, người được Đức Chúa Trời kêu gọi, một người sống bởi đức tin và đang học tập nhận biết ân điển để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, đã mất sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Thật nghiêm trọng biết bao khi không có sự hiện diện của Đức Chúa Trời!

Sau khi đáp ứng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời và bắt đầu sống đời sống bởi đức tin vào Đức Chúa Trời cho sự tồn tại của mình, Áp-ra-ham đã có một thất bại. Do thiếu đức tin, ông đã xuống Ai-cập, ở đó thậm chí ông đã lập kế hoạch hy sinh vợ mình. Theo quan niệm con người, điều đó còn tồi tệ hơn việc dùng A-ga để sinh ra Ích-ma-ên. Nhưng nếu đọc cẩn thận những chương này, chúng ta sẽ thấy rằng Đức Chúa Trời đã không phiền lòng với sự đi xuống Ai-cập của Áp-ra-ham nhiều bằng việc ông dùng A-ga để sinh ra Ích-ma-ên. Dĩ nhiên, Áp-ra-ham đi xuống Ai-cập là không tốt, nhưng điều đó không xúc phạm Đức Chúa Trời nhiều bằng việc ông dùng xác thịt để sinh ra Ích-ma-ên. Đi xuống Ai-cập là một thất bại bên ngoài; nhưng lấy A-ga để sinh ra Ích-ma-ên là một thất bại bên trong. Điều này sâu sắc hơn vì không chỉ liên hệ đến hoàn cảnh mà còn liên hệ đến sự sống. Lấy A-ga để sinh ra Ích-ma-ên không đơn giản là vấn đề đúng, sai hay phạm tội; đó là vấn đề sự sống. Những gì chúng ta làm bởi chính mình thì không là sự sống. Bất cứ điều gì chúng ta làm đều không phải là sự sống. Sự sống là chính Đức Chúa Trời. Đó là Đức Chúa Trời trở nên điều gì đó cho chúng ta trong chính bản thể chúng ta. Chúng ta không nên làm điều gì bởi chính mình, nhưng bởi Đức Chúa Trời được đem vào trong chúng ta. Bất cứ điều gì chúng ta làm bởi chính mình đều không phải là sự sống mà là sự chết vì đó là kết quả của bản ngã thiên nhiên.

Trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, bản ngã thiên nhiên của chúng ta thì nhơ bẩn và ô uế hơn tội. Dù tội là bất khiết trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, nhưng tội không làm xúc phạm Đức Chúa Trời nhiều bằng bản ngã thiên nhiên. Trong khi tất cả chúng ta đều công nhận tính nghiêm trọng của tội, thì không nhiều người nhận thức tính nghiêm trọng của bản ngã thiên nhiên. Nếu phạm tội, chúng ta lập tức xưng tội với Đức Chúa Trời, nhưng nếu làm những điều tốt nào đó bởi bản ngã thiên nhiên, chúng ta không có cảm nhận là đang xúc phạm Đức Chúa Trời. Nếu tôi ghét một anh em nào đó, thật dễ để tôi nhận ra rằng sự ghét này là một tội và xưng nhận tội đó với Đức Chúa Trời. Nhưng nếu tôi thương yêu anh em này bởi bản ngã thiên nhiên, thật khó để tôi nhận thức rằng điều này chống lại Đức Chúa Trời. Tội chỉ xúc phạm sự công chính của Đức Chúa Trời nhưng bản ngã thiên nhiên của chúng ta xúc phạm đến chính Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời muốn vào trong chúng ta để là sự sống và mọi sự của chúng ta hầu chúng ta có thể sống, làm việc và làm mọi sự bởi Ngài. Nhưng khi làm nhiều điều bởi bản ngã, bản ngã thiên nhiên, chúng ta đã gạt Ngài qua một bên. Bởi điều này, chúng ta thấy rằng bản ngã thiên nhiên chống lại chính Đức Chúa Trời. Không chỉ nó chống lại sự công chính hay sự thánh khiết của Đức Chúa Trời mà còn chống lại chính Đức Chúa Trời.

Ý định của Đức Chúa Trời đối với Áp-ra-ham là Ngài sẽ đem chính Ngài vào trong ông để ông có thể sanh con nhằm hoàn thành mục đích của Ngài. Đức Chúa Trời không định rằng Áp-ra-ham thực hiện điều này bởi sức mạnh thiên nhiên của ông. Dù vậy, Áp-ra-ham đã dùng sức mạnh thiên nhiên để sinh con nhằm hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Không gì xúc phạm Đức Chúa Trời hơn hành động thiên nhiên này. Hành động bởi bản ngã thiên nhiên của chúng ta là điều xúc phạm Đức Chúa Trời nhất. Với Áp-ra-ham, không có gì nghiêm trọng khi ông lấy A-ga. Ngay cả Sa-ra, vợ ông, cũng đề nghị điều này, bà nghĩ rằng điều này sẽ giúp Áp-ra-ham sinh sản một dòng dõi, vì ông đã già và bà không còn khả năng sinh sản nữa. Nhưng Đức Chúa Trời đã hứa rằng họ sẽ có một con trai. Vì không biết làm thế nào điều này có thể xảy ra nên họ đã nghĩ cách là dùng A-ga, người hầu gái Ai-cập, để sinh con mà không nhận thức điều đó đã xúc phạm Đức Chúa Trời là như thế nào. Đó là một điều sỉ nhục cho Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Chúa Trời đã không hiện ra với người yêu dấu được kêu gọi của Ngài trong 13 năm. Dường như Đức Chúa Trời đã ngoảnh mặt khỏi Áp-ra-ham và không nói chuyện với ông trong thời gian lâu dài đó. Không có lời ghi chép nào trong Kinh Thánh về những gì xảy ra suốt thời gian đó. Từ câu cuối của chương 16 và câu thứ nhất của chương 17, chúng ta chỉ biết rằng 13 năm sau, Đức Chúa Trời đã lại xuất hiện với Áp-ra-ham. Theo lời ký thuật của Kinh Thánh, 13 năm của cuộc sống Áp-ra-ham đã bị lãng phí. Trong lời ký thuật thiên thượng, những năm đó đã mất vì Áp-ra-ham vận dụng bản ngã thiên nhiên để làm điều gì đó hầu hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời.

b) Sự Toàn Túc Của Đức Chúa Trời Đòi Hỏi Sự Hoàn Hảo

Sáng Thế Ký 17:1 nói “Khi Áp-ram được 99 tuổi, thì Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: ‘Ta là Đức Chúa Trời Toàn Túc, ngươi hãy đi ở trước mặt Ta làm một người hoàn hảo”. Ở đây chúng ta thấy Đức Chúa Trời truyền cho Áp-ra-ham hai điều: rằng Áp-ra-ham phải đi trước mặt Đức Chúa Trời Toàn Túc và ông phải hoàn hảo. Trong chương 16, Áp-ra-ham đã không bước đi trước mặt Đức Chúa Trời. Ông đã bước đi trước Sa-ra, A-ga và Ích-ma-ên. Vì ông đã không bước đi trước mặt Đức Chúa Trời nên Đức Chúa Trời đã đến và bảo ông hãy bước đi trước mặt Ngài và hãy hoàn hảo. Việc Đức Chúa Trời bảo Áp-ra-ham hãy hoàn hảo bày tỏ rằng trước thời gian đó ông đã không hoàn hảo. Trong chương 16, Áp-ra-ham đã không hoàn hảo, ông đã thiếu một điều gì đó.

Trước khi xem xét thêm việc bước đi trước mặt Đức Chúa Trời và hoàn hảo nghĩa là gì, chúng ta cần học biết danh của Đức Chúa Trời trong 17:1, tức Đức Chúa Trời Toàn Túc. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, danh này là El-Shaddai. El có nghĩa là Đấng Mạnh Mẽ, Đấng Toàn Năng và Shaddai ngụ ý đến nghĩa của bầu vú, nghĩa là toàn túc. El-Shaddai là Đấng Toàn Năng với một bầu vú, Đấng Toàn Năng có sự cung ứng toàn túc. Bầu vú sản sinh sữa và sữa là sự cung ứng toàn túc, có nước, các khoáng chất và nhiều vitamine trong đó và chứa tất cả những gì chúng ta cần trong nếp sống hằng ngày. Vì vậy, El-Shaddai có nghĩa là Đấng Mạnh Mẽ Toàn Túc.

Khi làm những điều bởi bản ngã thiên nhiên, Áp-ra-ham đã quên nguồn cung ứng của ông. Nói cách khác, ông đã quên Đức Chúa Trời là nguồn cung ứng toàn túc. Vì thế, Đức Chúa Trời đã đến với Áp-ra-ham, và dường như Ngài phán: “Ta là Đấng Toàn Năng với một bầu vú. Ngươi có đang thiếu thốn không? Tại sao ngươi không đến với bầu vú này? Ngươi đói hay khát? Hãy đến với bầu vú này. Nguồn cung ứng của ngươi không phải là bản ngã thiên nhiên, mà là Ta –Đấng Toàn Năng với một bầu vú. Ta là Đấng Toàn Túc có thể cung ứng mọi điều ngươi cần cho đời sống và mọi điều ngươi cần để hoàn thành mục đích đời đời của Ta. Ta là Nguồn. Ngươi không phải là nguồn. Ngươi không nên sống dựa trên chính mình hay bởi mình. Ngươi phải sống bởi Ta là nguồn cung ứng của ngươi”.

Trong chương 17, vấn đề không phải là Đức Chúa Trời Chí Cao hay Đấng sở hữu cả trời và đất như chương 14, mà hoàn toàn là vấn đề về Đấng Toàn Năng với một bầu vú. Khi Áp-ra-ham sợ kẻ thù, Đức Chúa Trời đã đến và nói “Hỡi Áp-ram, chớ sợ chi; Ta đây là cái thuẫn và là phần thưởng rất lớn của ngươi” (15:1). Lúc đó, Đức Chúa Trời dường như phán với Áp-ra-ham rằng: “Ngươi không cần phải sợ kẻ thù, Ta là cái thuẫn và sự bảo vệ cho ngươi”. Nhưng sau khi Áp-ra-ham đã làm điều gì đó bởi bản ngã thiên nhiên để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, làm điều gì đó chống lại chính Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời đã đến, và dường như Ngài phán: “Ta là El-Shaddai, Đấng Toàn Năng với một bầu vú. Ngươi không nên làm bất cứ điều gì dựa trên chính mình hay bởi chính mình. Ngươi phải nhận thức rằng Ta là Sự Cung Ứng của ngươi”. Một bầu vú không cung cấp cho chúng ta vũ khí để giết người, nhưng ban sữa vào trong chúng ta làm sự cung ứng của chúng ta. Sự cung ứng của Đức Chúa Trời phải vào trong chúng ta như sữa. Đức Chúa Trời không muốn anh em dùng sức mạnh của mình để sinh ra một dòng dõi hầu hoàn thành mục đích của Ngài. Ngài muốn anh em uống sữa của Ngài, nhận điều gì đó của chính Ngài vào bên trong hầu anh em có thể sinh ra một dòng dõi. Nếu không có Tân Ước, chúng ta không bao giờ có thể hiểu đầy đủ danh xưng này của Đức Chúa Trời, nhưng ngày nay, chúng ta có thể hiểu danh này cách đầy đủ. Ngày nay, chúng ta có thể liên tục sống bằng cách nhận sự cung ứng của Đấng Toàn Năng với một bầu vú. Anh em có nhận sự cung ứng từ bầu vú thần thượng này hằng ngày không? Đây không phải là sự bảo vệ của cái thuẫn chống lại kẻ thù mà là sự cung ứng của bầu vú để sản sinh dòng dõi. Đây không phải là vấn đề có được một công việc tốt thay vì công việc tồi tệ, nhưng là cung cấp cho chúng ta sự cung ứng mà khi nhận vào bên trong, điều đó sẽ trở nên chính sự cấu tạo để sinh ra một đứa con hầu hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời. Hằng ngày anh em đang nhận sự cung ứng nào? Chúng ta đang nhận sự cung ứng từ Đấng Toàn Năng với bầu vú thần thượng của Ngài. Hằng ngày chúng ta đang ở dưới bầu vú của Ngài và có sự cung ứng toàn túc. Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Năng Toàn Túc như vậy cho chúng ta.

Trong 17:1, Đức Chúa Trời bảo Áp-ra-ham bước đi trước mặt Ngài. Điều này có nghĩa gì? Đó là vui hưởng Chúa. Bước đi trước mặt Chúa nghĩa là chúng ta liên tục vui hưởng Ngài và sự cung ứng của bầu vú Ngài. Anh em có bước đi trước mặt Ngài, vui hưởng sự cung ứng toàn túc từ bầu vú thần thượng của Ngài không? Bước đi trước mặt Đức Chúa Trời không có nghĩa là chúng ta bước đi cách sợ hãi như trước mặt Đấng Thánh. Không, Đấng Toàn Năng với bầu vú toàn túc sẽ cung ứng tất cả nhu cầu hằng ngày của chúng ta. Khi vui hưởng sự cung ứng của Ngài, chúng ta đang bước đi trong hiện diện Ngài.

Đức Chúa Trời cũng bảo Áp-ra-ham hãy hoàn hảo. Hoàn hảo nghĩa là gì? Với Áp-ra-ham, không hoàn hảo không có nghĩa là ông không tốt, mà có nghĩa là ông thiếu Đức Chúa Trời. Không ai trong chúng ta có thể được hoàn hảo mà không có Đức Chúa Trời. Không có Đức Chúa Trời, không có sự hoàn hảo. Không có Ngài, chúng ta luôn thiếu hụt điều gì đó. Dù có hoàn hảo trong chính mình đến đâu, chúng ta vẫn thiếu hụt Đức Chúa Trời, và cần được hoàn hảo bởi Đức Chúa Trời và với Đức Chúa Trời. Nếu không có Đức Chúa Trời trong đời sống gia đình anh em, đời sống gia đình anh em không hoàn hảo. Ngoài Đức Chúa Trời, không có sự hoàn hảo. Giả sử bàn tay anh em chỉ có 4 ngón. Dù có thể là một bàn tay tốt, nhưng vì không có ngón cái nên nó không hoàn hảo. Bàn tay của anh em cần được hoàn hảo bởi thêm ngón cái vào. Nếu ngày kia, ngón cái được thêm vào bàn tay anh em, bàn tay đó trở nên hoàn hảo. Vì thế, được hoàn hảo có nghĩa là chúng ta cần thêm Đức Chúa Trời vào bên trong. Bước đi trước mặt Đức Chúa Trời có nghĩa là vui hưởng Ngài, và được hoàn hảo có nghĩa là có thêm Đức Chúa Trời vào bên trong. Có bao giờ anh em nhận thức rằng sự hoàn hảo của anh em là chính Đức Chúa Trời không? Có bao giờ anh em nhận thức rằng dù tốt bao nhiêu hay hoàn hảo đến đâu trong cách nhìn của con người mà không có Đức Chúa Trời thì anh em vẫn đang thiếu điều gì đó không? Trong chính mình, chúng ta không có yếu tố hoàn hảo vì yếu tố hoàn hảo là chính Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phải được thêm vào trong đời sống chúng ta. Nếu Ngài không được thêm vào trong đời sống chúng ta, đời sống chúng ta vẫn không hoàn hảo.

Tại sao Đức Chúa Trời đòi Áp-ra-ham phải hoàn hảo? Vì Đức Chúa Trời đã là và vẫn là Đấng Toàn Năng Toàn Túc. Vì Ngài là Đấng Toàn Năng Toàn Túc nên không có lý do hay lời biện minh nào để chúng ta không hoàn hảo. Bất cứ điều gì chúng ta thiếu, Đức Chúa Trời là điều đó. Anh em thiếu sức mạnh chăng? Đức Chúa Trời là sức mạnh. Anh em cần năng lực chăng? Đức Chúa Trời là năng lực. Đức Chúa Trời là bất cứ điều gì chúng ta cần. Vì thế, sự toàn túc của Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta phải hoàn hảo. Không lý do gì để chúng ta nghèo; chúng ta có một tài khoản lớn trong ngân hàng thiên thượng.

Nói cách thực tế, hoàn hảo có nghĩa là chúng ta không nương cậy sức mạnh của xác thịt nhưng tin cậy Đấng Toàn Năng Toàn Túc cho đời sống và công tác. Chúng ta không nên nương cậy vào việc vận dụng bản ngã thiên nhiên hay năng lực của xác thịt. Chúng ta phải luôn tin cậy sự toàn túc của Đức Chúa Trời cho mọi sự. Ví dụ nhiều người trong chúng ta gặp rắc rối do nóng tính. Tại sao chúng ta nổi nóng vào lúc đó? Vì lúc đó chúng ta không tin cậy Đức Chúa Trời. Sự nóng giận của chúng ta buộc chúng ta phải học một bài học –đừng bao giờ xa cách Đức Chúa Trời nhưng luôn luôn tin cậy Ngài. Đừng cố gắng đắc thắng tính nóng giận. Nếu quên đi sự nóng giận và luôn luôn tin cậy Đức Chúa Trời, sự nóng giận của anh em sẽ bị chế ngự. Mỗi sự không hoàn hảo đều do một điều: chúng ta xa cách Đấng Toàn Năng Toàn Túc. Khi xa cách Ngài, chúng ta giống như một thiết bị điện không hoạt động vì bị cắt khỏi nguồn cung ứng điện. Tất cả chúng ta phải học tập giữ mình liên tục ở trong Đức Chúa Trời. Đây là cách để hoàn hảo.

Khi còn là một Cơ-đốc nhân trẻ, lúc đọc Sáng Thế Ký 17:1, tôi nhận thức mình không hoàn hảo. Tôi thiếu sự nhân từ, khiêm nhường, kiên nhẫn, tình yêu và nhiều mỹ đức và thuộc tính khác. Vì thế, trong sự cầu nguyện, tôi quyết định rằng, với sự giúp đỡ của Chúa, tôi sẽ có tình yêu, sự kiên nhẫn, tính khiêm nhường, lòng nhân từ và các đức tính khác mà tôi còn thiếu. Nhưng tôi phải nói với anh em rằng tôi chưa bao giờ thành công. Hễ khi nào đọc Sáng Thế Ký 17:1, tôi không thể hiểu hoàn hảo là gì? Cuối cùng, tôi thấy rằng yếu tố hoàn hảo trong đời sống chúng ta là chính Đức Chúa Trời, và tôi cần có thêm Đức Chúa Trời vào trong tôi. Điều tốt nhất chúng ta có chỉ là 4 ngón tay; chúng ta không có ngón cái. Dù có luyện tập 4 ngón này làm nhiều điều đến đâu, chúng vẫn không hoàn hảo vì không có ngón cái. Chúng ta cần thêm ngón cái vào bàn tay mình để làm nó hoàn hảo.

c) Đổi Tên

Bây giờ chúng ta đến với sự đổi tên. Trong Sáng Thế Ký 17:5, Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham: “Thiên hạ chẳng còn gọi ngươi là Áp-ram nữa, nhưng tên ngươi sẽ là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ của nhiều dân tộc”. Áp-ram có nghĩa là cha được tôn cao; Áp-ra-ham có nghĩa là cha của nhiều dân tộc. Dù Áp-ram là một người cha cao cả nhưng ông không phải là cha của nhiều người, cha của nhiều dân tộc. Nhưng trong Sáng Thế Ký 17:5, tên ông đã được đổi từ cha được tôn cao thành cha của nhiều người. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, tên Áp-ram gồm 4 mẫu tự được tiêu biểu bởi bốn mẫu tự tiếng Anh là A-b-r-m còn tên Áp-ra-ham có thêm chữ h. Điều này cho thấy 4+1. 4 là con số của tạo vật và 1 là con số của Đấng Tạo Hóa. Vì thế, như bốn ngón tay cộng với một ngón cái tạo nên một bàn tay đầy đủ, thì cũng vậy, con người cộng với Đức Chúa Trời là sự hoàn hảo. 4+1=5 là con số của trách nhiệm. Dù có tốt bao nhiêu như số 4, chúng ta vẫn thiếu số 1. Để là số 5 mang trách nhiệm hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời phải được thêm vào trong chúng ta. Ý nghĩa việc đổi tên của Áp-ra-ham là gì? Đó là Đức Chúa Trời được thêm vào trong ông. Trước Sáng Thế Ký chương 17, Áp-ra-ham chỉ là Áp-ram, một người không có Đức Chúa Trời được thêm vào. Nhưng trong Sáng Thế Ký chương 17, không những tên mà chính con người này đã được thay đổi bởi có thêm Đức Chúa Trời vào bên trong. Một chữ duy nhất được thêm vào 4 chữ và Đức Chúa Trời đã được thêm vào trong con người. Đức Chúa Trời là yếu tố hoàn hảo. Không có Ngài, chúng ta không hoàn hảo. Tất cả chúng ta cần Đức Chúa Trời thêm vào bên trong. Đây là sự hoàn hảo.

Như một người là thực tại của tên người đó, thì cũng vậy, sự đổi tên thành Áp-ra-ham bày tỏ sự thay đổi của con người ông. Tên lúc đầu bày tỏ ông là một người cha được tôn cao. Bây giờ, Đức Chúa Trời đổi tên ông, cho thấy rằng ông sẽ là cha của nhiều người. Điều cần thiết để hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời không phải là một người cha được tôn cao, mà là người cha của nhiều người, không phải là một cá nhân được tôn cao, mà là một người đông đúc, một người với sự gia tăng lớn như sự nhân rộng của người đó. Đức Chúa Trời cần số đông những người hoàn thành mục đích của Ngài, và vì điều này, Ngài cần có một người cha sinh sản. Đa số Cơ-đốc nhân ao ước trở thành một người có thuộc linh được tôn cao. Càng tìm kiếm loại thuộc linh này, họ càng trở nên son sẻ và cá nhân chủ nghĩa, không sinh sản. Nhưng Đức Chúa Trời cần chúng ta được nhân rộng trong sự sản sinh dòng dõi chứ không cần chúng ta được được tôn cao trong việc tìm kiếm sự thuộc linh. Vì điều này, chúng ta cần đổi tên, tức sự thay đổi con người chúng ta. Cha được tôn cao phải được thay đổi thành cha của nhiều dân tộc. Người tìm kiếm sự tôn cao thuộc linh phải được thay đổi thành người sản sinh nhiều. Điều này đòi hỏi sự kết liễu bản ngã tìm-kiếm-thuộc-linh. Ngay cả loại bản ngã này cũng phải bị kết liễu để chúng ta có thể là một người được nhân rộng, không phải là một người được tôn cao, để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời.

Trong 17:5, chúng ta thấy tên Sa-ra cũng được thay đổi. “Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham rằng: ‘Còn Sa-rai, vợ ngươi, chớ gọi là Sa-rai nữa, nhưng Sa-ra là tên người đó’”. Sa-rai có nghĩa là “công chúa của tôi” và Sa-ra có nghĩa là “công chúa”. Từ “của tôi” theo sau từ “công chúa” bày tỏ sự hạn hẹp, nhưng công chúa tự nó bày tỏ sự rộng mở. Tên của Sa-rai được đổi thành Sa-ra vì bà sẽ là mẹ của nhiều dân tộc theo cách rộng mở, chứ không theo cách hạn hẹp. Trong 17:16, Đức Chúa Trời phán “Ta sẽ ban phước cho nàng, lại do nơi nàng, Ta sẽ cho ngươi một con trai. Ta sẽ ban phước cho nàng, nàng sẽ làm mẹ các dân tộc; những vua của các dân tộc sẽ do nơi nàng mà ra”. Khi Đức Chúa Trời được thêm vào trong chúng ta, chúng ta trở nên rộng hơn, lớn hơn. Không có Đức Chúa Trời thêm vào bên trong, chúng ta không những bất toàn mà còn hạn hẹp nữa. Dù là anh em hay chị em, nếu không có Đức Chúa Trời được thêm vào bên trong, anh chị em là một người hẹp hòi. Nếu không có Đức Chúa Trời được thêm vào bên trong, anh em là một người chồng hẹp hòi. Nếu không có Đức Chúa Trời được thêm vào bên trong, chị em là một người vợ hẹp hòi. Điều gì có thể mở rộng chúng ta? Chỉ có chính Đức Chúa Trời. Nếu muốn là một người rộng mở với quan điểm rộng mở cùng tâm trí, tấm lòng và linh rộng mở, anh em cần Đức Chúa Trời mở rộng. Dù là ai, khi không có Đức Chúa Trời thêm vào bên trong, chúng ta luôn nói những điều như: “sở thích của tôi”, “lợi ích của tôi”, “tương lai của tôi”, “sự tăng trưởng trong sự sống của tôi”, “sự tìm kiếm Chúa của tôi”, “sự thi hành chức năng của tôi trong các buổi nhóm của Hội Thánh”. Chúng ta sẽ không quan tâm đến người khác trừ khi Đức Chúa Trời mở rộng chúng ta. Tên của chúng ta, “công chúa của tôi”, phải được đổi thành “công chúa”. Chúng ta nói: “Đây là ngày của tôi, nhà của tôi, thì giờ của tôi, cái này của tôi, cái kia của tôi” vì thiếu hụt Đức Chúa Trời; nhưng khi có Đức Chúa Trời được thêm vào bên trong, chúng ta không những trở nên cha của nhiều dân tộc mà cũng là công chúa của nhiều dân tộc để hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời. Tất cả chúng ta đều cần một sự thay đổi như vậy, một sự thay đổi đến từ việc Đức Chúa Trời được thêm vào bên trong để mở rộng con người hẹp hòi của chúng ta.

Tất cả chúng ta cần được thay đổi từ “công chúa của tôi” thành “công chúa”, biến đổi từ quan niệm thuộc linh hẹp hòi thành sự thuộc linh rộng mở và bao quát để chúng ta không còn là công chúa “của tôi” nhưng là “mẹ của nhiều dân tộc”, chăm sóc người khác và có một dòng dõi để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Điều này cũng đòi hỏi sự kết liễu người thiên nhiên cũ kỹ để chúng ta có thể được biến đổi thành một người mới, sản sinh dòng dõi, chăm sóc người khác và làm cho mục đích của Đức Chúa Trời được hoàn thành với sự nhân rộng lớn mạnh. Vì mục đích đời đời của Đức Chúa Trời, chúng ta cần trở nên “cha của nhiều người” và “mẹ của các dân tộc”. Chúng ta cần biến đổi thành một người được gia tăng và nảy nở, một người rộng mở và bao quát.

d) Giao Ước Được Xác Quyết Bằng Sự Cắt Bì

Để có Đức Chúa Trời được thêm vào trong chúng ta và mở rộng, chúng ta cần được cắt bì. Giao ước Đức Chúa Trời lập với Áp-ra-ham trong Sáng Thế Ký chương 15 đã được xác quyết trong Sáng Thế Ký chương 17 bằng sự cắt bì. Với Đức Chúa Trời, Ngài không cần xác quyết lại vì Ngài đã xác quyết một lần rồi, nhưng về phía Áp-ra-ham thì cần xác quyết. Trong khi Đức Chúa Trời thành tín với giao ước của Ngài thì Áp-ra-ham lại không,vì ông đã dùng sức mạnh thiên nhiên để sinh ra Ích-ma-ên. Vì việc Áp-ra-ham dùng năng lực thiên nhiên của ông với A-ga để sinh ra Ích-ma-ên là nguyên nhân của sự rắc rối, nên Đức Chúa Trời đã xác quyết giao ước Ngài bằng việc cắt bì Áp-ra-ham (17:9-11,13).

Trong Tân Ước, chúng ta có thể tìm thấy ý nghĩa của sự cắt bì. Ý nghĩa thuộc linh của sự cắt bì là lột bỏ xác thịt, bản ngã và người cũ. Cô-lô-se 2:11-12 nói “Trong Ngài, anh em cũng đã chịu cắt bì, không phải cắt bì bởi tay người làm, mà là cắt bì của Đấng Christ bằng sự lột bỏ thân thể của xác thịt. Vì anh em đã nhờ báp-têm mà được đồng chôn với Ngài, cũng nhơn đó đã được đồng sống lại với Ngài bởi đức tin đến sự vận hành của Đức Chúa Trời, là Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại”. Cắt bì là vấn đề lột bỏ xác thịt, người cũ. Đó không phải vấn đề xử lý tội lỗi. Theo một ý nghĩa nghiêm túc, cắt bì không liên quan gì đến xử lý tội lỗi; đó là vấn đề được đóng đinh và chôn với Đấng Christ. Cắt bì có nghĩa là kết liễu bản ngã, xác thịt của anh em. Áp-ra-ham đã sử dụng xác thịt của ông trong Sáng Thế Ký 16, nhưng ở đây, trong Sáng Thế Ký 17, Đức Chúa Trời muốn xác thịt của ông phải bị loại bỏ. Trong Sáng Thế Ký 16, ông đã làm mạnh mẽ sức mạnh thiên nhiên của ông, nhưng trong Sáng Thế Ký 17, sức mạnh của ông phải bị kết liễu. Đây là sự cắt bì.

Ngày nay nan đề cũng như vậy. Hễ sức mạnh thiên nhiên của chúng ta còn tồn tại thì Đức Chúa Trời khó bước vào và trở nên mọi sự của chúng ta để hoàn thành mục đích của Ngài. Đức Chúa Trời muốn vào trong chúng ta, trở nên mọi sự cho chúng ta, nhưng xác thịt, bản thể, sức mạnh thiên nhiên, người cũ và bản ngã cũ kỹ của chúng ta, là điều ngăn cản Đức Chúa Trời trở nên mọi sự cho chúng ta. Bản ngã này, người cũ này, phải bị kết liễu. Nó phải được cắt bì, nghĩa là bị đóng đinh. Tôi muốn nói với anh em tin mừng là người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh rồi (La. 6:6). Với Áp-ra-ham, nó sẽ bị đóng đinh, nhưng với chúng ta, nó đã bị đóng đinh rồi. Tất cả chúng ta phải thấy điều này, thừa nhận và tiếp nhận điều này bằng đức tin. Bởi đức tin, chúng ta có thể tuyên bố rằng xác thịt, người thiên nhiên với sức mạnh của nó đã bị đóng đinh. “Tôi đã bị đóng đinh với Đấng Christ trên thập tự giá, dầu vậy tôi sống, nhưng không phải là tôi sống nữa, mà là Đấng Christ sống ở trong tôi” (Ga-la-ti 2:20). Tất cả chúng ta cần sống với nhận thức rằng người cũ, bản ngã đã bị đóng đinh. Nếu chúng ta tuyên bố và sống theo điều này, lập tức Đức Chúa Trời của sự phục sinh có cách để vào trong chúng ta và là mọi sự cho chúng ta để thực hiện gia tể Ngài.

Sự cắt bì là một dấu hiệu, một ấn chứng của sự xưng công chính bởi đức tin (La.4:11). Tuy nhiên, nhiều Cơ-đốc nhân quên dấu hiệu này. Dù có thể nhận thức và tuyên bố rằng họ đã được xưng công chính bởi đức tin, nhưng sau khi đã được xưng công chính bởi đức tin, họ không có dấu hiệu của sự kết liễu bản ngã. Làm thế nào anh em có thể cho người khác thấy rằng mình đã được Đức Chúa Trời xưng công chính? Anh em phải sống một đời sống kết liễu bản ngã. Anh em phải cho thấy rằng anh em không còn sống bởi chính mình nhưng đang sống bởi Đấng Christ. Khi đó, đời sống của anh em trở nên một dấu hiệu rằng anh em đã được xưng công chính. Sống đời sống bị đóng đinh trong sự phục sinh của Đấng Christ là một dấu hiệu của việc chúng ta được xưng công chính. Giả sử tôi, một người được cứu đã được Đức Chúa Trời xưng công chính, vẫn còn sống, hành động và làm việc bởi chính mình, làm mọi điều bởi chính mình. Nếu vậy, người khác sẽ khó nhận ra rằng tôi là người đã được xưng công chính. Thậm chí người ta nghi ngờ về việc tôi đã được cứu. Nhưng nếu tôi sống đời sống bị đóng đinh, gạt bỏ chính mình và nhận lấy Đấng Christ làm sự sống, không ai có thể nghi ngờ việc tôi đã được xưng công chính bởi đức tin. Mọi người sẽ phải nói: “Ngợi khen Chúa! Không nghi ngờ gì đây là một anh em đã được Đức Chúa Trời xưng công chính”. Đời sống kết liễu bản ngã là một dấu hiệu và ấn chứng về sự xưng công chính của chúng ta.

Sự xác quyết giao ước bằng sự cắt bì liên hệ đến dòng dõi và miền đất để hoàn tất mục đích của Đức Chúa Trời (17:2-8). Để hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời là con người biểu lộ và đại diện Ngài, chúng ta cần có Đấng Christ là Dòng Dõi và Miền Đất. Để có Đấng Christ là Dòng Dõi và Miền Đất hầu hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, chúng ta cần được cắt bì và sống đời sống bị đóng đinh. Sự cắt bì là để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Khi xác thịt, bản ngã và người cũ đã bị kết liễu thì cánh cửa được mở ra để Đức Chúa Trời bước vào và sản sinh Y-sác.

Giữa người Do-thái, sự cắt bì luôn được thực hiện vào ngày thứ 8 (17:12). Ngày thứ 8 là ngày thứ nhất của tuần lễ mới và chỉ về một sự khởi đầu mới, một sự bắt đầu mới trong sự phục sinh. Hễ khi nào sống đời sống bị đóng đinh, chúng ta có một sự bắt đầu mới trong sự phục sinh. Khi khước từ và chối bỏ mình và sống đời sống bị đóng đinh, ngay lập tức chúng ta có sự khởi đầu mới trong sự phục sinh. Dù anh em có thể đã lập gia đình nhiều năm, nếu hôm nay bắt đầu sống đời sống bị đóng đinh, anh em sẽ có một khởi đầu mới trong sự phục sinh trong hôn nhân, và đời sống hôn nhân của anh em sẽ được làm cho mới lại. Hễ khi nào có sự cắt bì thì có ngày thứ 8. Nói cách khác, hễ khi nào sống đời sống bị đóng đinh, chúng ta sẽ ở trong sự phục sinh.

Tất cả những người không chịu cắt bì đều bị dứt khỏi giao ước này. Trong 17:14, Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham “Một người nam nào không chịu cắt bì nơi xác thịt mình sẽ bị truất ra khỏi dân sự, người đó là kẻ bội lời giao ước Ta”. Điều này đúng với hôm nay. Nếu không sống đời sống bị đóng đinh, chúng ta bị cắt khỏi Đấng Christ, khỏi nếp sống Hội Thánh, và khỏi sự cung ứng của bầu vú thần thượng. Hễ khi nào không sẵn lòng chịu cắt bì, chúng ta bị chấm dứt đối với việc hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời. Ngày nay, việc chúng ta vui hưởng Đức Chúa Trời, sống bởi Đấng Christ và thực hành nếp sống Hội Thánh đều tùy thuộc vào một điều –sự cắt bì, tùy thuộc vào việc sống đời sống bị đóng đinh.

e) Sự Sinh Ra Của Y-sác Được Hứa

Trong 17:15-21, chúng ta thấy việc sinh ra của Y-sác được hứa rõ hơn trước đó. Chúng ta biết điều này rõ hơn vì tên Y-sác được đề cập và mẹ của ông được nêu tên. Trong các chương trước, Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ cho Áp-ra-ham một dòng dõi, và Áp-ra-ham sẽ sản sinh dòng dõi đó, nhưng Đức Chúa Trời không đề cập dòng dõi đó sẽ ra từ Sa-ra. Ngài cũng không phán rằng dòng dõi đó sẽ mang tên là Y-sác. Nhưng trong những câu này, chúng ta thấy Đức Chúa Trời hứa cách rõ ràng rằng người con đó sẽ là Y-sác và Y-sác sẽ được sinh bởi Sa-ra.

(1) Sau Khi Áp-ra-ham Trở Nên Già Gần Như Chết 
Và Sa-ra Không Còn Khả Năng Sinh Sản

Lời hứa về sự sinh ra dòng dõi được xác quyết rõ ràng vào thời điểm Áp-ra-ham trở nên già gần như chết và Sa-ra không còn khả năng sinh sản. Có lẽ Áp-ra-ham đã nói với Sa-ra rằng: “Sa-ra ơi, tôi đã 100 tuổi còn bà đã 90. Tôi đã sắp chết còn bà không còn khả năng. Cả hai chúng ta đã trở nên không có gì và không thể làm gì”. Trở nên không có gì thật tuyệt vời vì khi đó Đấng Toàn Năng với một bầu vú có thể bước vào để làm mọi sự cho chúng ta. Tôi muốn là người 100 tuổi và trở nên không có gì cả. Trở nên không có gì sẽ tạo cơ hội tốt nhất để Đấng Toàn Năng, Đấng Toàn Túc, nuôi dưỡng và cung ứng cho tôi bất cứ điều gì Ngài muốn. Ngay cả hôm nay, có những lúc Đức Chúa Trời muốn ban cho tôi một phần sữa mới, thì tôi nói: “Không, con vẫn còn phương cách nào đó, một ít năng lực, một chút sức mạnh”. Tất cả chúng ta cần trở nên 100 tuổi. Nhưng đừng cố gắng hành động như thể anh em đã 100 tuổi rồi. Sau khi bài đọc này nói rằng cần trở nên 100 tuổi và trở nên không có gì, anh em có thể giả bộ là người 100 tuổi. Nhưng qua một đêm, anh em không thể trở nên không có gì. Chúa biết chúng ta còn bao nhiêu. Tuy nhiên, nguyên tắc là tất cả chúng ta cần trở nên không có gì để Đấng Toàn Năng Toàn Túc có thể bước vào làm mọi sự của chúng ta với bầu vú toàn túc của Ngài để ban cho chúng ta sự cung ứng mà chúng ta cần.

(2) Không Bởi Sức Mạnh Thiên Nhiên Của Áp-ra-ham 
Mà Bởi Sự Thăm Viếng Của Đức Chúa Trời

Sau khi Áp-ra-ham và Sa-ra trở nên không có gì, Đức Chúa Trời hứa rằng Y-sác sẽ được sanh ra bởi Sa-ra (17:16,19,21). Điều này có nghĩa là sự sanh ra của Y-sác không phải là kết quả từ năng lực của Áp-ra-ham và Sa-ra mà hoàn toàn là kết quả của sự thăm viếng đầy ân điển của Đức Chúa Trời. Trong 18:10,14, chúng ta thấy rõ rằng sự sinh ra Y-sác là do Đức Chúa Trời trở lại với Áp-ra-ham vào thời điểm của sự sống. Sự thăm viếng đầy ân điển của Ngài đối với Áp-ra-ham bao gồm việc Ngài nuôi dưỡng, cung ứng cho ông với tất cả mọi điều Ngài là. Đức Chúa Trời là bầu vú cung ứng sữa mà Áp-ra-ham cần để sản sinh Y-sác. Y-sác không được sinh ra bởi bất cứ yếu tố nào trong bản thể thiên nhiên của Áp-ra-ham; Y-sác đã được sinh ra bởi sự cung ứng toàn túc của Đức Chúa Trời từ bầu vú thần thượng.

(3) Ích-ma-ên, Dòng Dõi Được Sinh Ra Bởi Xác Thịt, 
Bị Đức Chúa Trời Khước Từ

Ích-ma-ên, dòng dõi được sinh ra bởi xác thịt, đã bị Đức Chúa Trời khước từ (17:18; 21:10). Bất cứ điều gì chúng ta làm bởi khả năng hay bản ngã thiên nhiên sẽ luôn bị Đức Chúa Trời khước từ. Dù anh em có thể làm điều tốt bằng cách giữ Kinh Luật, điều đó cũng sẽ bị Đức Chúa Trời khước từ. Bất cứ điều gì chúng ta sống, làm và thực hiện bởi bản ngã thiên nhiên và người cũ sẽ bị khước từ hoàn toàn. Không nhiều Cơ-đốc nhân nhận thức rằng ngay cả sự tốt lành thiên nhiên của họ cũng bị Đức Chúa Trời khước từ. Bất cứ điều gì chúng ta làm bởi bản ngã thiên nhiên, sức mạnh thiên nhiên, khả năng thiên nhiên, hay người thiên nhiên, bất kể điều đó tốt hay xấu, đều sẽ bị Đức Chúa Trời khước từ.

(4) Y-sác, Dòng Dõi Được Sinh Bởi Ân Điển Của Đức Chúa Trời, 
Được Lập Lên Để Hoàn Thành Mục Đích Của Đức Chúa Trời

Chỉ Y-sác, dòng dõi được sinh bởi ân điển của Đức Chúa Trời, bởi sự cung ứng của bầu vú thần thượng, mới được lập lên để hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời (17:19,21; 21:12; Rô-ma 9:7-9). Đức Chúa Trời chỉ tôn trọng điều gì ra từ Ngài vì chỉ có dòng dõi sinh bởi Ngài, bởi sự cung ứng của ân điển Ngài, mới có thể hoàn thành mục đích của Ngài. Điều này nghĩa là Đức Chúa Trời chỉ tôn trọng Đấng Christ, không tôn trọng bất cứ điều gì ra từ bản ngã, người thiên nhiên của chúng ta. Chỉ Đấng Christ mà chúng ta kinh nghiệm từ bầu vú thần thượng là sự cung ứng ân điển của chúng ta mới có thể hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Chỉ Đấng Christ này mới được lập như dòng dõi thật để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Ích-ma-ên của chúng ta đã bị khước từ, nhưng Y-sác của chúng ta, tức Đấng Christ, đã, đang và sẽ được lập lên trong gia tể của Đức Chúa Trời.

Bây giờ chúng ta có thể thấy ân điển là gì. Ân điển nghĩa là Đức Chúa Trời truyền phát yếu tố nào đó từ bản thể của Ngài vào trong chúng ta làm sự cung ứng của chúng ta, và sự cung ứng này trở nên chính yếu tố mà bởi đó chúng ta sản sinh Y-sác để hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời. Sau khi Áp-ra-ham được kêu gọi, ông đã học tập sống bởi đức tin nơi Đức Chúa Trời cho sự tồn tại của mình. Sau đó, bắt đầu với Sáng Thế Ký chương 15, Đức Chúa Trời khởi sự huấn luyện ông trong vấn đề nhận biết ân điển để hoàn thành mục đích của Ngài. Chúng ta đã thấy điều này cách rõ ràng trong chương 15,16 và 17. Bản ngã, xác thịt, sức mạnh thiên nhiên, người thiên nhiên và người cũ của chúng ta phải bị kết liễu để chúng ta có thể nhận lấy Đức Chúa Trời như sự cung ứng, và để Bản Thể Thần Thượng của Đức Chúa Trời có thể được đem vào trong chúng ta để trở nên yếu tố sản sinh Y-sác nhằm hoàn thành lời hứa của Đức Chúa Trời. Đây là ân điển.

 

Bài Bốn Mươi Tám

Nhận Biết Ân Điển Đ Hoàn Thành 
Mục Đích Của Đức Chúa Trời

Sự Khải Thị V Danh Thần Thượng 
 SỰ Đổi Tên Người Đ Hoàn Thành Mục Đích Của Đức Chúa Trời

Nếu muốn hiểu Sáng Thế Ký chương 17, chúng ta phải biết mục đích của Đức Chúa Trời là gì. Mục đích của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã định trong quá khứ đời đời, là biểu lộ chính Ngài qua một tập thể người trên đất. Để có một người tập thể làm sự biểu lộ của Ngài, Đức Chúa Trời đã tạo dựng vũ trụ, và trong vũ trụ này, Ngài đã tạo dựng con người, như trung tâm của vũ trụ, theo hình ảnh Ngài với ý định rằng con người sẽ biểu lộ và đại diện Ngài hầu cho Ngài có thể có sự cai trị trên đất như Vương Quốc Ngài. Đây là mục đích của Đức Chúa Trời cho A-đam và con cái Ítx-ra-ên trong quá khứ cũng như cho Hội Thánh ngày nay, và đây cũng sẽ là mục đích của Ngài trong Vương Quốc Ngàn Năm và suốt cõi đời đời. Trải suốt các thời đại, mục đích của Đức Chúa Trời vẫn y nguyên: đó là để chính Ngài được biểu lộ và đại diện bởi con người trên đất .

Để hoàn thành mục đích của Ngài, Đức Chúa Trời cần một dân. Nếu chiếm được một dân, Đức Chúa Trời sẽ có thể hoàn thành mục đích của Ngài, nhưng nếu không chiếm được một dân, Ngài sẽ thất bại. Nhưng Đức Chúa Trời của chúng ta không thể thất bại! Ngài đã tạo dựng A-đam, và A-đam đã thất bại. Sau đó, Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham để làm đầu của dòng dõi mới. Mặc dù Đức Chúa Trời chỉ kêu gọi một người là Áp-ra-ham, nhưng người này phải trở thành một dòng dõi để Đức Chúa Trời có thể được biểu lộ và đại diện trên đất. Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham cho mục đích này. Một cá nhân không thể hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời vì điều Đức Chúa Trời cần không chỉ là một cá nhân màlà một dân. Một Áp-ra-ham phải được nhân rộng thành nhiều Áp-ra-ham. Nhưng điều này không thể được hoàn thành theo sự hiểu biết thiên nhiên, khả năng, sức mạnh hay bản thể thiên nhiên của con người.

5) Sự Khải Thị Về Danh Thần Thượng Và Sự Đổi Tên Người

Để Hoàn Thành Mục Đích Của Đức Chúa Trời

a) Khát Vọng Của Đức Chúa Trời 
Là Đem Chính Ngài Vào Trong Con Người

Kinh Thánh bày tỏ cách Đức Chúa Trời biểu lộ chính Ngài là đem chính Ngài vào trong con người. Cách của Đức Chúa Trời thật lạ lùng. Mặc dù Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm nhiều điều cho Ngài, nhưng khát vọng của Ngài không phải là chúng ta làm điều gì mà là Ngài vào trong chúng ta để làm mọi điều qua chúng ta cho chính Ngài. Khát vọng của Ngài là đem chính Ngài vào trong chúng ta, làm cho Ngài nên một với chúng ta và chúng ta là một với Ngài. Nhưng không ai sẵn lòng để Đức Chúa Trời làm điều này. Dường như mọi người đều nói: “Chúa ơi, nếu Ngài yêu cầu con làm điều gì đó, con sẽ làm cho Ngài, nhưng con không muốn Ngài vào trong con để loại bỏ và truất phế con. Khi làm điều gì cho Ngài, con thích tự mình làm điều đó”. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời sẽ phán: “Trước khi con làm điều gì cho Ta, Ta phải đem chính Ta vào trong con. Bởi bước vào trong con, Ta sẽ làm cho con bị đóng đinh, sau đó, sẽ làm con sống lại bởi Ta, với Ta và cho Ta. Con có sẵn sàng cho điều này không?” Áp-ra-ham đã không chờ Đức Chúa Trời làm điều này; trái lại, như Sáng Thế Ký chương 16 bày tỏ, ông đã tự ý hành động để sinh ra một dòng dõi.

b) Sự Khải Thị Về Danh Thần Thượng

Trong Sáng Thế Ký 17:1, Đức Chúa Trời đã hiện đến để khải thị danh thần thượng của Ngài, bày tỏ Ngài, tức chính Đức Chúa Trời là gì. Bày tỏ một danh là bày tỏ một thân vị vì danh luôn đại diện cho một thân vị. Vì danh thần thượng của Đức Chúa Trời biểu thị Thân Vị thần thượng của Ngài, nên bày tỏ danh thần thượng thực ra là sự khải thị về Thân Vị thần thượng. Trong 1:1, Đức Chúa Trời được khải thị là Elohim, nghĩa là Đấng Toàn Năng, Đấng Mạnh Mẽ,  chủ yếu liên quan đến sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Trong Sáng Thế Ký chương 2, Đức Chúa Trời được bày tỏ là Đức Giê-hô-va, Đấng Ta Là  đại. Danh Giê-hô-va có nghĩa là: “Ta Là Đấng Ta Là”, hàm ý rằng Đức Chúa Trời là Đấng tự hữu  hằng hữu. Danh Giê-hô-va này chỉ về mối quan hệ của Đức Chúa Trời với con người. Hơn nữa, Đức Chúa Trời đã khải thị cho Áp-ra-ham rằng Ngài là Đức Chúa Trời Chí Cao, Đấng sở hữu cả trời và đất (14:22). Danh này chủ yếu liên quan đến việc Đức Chúa Trời chăm sóc sự tồn tại của dân Ngài.Nhưng bây giờ trong chương 17, Đức Chúa Trời hiện đến để bày tỏ chính Ngài thêm nữa, bày tỏ cho Áp-ra-ham rằng Ngài là El-Shaddai, Đấng Toàn Năng Toàn Túc với một bầu vú.

Sự toàn túc của Đức Chúa Trời nằm trong bầu vú thần thượng của Ngài. Có lẽ một số độc giả không thích cách dùng từ  mà thích dùng từ ngực hơn. Tuy nhiên, nếu dùng từ ngực, nhiều người sẽ liên hệ từ này với vấn đề tình yêu. Nhưng danh thần thượng trong 17:1 cho thấy rằng Đức Chúa Trời là nguồn cung ứng phong phú như ânđiển cho dân Ngài để họ hoàn thành mục đích của Ngài. Mặc dù Ngài muốn chúng ta hoàn thành mục đích của Ngài, nhưng Ngài không cần bất cứ điều gì từ chúng ta. Ngài muốn là sự cung ứng của chúng ta. Đức Chúa Trời chúng ta có một nguồn cung ứng toàn túc và nguồn này được ví như bầu vú. Đây là nghĩa được hàm ý trong danh El-Shaddai. Mọi sự được cung ứng từ bầu vú của bò sẽ vào trong chúng ta, thậm chí trở thành thành phần cấu tạo của chúng ta. Tất cả những yếu tố và dưỡng chất của sữa mà chúng ta đã uống vào trở nên thành phần cấu tạo, các mô hữu cơ. Dường như Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham: “Ngươi đã biết Ta là Đức Chúa Trời Chí Cao. Dù điều đó là kỳ diệu, nhưng không đủ. Ta không chỉ là Đức Chúa Trời Chí Cao khách quan với ngươi, nhưng Ta muốn là Sữa Thần Thượng cho ngươi cách chủ quan. Ta phải là Đấng để ngươi uống vào trong bản thể ngươi”.

Tâm trí chúng ta có thể bối rối với ý tưởng về một thức uống thần thượng như thế.Lần đầu tiên tôi chia sẻ về ăn Jesus là năm 1958. Sau bài giảng đó, một anh em có học thức rất cao đến nói với tôi: “Anh Lý à, bài giảng đó rất tốt, nhưng cụm từ ‘ăn Jesus’ thì thô thiển quá”. Tôi đáp: “Anh ơi, tôi không phải là người đầu tiên dùng cụm từ này. Trong Giăng 6:35 và 57, Chúa Jesus phán rằng: ‘Ta là Bánh của sự sống’ và ‘Ai ăn Ta sẽ sống bởi Ta. ’” Anh em có thấy khó chịu khi ví sánh ngực phong phú của Đức Chúa Trời với bầu vú của bò cái không? Mặc dù tôi thích ví Đức Chúa Trời với người mẹ đẹp, dịu dàng, cao quý có bộ ngực yêu thương, nhưng sẽ ý nghĩa hơn nhiều khi ví Đức Chúa Trời với một bầu vú căng sữa của bò cái, như Kinh Thánh hàm ý. Tất cả chúng ta cần ở dưới Bầu Vú Thần Thượng này.

Nhiều câu trong Kinh Thánh cho chúng ta nền tảng để nói về Đức Chúa Trời theocách này. Xuất Ai-cập Ký 3:8 nói: “Ta ngự xuống đặng cứu dân này khỏi tay người Ai-cập, dẫn từ xứ ấy lên đến một xứ kia đẹp đẽ và rộng rãi, đượm sữa và mật”. Miền đất tốt lành là hình bóng về Đấng Christ Tổng Bao Hàm. Với Đấng Christ này có sữa tuôn chảy. Trước khi con cái Ítx-ra-ên bước vào miền đất tốt lành để uống sữa, họ đã uống nước chảy ra từ vầng đá bị đập mà cũng là Đấng Christ (Xuất. 17:6; 1Cô. 10:4). Trong Khải Thị chương 22, chúng ta thấy trong Giê-ru-sa-lem Mới có một con sông từ ngai Đức Chúa Trời và Chiên Con chảy ra. Nếu đặt tất cả những câu này lại với nhau, chúng ta có thể thấy rằng ngày nay Đức Chúa Trời của chúng ta là Đấng mà từ Ngài có điều gì đó luôn tuôn chảy để làm chúng ta đã khát, được cung ứng và thỏa lòng. Dù gọi đó là sữa hay nước sống, nó luôn chảy ra từ Bản Thể của Đức Chúa Trời để cung ứng cho chúng ta. Vì thế, 1Cô-rin-tô 12:13 nói rằng chúng ta đều đã được làm nên để uống một Linh, là chính Đức Chúa Trời (Gi. 4:24). Khi uống Linh, chúng ta đang uống Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời của chúng ta phong phú đến nỗi không một hình bóng hay biểu tượng nào có thể cho chúng ta sự hiểu biết đầy đủ về Ngài. Cho nên, Kinh Thánh dùng nhiều hình bóng và biểu tượng khác nhau để bày tỏ các phương diện khác nhau của sự phong phú Ngài. Sữa và nước sống, cả hai đều bày tỏ Đức Chúa Trời là phong phú thể nào cho chúng ta. Nguyên tắc trong mỗi trường hợp đều như nhau: các sự phong phú của Bản Thể thần thượng của Ngài luôn tuôn chảy để là sự cung ứng nhưân điển cho chúng ta để chúng ta hoàn thành mục đích của Ngài. Tất cả chúng ta phải uống sự cung ứng phong phú tuôn chảy từ Đức Chúa Trời để có thể hoàn thành mục đích thần thượng.

Không ai trong chúng ta đủ điều kiện để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời.Mặc dù tôn giáo dạy rằng chúng ta phải làm những điều nào đó cho Đức Chúa Trời, nhưng điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm là tiếp nhận Ngài là sự cung ứng để Ngài có thể trở nên sự cấu tạo của chúng ta và chúng ta có thể trở nên một với Ngài.Kinh Thánh bày tỏ rằng ý định của Đức Chúa Trời là vào trong chúng ta và chúng ta phải ăn uống Ngài, nhận điều gì đó của chính Ngài vào trong bản thể mình. Khi nhận vào bản thể mình yếu tố nào đó của Bản Thể thần thượng của Ngài, chúng ta dự phần bản chất thần thượng của Ngài, yếu tố thần thượng này sẽ hành động trong và qua chúng ta để hoàn thành mục đích của Ngài.

Vào thời điểm của Sáng Thế Ký chương 17, Đức Chúa Trời cần bày tỏ danh thần thượng của Ngài cho Áp-ra-ham. Trong Sáng Thế Ký chương 16, Áp-ra-ham đã làm điều gì đó không vì mục đích riêng của ông nhưng để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, điều Áp-ra-ham làm để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời được hoàn thành bởi bản thể thiên nhiên và sức mạnh thiên nhiên của ông. Vì ông đã làm điều gì đó cho Đức Chúa Trời bởi sức mạnh thiên nhiên nên Đức Chúa Trời không vui và không hiện ra với ông trong 13 năm. Sau một thời gian dài ẩn mặt, Đức Chúa Trời lại hiện ra với ông và dường như Ngài phán: “Áp-ra-ham, ngươi phải biết rằng Ta là Đấng Toàn Túc với một bầu vú. Ngươi phải uống sự cung ứng của bầu vú này và không làm bất kỳ điều gì cho Ta bởi sức mạnh hay khả năng thiên nhiên của ngươi. Làm điều gì đó cho Ta bởi sức mạnh thiên nhiên là sỉ nhục Ta. Ta không muốn bất cứ điều gì từ ngươi. Ta muốn ngươi và cần ngươi, nhưng Ta không muốn ngươi dùng sức mạnh thiên nhiên và khả năng thiên nhiên để sinh ra dòng dõi đã hứa. Ngươi phải sinh ra một dòng dõi bởi sự cung ứng của Ta. Hãy chấm dứt việc dùng sức mạnh của ngươi, từ chối bản thể thiên nhiên của ngươi, và gạt bỏ khả năng thiên nhiên của ngươi. Vì Ta là Đấng Toàn Năng Toàn Túc, ngươi không nên làm bất cứ điều gì bởi ngươi hay ngoài Ta. Ngoài Ta, ngươi không thể hoàn thành mục đích của Ta vì ngoài Ta ngươi không thể làm điều gì cho gia tể Ta. Hỡi Áp-ra-ham, để hoàn thành mục đích Ta, ngươi phải uống sự cung ứng từ bầu vú của Ta và nhận Ta vào. Bây giờ, Ta không ở đây như Đức Chúa Trời Chí Cao hay Đấng sở hữu cả trời và đất. Ngươi đã biết điều đó rồi. Bây giờ Ta ở đây trước mặt ngươi là El-Shaddai, Đấng Toàn Năng Toàn Túc với bầu vú mà từ đó tuôn chảy sự cung ứng dồi dào cho ngươi. Áp-ra-ham, ngươi phải bước đi trước mặt Ta. Điều này nghĩa là ngươi phải uống từ bầu vú Ta và sống bởi Ta”. Lời Thần Thượng này thật sâu sắc, chúng ta không thể hiểu biết Lời cách nông cạn. Chúng ta phải chìm sâu trong Lời trước khi có thể thấy những gì được bày tỏ ở đó.Thật tốt đẹp làm sao khi Đức Chúa Trời bày tỏ cho Áp-ra-ham chính Ngài là Đấng Toàn Năng với bầu vú đầy sự cung ứng toàn túc để dân Ngài hoàn thành mục đích của Ngài.

c) Đổi Tên Người

Ngay sau khi danh thần thượng được bày tỏ cho Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời phán với ông rằng tên ông sẽ được đổi (17:5). Điều này rất ý nghĩa. Không những danh của Đức Chúa Trời phải được bày tỏ cho chúng ta mà tên của chúng ta cũng cần được đổi, nghĩa là chúng ta cần được thay đổi. Tên Ap-ram phải được đổi thành Áp-ra-ham.Như chúng tôi đã chỉ ra trong bài trước, Ap-ram có nghĩa là cha được tôn cao và Áp-ra-ham nghĩa là cha của đoàn dân đông, tức là cha được nhân rộng, “cha của nhiều dân tộc”. Nếu phải chọn giữa việc được tôn cao và được gia tăng, anh em sẽ chọn điều nào? Thay vì được tôn cao đến tận trời, anh em có chọn được lan rộng và gia tăng không? Theo quan niệm thiên nhiên, tất cả chúng ta đều ước ao được tôn cao hơn là được gia tăng. Được gia tăng sẽ làm chúng ta rắc rối hơn; vì càng có nhiều con, chúng ta càng có nhiều nan đề. Mọi người đều thích được tôn cao; tuy nhiên, Đức Chúa Trời không muốn tôn cao chúng ta mà muốn chúng ta gia tăng, làm chúng ta thành cha của đoàn dân đông. Anh em có sẵn sàng để được gia tăng không?

Một người cha được tôn cao chỉ tốt cho sự trưng bày mà không thể hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, phải có đoàn dân đông. Vì thế, chúng ta cần được nhân rộng, không cần được tôn cao. Ngày nay, phần lớn Cơ-đốc nhân muốn trở nên những người khổng lồ thuộc linh, và tôn giáo khích lệ họ theo cách này. Khi còn trẻ, tôi được dạy và được khích lệ trở thành một người khổng lồ thuộc linh, nhưng chưa ai bảo tôi rằng tôi cần được nhân rộng. Trong khi xu hướng thiên nhiên của chúng ta là muốn được tôn cao, thì Đức Chúa Trời muốn đổi tên chúng ta từ cha được tôn cao thành cha được nhân rộng. Quan niệm của chúng ta cần thay đổi biết bao! Đoàn dân đông mà Đức Chúa Trời muốn là gì? Đó là Hội Thánh, người tập thể. Đức Chúa Trời cần Hội Thánh, đoàn dân đông. Nếu anh em vẫn một mình, Đức Chúa Trời không cách gì để hoàn thành mục đích của Ngài qua anh em. Vì sự hoàn thành mục đích của Ngài, chúng ta cần quên tên cũ của mình và cần được thay đổi từ tình trạng được tôn cao sang tình trạng được gia tăng. Được gia tăng là để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, không vì bất kỳ điều gì khác. Đó không chỉ là gia tăng hay mở rộng công tác của chúng ta mà là để biểu lộ và đại diện của Đức Chúa Trời trên đất .

Đổi tên một người là thay đổi chính con người đó. Điều đó không có nghĩa là ban đầu, tôi là ếch và bây giờ anh em đổi tên tôi là cá. Dù anh em có thể gọi tôi là cá, nhưng tôi vẫn là ếch. Tên gọi đã thay đổi, nhưng chính người đó thì không. Đổi tên cách đúng đắn là thay đổi chính người đó. Khi con người của chúng ta được thay đổi thì mới có sự đổi tên.

Ngày nay, trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta không cần bất kỳ người cha được tôn cao nào; chúng ta cần nhiều người cha được nhân rộng. Đây là lý do vì sao Chúa đã dẫn chúng ta đến đời sống cộng đồng trong nhiều gia đình như vậy. Không dễ gì để một gia đình sống chung với nhiều người trẻ khác vì tất cả chúng ta đều thích riêng tư và ở một mình. Nếu những người chồng thành thật thì đôi khi cũng thấy rằng ngay cả việc sống với vợ cũng là quá nhiều đối với họ và họ thích ở một mình hơn. Nhưng nếu tất cả đều ở riêng, làm thế nào chúng ta có thể chăm sóc những người trẻ? Việc đổi tên có ích cho đời sống cộng đồng. Tại sao sự gia tăng xảy ra quá chậm trong nếp sống Hội Thánh đúng đắn? Đơn giản vì chúng ta thiếu những người làm cha và vì không đủ nhà để chăm sóc người mới. Chúng ta cần nhà của những người cha được nhân rộng để chăm sóc nhiều người.

Một trong các phẩm chất của trưởng lão là lòng hiếu khách (1Ti. 3:2). Nếu không hiếu khách, có nghĩa là anh em không sẵn lòng chăm sóc người khác mà chỉ quan tâm đến sự thánh khiết cá nhân, anh em không đủ tư cách là một trưởng lão. Nếu muốn có lòng hiếu khách, tên chúng ta phải được đổi từ cha được tôn cao thành cha của nhiều người. Chỉ người cha được nhân rộng mới hiếu khách. Chúng ta càng chăm sóc người khác, nếp sống Hội Thánh càng tốt hơn. Đây mới thật sự là đổi tên và thật sự là thay đổi con người chúng ta.

Không những tên của Áp-ra-ham được đổi mà tên của Sa-ra cũng được đổi. Tên Sa-rai, nghĩa là công chúa của tôi, phải được đổi thành Sa-ra nghĩa là công chúa. “Công chúa của tôi” phải được đổi thành “công chúa”, thành “mẹ của nhiều dân tộc”. Tính cách cá biệt của anh em phải được đổi thành tính cách hòa đồng để anh em có thể là mẹ của nhiều dân tộc và chăm sóc nhiều người.

Trong khi mỗi anh em đều thích là một người cha được tôn cao, thì mỗi chị em thích là “công chúa của tôi”. Khi tên chúng ta là Sa-rai, chúng ta nói: “Chồng của tôi, nhà của tôi, ngày của tôi, các con của tôi, địa vị của tôi, chức năng của tôi trong các buổi nhóm, mọi sự của tôi”. Mặc dù chị em có thể nói “công chúa của tôi”, nhưng Đức Chúa Trời muốn họ đơn giản trở nên công chúa mà không có chút gì “của tôi”, Ngài muốn họ hòa đồng, chứ không cá biệt. Chúng ta không nên được tôn cao nhưng nên được nhân rộng, không cá biệt nhưng hòa đồng. Tính cá biệt luôn đi đôi với sự tôn cao, tạo thành một cặp xứng đôi. Trong nếp sống Hội Thánh, không ai trong chúng ta vì sự tôn cao hay có sự cá biệt nào. Tất cả chúng ta phải được nhân rộng và hòa đồng, là “cha của nhiều dân tộc” hay “mẹ của nhiều dân tộc” (17:5,16).

Nếp sống Hội Thánh tùy thuộc phần lớn vào sự đổi tên. Nếu các anh cứ nhất định phải được tôn cao và nếu các chị vẫn còn thích cá biệt hơn, làm thế nào chúng ta có nếp sống Hội Thánh? Chúng ta chỉ có thể có tôn giáo với việc dự lễ sáng Chúa nhật, đến với nhau mỗi tuần một lần, chào nhau, rồi ai đi đường nấy cho đến Chúa Nhật sau.Để có nếp sống Hội Thánh, phải có đông đảo những người đã được xây dựng và kết hiệp với nhau, một tập thể người thực sự biết và thực hành nếp sống cộng đồng. Khi các anh không còn muốn được tôn cao quý nữa nhưng muốn được nhân rộng, và các chị không còn muốn cá biệt nữa mà muốn hòa đồng, chúng ta sẽ có thể sống với nhau, có nếp sống Hội Thánh đúng đắn và được nhân rộng để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Khi đó, chúng ta sẽ sống với nhau hằng ngày và lúc nào cũng là những người Hội Thánh. Hầu như lúc nào cũng sẽ là giờ nhóm. Chúng ta sẽ nhóm với nhau liên tục vì không ai muốn được tôn cao nhưng muốn được nhân rộng, cũng không ai muốn cá biệt mà muốn hòa đồng. Đây không chỉ là giáo lý. Sự đổi tên không chỉ là thay đổi tên gọi mà là thay đổi bản thể, con người của chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể đổi tựa bài của bài này là “Sự Khải Thị Về Danh Thần Thượng Và Việc Thay Đổi Chính Con Người Để Hoàn Thành Mục Đích Của Đức Chúa Trời”. Mặc dù Bản Thể Thần Thượng đã được khải thị, nhưng nếu chúng ta vẫn như cũ, thì bản thể được khải thị của Ngài sẽ không ích lợi gì cho chúng ta. Sự khải thị của Ngài tùy thuộc vào sự thay đổi của chúng ta. Chúng ta cần được thay đổi không chỉ về tên nhưng về chính con người.Khi đó, chúng ta có thể vui hưởng Đức Chúa Trời được khải thị và uống nơi bầu vú phong phú của Ngài.

Sự đổi tên trong ý nghĩa của việc thay đổi con người cũng được thấy trong trường hợp của Gia-cốp và Phi-e-rơ. Để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, tên của Gia-cốp đã được đổi thành Ítx-ra-ên (Sáng. 32:27-28); một kẻ nắm gót, một người tiếm vị (Gia-cốp) đã được đổi thành hoàng tử của Đức Chúa Trời (Ítx-ra-ên). Nếu Gia-cốp vẫn là kẻ tiếm vị, ông không bao giờ có thể được Đức Chúa Trời dùng để hoàn thành mục đích thần thượng. Gia-cốp phải được đổi thành hoàng tử của Đức Chúa Trời. Để xây dựng Hội Thánh, Si-môn, tên của Phi-e-rơ, đã được đổi thành Sê-pha, nghĩa là một viên đá (Gi. 1:42). Bản thể thiên nhiên của Phi-e-rơ là đất sét và ông phải được biến đổi thành đá, thậm chí là đá quý cho sự xây dựng của Đức Chúa Trời (1Phi. 2:5) để hoàn thành mục đích thần thượng.

d) Ân Điển Đầy Đủ Để Hoàn Thành Mục Đích Của Đức Chúa Trời

Bởi sự thương xót của Chúa, chúng ta không tin cậy chính mình hay bất cứ ai khác. Chúng ta không tin cậy nơi con người vì đã học được rằng không ai có đủ phẩm chất để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Bất cứ điều gì chúng ta sản sinh chỉ là Ích-ma-ên. Nếp sống Hội Thánh đúng đắn không liên quan đến bất kỳ điều gì của con người hay bất kỳ điều gì thiên nhiên. Nếp sống Hội Thánh đúng đắn là nếp sống thực hiện mục đích đời đời của Đức Chúa Trời qua việc được cung ứng các sự giàu có của chính Ngài. Bất cứ điều gì chúng ta có thể làm đều không có ý nghĩa gì trong sự hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời. Tất cả những gì cần cho sự hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời là sự cung ứng của bầu vú thần thượng. Vì thế, chúng ta phải buông bỏ chính mình, coi thường sức mạnh và khả năng thiên nhiên của chúng ta, và bước đi trước mặt Đức Chúa Trời, uống các sự giàu có của bầu vú Ngài. Nếu làm điều này, tự phát yếu tố nào đó của Bản Thể Thần Thượng của Ngài sẽ được đem vào trong chúng ta làm sản sinh dòng dõi để hoàn thành mục đích của Ngài. Đây là nếp sống Hội Thánh đúng đắn.

Chúng ta đã thấy cả dòng dõi và miền đất đều là Đấng Christ. Bây giờ chúng ta cần thấy dòng dõi và miền đất không những là Đấng Christ mà còn là chúng ta. Sau khi uống sự cung ứng phong phú của Đức Chúa Trời, tất cả chúng ta trở nên đòng dõi và miền đất. Cuối cùng, dòng dõi trở thành miền đất. Để hoàn thành mục đích của Ngài, Đức Chúa Trời cần một dân chiếm hữu miền đất đó. Trong miền đất đó, Đức Chúa Trời sẽ có một Vương Quốc được xây dựng với nơi ở của Ngài cho danh Ngài. Đây là mục đích của Đức Chúa Trời. Vì chúng ta là dòng dõi, dân hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, nên chúng ta, tức dòng dõi, cũng sẽ trở thành miền đất. Đức Chúa Trời có sự cai trị của Ngài giữa vòng chúng ta và bên trong chúng ta, và trong sự cai trị này, Đức Chúa Trời có một Vương Quốc, trong đó Ngài có thể xây dựng nơi cư trú của Ngài.

Chúng ta trở nên dòng dõi và miền đất bằng cách vui hưởng các sự giàu có của Đức Chúa Trời và bởi để Đức Chúa Trời được đem vào trong chúng ta. Đức Chúa Trời và chúng ta, chúng ta và Đức Chúa Trời, là một trong việc sản sinh dòng dõi và chiếm hữu miền đất. Đây là điều thiên thượng trên đất. Đó là Bê-tên, cổng trời với chiếc thang thiên thượng nối đất với trời và đem trời xuống đất. Ở đây, chúng ta có Đức Chúa Trời và con người, con người và Đức Chúa Trời, liên kết với nhau thành nơi ở hỗ tương.Làm thế nào điều này được hoàn thành? Bởi sự khải thị về Bản Thể Thần Thượng và sự thay đổi của con người. Một khi đã được thay đổi, chúng ta có đủ điều kiện để vui hưởng Đức Chúa Trời được khải thị như là ân điển của chúng ta. Đức Chúa Trời đã được khải thị, nhưng Đức Chúa Trời được khải thị này cần con người được thay đổi.Bất kể chúng ta là ai hay là gì, tất cả đều cần được thay đổi từ tính cách thiên nhiên thành tính cách thuộc linh, thay đổi từ nguồn của chúng ta qua bầu vú thần thượng để cung ứng những gì chúng ta cần để hoàn thành mục đích thần thượng. Chúng ta cần quên chính mình, chấm dứt nguồn cung ứng thiên nhiên của mình, bước đi trước mặt Đức Chúa Trời và uống từ bầu vú Ngài suốt ngày. Khi đó, các sự phong phú của Bản Thể Thần Thượng sẽ được đem vào trong bản thể con người chúng ta như ân điển toàn túc để chúng ta hoàn thành mục đích thần thượng. Sứ đồ Phao-lô đã lao khổ nhiều hơn tất cả các sứ đồ khác nhưng nào phải ông mà là ân điển của Đức Chúa Trời ở với ông. Bởi ân điển của Đức Chúa Trời, ông là điều ông là (1Cô. 15:10). Ông đã hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời trong chức vụ bằng cách vui hưởng ân điển đầy đủ của Chúa (2Cô. 12:9). Chắc chắn Phao-lô đã uống từ bầu vú thần thượng để nhận được sự cung ứng đầy đủ của ân điển. Ông đã không dùng sức mạnh thiên nhiên để sản sinh Ích-ma-ên nhưng vui hưởng sự cung ứng phong phú của ân điển đầy đủ để sinh ra nhiều Y-sác. Ông đã sống và làm việc theo cách “Không phải tôi mà là Đấng Christ” (Gal. 2:20). Sự đổi tên thật sự là sự thay đổi từ tôi thành Đấng Christ –El-Shaddai, Đấng Cung Ứng Ân Điển Toàn Túc. Chỉ Đấng Christ, không phải tôi, mới có thể hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời.


Bài Bốn Mươi Chín

Nhận Biết Ân Điển Đ Hoàn Thành 
Mục Đích Của Đức Chúa Trời

Được Cắt Bì Đ Hoàn Thành Mục Đích Của Đức Chúa Trời

Trong Sách Sáng Thế Ký, hầu như tất cả các lẽ thật thần thượng đều được gieo như những hạt giống. Trong bài này, chúng ta đến với một lẽ thật lớn và căn bản trong Lời Thánh được gieo như hạt giống trong Sáng Thế Ký chương 17 –sự cắt bì.

Để hiểu sự cắt bì, chúng ta cần thấy hai điểm chính trong sự khải thị thần thượng được bày tỏ trong Kinh Thánh. Thứ nhứt, mục đích đời đời của Đức Chúa Trời là để chính Ngài được biểu lộ và đại diện bởi con người trên đất. Vấn đề này được khải thị qua cả Kinh Thánh, từ chương đầu tiên của Sáng Thế Ký đến chương cuối cùng của Sách Khải Thị. Điểm thứ hai liên quan đến phương cách Đức Chúa Trời hoàn thành mục đích của Ngài. Phương cách để Đức Chúa Trời hoàn thành mục đích của Ngài là đem chính Ngài vào trong con người làm sự sống và mọi sự của họ để họ có thể trở nên sự biểu lộ và đại diện Ngài. Sự hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời không tùy thuộc vào những gì chúng ta có thể làm nhưng tùy thuộc vào việc Đức Chúa Trời đem chính Ngài vào trong chúng ta. Nếu thấy hai điểm này, chúng ta có thể hiểu những lẽ thật căn bản trong Kinh Thánh.

Để hoàn thành mục đích thần thượng của Ngài, Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham ra khỏi Canh-đê, một xứ thuộc ma quỉ và thờ lạy hình tượng. Như chúng ta đã thấy, Áp-ra-ham đã không đáp ứng dứt khoát đối với sự kêu gọi của Đức Chúa Trời nhưng đã rề rà. Cha ông đã đem ông đến Cha-ran, được nửa đường. Bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời, Áp-ra-ham đã đáp ứng sự kêu gọi của Ngài gần như hoàn toàn tại Cha-ran, đã vượt qua sông Lớn và đã đến chính nơi mà Đức Chúa Trời muốn ông ở. Nơi đó gần với thành Sô-đôm tội lỗi. Không dễ gì để Áp-ra-ham cứ ở nơi Đức Chúa Trời muốn ông ở, và không lâu sau đó, ông đã trôi giạt xuống Ai-cập. Nhưng bởi sự tể trị của Đức Chúa Trời, Áp-ra-ham, người đã lìa bỏ xứ Canh đê thuộc ma quỉ, và xứ Cha-ran nằm nửa đường, đắc thắng Sô-đôm tội lỗi, đã được giải thoát khỏi Ai-cập thế giới và được đem trở lại nơi Đức Chúa Trời đã chọn.

Chúng ta cần nhắc lại tên của ba người rất quan trọng có quan hệ với Áp-ra-ham –Lót, Ê-li-ê-se và A-ga. Áp-ra-ham đã đem Lót theo khi ông rời bỏ Cha-ran và có lẽ ông đã kiếm được Ê-li-ê-se tại Đa-mách và A-ga ở Ai-cập. Không ai trong ba người này là sự giúp đỡ cho Áp-ra-ham, mỗi người là một nan đề. Đức Chúa Trời khước từ cả ba người này. Áp-ra-ham đã dùng sức mạnh thiên nhiên, kết hợp với A-ga để sản sinh kiệt tác của ông –Ích-ma-ên. Nhưng Ích-ma-ên đã bị Đức Chúa Trời khước từ hoàn toàn.

6) Cắt Bì Để Hoàn Thành Mục Đích Của Đức Chúa Trời

Với điều này làm bối cảnh, bây giờ chúng ta đến vấn đề cắt bì (17:9-14). Vào thời điểm của Sáng Thế Ký chương 17, Áp-ra-ham đã bị tước bỏ tất cả những nơi ông đã ở và tất cả những người quan trọng ông đã kiếm được. Canh đê và Cha-ran đã trở thành quá khứ, và ông chẳng quan hệ gì với Ai-cập. Dầu đã ở trong xứ Đức Chúa Trời hứa ban cho, nhưng ông chưa nhận được xứ. Vì thế, Áp-ra-ham không có Canh-đê, Cha-ran, Ai-cập, Sô-đôm hay phần đất hứa nào. Hơn nữa, Lót đã phân rẽ khỏi ông và cả Ê-li-ê-se lẫn Ích-ma-ên đã bị Đức Chúa Trời khước từ. Áp-ra-ham còn lại một mình với Sa-ra. Họ là hai ông bà già chẳng có gì và không thể làm được gì. Có lẽ Áp-ra-ham đã nhìn Sa-ra và nói: “Chúng ta sẽ làm gì đây? Chúng ta chẳng có gì và cũng không thể làm được gì”. Lúc này, Đức Chúa Trời hiện đến với Áp-ra-ham bày tỏ chính Ngài là El-Shaddai, Đấng Toàn Năng Toàn Túc. Đó là lúc Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham rằng tên ông là Ap-ram phải được đổi thành Áp-ra-ham và tên vợ ông, Sa-rai được đổi thành Sa-ra. Sau đó, Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham rằng ông phải được cắt bì.Áp-ra-ham đã bị tước bỏ mọi chỗ ở và mọi người. Điều duy nhất ông còn lại là bản thân ông. Đức Chúa Trời đã đến để xử lý bản ngã cùng với xác thịt, sức mạnh thiên nhiên và khả năng thiên nhiên của Áp-ra-ham. Bản ngã, xác thịt và sức mạnh thiên nhiên này phải bị cắt bỏ, chịu cắt bì. Nếu là Áp-ra-ham, có lẽ chúng ta sẽ nói: “Đức Chúa Trời ơi, Ngài không biết rằng Ngài đã tước bỏ rất nhiều điều của tôi sao? Trên cả thế gian này, chẳng có ai giống như tôi. Mọi người khác đều có chỗ ở, nhưng tôi không có gì. Bây giờ Ngài sẽ làm gì –tước bỏ cả tôi sao?” Có lẽ Đức Chúa Trời sẽ đáp: “Áp-ra-ham, con nói đúng. Ta đã tước khỏi con xứ Canh-đê, Cha-ran, Ai-cập, Lót, Ê-li-ê-se, A-ga và Ích-ma-ên. Ta sẽ không tước bỏ con nữa mà sẽ cắt bỏ con. Những gì con có được đã bị Ta lấy đi và những gì con là bây giờ phải bị cắt bỏ”. Đây là sự cắt bì.

Tại sao cần có sự cắt bì? Một mặt, Đức Chúa Trời cần con người hoàn thành mục đích của Ngài. Mặt khác, Đức Chúa Trời không muốn bất kỳ điều gì ra từ con người.Tuy nhiên, không một người được kêu gọi nào muốn nói: “Đức Chúa Trời ơi, con muốn dành cho Ngài, nhưng không muốn bất kỳ điều gì của con là dành cho Ngài. Con sẵn sàng để Ngài lấy đi tất cả những gì con có và kết liễu tất cả những gì con là”. Trái lại, mọi người đều nói: “Ngợi khen Chúa vì Ngài đã kêu gọi tôi. Từ nay trở đi, bất cứ điều gì tôi có và bất kỳ điều gì tôi là sẽ dành cho Ngài”. Hãy xem ví dụ về Phi-e-rơ. Trong ba năm rưỡi, Chúa đã phán với các môn đồ rằng họ phải yêu Ngài và theo Ngài.Nhưng không môn đồ nào hiểu rằng Chúa không muốn bất cứ điều gì ra từ họ. Khi Chúa bảo các môn đồ rằng hết thảy họ đều sẽ vấp phạm vì cớ Ngài, Phi-e-rơ nói: “Dầu hết thảy đều vấp phạm vì cớ Thầy, thì tôi chẳng hề vấp phạm đâu”, và “Dầu tôi cần phải chết với Thầy đi nữa, tôi hẳn chẳng chối Thầy đâu” (Mat. 26:33,35). Nhưng Chúa phán cùng Phi-e-rơ rằng: “Quả thật, Ta nói cùng ngươi, chính đêm nay trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối Ta ba lần” (Mat. 26:34). Dường như Chúa phán với Phi-e-rơ rằng: “Phi-e-rơ, đừng khoác lác. Ngươi không có điều gì để khoác lác đâu. Đêm nay ngươi sẽ chối Ta ba lần”. Phi-e-rơ đã chối Chúa ba lần và những lần chối bỏ này là sự cắt bì thực tế và thiết thực. Một Phi-e-rơ kiêu hãnh, tự tin đã bị cắt thành nhiều mảnh bằng con dao cắt bì về sự chối Chúa của ông.

Tất cả chúng ta phải thấy rằng dầu Đức Chúa Trời cần chúng ta cho sự khôi phục của Ngài, nhưng Ngài không muốn bất kỳ điều gì từ chúng ta. Chúng ta khó nhận thức điều này. Chúng ta hoặc xa cách Chúa hoặc đến với Ngài với mọi điều mình có. Một anh em người Nhật có thể nói: “Người Nhật chúng tôi là dân tộc kiên nhẫn nhất trên thế giới. Tôi sẽ hầu việc Chúa bằng sự kiên nhẫn của người Nhật”. Nhưng Chúa không cần loại kiên nhẫn này. Một số chị em có thể nói: “Chắc chắn là Chúa cần chị em chúng tôi và chúng tôi sẵn sàng dành cho Ngài. Là chị em, chúng tôi không thô như các anh, chúng tôi rất mịn màng. Trong nếp sống Hội Thánh, sự mịn màng của chúng tôi sẽ được dành cho Chúa”. Thưa các chị, các chị vì Chúa thì hoàn toàn đúng nhưng bất kỳ điều gì của các chị dành cho Ngài thì hoàn toàn sai. Vì Đức Chúa Trời không muốn bất kỳ điều gì ra từ chúng ta nên tất cả chúng ta cần được cắt bì.

Hạt giống về sự cắt bì không được gieo trong Sáng Thế Ký chương 12 hay 15 mà trong chương 17, sau khi Áp-ra-ham đã bị tước bỏ rất nhiều. Sau đó, Đức Chúa Trời đã tái hiện ra với Áp-ra-ham, bày tỏ chính Ngài là Đấng Toàn Năng Toàn Túc với bầu vú, và phán với Áp-ra-ham rằng Ngài sẽ đổi tên ông. Áp-ra-ham phải có một sự thay đổi triệt để. Dường như Đức Chúa Trời phán: “Hỡi Áp-ra-ham, bây giờ con phải chịu cắt bì. Nếu con không chịu cắt bì, không cách gì để Ta hoàn thành mục đích Ta qua con. Để có một dân cho mục đích của Ta, phải có một dòng dõi. Từ dòng dõi đó, sẽ có một dân là những người sẽ chiếm hữu miền đất, trong đó, Ta sẽ có quyền cai trị, xây dựng Đền Thờ để biểu lộ Ta và Ta tìm được sự an nghỉ. Đây là mục đích của Ta.Nhưng để hoàn thành mục đích này, Ta không cần bất cứ điều gì từ con. Ta sẽ làm mọi điều cho con và là mọi sự cho con. Đây là lý do vì sao Ta cất hết mọi nơi chốn và mọi con người khỏi con. Bây giờ Ta muốn con đồng ý và cộng tác với Ta để tước bỏ chính con đi. Ta muốn xác thịt con bị cắt bỏ, nhưng Ta không muốn trực tiếp thực hiện điều này. Ta muốn con làm điều đó cho Ta. Ta muốn con cắt bỏ xác thịt mình. Con có sẵn sàng cộng tác với Ta không?” Chúng ta không nhận lời này như một lời dạy dỗ giáo lý hay như lời chú giải những câu chuyện trong Kinh Thánh. Tất cả chúng ta phải nhận thức rằng nhu cầu ngày nay của chúng ta là được cắt bì.

Tôi cám ơn Chúa biết bao vì rất nhiều người giữa vòng chúng ta đã lìa bỏ Canh-đê và Cha-ran, không quan tâm đến Sô-đôm hay Ai-cập, mà cứ ở trong nơi có sự khôi phục của Chúa. Nhưng làm thế nào Chúa có được dòng dõi? Làm thế nào Ngài có thể chiếm hữu miền đất để có thể có nếp sống Hội Thánh đúng đắn làm nơi cư ngụ, sự caitrị, sự thỏa lòng và an nghỉ của Ngài? Điều đó không bởi chúng ta làm gì cho Ngài.Nhưng chỉ bởi cách Ngài tước bỏ khỏi chúng ta rất nhiều điều. Sự thông minh, khôn ngoan, khả năng thiên nhiên, sức mạnh thiên nhiên và tất cả những gì chúng ta là trong bản thể thiên nhiên của mình phải được Chúa cất đi. Anh em có đồng ý điều này không? Nếu đồng ý, anh em phải cầm lên con dao cắt bì và cắt bỏ xác thịt, bản thể thiên nhiên của mình. Đây không phải là vấn đề đắc thắng tội lỗi hay thế giới; đó là vấn đề kết liễu chính anh em để Đấng Toàn Túc có thể có cách bước vào làm sự sống, mọi sự và thậm chí chính bản thân của anh em. Đây là sự cắt bì. Nguyện Linh phán lời này vào trong tất cả chúng ta.

Điều ngăn trở lớn nhất cho sự chuyển động của Chúa trong sự khôi phục nếp sống Hội Thánh là khả năng thiên nhiên của chúng ta. Điều ngăn trở chuyển động của Chúa không phải là những gì chúng ta không thể làm mà là những gì chúng ta có thể làm.Việc Áp-ra-ham sử dụng sức mạnh thiên nhiên của ông đã làm cho Đức Chúa Trời xa cách ông trong 13 năm. Thật là một sự ngăn trở! Dầu Áp-ra-ham đã bị tước bỏ rất nhiều điều, nhưng ông vẫn còn xác thịt, khả năng thiên nhiên và sức mạnh thiên nhiên.Chính là bởi và với xác thịt này mà ông đã cùng A-ga sản sinh Ích-ma-ên. Thời điểm của Sáng Thế Ký chương 17 là thời điểm chín muồi để Đức Chúa Trời đụng đến yếu tố ngăn trở của xác thịt Áp-ra-ham. Dường như Đức Chúa Trời phán: “Hỡi Áp-ra-ham, Ta đã lấy đi nhiều điều khỏi con. Điều duy nhất còn lại ngăn trở công tác ân điển của Ta trong con là xác thịt con. Ta muốn lấy điều này khỏi con, nhưng vì đây là vấn đề chủ quan trong bản thể con, Ta sẽ không ép buộc con. Ta muốn con cộng tác với Ta để cắt bỏ chính con, cắt bì chính con cho Ta. Này Áp-ra-ham, không một điều gì con có thể làm là vui lòng Ta. Điều đó chỉ có thể xúc phạm và sỉ nhục Ta. Chừng nào sức mạnh thiên nhiên của con còn, Ta không cách gì bước vào trong con và sản sinh Y-sác.Hỡi Áp-ra-ham, sức mạnh thiên nhiên, xác thịt của con phải bị cắt bỏ”. Vấn đề về sự cắt bì trong Sáng Thế Ký chương 17 là quan trọng nhất.

Ý nghĩa của cắt bì là gì? Đó là tước bỏ chính mình. Đức Chúa Trời có một mục đích và Ngài có những người được kêu gọi, nhưng có một sự cản trở việc Ngài đến để sản sanh dòng dõi, đó là xác thịt chúng ta. Nhiều người giữa vòng chúng ta đã đến được điểm quan trọng này của việc xử lý xác thịt. Trải nhiều năm, nhiều điều của chúng ta đã bị tước bỏ, nhưng xác thịt, sức mạnh thiên nhiên, khả năng thiên nhiên của chúng ta vẫn còn. Nếu chúng ta tiếp tục dùng xác thịt, Y-sác không thể được sanh ra từ chúng ta hay thậm chí được hoài thai trong chúng ta. Thế thì, nhu cầu của chúng ta là được cắt bì và kết liễu bản ngã, xác thịt. Đây là điều mà Kinh Thánh gọi là sự cắt bì.

a) Ý Nghĩa Của Sự Cắt Bì

(1) Lột Bỏ Xác Thịt

Ý nghĩa của sự cắt bì là gì? Trước hết, đó là lột bỏ xác thịt (Côl. 2:11,13a; Phục. 10:16; Giê. 4:4a; Công. 7: 51). Nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay nói về sự đắc thắng tội lỗi, nhưng đó không phải là sự xử lý căn bản. Sự xử lý căn bản là lột bỏ xác thịt. Xác thịt bao gồm xác thịt tội lỗi. Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, xác thịt bao gồm nhiều hơn thế vì nó cũng bao gồm sức mạnh, khả năng, năng lực và tài năng thiên nhiên. Hơn nữa, xác thịt bao gồm cả người thiên nhiên, bản ngã, “cái tôi”. Vì thế, lột bỏ xác thịt có nghĩa là lột bỏ chính “cái tôi”; có nghĩa là kết liễu bản ngã.

Cách đây nhiều năm, tôi đã tìm cách để đắc thắng tội lỗi, nhưng chỉ thành công phần nào cho đến khi tôi thấy rằng nhu cầu của tôi không phải là đắc thắng tội lỗi mà là kết liễu chính mình. Tôi bắt đầu thấy rằng một khi tôi bị kết liễu, mọi điều sẽ ổn thỏa. Đây là lý do vì sao Phao-lô nói rằng ai đã chết thì thoát khỏi tội lỗi (La. 6:7). Càng cố gắng đắc thắng tội lỗi, chúng ta càng vướng mắc và càng bị nó quấy rối. Cách tốt nhất để đắc thắng tội lỗi là chết và chôn. Khi đó, tội lỗi sẽ không quan hệ gì với chúng ta. Vì thế, sự xử lý căn bản trong Kinh Thánh không phải là đắc thắng tội lỗi mà là kết liễu chính mình.

Mặc dầu Sách Sáng Thế Ký chứa đựng hầu như tất cả các hạt giống về lẽ thật của Kinh Thánh, nhưng Sách này không chứa hạt giống về việc đắc thắng tội lỗi. Việc xử lý tội lỗi thật sự không phải là đắc thắng nó mà là tước bỏ chính chúng ta, cắt bì chính chúng ta. Một khi đã được cắt bì và kết liễu chính mình, chúng ta sẽ không có nan đề với tội lỗi. Nếu anh em vẫn còn cố gắng đắc thắng tội lỗi, điều này có nghĩa là anh em vẫn đang sống. Nếu tự kết liễu, anh em sẽ dứt bỏ tội lỗi. Vì thế, đó không phải là vấn đề xử lý tội lỗi hay cố gắng đắc thắng nó mà là vấn đề kết liễu chính mình. Đây là ý nghĩa tiêu cực của sự cắt bì.

(2) Đem Chúng Ta Vào Sự Phục Sinh

Ý nghĩa tích cực của sự cắt bì là đem chúng ta vào sự phục sinh (Côl. 2:12). Sự cắt bì luôn được thực hiện vào ngày thứ tám (17:12). Theo hình bóng, số 8 tượng trưng cho sự phục sinh. Điều này có nghĩa là chúng ta không thể có sự cắt bì mà không có sự phục sinh. Sự cắt bì phải ở trong sự phục sinh và sẽ luôn dẫn chúng ta vào trong sự phục sinh, giống như sự chết dẫn con người vào trong sự phục sinh. Một mặt, chúng ta đã bị đóng đinh với Đấng Christ và đã đồng chôn với Ngài. Mặt khác, sự đóng đinh và sự chôn này sẽ dẫn chúng ta vào trong sự phục sinh. Khi chúng ta đã bị kết liễu và được dẫn vào trong sự phục sinh, chúng ta trở thành một người mới. Chúng ta vẫn là chúng ta, nhưng bây giờ chúng ta là một người khác vì đã có một sự sống khác, bản chất khác và cấu tạo khác. Chúng ta là những người trong sự phục sinh. Chỉ bằng cách ở trong sự phục sinh, chúng ta mới có thể hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời. Trong sức mạnh thiên nhiên, chúng ta không thể làm điều gì thỏa lòng Đức Chúa Trời hay hoàn thành mục đích của Ngài. Bản ngã và sức mạnh thiên nhiên của chúng ta phải bị cắt bỏ trong sự cắt bì. Khi đó, trong sự phục sinh, chúng ta sẽ trở thành một người khác.

(3) Tương Đương Với Báp-têm

Sự cắt bì trong Cựu Ước tương đương với báp-têm trong Tân Ước (Côl. 2:11-12).Cả báp-têm và sự cắt bì đều có cùng một mục đích –kết liễu bản thể thiên nhiên của chúng ta và đem chúng ta vào sự phục sinh. Tại sao chúng ta chịu báp-têm sau khi tin Chúa Jesus? Vì nhận thức rằng người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh với Ngài và chúng ta phải được chôn để có thể là một với Ngài trong sự phục sinh. Do đó, sự cắt bì của Áp-ra-ham có cùng một ý nghĩa như báp-têm của chúng ta. Trong cả sự cắt bì và báp-têm, nguyên tắc là như nhau. Dầu Áp-ra-ham đã được xưng công chính trong Sáng Thế Ký chương 15, nhưng ông phải chịu cắt bì trong Sáng Thế Ký chương 17. Như cắt bì là dấu hiệu của việc Áp-ra-ham được xưng công chính, thì cũng vậy, báp-têm là dấu hiệu của việc chúng ta được cứu. Làm thế nào chúng ta có thể chứng minh mình đã được cứu? Bằng cách sống đời sống báp-têm, đời sống của người đã bị đóng đinh, bị chôn và được phục sinh. Nếu chúng ta sống một đời sống như vậy, mọi người có thể nhìn thấy dấu hiệu của sự cứu rỗi trên chúng ta.

(4) Tương Ưng Với Việc Đổi Tên Người

Sự cắt bì tương ứng với việc đổi tên người (17:5-6,15-16). Như chúng ta đã thấy, đổi tên là thay đổi chính con người đó. Khi tên của Áp-ra-ham được đổi, con người của ông cũng được thay đổi. Điều này đặc biệt đúng với Gia-cốp. Khi tên của Gia-cốp được đổi thành Ítx-ra-ên, con người ông đã thay đổi (32:27-28). Việc đổi tên như vậy chỉ có thể được hoàn thành qua sự cắt bì, qua việc để chính chúng ta bị kết liễu và được dẫn vào trong sự phục sinh. Khi đó, chúng ta không còn là người thiên nhiên nữa mà là người phục sinh. Được kết liễu và dẫn vào trong sự phục sinh là sự thay đổi thật sự của một người. Cho nên, sự cắt bì tương ứng với việc đổi tên. Bây giờ chúng ta có thể hiểu vì sao việc đổi tên và sự cắt bì, cả hai được bày tỏ trong cùng một chương. Hai điều này thực ra là một. Đổi tên và cắt bì, cả hai đều có nghĩa là kết liễu bản thể cũ và dẫn chúng ta vào trong sự phục sinh để chúng ta có thể là một người khác.

b) Không Phải Bề Ngoài Trong Xác Thịt, Theo Văn Tự 
Nhưng Là Bề Trong Của Tấm Lòng, Trong Linh

La-mã 2:28-29 nói rằng sự cắt bì không phải “ở bên ngoài trong xác thịt”, nhưng ở trong lòng, trong linh, chứ không theo văn tự”. Cắt bì không phải là vấn đề bên ngoài, mà là vấn đề bên trong (Phi. 3:3). Điều này cũng đúng với báp-têm. Báp-têm không nên chỉ là hình thức mà phải là một thực tại bên trong. Tôi xin kể cho anh em câu chuyện mà tôi đã nghe cách đây hơn 40 năm. Ở Trung Mỹ, Giáo Hội Công Giáo đã chấp nhận và báp-têm cho nhiều người chưa được cứu để họ trở nên thành viên. Ngày nọ, có một linh mục rảy vài giọt nước lên đầu một cậu bé và đổi tên cậu thành là John. Vào thời đó, Giáo Hội Công Giáo khẳng định rằng vào các ngày Thứ Sáu, giáo dân chỉ ăn cá, không được ăn thịt. Một Thứ Sáu nọ, cậu John này chỉ có thịt để ăn. Vì đã được linh mục rảy nước trên đầu và đã đổi tên thành John, nên cậu nghĩ rằng cậu có thể làm điều giống như vậy đối với miếng thịt. Vì thế, cậu rảy nước trên miếng thịt và gọi thịt là cá. Sau đó, cậu luộc miếng thịt. Khi cậu đang luộc thịt, vị linh mục đi ngang qua. Ngửi thấy mùi thịt luộc, ông giận dữ với John và hỏi cậu đang làm gì. John thưa: “Con không làm điều gì sai. Đây không phải là thịt; đó là cá. Linh mục không nhớ việc rảy nước trên con và đổi tên con thành John sao? Con bắt chước cách của linh mục, nên rảy nước trên miếng thịt này và gọi nó là cá”. Đây không phải là báp-têm thật cũng không phải là sự đổi tên đúng đắn. Báp-têm phải là một thực tại bề trong ở trong linh, không phải là hình thức bên ngoài rảy vài giọt nước trên đầu ai đó.

c) Sự Cắt Bì Của Đấng Christ

Cô-lô-se 2:11 nói về “sự cắt bì của Đấng Christ”. Sự cắt bì thật ở trong Đấng Christ.Sự cắt bì của Đấng Christ, giống như báp-têm, có nghĩa là kết liễu bản thể cũ của chúng ta và làm chúng ta thành một sáng tạo mới, một người mới. Ga-la-ti 6:15 nói: “Vì chịu cắt bì hay không chịu cắt bì đều chẳng quan hệ gì, quan hệ là một sáng tạo mới”. Sách Cô-lô-se bày tỏ rằng Đấng Christ là phần hưởng đời đời của chúng ta (1:12), sự sống của chúng ta (3:4), và hi vọng về sự vinh hiển của chúng ta (1:27), rằng chúng ta phải sống bởi Ngài là Dòng Dõi và bước đi trong Ngài là Miền Đất (2:6). Nếu muốn bước đi trong Đấng Christ, chúng ta không để cho những điều khác làm mình lệch lạc. Cách để sống bởi Đấng Christ và bước đi trong Đấng Christ là đồng chôn với Ngài. Chúng ta đã được đồng chôn với Đấng Christ thì đã được đem vào trong sự phục sinh của Ngài, không bởi nỗ lực mà bởi sự vận hành của Đức Chúa Trời, là điều được thực hiện bởi Linh của Ngài. Khi nhận thức rằng chúng ta đã bị kết liễu với Đấng Christ, đồng chôn với Ngài và đã được dẫn vào trong sự phục sinh, Linh Nội Cư sẽ tôn trọng sự nhận thức của chúng ta bằng một sự vận hành, là cung ứng các sự giàu có của Đấng Christ vào trong chúng ta, và làm chúng ta thành một người trong sự phục sinh. Đây không phải là vấn đề dạy dỗ suông mà là sự vận hành của Đức Chúa Trời, sự vận dụng của Linh đang sống bên trong chúng ta. Đây là sự cắt bì của Đấng Christ.

Cô-lô-se 3:9-10 cho biết rằng chúng ta đã lột bỏ người cũ và đã mặc lấy người mới.Đây là sự đổi tên thật, ý nghĩa thật của sự cắt bì và là kinh nghiệm thật về báp-têm. Cắt bì xác thịt là lột bỏ người cũ và mặc lấy người mới. Khi đó, là người mới, chúng ta sẽ có dòng dõi để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, khi ở trong người mới, chúng ta ở trong xứ, tức Hội Thánh. Đây hoàn toàn là vấn đề kinh nghiệm Đấng Christ.Khi thấy rằng chúng ta đã bị kết liễu với Đấng Christ và được dẫn vào trong sự phục sinh của Ngài rồi, Linh Nội Cư sẽ tôn trọng điều này bằng cách vận hành bên trong chúng ta để chúng ta có thể lột bỏ người cũ và mặc lấy người mới. Bằng cách này, Đức Chúa Trời có dòng dõi và miền đất để hoàn thành mục đích đời đời của Ngài.

d) Không Phải Tôi Mà Là Đấng Christ

Ga-la-ti 2:20 nói: “Tôi đã bị đóng đinh với Đấng Christ trên thập tự giá, dầu vậy tôi sống, nhưng không phải là tôi sống nữa, mà là Đấng Christ sống trong tôi”. Sự đổi tên thật sự là sự thay đổi từ tôi thành Đấng Christ. Đây là ý nghĩa của sự cắt bì và của báp-têm. Sự cắt bì của Đấng Christ làm nên một điều –thay đổi từ tôi thành Đấng Christ.Khi đó, không còn là tôi sống nữa mà là Đấng Christ sống trong tôi.

(e) Không Phải Tôi Mà Là Ân Điển Của Đức Chúa Trời

Cuối cùng, “không phải tôi mà là Đấng Christ” trở nên “không phải tôi mà là ân điển của Đức Chúa Trời” (1Cô. 15:10). Sứ đồ Phao-lô nói rằng ông đã lao khổ nhiều hơn các sứ đồ khác; nhưng nào phải ông, mà là ân điển của Đức Chúa Trời. Ân điển là gì? Như chúng ta đã thấy, ân điển là Đức Chúa Trời đến với chúng ta để là mọi sự cho chúng ta.

Trong Sáng Thế Ký 18:10 và 14, chúng ta thấy một câu nói rất kỳ lạ: “Vào thời điểm được ấn định, Ta sẽ trở lại cùng ngươi, theo thời điểm của sự sống, và Sa-ra sẽ có một con trai”. Điều này nghĩa là gì? Để Sa-ra có một con trai, Đức Chúa Trời không cần phải đến. Nếu là Áp-ra-ham, có lẽ chúng ta sẽ nói: “Chúa ơi, Ngài không cần phải làm nhiều như vậy. Ngài chỉ cần ở trên trời, phán một lời thì Sa-ra sẽ có con”. Nhưng Chúa phán rằng sự ra đời của Y-sác sẽ là sự hiện đến của Ngài, sự đến của Ngài. Dường như sự đến của Đức Chúa Trời gần như là sự ra đời của Y-sác. Dường như Đức Chúa Trời phán: “Sự sanh ra Y-sác sẽ là sự đến của Ta. Y-sác sẽ không ra từ ngươi, nhưng từ sự đến của Ta. Khi Ta trở lại với ngươi, Sa-ra sẽ có một con trai. Sự đến của Ta sẽ là sự sinh ra Y-sác”. Tôi không nói rằng Y-sác là Đức Chúa Trời hay Đức Chúa Trời là Y-sác, nhưng tôi nói rằng có vẻ như sự trở lại của Đức Chúa Trời gần như là sự sinh ra Y-sác. Y-sác là một người khác thường. Dầu ông là một người, nhưng sự ra đời của ông là kết quả của sự viếng thăm thần thượng. Sự viếng thăm thần thượng là gì? Đó làân điển. Vì thế, cả Áp-ra-ham và Sa-ra có thể nói: “Không phải tôi mà là ân điển của Đức Chúa Trời”.

Đức Chúa Trời đã gọi thời điểm Y-sác được sanh ra là thời điểm được ấn định. Sự ấn định này đã được thực hiện trong 17:21, khi Đức Chúa Trời phán: “Nhưng Ta sẽ lập giao ước Ta cùng Y-sác, độ khoảng này năm tới, Sa-ra phải sanh cho ngươi”. Đức Chúa Trời gọi thời điểm ấn định này là thời điểm của sự sống, rằng theo thời điểm của sự sống, Ngài sẽ trở lại và Sa-ra sẽ có một con trai. Điều này rất ý nghĩa. Mọi điều chúng ta làm phải theo thời điểm của sự sống và bởi sự viếng thăm của Đức Chúa Trời. Dòng dõi mà chúng ta sanh ra phải là sự đến của Chúa trong sự viếng thăm của ân điển Ngài. Sự viếng thăm này của ân điển là sự sinh ra Y-sác. Điều này chứng tỏ rằng chỉ có chính Đấng Christ mà Đức Chúa Trời đem vào trong bản thể chúng ta mới có thể là dòng dõi chiếm hữu miền đất để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Điều này hoàn toàn là vấn đề ân điển. Không phải tôi, mà là Đấng Christ. Đó không phải tôi mà là ân điển của Đức Chúa Trời. Ngợi khen Chúa vì chúng ta có Đấng Christ và ân điển của Đức Chúa Trời được đem vào trong chúng ta để chúng ta có thể có dòng dõi và chiếm được xứ. Chúng ta có Đấng Christ là Dòng Dõi và nếp sống Hội Thánh là miền đất của mình. Điều này hoàn toàn là kết quả của sự cắt bì.

 

Bài Năm Mươi

Sống Trong Mối Tương Giao 
Với Đức Chúa Trời

 Thông Công Với Đức Chúa Trời 
Trên Mức Đ Con Người

Trong bài này, chúng ta đến với Sáng Thế Ký chương 18 là chương ghi lại kinh nghiệm thân mật của Áp-ra-ham với Đức Chúa Trời. Nếu có cái nhìn bao quát về kinh nghiệm của Áp-ra-ham với Đức Chúa Trời như được thấy trong các chương từ 11 đến 24, chúng ta sẽ thấy kinh nghiệm của ông nằm trong bốn phần chính. Thứ nhất, khi đang sống trong xứ Canh-đê thuộc ma quỉ, ông đã được Đức Chúa Trời kêu gọi. Bất ngờ, Đức Chúa Trời của sự vinh hiển đã hiện ra trước sự kinh ngạc của ông (Công. 7:2). Đó là sự khởi đầu kinh nghiệm của ông với Đức Chúa Trời.

Thứ hai, trong các chương 12 đến 14, Áp-ra-ham đã kinh nghiệm sống bởi đức tin nơi Đức Chúa Trời cho sự tồn tại của mình. Ông đã được Đức Chúa Trời kêu gọi để hoàn thành mục đích thần thượng của Ngài, nhưng là người, ông vẫn phải có thực phẩm, sự bảo vệ và mọi nhu yếu khác để duy trì sự tồn tại. Ông là một khách lạ trên đất mới, không có tài sản riêng. Vì thế, Đức Chúa Trời đã huấn luyện ông vận dụng chính đức tin mà Ngài đã truyền vào bên trong để ông tin cậy Ngài cho sự tồn tại của mình.

Tiếp theo, trong các chương 15 đến 17, tức phần thứ ba, Đức Chúa Trời đã huấn luyện ông nhận biết ân điển để hoàn thành mục đích của Ngài. Ở đây, Áp-ra-ham học tập không làm bất cứ điều gì bởi chính mình hay dựa vào chính mình, nhưng làm mọi sự bởi và với Đức Chúa Trời. Mặc dù Đức Chúa Trời cần ông, nhưng Ngài không cần bất cứ điều gì từ ông. Tất cả những gì Áp-ra-ham có, là và có thể làm đều bị Đức Chúa Trời từ chối hoàn toàn. Đức Chúa Trời đã dùng ít nhất 15 năm để huấn luyện Áp-ra-ham trong vấn đề này. Trong 13 năm, Đức Chúa Trời đã không hiện ra vì ông đã không cư xử đúng đắn. Áp-ra-ham đã được huấn luyện, được kỷ luật và hưởng ân huệ của Đức Chúa Trời rất nhiều, nhưng ông đã không bước đi trong hiện diện của Đức Chúa Trời. Đúng ra, ông đã bước đi trong hiện diện của vợ, người đã đề nghị ông dùng xác thịt để sản sinh dòng dõi nhằm hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Ông mong rằng Ích-ma-ên, dòng dõi của ông, có thể hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời.Tuy nhiên, dường như Đức Chúa Trời phán: “Không, Ta không chấp nhận Ích-ma-ên.Đó là kết quả của nỗ lực ngươi, sản phẩm của việc ngươi làm. Ta khước từ nó và ngươi không được giữ nó. Hỡi Áp-ram, ngươi phải học tập rằng không điều gì ngươi có thể làm là ý nghĩa đối với Ta. Ta chỉ cần ngươi, không cần khả năng và sức mạnh ngươi. Ta không cần Lót, Ê-li-ê-se, A-ga hay bất cứ điều gì của ngươi. Ngươi phải bước đi trước mặt Ta, không làm điều gì bởi chính ngươi hoặc dựa vào chính ngươi. Ngươi phải được nuôi dưỡng và được cung ứng bởi sự đầy đủ từ bầu vú thần thượng của Ta. Khi đó, ngươi sẽ có thể sản sinh điều gì đó không những cho Ta mà cũng là của Ta. Ta chỉ chấp nhận và ưng thuận điều gì ra từ chính Ta. Không có ngươi, Ta sẽ không sản sinh một Y-sác. Ta sẽ sinh ra một Y-sác qua ngươi, nhưng không ra từ ngươi. Ngươi là ống dẫn của Ta, không phải là nguồn. Hễ khi nào ngươi cho mình là nguồn, ngươi sỉ nhục Ta. Ta là Nguồn Toàn Túc duy nhất. Ngươi đã biết Ta là Đức Chúa Trời Chí Cao, Đấng sở hữu cả trời và đất. Bây giờ ngươi phải biết Ta là El-Shaddai, Đấng Toàn Năng Toàn Túc với một bầu vú. Hãy ở dưới bầu vú của Ta, được cung ứng, nuôi dưỡng thường xuyên bởi sự toàn túc của Ta. Đây là cách để bước đi trước mặt Ta”. Khi Áp-ra-ham đã học biết ân điển để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời đã thay đổi ông cả về tên lẫn bản chất. Đức Chúa Trời đã thay đổi cấu tạo của Áp-ra-ham bởi sự cắt bì. Ap-ram đã bị kết liễu và Áp-ra-ham đã xuất hiện. Đây là phần chính thứ ba trong kinh nghiệm của Áp-ra-ham về Đức Chúa Trời.

d. Sống Trong Mối Tương Giao Với Đức Chúa Trời

1) Thông Công Với Đức Chúa Trời Trên Mức Độ Con Người

Ngay sau điều này, ông được dẫn vào phần vinh hiển –sống trong mối tương giao với Đức Chúa Trời (18:1–24:67). Áp-ra-ham đã được kêu gọi, đã học tập sống bởi đức tin nơi Đức Chúa Trời cho sự tồn tại và đã đến chỗ nhận biết ân điển để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Bây giờ, ông đã được đem vào mối tương giao thường xuyên với Đức Chúa Trời. Phần thứ tư trong kinh nghiệm của ông được tìm thấy trong các chương 18 đến 24. Mọi điều được bày tỏ trong 7 chương này là một phương diện của mối tương giao thân mật của Áp-ra-ham với Đức Chúa Trời.

Trong phần một của kinh nghiệm Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời đã hiện ra với ông là Đức Chúa Trời vinh hiển. Ở phần hai, Ngài đã bày tỏ chính Ngài là Đức Chúa Trời Chí Cao, Đấng sở hữu cả trời và đất. Trong phần ba, Ngài đã đến với Áp-ra-ham với tư cách là El-Shaddai, Đấng Toàn Năng Toàn Túc với bầu vú. Ở phần bốn, Đức Chúa Trời đã đến theo cách rất khác thường –Ngài đến như một người-hay-chết. Khi Áp-ra-ham ngồi nơi cửa lều dưới cái nóng ban ngày, ông thấy ba người-hay-chết đang đến gần (c. 1-2). Theo tiếng Hê-bơ-rơ, từ được dịch là “người” trong câu 2 có nghĩa là người-hay-chết, tức con người bình thường. Đức Chúa Trời đã hiện ra với Áp-ra-ham trong hình dạng như thế. Ban đầu, Áp-ra-ham không nhận ra một trong những người này là Chúa, tức Giê-hô-va,  hai người kia là các thiên sứ.

Trong những hình dạng hiện ra của Đức Chúa Trời –như Đức Chúa Trời Vinh Hiển, như Đức Chúa Trời Chí Cao, như El-Shaddai và như Một Người Người-Hay-Chết– anh em thích hình dạng nào hơn? Anh em có thích Đức Chúa Trời hiện ra như Đức Chúa Trời Vinh Hiển không? Nếu Ngài hiện ra như vậy, anh em sẽ kinh sợ. Anh em có muốn Ngài đến như Đức Chúa Trời Chí Cao không? Nếu Tổng Thống Mỹ đến với tôi và nói: “Tôi là Tổng Thống tối cao của nước Mỹ đến thăm một người nhỏ bé”, tôi sẽ cảm thấy không thoải mái. Nhưng nếu ông đến như một người giống như tôi, tôi sẽ nói: “Chào ông, ông có khỏe không? Mời ông vào nhà và nghỉ cho khỏe”. Nếu ông đến cách như vậy, rồi sau đó bày tỏ rằng ông là tổng thống Mỹ, tôi có thể được vui vẻ với ông. Trong bốn cách hiện ra này của Đức Chúa Trời, tôi thích Ngài đến với tôi trong hình dạng của một người bình thường, không trong sự vinh hiển thần thượng, không trong địa vị tối cao và cũng không trong sự toàn túc của Ngài.

Tất cả chúng ta cần kinh nghiệm Đức Chúa Trời đến mức độ như vậy. Lúc bắt đầu kinh nghiệm, chúng ta cảm nhận Ngài là Đức Chúa Trời Vinh Hiển. Nhưng càng kinh nghiệm Ngài, chúng ta càng nhận thức rằng Ngài đến trong hình dạng con người giống như chúng ta. Nếu Đức Chúa Trời không đến với Áp-ra-ham trong hình dạng một người như vậy, làm thế nào Áp-ra-ham được gọi là bạn của Ngài? Sáng Thế Ký chương 18 bày tỏ rằng Áp-ra-ham và Đức Chúa Trời nói với nhau như bạn, Áp-ra-ham nói với Ngài: “Chúa ơi, nếu bây giờ tôi được ơn trước mặt Chúa, xin hãy ghé lại nhà kẻ người đầy tớ Chúa, đừng bỏ đi luôn. Xin các đấng hãy cho phép người ta lấy chút nước rửa chân các đấng, và xin hãy nằm nghỉ mát dưới cội cây này” (c. 3-4). Áp-ra-ham đã chuẩn bị nước để Đức Chúa Trời rửa chân và Đức Chúa Trời đã nằm nghỉ dưới bóng cây trước lều trại của Áp-ra-ham.

Rất ít Cơ-đốc nhân nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã từng đến trong hình dạng của một người bình thường, nằm nghỉ dưới bóng cây và lấy nước mà một người khác đã chuẩn bị để rửa chân Ngài. Anh em nghĩ xem điều nào vui thích hơn –để Đức Chúa Trời ngự trên ngai truyền lịnh chúng ta phải cúi đầu trước mặt Ngài và thờ lạy Ngài, hay để Đức Chúa Trời ngồi dưới bóng cây và rửa chân? Trước khi chân của Chúa Jesus được rửa bằng những giọt nước mắt của người đàn bà trong nhà Si-môn (Lu. 7:38,44), thì chân của Đức Chúa Trời đã được rửa trước lều trại của Áp-ra-ham. Trong khi Jesus ở trong nhà Si-môn để chân Ngài được rửa và xức dầu, thì các thầy tế lễ của Do-thái Giáo đang thờ phượng Đức Chúa Trời trong đền thờ. Vào lúc đó Đức Chúa Trời ở đâu –trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem hay trong nhà Si-môn? Cũng vậy, trong Sáng Thế Ký chương 18, Đức Chúa Trời ở đâu –đang ngự trên ngai chờ Áp-ra-ham thờ lạy hay để chân được rửa dưới bóng cây trước lều của Áp-ra-ham? Thật tuyệt diệu khi trong hình dạng một người bình thường, Ngài đang rửa chân trước lều của Áp-ra-ham! Trong kinh nghiệm của anh em, Đức Chúa Trời của anh em ở đâu? Ngài đang ngự trên ngai trên trời hay đang rửa chân trước lều của anh em? Anh em thích Đức Chúa Trời của anh em ngự trên ngai, chờ anh em nói: “Thánh thay, thánh thay, thánh thay!” cho Ngài hay thích Ngài ngồi nơi cửa lều anh em? Đức Chúa Trời đã đến với Áp-ra-ham ở mức độ của ông và trong hình dạng một người. Vì Ngài đến theo cách như vậy, nên Ngài và Áp-ra-ham có thể là bạn. Trong chương này, không có sự thờ phượng hay lòng kính sợ của tôn giáo, mà chỉ có sự thân thiết ngọt ngào. Thật kỳ diệu! Ngày nay, Đức Chúa Trời của anh em là ai? Ngài chỉ là Đức Chúa Trời Vinh Hiển, Đức Chúa Trời Chí Cao và El-Shaddai hay trong hình dạng của một người-hay-chết, giống như anh em?

Tôi không nói rằng Đức Chúa Trời là một người hay chết trong Sáng Thế Ký chương 18 vì Ngài chỉ ở trong hình dạng của một người-hay-chết. Một trong ba người đã hiện ra với Áp-ra-ham trong Sáng Thế Ký chương 18 là Giê-hô-va Đức Chúa Trời.Câu 13 đề cập đến “Chúa”. Theo tiếng Hê-bơ-rơ, Chúa ở đây là Giê-hô-va. Chính là Giê-hô-va đã đến với Áp-ra-ham trong hình dạng của một người!

Cách đây nhiều năm, khi đọc Sáng Thế Ký chương 18, tôi đã bối rối. Trong chương này, chắc chắn là Áp-ra-ham đã thấy Chúa, nhưng Tân Ước nói rằng không ai đã từng thấy Đức Chúa Trời (Gi. 1:18). Áp-ra-ham không thấy Đức Chúa Trời trong hình thể thần thượng của Ngài, nhưng đã thấy Đức Chúa Trời trong hình dạng một người. Đức Chúa Trời đã hiện ra với ông như một người. Điều này cũng giống như khi Chúa Jesus sống trên đất. Con người không thấy Đức Chúa Trời trong hình thể thần thượng của Ngài; họ thấy Đức Chúa Trời trong con người Jesus. Đầu tiên, Đức Chúa Trời hiện ra với Áp-ra-ham trong sự vinh hiển thần thượng của Ngài. Sau đó, Ngài đến trong địa vị chí cao của Ngài và như El-Shaddai, Đấng Toàn Năng Toàn Túc với bầu vú. Cuối cùng, Ngài đến trong hìng dạng của một người. Áp-ra-ham đã không thấy hình thể của Đức Chúa Trời nhưng thấy hình dạng của một con người. Ông đã thấy ba người-hay-chết, nhưng lúc đầu ông không nhận ra một trong ba người đó là Giê-hô-va.

Đức Chúa Trời thích hiện ra với chúng ta theo cách này. Ngài không đến trong hình thể của Đức Chúa Trời nhưng trong hình dạng của một người, không hề tuyên bố rằng Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã trò chuyện với Áp-ra-ham như một người nói với một người. Bất ngờ, Ngài hỏi Áp-ra-ham: “Sa-ra, vợ ngươi ở đâu?” Lời này có thể làm Áp-ra-ham sửng sốt, và có lẽ ông nghĩ: “Người này biết vợ mình!Làm thế nào Ông ấy biết vợ mình chứ? Ông ấy không phải là một khách lạ sao?” Sau đó, Chúa phán: “Chắc chắn Ta sẽ trở lại với ngươi theo thời điểm của sự sống” (c. 10). Có lẽ Áp-ra-ham đã nói: “Ngài là ai? Ngài hẳn phải là El-Shaddai, Đấng đã ban cho tôi lời hứa về sự sinh ra Y-sác” (17:19,21). Có lẽ Áp-ra-ham vẫn chưa chắc chắn về điều này cho đến khi Đức Chúa Trời phán: “Sa-ra, vợ ngươi sẽ có một con trai”. Sa-ra cười khi nghe điều này. Lúc đó, không ai có thể biết là Sa-ra đang cười bên trong, nhưng Chúa phán: “Cớ sao Sa-ra cười như vậy, mà rằng: Có quả thật tôi đã già đến thế này lại còn sanh sản chăng?” (c. 13). Vào lúc này, Chúa bày tỏ rõ ràng cho Áp-ra-ham rằng Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời bằng cách nói: “Há có điều chi Đức Giê-hô-va làm không được chăng?” Khi Sa-ra chối rằng bà không cười thì Ngài phán: “Thật, ngươi có cười đó” (c. 15) cho thấy rằng Ngài là Đức Chúa Trời Toàn Tri, Đấng biết hết mọi sự, ngay cả điều ở trong lòng người. Lúc này, Áp-ra-ham sáng tỏ rằng người đàn ông này là Giê-hô-va Toàn Năng, chính là El-Shaddai. Cũng vậy, các môn đồ của Jesus dần dần đến chỗ nhận biết rằng con người Jesus này là Đức Chúa Trời.

Tất cả chúng ta cần kinh nghiệm Đức Chúa Trời theo cách này. Chúng ta không nên thực hành hình thức nhóm họp mang tính tôn giáo với Đức Chúa Trời, nói rằng: “Bây giờ là giờ thờ phượng Đức Chúa Trời. Tôi phải sửa soạn trang phục, chải tóc và đi vào thánh đường cách tin kính, nơi tôi sẽ ở với Đức Chúa Trời”. Nếu làm như vậy, Đức Chúa Trời sẽ không hiện ra với chúng ta. Nhiều khi Đức Chúa Trời đến với chúng ta khi chúng ta đang ngồi nơi cửa lều. Mặc dù không chuẩn bị trước để thờ phượng Đức Chúa Trời, nhưng có thể chúng ta thấy ai đó đang đến gần và xin Ngài ở lại với mình một lát. Cuối cùng, chúng ta biết rằng Người này là Đức Chúa Trời. Anh em không có loại kinh nghiệm này sao? Theo tôn giáo, Đức Chúa Trời viếng thăm con người trong một thánh đường hay nhà thờ nào đó. Nhưng Đức Chúa Trời thường đến thăm chúng ta theo cách rất bình thường, theo cách khác xa với tôn giáo. Tôi thích Đức Chúa Trời hiện ra với Áp-ra-ham trong hình dạng của một người bình thường nơi cửa lều của ông.Nhiều chị em có kinh nghiệm rằng khi họ đang nấu ăn trong bếp hay đang giặt giũ, Chúa đến với họ theo cách rất thân mật, đầy tính người, và họ đã hưởng thì giờ tương giao vui thỏa, ngọt ngào với Chúa, trò chuyện với Ngài như một người bạn. Nhiều anh em cũng có cùng loại kinh nghiệm này. Khi họ đang làm việc hay nghỉ ngơi ở nhà, Chúa đến với họ như một người bạn yêu dấu, và họ đã có cuộc chuyện trò thân mật với Chúa. Đây là kinh nghiệm việc Chúa đến thăm chúng ta ở mức độ con người để chúng ta có thể trò chuyện với Ngài như với một bạn thân.

Anh em ở phần nào trong bốn phần thuộc kinh nghiệm của Áp-ra-ham? Anh em đang kinh nghiệm Đức Chúa Trời như Đức Chúa Trời Vinh Hiển, như Đức Chúa Trời Chí Cao, như El-Shaddai, hay như Đấng trong hình dạng của một người bình thường?Anh em có đang sống trong mối tương giao thân mật với Đức Chúa Trời ở mức độ con người không? Thật ngọt ngào biết bao khi Đức Chúa Trời đến với chúng ta không với sự vinh hiển thần thượng hay trong địa vị tối cao của Ngài mà trong hình dạng của một người bình thường!

a) Sau Khi Áp-ra-ham Chịu Cắt Bì

Sự tương giao của Áp-ra-ham với Đức Chúa Trời bắt đầu sau khi ông chịu cắt bì và bị kết liễu (17:24-27). Ông không những đã được kêu gọi, đã học tập sống bởi đức tin nơi Đức Chúa Trời cho sự tồn tại mà cũng đã học tập khước từ và chối bỏ sức mạnh thiên nhiên của mình và tin cậy Đức Chúa Trời trong mọi sự để hoàn thành mục đích của Ngài. Sau khi trở thành một người như vậy, ông bắt đầu sống trong mối tương giao với Đức Chúa Trời. Trong tình trạng được cắt bì của ông, Đức Chúa Trời đã đến thăm ông, và với tư cách người được cắt bì, Áp-ra-ham đã có sự trò chuyện mật thiết với Đức Chúa Trời đang thăm viếng. Ông không cần đến với Đức Chúa Trời; Đức Chúa Trời đã đến thăm ông. Tôn giáo luôn khuyên người ta đến với Đức Chúa Trời, nhưng Sáng Thế Ký chương 18 bày tỏ rằng Đức Chúa Trời đã đến thăm người chịu cắt bì của Ngài. Người được cắt bì không cần đi đến đền thờ hay thánh đường; lều trại của họ đã trở thành Đền Tạm của Đức Chúa Trời, nơi Đức Chúa Trời vui hưởng sự phục vụ nước và thức ăn của người được cắt bì của Ngài. Ngay sau khi xác thịt chúng ta bị cắt bì và người thiên nhiên bị kết liễu thì Đức Chúa Trời đến thăm chúng ta, và chúng ta cung cấp cho Ngài nước và thức ăn làm Ngài tươi tỉnh và thỏa lòng trong mối tương giao mật thiết của chúng ta với Ngài.

b) Như Một Người Bạn Của Đức Chúa Trời

Khi Áp-ra-ham sống trong mối tương giao với Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời đã xem ông là bạn của Ngài (Gia. 2:23; Ês. 41:8; 2Sử. 20:7). Sự chuyện trò giữa Áp-ra-ham và Đức Chúa Trời trong chương này giống như cuộc trò chuyện giữa hai người bạn. Điều này đã xảy ra gần cây dẻ bộp của Mam-rê tại Hếp-rôn, nơi Áp-ra-ham đã sống theo niềm vui thỏa của Đức Chúa Trời (13:18). Tên Hếp-rôn theo tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là sự tương giao, trò chuyện và tình bằng hữu. Chính tại nơi tương giao và tình bạn này mà Đức Chúa Trời đã đến thăm Áp-ra-ham như một người bạn, và Áp-ra-ham đã đón tiếp Đức Chúa Trời như một người bạn, chuẩn bị nước để Đức Chúa Trời rửa chân để Ngài tươi tỉnh và phục vụ Đức Chúa Trời một bữa ăn phong phú để Ngài thỏa mãn. Áp-ra-ham đã làm mọi điều này trong sự tương giao mật thiết với Người Bạn của ông tại cửa lều dưới bóng cây dẻ bộp, không theo sự thờ phượng “Đức Chúa Trời” cách tôn giáo trong thánh đường hay nơi tôn nghiêm dưới sự phục vụ của “linh mục” hay “mục sư”.

Khi Áp-ra-ham đang ngồi nơi cửa lều để hóng mát vào một ngày nóng nực, Đức Chúa Trời và hai thiên sứ đã hiện ra với ông. Khi thấy họ đang đến gần, ông chạy ra chào đón và mời họ ở lại với mình. Ông chuẩn bị nước để họ rửa chân và phục vụ họ một bữa ăn thịnh soạn với ba cái bánh bằng bột mì mịn nướng trên than lửa, một bò con ngon, , và sữa (c. 4-8). Thời xưa, ba đấu tương đương với một ê-pha. Theo 1Sa-mu-ên 1:24 và Các Quan Xét 6:19, phần ăn bình thường cho một bữa ăn là một ê-pha bột mịn. Vậy tại sao Sáng Thế Ký chương 18:6, cũng như Ma-thi-ơ 13:33, đề cập đến ba đấu, mà không nói là một ê-pha? Vì cả trong Sáng Thế Ký chương 18 lẫn Ma-thi-ơ chương 13, ba đấu bột mịn tiêu biểu cho Đấng Christ phục sinh trong nhân tính của Ngài. Một Đấng Christ như vậy là bột mịn nướng thành bánh nhỏ để làm thức ăn cho cả Đức Chúa Trời lẫn con người. Áp-ra-ham cũng đã chuẩn bị một bò con. Bò con này, giống như bò con mập dùng để đãi người con trai hoang đàng trong Lu-ca 15:23, cũng là hình ảnh về Đấng Christ. Áp-ra-ham cũng đã phục vụ Đức Chúa Trời và các thiên sứ  và sữa. Đức Chúa Trời đã uống sữa của miền đất tốt lành sớm hơn nhiều so với con cái Ítx-ra-ên. Bánh nhỏ, bò con, bơ và sữa đều tiêu biểu cho các sự phong phú của Đấng Christ Tổng Bao Hàm để làm thỏa mãn cả Đức Chúa Trời lẫn con người.

Mặc dù Kinh Thánh không nói Áp-ra-ham đã dâng cho Đức Chúa Trời bữa ăn này như một của lễ, nhưng thật ra, ông đã làm như vậy. Nhiều năm sau đó, khi con cái Ítx-ra-ên đến dự những kỳ lễ hàng năm, họ đã dâng cho Đức Chúa Trời sản vật của miền đất tốt lành, hoặc rau quả hoặc động vật. Về nguyên tắc, trong Sáng Thế Ký chương 18, Áp-ra-ham đã làm cùng một điều như vậy. Hễ khi nào chúng ta vui hưởng thì giờ tốt đẹp với Đức Chúa Trời, có sự tương giao mật thiết với Ngài, lúc đó Đấng Christ không những được cung ứng cho chúng ta mà chúng ta cũng dâng Đấng Christ cho Đức Chúa Trời, dâng cho Ngài các sự phong phú của Đấng Christ để Ngài vui hưởng.Nói cách khác, chúng ta dâng Đấng Christ cho Đức Chúa Trời như ba đấu bột mịn, như bò con ngon và như  và sữa. Cảm tạ Chúa, vì ít ra chúng ta đã có kinh nghiệm nào đó về điều này. Khi vui hưởng sự tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời, chúng ta không những nhận được Đấng Christ từ Đức Chúa Trời mà còn dâng Đấng Christ cho Đức Chúa Trời như thức ăn của Đức Chúa Trời. Chúng ta dâng Đấng Christ trong nhân tính phục sinh của Ngài như ba đấu bột mịn, chúng ta dâng Đấng Christ như bò tơ ngon và chúng ta dâng tất cả các sự phong phú của Đấng Christ cho Đức Chúa Trời để Ngài vui hưởng. Nhiều khi tại Bàn của Chúa, tôi đã không vui hưởng Chúa nhiều như lúc tôi dâng Ngài cho Đức Chúa Trời để Đức Chúa Trời vui hưởng. Khi khách đến nhà thăm anh em, anh em không mong họ đãi anh em. Trái lại, anh em thích đãi họ. Đặc biệt các chị thích phục vụ bữa ăn và nhìn xem khách dùng bữa. Các vị khách càng ănnhiều, các chị càng vui. Tất cả chúng ta cần ở trong mối tương giao mật thiết như vậy với Đức Chúa Trời để chúng ta không những vui hưởng Đấng Christ mà còn dâng Đấng Christ cho Đức Chúa Trời để Ngài vui hưởng. Sự tương giao cao nhất không phải là khi chúng ta vui hưởng Đấng Christ nhiều trước mặt Đức Chúa Trời mà là khi Đức Chúa Trời vui hưởng Đấng Christ trong chúng ta nhiều hơn chúng ta. Buổi nhóm cao nhất và phong phú nhất trong Hội Thánh là buổi nhóm trong đó chúng ta dâng Đấng Christ cho Đức Chúa Trời để Ngài thỏa mãn.

c) Nhận Khải Thị Từ Đức Chúa Trời

Khi Áp-ra-ham đang vui hưởng sự tương giao ngọt ngào như vậy với Đức Chúa Trời thì ông nhận được sự khải thị từ Ngài về sự sanh ra Y-sác và sự hủy diệt Sô-đôm.Đây là hai điều căn bản liên quan đến những điều Đức Chúa Trời sẽ luôn cư xử với chúng ta. Sự sanh ra Y-sác liên hệ đến Đấng Christ và sự hủy diệt Sô-đôm liên hệ đến sự phán xét của Đức Chúa Trời trên tội lỗi. Y-sác phải đến và Sô-đôm phải ra đi. Điều này nghĩa là Đấng Christ phải bước vào và tội lỗi phải ra đi. Ngày nay, Đức Chúa Trời không những đang hoàn thành kế hoạch hầu hoàn tất mục đích của Ngài mà với tư cách là Chúa trên mọi người, Ngài cũng đang phán xét tội lỗi. Nguyên tắc tương tự trong mọi phương diện của đời sống chúng ta: trong đời sống hôn nhân, đời sống gia đình, đời sống cá nhân, đời sống Cơ-đốc và nếp sống Hội Thánh. Mối quan tâm của Đức Chúa Trời là sản sinh Đấng Christ qua chúng ta và loại trừ mọi điều tội lỗi. Ngài có ý định sản sinh Đấng Christ và hủy diệt “Sô-đôm” trong đời sống gia đình, đời sống công tác, ngay cả trong đời sống Cơ-đốc và nếp sống Hội Thánh. Tất cả sự khải thị chúng ta đã nhận và sẽ nhận từ Đức Chúa Trời phần lớn liên quan đến hai điều này.Nếu xem xét kinh nghiệm, anh em sẽ thấy đúng như vậy. Hễ khi nào nhận được sự khải thị từ Đức Chúa Trời trong quá trình tương giao với Ngài thì về phương diện tích cực, sự khải thị đó luôn liên quan đến Đấng Christ, còn về phương diện tiêu cực, luôn liên quan đến tội lỗi . Về phương diện tích cực, chúng ta thấy nhiều hơn về Đấng Christ, và nói: “Tôi đã thấy điều gì đó mới mẻ về Đấng Christ. Tôi thật ghét việc tôi đã không sống bởi Ngài nhiều hơn”. Đây là khải thị về sự sanh ra Y-sác, sự khải thị về Đấng Christ sẽ được sanh ra trong đời sống anh em. Nhưng về phương diện tiêu cực, chúng ta thấy các tội phạm của mình và nói: “Ôi Chúa, xin tha thứ con. Trong con vẫn còn rất nhiều sự ích kỷ, hận thù và ganh ghét. Con có rất nhiều sự thất bại, thiếu sót, và thậm chí những điều tội lỗi. Chúa ơi, con lên án những điều này và muốn hủy diệt chúng”. Về nguyên tắc, đây là sự phán xét và sự hủy diệt của Đức Chúa Trời trên tội lỗi. Trong đời sống Cơ-đốc chúng ta, Đấng Christ phải được đem vào và “Sô-đôm” phải bị hủy diệt.Cũng vậy, trong nếp sống Hội Thánh, Đấng Christ phải gia tăng và tội lỗi phải bị tiêu trừ.

(1) Về Sự Sanh Ra Y-sác Qua Sa-ra

(a) Lời Hứa Được Xác Quyết

Làm thế nào Đấng Christ có thể được sanh ra? Trước hết, có lời hứa. Lời hứa được lập với Áp-ra-ham về sự sanh ra Y-sác trong 17:19 và 21 đã được xác quyết trong 18:10. Đức Chúa Trời không những hứa với Áp-ra-ham rằng ông sẽ sinh Y-sác qua Sa-ra, mà trong cả Kinh Thánh, đặc biệt trong Tân Ước, có lời hứa phong phú về Đấng Christ. Chúng ta có lời hứa rằng Đấng Christ sẽ là sự sống, sự cung ứng và mọi sự của chúng ta. Tân Ước hứa về Đấng Christ nhiều biết bao! Tất cả những lời hứa này có thể được hoàn thành bởi sự viếng thăm đầy ân điển của Đức Chúa Trời.

(b) Vào Thời Điểm Của Sự Sống, Thời Điểm Được Ấn Định

Sự sanh ra Y-sác là vào thời điểm của sự sống, thời điểm được ấn định (17:21;18:10,14). Đấng Christ đã luôn luôn và sẽ luôn luôn được gia tăng và được sanh ra qua chúng ta vào thời điểm của sự sống. Chúng ta cần có nhiều thời điểm của sự sống như vậy. Tôi muốn mỗi ngày có một thời điểm. Thời điểm của sự sống luôn luôn là thời điểm được ấn định, thời điểm Đức Chúa Trời ấn định. Đức Chúa Trời đã hẹn gặp, không phải Áp-ra-ham. Điều này cũng đúng với chúng ta ngày nay, vì chính Đức Chúa Trời hẹn gặp, không phải anh em và tôi. Kinh nghiệm trước đây của chúng ta sẽ giúp chúng ta hiểu điều này. Hễ khi nào Đức Chúa Trời viếng thăm chúng ta để sản sinh Đấng Christ, đó là thời điểm được ấn định, thời điểm của sự sống.

(c) Áp-ra-ham Trở Nên Già Như Đã Chết, 
Còn Sa-ra Không Còn Khả Năng Sinh Sản

Thời điểm của sự sống cho Áp-ra-ham và Sa-ra là thời điểm mà họ trở nên không còn gì. Y-sác đã được sanh ra khi Áp-ra-ham trở nên già như đã chết còn Sa-ra không còn khả năng sinh sản (c. 11-13). Cũng vậy, hễ khi nào chúng ta trở nên không còn gì cả, đó là thời điểm tốt, thời điểm được ấn định cách thần thượng, để chúng ta tham dự vào sự sống nhiều hơn.

(d) Hành Động Kỳ Diệu Và Lạ Lùng Của Chúa

Trong câu 14, Chúa phán: “Có điều gì quá lạ lùng [hay kỳ diệu] đối với Chúa không?” (Theo nguyên văn Hêb.) Mỗi kinh nghiệm về Đấng Christ thật lạ lùng trong cách nhìn của chúng ta; đó là hành động kỳ diệu của Chúa. Làm thế nào Sa-ra sanh được Y-sác? Với con người, tđiều đó là không thể. Nếu điều đó xảy ra với chúng ta, hẳn sẽ là điều kỳ diệu và lạ lùng theo cách nhìn của chúng ta. Những kinh nghiệm Cơ-đốc luôn giống như vậy vì đời sống Cơ-đốc là đời sống của những điều không thể. Thật lạ lùng làm sao khi mọi điều không thể trở nên có thể với Đấng Christ! Chúng ta có thể làm điều mà người khác không thể làm, và chúng ta có thể là điều mà người khác không thể là vì Đấng Christ thật lạ lùng và kỳ diệu trong kinh nghiệm của chúng ta về Ngài.

(2) Về Sự Hủy Diệt Sô-đôm

(a) Áp-ra-ham Đi Với Đức Chúa Trời Để Tiễn Ngài

Sự khải thị thứ hai mà Áp-ra-ham nhận được liên quan đến sự hủy diệt Sô-đôm (c. 16-21). Sau khi vui hưởng sự tương giao thân mật như vậy với Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời và hai thiên sứ được thỏa lòng, được làm cho mạnh mẽ và tươi mới. Câu 16 nói rằng sau đó “những người này đứng dậy mà đi, ngó về phía Sô-đôm. Áp-ra-ham cũng đi theo để tiễn bước họ”. Áp-ra-ham đi với họ một quảng để đưa đường, để tiễn họ.Thường sau khi khách đến thăm chúng ta, chúng ta đưa họ ra xe, tiễn họ ra về. Việc Áp-ra-ham đi với những vị khách của ông giống như một người tiễn bạn mình ra về.

(b) Đức Chúa Trời Không Giấu Áp-ra-ham Ý Định Của Ngài

Khi Áp-ra-ham tiễn Đức Chúa Trời lên đường, “Đức Giê-hô-va phán rằng: Lẽ nào Ta giấu Áp-ra-ham điều Ta sắp làm sao?” (c. 17). Đức Chúa Trời không thể giấu Áp-ra-ham ý định của Ngài, nhưng đã nói với ông ý định của Ngài là phán xét Sô-đôm, rằng: “Vì tiếng kêu oan về Sô-đôm và Gô-mô-rơ quá lớn và vì tội lỗi các thành đó rất nghiêm trọng nên bây giờ Ta sẽ xuống đó để xem chúng nó hành động có thật như tiếng kêu thấu đến Ta chăng; nếu chẳng thật, Ta sẽ biết” (c. 20-21). Lòng của Đức Chúa Trời quan tâm đến Lót nhưng Ngài không thể làm gì cho ông nếu không có một người cầu thay. Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, Đức Chúa Trời ở đây đang tìm kiếm một người cầu thay. Dù Đức Chúa Trời không đề cập đến tên của Lót, nhưng trong lòng Ngài biết rằng Áp-ra-ham hiểu điều Ngài đang làm. Đức Chúa Trời và Áp-ra-ham nói với nhau theo cách ẩn ý, không ai trong họ nhắc đến tên của Lót.Những người ngoài cuộc không hiểu họ nói gì, nhưng họ thì hiểu.

d) Cứ Ở Trong Hiện Diện Của Đức Chúa Trời

Câu 22 nói: “Vậy, những người đó từ đó đi qua hướng Sô-đôm, nhưng Áp-ra-ham hãy còn đứng chầu trước mặt Đức Giê-hô-va” (Nguyên văn Hê-bơ-rơ). Khi hai thiên sứ rời khỏi, Áp-ra-ham không nói lời tạm biệt Chúa. Không, ông vẫn đang đứng trước mặt Chúa. Như chúng ta sẽ thấy, mục đích của việc ông đứng trước mặt Chúa là để cầu thay.

Trong Sáng Thế Ký chương 18, chúng ta thấy Áp-ra-ham, một người được cắt bì, có sự bình an với Đức Chúa Trời. Mặc dù Áp-ra-ham không mong đợi cuộc viếng thăm như vậy, nhưng Đức Chúa Trời đã hiện ra với ông trong hình dạng của một người bình thường, trò chuyện với ông như với một người bạn. Không có điều gì mang tính tôn giáo trong sự tương giao thân mật như thế. Trong sự tương giao đó, về phương diện tích cực, Áp-ra-ham đã nhận được sự khải thị từ Đức Chúa Trời liên quan đến sự sinh ra Y-sác, và về phương diện tiêu cực, liên quan đến sự hủy diệt Sô-đôm. Sau khi các thiên sứ rời khỏi đó hướng về Sô-đôm, Áp-ra-ham vẫn còn ở trong hiện diện của Đức Chúa Trời.Đức Chúa Trời đã tìm thấy một người để Ngài có thể ủy thác điều của lòng Ngài, một người đáp ứng với ý định và khát vọng của lòng Ngài. Trong chương này, chúng ta thấy rằng kinh nghiệm ngọt ngào nhất và thân mật nhất về Đức Chúa Trời giống những gì chúng ta có được với người bạn thân nhất của mình.

 

 

Witness Lee

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2