clomid uk
clomid manchester
click here buy clomid bodybuilding
where to buy prozac
buy prozac online
cialis pillola gialla
cialis generico online
link CHƯƠNG BA
ÁP-RA-HAM VÀ ĐẤT CA-NA-AN
Kinh-thánh: Công 7:2; Sáng 12:4—13:18; 14:11-23
Tiểu sử của Áp-ra-ham có thể được chia làm ba phần. Sáng-thế Ký chương 12 đến 14 hình thành phần thứ nhất. Phần này nhấn mạnh về đất Ca-na-an. Các chương mười lăm đến hai mươi hai hình thành phần thứ hai. Phần này nhấn mạnh về con ông. Các chương từ hai mươi ba đến hai mươi lăm hình thành phần thứ ba. Phần này bao gồm những sự kiện xảy ra trong tuổi già của Áp-ra-ham. Trước hết, chúng ta hãy xem phần thứ nhất.
Sáng-thế Ký 12:4-5 nói: “Rồi Áp-ram đi, theo như lời Chúa đã phán dạy; Lót cùng đi với ông. Khi Áp-ram ra khỏi Ha-ran, tuổi ông được bảy mươi lăm. Áp-ram dẫn Sa-rai, vợ mình, Lót, cháu mình, cả gia tài đã thâu góp, và những người (nguyên văn: những hồn) họ đã có được tại Ha-ran, và ra đi đến xứ Ca-na-an, rồi họ đều đến xứ Ca-na-an”. Sau khi Áp-ra-ham nghe Đức Chúa Trời kêu gọi mình lần thứ hai tại Ha-ran, ông lìa Ha-ran và đến Ca-na-an. Nhưng chúng ta phải nhận thức rằng một người có thể đến ở xứ Ca-na-an mà không hiểu vì sao mình ở đó. Đừng nghĩ rằng một khi chúng ta thấy khải tượng, mọi sự sẽ theo sau. Thấy khải tượng thiên thượng là một việc, nhưng không vâng phục khải tượng thiên thượng là một việc khác. Sau khi Áp-ra-ham đến Ca-na-an, câu 7 nói: “Chúa hiện ra cùng Áp-ram và phán: Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này! Rồi tại đó, người lập một bàn thờ cho Chúa, là Đấng đã hiện đến cùng người”. Đó là lần thứ hai Đức Chúa Trời hiện ra cho Áp-ra-ham và lần thứ ba Ngài phán với ông. Đức Chúa Trời hiện ra và phán một lần nữa để Áp-ra-ham có một ấn tượng rõ ràng và tươi mới về những gì Ngài đã ủy thác cho ông.
Chúng ta dễ đánh mất khải tượng về sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Mặc dầu cố gắng làm một Cơ-đốc-nhân đúng đắn một cách có ý thức, chúng ta vẫn có thể đánh mất khải tượng. Chúng ta có thể đánh mất khải tượng ngay cả trong khi đang siêng năng công tác từng ngày. Đừng nghĩ rằng chỉ có những điều tầm thường mới có thể làm lu mờ khải tượng của mình, ngay cả những điều thuộc linh cũng có thể làm lu mờ khải tượng của chúng ta. Nếu không sống liên tục trong sự hiện diện của Chúa, chúng ta dễ đánh mất khải tượng về sự kêu gọi của mình. Sự kêu gọi mà hội-thánh đã nhận được cũng giống như sự kêu gọi mà Áp- ra-ham đã nhận được. Nhưng nhiều người chưa thấy hi vọng của sự kêu gọi này. Vì vậy, Phao-lô cầu nguyện: “hầu cho anh em biết được hi vọng về sự kêu gọi của Ngài là thể nào” (Êph. 1:18). “Hi vọng” chỉ về nội dung của sự kêu gọi này, là những điều bao hàm trong sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Nguyện Đức Chúa Trời giải cứu chúng ta khỏi những tư tưởng ích kỷ. Chúng ta biết Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta với một mục tiêu rõ ràng. Sự cứu rỗi của chúng ta nhằm hoàn thành mục tiêu này. Nếu không thấy thực chất sự kêu gọi của Áp-ra-ham, chúng ta sẽ không thấy ý nghĩa sự kêu gọi của mình. Nếu không thấy bí quyết sự kêu gọi của Áp-ra-ham, chúng ta sẽ không thấy chức vụ của chính mình. Nếu không thấy điều này, chúng ta sẽ giống như những người xây nhà mà không có nền. Chúng ta dễ quên những gì Đức Chúa Trời muốn thực hiện biết bao! Nhiều lúc, khi phải làm việc quá nhiều và khi công tác trở nên bề bộn hơn một chút, chúng ta không còn thấy sự kêu gọi thuộc linh của mình. Chúng ta cần phải đến với Chúa nhiều lần và nài khẩn Ngài: “Xin hãy hiện ra với con nhiều lần và phán đi phán lại với con!” Chúng ta cần có cái nhìn liên tục, đời đời. Chúng ta cần thấy mục tiêu của Đức Chúa Trời và những gì Ngài đang làm. Áp-ra-ham đã đến Ca-na-an. Sau khi ông đến Ca-na-an, vài điềuđã xảy ra. Trước hết, ông lập ba bàn thờ tại Ca-na-an. Thứ hai,ông đã bị thử nghiệm ba lần tại Ca-na-an.
ÁP-RA-HAM LẬP MỘT BÀN THỜ
Sau khi Áp-ra-ham vào xứ Ca-na-an, Kinh-thánh cho biết nơi đầu tiên ông đến là Si-chem. Tại Si-chem, ông lập một bàn thờ. Nơi thứ hai ông đến là Bê-tên, và tại đó ông cũng lập một bàn thờ. Về sau, ông rời Bê-tên và đi đến Ê-díp-tô. Kế đến, từ Ê-díp-tô, ông đi về miền nam, và từ miền nam, ông trở về Bê-tên, cư ngụ giữa Bê-tên và A-hi, là nơi ông đã lập bàn thờ đầu tiên. Về sau, ông đi đến một nơi khác, là Hếp-rôn, và lập một bàn thờ nữa. Tại ba địa điểm này, Áp-ra-ham xây dựng ba bàn thờ. Cả ba nơi đều có bàn thờ, và cả ba nơi đều được thánh hóa. Kinh-thánh cho biết Đức Chúa Trời dùng ba nơi này, Si-chem, Bê-tên và Hếp-rôn để tượng trưng cho xứ Ca-na-an. Dưới mắt Đức Chúa Trời, Ca-na-an mang những đặc tính của Si-chem, Bê-tên và Hếp-rôn. Đặc tính của ba nơi này là đặc tính của Ca-na-an. Một khi được thấy ba nơi này, chúng ta sẽ thấy Ca-na-an như thế nào. Chúng ta hãy xem xét đặc tính của ba nơi ấy.
Si-chem (Vai), Nơi Đầy Sức Mạnh
“Áp-ram trải qua xứ này, đến Si-chem, đến đồng bằng của Mô-rê... Chúa hiện ra cùng Áp-ram, và phán: Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này. Rồi tại đó, Áp-ram lập một bàn thờ cho Chúa, là Đấng đã hiện đến với ông” (Sáng 12:6-7). Áp-ra-ham đến Si-chem. Trong nguyên ngữ, chữ Si-chem có nghĩa là “vai”. Trong cơ thể con người, vai là phần mạnh nhất. Vai có thể nhấc những gì tay không nhấc nổi. Vì vậy, Si-chem cũng có nghĩa là “sức mạnh”. Đặc tính đầu tiên của Ca-na-an là sức mạnh. Điều này có nghĩa là sức mạnh của Đức Chúa Trời ở tại Ca-na-an. Ca-na-an không chỉ là một nơi đượm sữa và mật, mà còn là nơi đầy sức mạnh.
Kinh-thánh bày tỏ rằng quyền năng của Đức Chúa Trời không chỉ là quyền năng của phép lạ, nhưng còn là quyền năng của sự sống; đó là quyền năng làm thỏa mãn con người. Chúa phán: “Nhưng ai uống nước Ta cho, thì mãi mãi không còn khát nữa, nhưng nước Ta cho người sẽ thành một mạch nước trong người đó, phun trào lên cho đến sự sống đời đời” (Giăng 4:14). Thật quyền năng biết bao! Đó là quyền năng của sự sống! Sự sống của Chúa có quyền năng làm cho [người ta] thỏa mãn! Khi một người sở hữu sự sống của Chúa, người ấy sẽ không bao giờ khát nữa, vì sẽ được thỏa mãn ở bề trong. Những ai thỏa mãn ở bề trong và những ai nhận được sự sống bề trong là những người quyền năng hơn hết. Họ là Si-chem, là cái vai, và đầy dẫy quyền năng để mang nhiều gánh nặng. Cảm tạ và ngợi khen Chúa vì đặc tính của Ca-na-an là quyền năng của sự sống.
Tại Si-chem có cây sồi Mô-rê (Sáng 12:6). Trong nguyên ngữ, tên Mô-rê có nghĩa là “giáo sư” hay “sự dạy dỗ”. Từ ngữ này có một điều gì đó liên quan đến sự hiểu biết. Cây sồi của Mô-rê ở tại Si-chem, có nghĩa là sự hiểu biết đến từ quyền năng và sự hiểu biết là kết quả của quyền năng. Nói cách khác, sự hiểu biết thuộc linh thật đến từ quyền năng của Đấng Christ. Nếu không có quyền năng làm thỏa mãn của sự sống Đấng Christ, chúng ta sẽ không có sự hiểu biết thuộc linh thật và không thể truyền đạt một điều thuộc linh nào cho người khác cả. Nếu Đức Chúa Trời phải có một chiếc bình để khôi phục chứng cớ của Ngài trên đất, chiếc bình ấy phải là một chiếc bình đặc biệt. Với một chiếc bình như vậy, nhu cầu đầu tiên không phải là được dạy dỗ các giáo lý, mà nhu cầu đầu tiên là được thỏa mãn và có được quyền năng của sự sống. Khi ấy sẽ có sự hiểu biết thật. Có một sự khác biệt lớn lao ở đây. Một bên là vấn đề giáo lý, còn bên kia là vấn đề sự sống. Một bên là do nghe điều gì đó ở bề ngoài, bên kia là do thấy điều gì đó ở bề trong. Kết quả là người ta sẽ quên những gì họ nghe ở bề ngoài, trong khi những gì nhận được ở bề trong là những điều họ không bao giờ quên. Nếu có ai nói rằng: “Tôi quên thập tự giá mất rồi, vì vài tháng nay, không ai rao giảng về thập tự giá cả”, thì điều đó chứng tỏ rằng thập tự giá mà người ấy có chỉ ở trong giáo lý và trí nhớ, chứ không phải sự sống. Chúng ta phải nhớ rằng mọi sự hiểu biết thật được tìm thấy trong quyền năng của sự sống. Quyền năng của Đấng Christ là quyền năng của chúng ta. Vì có một điều gì ở bên trong mình, nên chúng ta có thể chia sẻ chính điều đó cho người khác. Chúa ban cho chúng ta quyền năng bề trong và sự hiểu biết bề trong. Mô-rêđến từ quyền năng.
Chúng ta phải thận trọng đừng trao cho người khác giáo lý suông mà mình đã nghe. Chúng ta phải có chính những điều thuộc linh trước khi có thể đem trao cho người khác. Trong những vấn đề thuộc linh, những người mưu trí cuối cùng đi con đường lòng vòng. Họ quá tin cậy nơi tài trí của mình, và kết quả là họ đi lang thang xa khỏi con đường thuộc linh. Nguyện Chúa giải cứu chúng ta khỏi những sự dạy dỗ khách quan, bề ngoài.
Bê-tên (Nhà của Đức Chúa Trời), Thân Thể của Đấng Christ
“Từ đó, người đi qua núi ở về phía đông Bê-tên, rồi đóng trại, phía tây có Bê-tên, phía đông có A-hi, tại đó, người lập một bàn thờ cho Chúa, và kêu cầu danh Chúa” (Sáng 12:8). Không những Đức Chúa Trời đem Áp-ra-ham đến Si-chem, mà còn đến Bê-tên nữa. Địa danh Bê-tên trong nguyên ngữ có nghĩa là “nhà của Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời không theo đuổi hàng trăm, hàng ngàn con người mạnh mẽ mà không phối hợp với nhau, chẳng hạn như Sam-sôn. Ngài cũng không tìm kiếm một đống đá sống động nhưng rời rạc không phối hợp với nhau. Ý định của Đức Chúa Trời là xây một đền thờ, tức là nhà của Đức Chúa Trời. Một đặc tính của Ca-na-an ấy là dân của Đức Chúa Trời là đền thờ của Đức Chúa Trời và nhà của Đức Chúa Trời. Hê-bơ-rơ 3:6 cho chúng ta biết không phải Môi-se, mà Con của Đức Chúa Trời mới là người quản trị nhà này.
Đức Chúa Trời muốn dấy lên một chiếc bình để hoàn thành mục đích này. Một chiếc bình như vậy phải là nhà của Ngài. Một vài nhà truyền giảng phúc-âm có ân tứ đặc biệt không hoàn thành được một mục đích như vậy, một vài sứ giả phấn hưng tài năng cũng không làm được điều đó. Chỉ có Si-chem (quyền năng) thì không đủ, cũng phải có Bê-tên nữa. Tất cả những con người quyền năng phải trở nên nhà của Đức Chúa Trời và Thân Thể của Đấng Christ trước khi họ có thể trở nên hữu ích. Đức Chúa Trời cần phải giải cứu chúng ta khỏi mọi hình thức của cá nhân chủ nghĩa. Đức Chúa Trời không chỉ cứu chúng ta để trở nên những Cơ-đốc-nhân đúng đắn, nhưng để trở nên nhà của Đức Chúa Trời và một Thân Thể cùng với mọi con cái Ngài. Vì vậy, chúng ta không nên có “sự tự do” cá nhân. Tiếc thay, nhiều Cơ-đốc-nhân yêu sự tự do của bản thân mình và rất giỏi giữ gìn sự tự do ấy! Các anh chị em ơi, nếu chúng ta thật sự sáng tỏ về chứng cớ của nhà Đức Chúa Trời, và nếu chúng ta biết rằng bình của Đức Chúa Trời là một ngôi nhà, chứ không phải những viên đá riêng rẽ, rời rạc thì chúng ta sẽ học vâng phục lẫn nhau, từ bỏ mọi chuyển động cá nhân, và đi theo con đường của mọi con cái Đức Chúa Trời.
Nhà của Đức Chúa Trời không chỉ là một nguyên tắc, mà là sự sống. Nan đề là nhiều Cơ-đốc-nhân xem Thân Thể Đấng Christ chỉ là một nguyên tắc; họ không thấy sự sống của Thân Thể Đấng Christ. Nếu chúng ta chỉ cố gắng làm một điều gì đó theo nguyên tắc mà không có sự sống để thực hiện điều đó thì có ích lợi gì? Chúng ta nghĩ rằng mình nên phối hợp với nhau trong mọi sự, và chúng ta thường đồng ý phối hợp với nhau một cách miễn cưỡng, nhưng lòng lại không ưa thích điều đó chút nào. Làm như vậy thì có ích gì? Chúng ta cần phải nhớ rằng Thân Thể là sự sống chứ không phải nguyên tắc. Nếu không biết Thân Thể là sự sống, và nếu chỉ hành động theo nguyên tắc, chúng ta chỉ bắt chước theo bề ngoài. Nhiều tín đồ chưa bao giờ được Chúa xử lý. Họ chỉ nghe nói chúng ta không nên hành động độc lập mà phải phối hợp với người khác, và họ cố gắng thực hành điều đó. Tuy nhiên, họ không nhận thức rằng đây là điều người ta không thể học làm theo được. Như mối quan hệ của chúng ta với Đấng Christ không phải là một điều có được do học hỏi, mối quan hệ của với chúng ta với Thân Thể của Đấng Christ cũng vậy.
Làm thế nào chúng ta biết được sự sống của Thân Thể? Điều kiện cơ bản để biết sự sống của Thân Thể là chúng ta phải đóng trại ở giữa Bê-tên và A-hi. Phía tây của chúng ta phải là Bê-tên và phía đông của chúng ta phải là A-hi. Đây không chỉ là vấn đề Bê-tên, nhưng cũng là vấn đề A-hi nữa. Trong nguyên ngữ, địa danh A-hi có nghĩa là “một đống”. Bê-tên là nhà, nhà của Đức Chúa Trời, trong khi A-hi là một đống, một đống hoang tàn. Đống hoang tàn chỉ về cõi sáng tạo cũ, A-hi tượng trưng cho cõi sáng tạo cũ. Nếu phải hướng mặt về nhà Đức Chúa Trời, chúng ta phải quay lưng về phía đống hoang tàn. Nói cách khác, nếu sự sống thuộc xác thịt của một Cơ-đốc-nhân không được xử lý, người ấy không thể biết Thân Thể của Đấng Christ. Chỉ khi nào có A-hi ở phía đông, chúng ta mới có Bê-tên ở phía tây. Nếu không có A-hi ở phía đông, chúng ta sẽ không có Bê-tên ở phía tây. Một người bắt đầu kinh nghiệm Thân Thể Đấng Christ, vui hưởng và sống bày tỏ sự sống Thân Thể bằng cách xử lý sự sống thuộc xác thịt. Nếu muốn tìm thấy nhà của Đức Chúa Trời là gì, về phương diện tiêu cực, chúng ta phải từ chối đống hoang tàn. Chỉ sau khi sự sống thiên nhiên đã bị Đức Chúa Trời xử lý, và chỉ sau khi bị bắt phục, chúng ta mới thấy sự sống thiên nhiên đáng bị phán xét hơn là khen ngợi, chúng ta mới liên kết với các anh chị em khác cách tự nhiên. Chỉ khi ấy chúng ta mới có thể sống bày tỏ sự sống của Thân Thể Đấng Christ. Lý do duy nhất chúng ta không thể liên kết với các anh chị em khác là vì sự sống của cõi sáng tạo cũ trong chúng ta còn quá mạnh mẽ. Một khi cõi sáng tạo cũ trong chúng ta được xử lý, chúng ta sẽ sống bày tỏ sự sống của Thân Thể Đấng Christ cách tự nhiên. Chúng ta sẽ thấy mình là một thành phần của Thân Thể Đấng Christ và mình đang ở trong Thân Thể. Như vậy, sự sống của cõi sáng tạo cũ phải được xử lý và từ chối cách triệt để. Cho dầu bên trong đống hoang tàn ấy có gì chăng nữa, nó vẫn là đống hoang tàn và không phải là nhà của Đức Chúa Trời.
Đối với những Cơ-đốc-nhân chưa trải qua sự phán xét cõi sáng tạo cũ, thì cõi sáng tạo cũ là sự khoe khoang của họ. Họ vẫn nghĩ rằng những gì họ có trong chính mình là tốt lành. Mặc dầu trên môi miệng, họ thừa nhận rằng mình yếu đuối và hư hoại, nhưng trên thực tế, họ chưa bao giờ được phán xét. Họ không kể sự hư hoại là hư hoại. Thay vào đó, họ cho sự hư hoại là một điều gì đó đáng yêu. Họ cho rằng những gì trong họ khiến họ không thể sống hòa đồng với người khác là phần cao quí của mình. Khi nào thấy mình ở trong tình trạng ấy, đó là lúc chúng ta cần được Đức Chúa Trời thương xót hơn hết.
Một ngày kia, Đức Chúa Trời sẽ đem chúng ta đến chỗ nhận thấy sự vô dụng của mình. Chúng ta sẽ mất lòng tự tin. Chỉ khi ấy chúng ta mới đến nhà của Đức Chúa Trời cách tự nhiên. Không thể sống sự sống Thân Thể nếu xác thịt không được xử lý. Chúng ta phải cầu xin Chúa chỉ cho mình thấy Thân Thể Đấng Christ không phải chỉ là nguyên tắc, mà là sự sống.
Hếp-rôn (Sự Tương Giao) — Nguyên Tắc Tương Giao
“Sau đó, Áp-ram dời trại mình đến ở nơi đồng bằng Mam-rê, thuộc về Hếp-rôn, và lập tại đó một bàn thờ cho Chúa” (Sáng 13:18).
Địa danh Hếp-rôn trong nguyên ngữ nghĩa là “sự tương giao”. Nhà của Đức Chúa Trời là vấn đề sự sống, trong khi sự tương giao là vấn đề cuộc sống. Một người không thể sống tại Hếp-rôn nếu chưa trải qua Bê-tên. Chúng ta phải nhớ rằng Hếp-rôn đến sau Bê-tên. Nơi nào có nhà Đức Chúa Trời, tại đó có sự tương giao. Sự tương giao không phải là một cộng đồng được tổ chức bởi một số người. Chúng ta chỉ tìm được sự tương giao tại nhà của Đức Chúa Trời. Không có nhà Đức Chúa Trời thì không thể có sự tương giao. Nếu sự sống thiên nhiên của mình không được xử lý, chúng ta không thể có sự tương giao. Chúng ta sống trong Thân Thể và có sự tương giao chỉ khi nào sự sống thiên nhiên bị xử lý.
Bê-tên dường như là trung tâm của Ca-na-an. Đức Chúa Trời đem Áp-ra-ham đến Bê-tên để ở tại đó. Ngay khi Áp-ra-ham lìa khỏi Bê-tên, ông thất bại. Khi ông từ Ai-cập trở về, Đức Chúa Trời lại đem ông đến Bê-tên, tại đó, ông đã xây dựng một bàn thờ. Chỉ sau khi ông định cư tại Bê-tên thì Đức Chúa Trời mới dần dần chuyển ông đến Hếp-rôn. Điều này thật đầy ý nghĩa. Chỉ sau khi thấy nhà của Đức Chúa Trời, tức là sự sống của Thân Thể Đấng Christ, một người mới được dẫn đến sự tương giao.
Thân Thể là một sự kiện, là một sự kiện thật và rõ ràng. Trong Thân Thể này, chúng ta tự nhiên thông công và tương giao với các con cái Chúa khác. Một khi quay lưng về phía A-hi và phán xét sự sống thiên nhiên, chúng ta sẽ bước vào sự sống của Thân Thể Đấng Christ và tự nhiên được đem vào sự tương giao. Những ai thật sự biết Thân Thể của Đấng Christ tự khắc sẽ được giải thoát khỏi chủ nghĩa cá nhân. Họ không còn tin vào chính mình, và nhận biết mình rất yếu đuối. Họ tương giao với mọi con cái của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phải đem chúng ta đến chỗ chúng ta không thể tiến tới nếu thiếu tương giao. Đức Chúa Trời sẽ chỉ cho chúng ta thấy điều gì các cá nhân không thể làm được thì có thể thực hiện được trong sự tương giao. Đó là ý nghĩa của Hếp-rôn.
Tại Si-chem có một cây sồi gọi là cây sồi của Mô-rê. Tại Hếp-rôn cũng có những cây sồi gọi là những cây sồi Mam-rê (Sáng 13:18). Trong nguyên ngữ, tên gọi Mam-rê nghĩa là “phong phú” hay “sức mạnh”. Mọi sự phong phú, giàu có và sức mạnh đều ra từ sự tương giao.
Tóm lại, Si-chem, Bê-tên, Hếp-rôn tượng trưng cho những đặc tính của Ca-na-an. Mặc dầu cả thế giới không ai biết Đức Chúa Trời, dân Ngài tại Ca-na-an biết quyền năng Ngài, Thân Thể Ngài và sự tương giao. Do thấy những điều này, dân của Đức Chúa Trời trở nên chứng cớ cho Ngài. Họ phải giữ mình trong tình trạng này trước khi có thể mang chứng cớ của Đức Chúa Trời. Chỉ khi nào mang ba đặc tính này, họ mới có thể dâng những của tế lễ thiêu, và chỉ khi ấy Đức Chúa Trời mới chấp nhận sinh tế. Một sinh tế không chỉ là một của tế lễ, mà còn phải được Đức Chúa Trời chấp nhận nữa. Chúng ta có thể muốn dâng hiến nhiều điều cho Đức Chúa Trời mà Ngài hoàn toàn không muốn nhận. Cả ba nơi này đều có bàn thờ. Có nghĩa đây là những nơi Đức Chúa Trời muốn và Ngài chấp nhận.
Nếu một Cơ-đốc-nhân muốn duy trì chứng cớ của Đức Chúa Trời trên đất, sự hiểu biết thuộc linh của người ấy phải đến từ quyền năng, nếu không thì không ích gì cả. Loại hiểu biết duy nhất có giá trị thuộc linh là sự hiểu biết đến từ Đấng Christ là quyền năng của chúng ta. Chúng ta rất dễ lấy kiến thức mình đã nghe làm của mình và truyền đạt nó cho người khác, nhưng điều này không có giá trị thuộc linh gì cả. Nguyện Chúa thương xót chúng ta! Tuy nhiên, khi chúng ta khám phá thấy quyền năng là gì trước mặt Chúa và có được một kinh nghiệm thuộc linh nào đó, chúng ta rất dễ trở nên bất tuân. Chúng ta rất dễ nghĩ rằng mình biết điều mà người khác không biết, và mình có thể làm được nhiều điều. Ngay lập tức, bản ngã chúng ta bị phơi bày ra. Ở điểm này, Đức Chúa Trời xoay sự chú ý của chúng ta vào nhà Ngài. Nhà của Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta vâng phục. Nếu hành động theo ý muốn của mình, chúng ta không thể sống trong nhà của Đức Chúa Trời. Khi thấy sự sống của Thân Thể, chúng ta thấy vị trí của mình trong đó, và chúng ta sẽ không đi quá xa. Một người nhận được khải thị của Đức Chúa Trời về Thân Thể Đấng Christ sẽ không hành động độc lập. Nếu thật sự thấy sự sống của Thân Thể, chúng ta sẽ thấy rằng có sự hạn chế trong nhà của Đức Chúa Trời, và chúng ta sẽ không chuyển động tự do. Đồng thời, nếu có sự sống của Thân Thể, chúng ta sẽ tự nhiên tương giao với những con cái khác của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ quí sự tương giao này và không cảm thấy đó là gánh nặng cho mình. Nếu các con cái của Đức Chúa Trời không biết ý nghĩa của nhà Đức Chúa Trời, họ không thể tương giao với các con cái khác của Ngài. Ai không thể tôn trọng những anh em khác, không thể kính trọng, khen ngợi họ đúng mức, hay dành cho họ vị trí thích đáng của mình, là những người chưa thấy nhà của Đức Chúa Trời. Nếu sự sống thiên nhiên của chúng ta đã bị xử lý, và nếu biết sự sống Thân Thể nghĩa là gì, chúng ta sẽ học tập quí các anh em khác, học tập đụng chạm đến sự sống và nhận được sự giúp đỡ trong các buổi nhóm. Chúng ta thường nhận sự giúp đỡ và đụng chạm sự sống khi đến các buổi nhóm. Tuy nhiên, khi rời khỏi buổi nhóm, một anh em khác đến bảo chúng ta rằng buổi nhóm thật kinh khủng và sai trật. Thật ra, không phải buổi nhóm kinh khủng và sai trật, mà chính là anh em đó; anh ấy không nhận lấy chỗ đứng của mình trong nhà của Đức Chúa Trời. Kết quả là anh không thể tương giao với người khác và không thể nhận được sự cung ứng sự sống từ người khác. Nếu xác thịt anh được xử lý, anh sẽ thấy Thân Thể của Đấng Christ và tự nhiên tương giao với người khác. Anh sẽ thấy rằng ngay cả những anh chị em yếu đuối nhất cũng có thể giúp đỡ mình một điều gì đó.
Ca-na-an có nhiều đặc tính. Trong tất cả các kinh nghiệm của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời lựa chọn ba nơi này để ông lập bàn thờ. Điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời chấp nhận, tán đồng, đặt hi vọng và củng cố ba nơi này.
ÁP-RA-HAM CHỊU THỬ NGHIỆM
Sau khi Áp-ra-ham đến Ca-na-an, Kinh-thánh cho chúng ta biết ông chịu thử nghiệm ba lần về miền đất này. Chúng ta hãy lần lượt xem xét ba cuộc thử nghiệm ấy.
Sự Thử Nghiệm Thứ Nhất — Đói Kém
Ngay sau khi Áp-ra-ham đến Bê-tên, ông đã bắt đầu thất bại. Đó là sự xử lý của Đức Chúa Trời để bày tỏ cho ông thấy Ngài kêu gọi ông do sự thương xót của Ngài chứ không phải do sự tốt lành của cá nhân ông. Bẩm sinh Áp-ra-ham không phải là người tốt. Ông thất bại y như mọi người khác. Sáng-thế Ký 12:9 nói: “Áp-ram vừa đi vừa đóng trại lần lần về phương Nam”. Đó là sự thất bại của ông: Đức Chúa Trời đã đem ông đến nhà Ngài, nhưng ở đó chưa được bao lâu, ông đã dần dần dời về miền nam. Mặc dầu ông không dời vào Ai-cập ngay lập tức, nhưng ông ở miền nam, tại biên giới của Ai-cập.
Khi đi về miền nam, ông gặp nạn đói. Câu 10 nói: “Bấy giờ, trong xứ có nạn đói: nạn đói ấy rất lớn nên Áp-ram xuống Ai-cập kiều ngụ”. Áp-ra-ham đã đến biên giới của Ai-cập và ông rất dễ đi vào Ai-cập. Sau khi đến Ai-cập, ông bắt đầu nói dối và bị Pha-ra-ôn quở trách. Tại đó, ông bị hổ nhục rất nhiều (cc. 11-20). Sau đó ông trở về Ca-na-an. Đó là cuộc thử nghiệm đầu tiên.
Cuộc thử nghiệm này bắt đầu như thế nào? Đức Chúa Trời hiện ra với Áp-ra-ham tại Si-chem và Ngài phán; “Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi xứ này”. Đức Chúa Trời có ý định ban Ca-na-an cho ông. Ông có muốn miền đất ấy không? Áp-ra-ham không phải là một người mạnh mẽ. Mặc dầu Đức Chúa Trời hứa ban cho ông miền đất này, Áp-ra-ham không giữ vững chỗ đứng của mình. Ông đã làm gì? Ông tiếp tục đi về miền nam cho đến khi tới Ai-cập. Đó là lý do của sự thử nghiệm thứ nhất. Thử thách đầu tiên là để thử nghiệm Áp-ra-ham xem ông có muốn miền đất này không. Áp-ra-ham không thấy miền đất ấy quí báu. Để làm cho ông được vững lập trong miền đất ấy, Đức Chúa Trời phải thử nghiệm ông.
Sau khi thất bại tại Ai-cập, Áp-ra-ham học một bài học: Ông nhận biết tầm quan trọng của Ca-na-an, và ông biết rằng nói dối và lừa gạt là sai lầm. Thật là hổ nhục cho dân của Đức Chúa Trời khi bị người Ai-cập quở trách. Ông đã làm gì? Sáng-thế Ký 13:1-3 nói: “Áp-ram đi ra khỏi Ai-cập dẫn vợ cùng các tài vật mình và Lót, cùng trở lên miền nam. Vả, Áp-ram rất giàu có súc vật, vàng và bạc. Người tiếp tục đi từ miền nam đến Bê-tên, đến nơi người đã đóng trại lúc đầu, ở giữa Bê-tên và A-hi”. Ông trở lại vị trí trước đây. Bây giờ Áp-ra-ham mới biết quí trọng miền đất này. Tại miền đất ấy, ông không cần phải nói dối, không cần phải bị người Ai- cập quở mắng, và tại đó ông có thể tôn vinh Đức Chúa Trời.
Sự Thử Nghiệm Thứ Hai — Lót Chọn Lựa Đất
Sau khi Áp-ra-ham trở về Ca-na-an, ông đối diện sự thử nghiệm thứ hai. Sự thử nghiệm đầu tiên nhằm thử xem Áp-ra-ham đánh giá và quí trọng miền đất ấy đến mức nào. Sau khi học bài học bị đánh bại tại Ai-cập, ông nhận biết Ca-na-an là nơi duy nhất có giá trị và ông trở về đó. Sau khi trở về, ông rất dễ sử dụng đôi tay xác thịt để nắm giữ miền đất ấy. Vì vậy đã có cuộc thử nghiệm thứ hai. Sáng-thế Ký 13:5-7 nói: “Và Lót cùng đi với Áp-ra-ham, cũng có những bầy [chiên], đàn [bò] và trại. Miền đất ấy không đủ chỗ cho hai người ở chung, vì tài sản rất nhiều đến nỗi không thể ở chung nhau được. Trong khi dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít ở trong xứ, có chuyện tranh giành giữa bọn chăn chiên Áp-ram cùng bọn chăn chiên Lót”. Đức Chúa Trời bày tỏ cho Áp-ra-ham rằng mặc dầu ông đã vâng theo phân nửa mạng lệnh của Đức Chúa Trời để lìa khỏi quê hương, bà con và nhà cha mình, ông vẫn chưa vâng theo phân nửa mạng lệnh còn lại; ông chưa chia tay Lót. Vì vậy, Đức Chúa Trời cần phải dùng Lót kỷ luật ông.
Câu 8 và 9 nói: “Và Áp-ram nói cùng Lót rằng: chúng ta là cốt nhục, xin cháu cùng chú đừng nên cãi lẫy nhau, và bọn chăn chiên chú cùng bọn chăn chiên cháu cũng đừng tranh giành nhau nữa. Trọn miền đất không phải ở trước mặt cháu sao? Chú xin cháu hãy lìa khỏi chú; nếu cháu lấy bên trái, chú sẽ qua bên phải; nếu cháu lấy bên phải, chú sẽ đi qua bên trái”. Bây giờ Áp-ra-ham biết sự kêu gọi của Đức Chúa Trời chỉ dành cho ông chứ không dành cho Lót. Các anh chị em ơi, chúng ta phải nhận biết rằng những người được kêu gọi làm người phụng sự không thể đem theo những người không được Đức Chúa Trời kêu gọi theo mình. Áp-ra-ham nhìn biết Đức Chúa Trời kêu gọi mình để làm một người phụng sự [Ngài], và ông bảo Lót: “Chú xin cháu hãy lìa khỏi chú: nếu cháu lấy bên trái, chú sẽ qua bên phải, nếu cháu lấy bên phải, chú sẽ đi qua bên trái”. Ông không muốn nắm giữ miền đất ấy bằng đôi tay xác thịt; ông sẵn lòng để cho Lót lựa chọn.
Một mặt, Áp-ra-ham phải hoàn thành sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Mặt khác, Đức Chúa Trời phải dạy ông bài học không cần sử dụng những phương pháp thuộc xác thịt để nắm giữ đất hứa Ca-na-an. Chúng ta phải cẩn thận học bài này. Đức Chúa Trời ban đất cho Áp-ra-ham, nhưng điều này không có nghĩa là ông có thể giữ nó bằng xác thịt mình. Chúng ta phải học bài học tin cậy Đức Chúa Trời gìn giữ điều mà Ngài đã hứa với chúng ta. Chúng ta không cần cố gắng gìn giữ nó bằng phương tiện thuộc đất hay năng lực thuộc xác thịt.
Đó là cuộc thử nghiệm thứ hai của Áp-ra-ham. Cuối cùng ông đã đắc thắng, và có thể nói với Lót: “Nếu cháu lấy bên trái, chú sẽ qua bên phải, nếu cháu lấy bên phải, chú sẽ đi qua bên trái”. Ông không cố gắng gìn giữ điều gì bằng năng lực riêng.
Sáng-thế Ký 13:10-12 nói: “Lót ngước mắt lên, thấy khắp cánh đồng bằng bên sông Giô-đanh, là nơi đều có nước chảy tưới khắp... Lót chọn cho mình cả cánh đồng bằng bên sông Giô-đanh và đi qua phía đông. Vậy, hai người chia tay nhau. Áp-ram ở tại đất Ca-na-an...” Lót đã chọn lựa những phần tốt nhất, trong khi Áp-ra-ham ở lại Ca-na-an. Tất cả những ai biết Đức Chúa Trời đều không minh oan cho mình. Nếu thật sự biết Đức Chúa Trời, chúng ta không cần phải tự biện minh. Nếu Đức Chúa Trời ban Ca-na-an cho chúng ta, chúng ta không cần nắm giữ nó bằng đôi tay xác thịt. Chúng ta phải học tin cậy Đức Chúa Trời, phó thác cho Ngài và vác thập tự giá. Mặc dầu kết quả của đức tin Áp-ra-ham trong Đức Chúa Trời đặt ông nơi miền đất đồi núi, nhưng ông vẫn ở tại Ca-na-an. Lót lựa chọn đồng bằng nhưng cuối cùng là Sô-đôm.
Ở đây chúng ta thấy Áp-ra-ham đã có tiến bộ phần nào. Từ nay về sau, ông bắt đầu chiếu sáng! Các câu từ 14 đến 17 chép: “Sau khi Lót lìa khỏi Áp-ram rồi, Chúa phán cùng Áp-ram rằng: Hãy ngước mắt lên, nhìn từ chỗ ngươi ở cho đến phương bắc, phương nam, phương đông và phương tây: vì cả miền đất mà người thấy, Ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi đời đời. Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi như bụi trên đất; thế thì nếu ai đếm được bụi trên đất, thì cũng sẽ đếm được dòng dõi ngươi vậy. Hãy đứng dậy đi khắp trong xứ, theo chiều dài và theo chiều rộng; vì Ta sẽ ban cho ngươi xứ này”. Một lần nữa, Đức Chúa Trời đã làm cho Áp-ra-ham được vững lập trong miền đất. Nói theo phương diện loài người, dường như Lót đã lấy mất một phần. Nhưng vào lúc ấy, Đức Chúa Trời đến và phán cùng Áp-ra-ham. Áp-ra-ham không cần đưa tay ra làm điều gì cả. Chúa đã ban xứ Ca-na-an cho ông, và ông không cần gìn giữ nó bằng những phương pháp thuộc xác thịt. Sự biện minh của chúng ta đến từ lòng tin cậy Đức Chúa Trời, không tùy thuộc vào sự nắm giữ bằng những phương cách thuộc xác thịt của mình. Nguyện Chúa thương xót chúng ta và giải cứu chúng ta khỏi tay mình và đường lối mình.
Câu 18 ghi: “Sau đó Áp-ram dời trại mình, đến ở tại đồng bằng Mam-rê, thuộc về Hếp-rôn, và tại đó lập một bàn thờ cho Chúa”. Sau khi trải qua sự thử nghiệm thứ hai, Áp-ra-ham đã có tiến bộ. Ông dời đến Hếp-rôn. Chúng ta phải nhận thức rằng Đức Chúa Trời theo đuổi một sự đắc thắng hoàn toàn. Trong khi Lót lựa chọn đồng bằng sông Giô-đanh, Áp-ra-ham có thể đắc thắng ở bên ngoài nhưng có thể không đắc thắng ở bề trong. Có lẽ bề ngoài ông nói: “Nếu cháu lấy bên trái, chú sẽ qua bên phải; hoặc nếu cháu đi qua bên phải, chú sẽ đi qua bên trái”. Nhưng trong lòng ông có thể hi vọng rằng Lót sẽ hành động theo lương tâm và không tinh khôn đến nỗi chọn lấy những phần tốt nhất. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã cứu ông; ông không những đắc thắng ở bề ngoài, nhưng cũng đắc thắng ở bề trong. Ông dời trại mình đến ở tại Hếp-rôn. Ông đã thật sự đắc thắng.
Sự Thử Nghiệm Thứ Ba
— Giải Cứu Lót Và Từ Bỏ Sự Giàu Có Của Sô-Đôm
Sự thử nghiệm thứ hai đã qua, bây giờ đến sự thử nghiệm thứ ba. Sáng-thế Ký 14:11-12 chép: “Bên thắng trận bèn cướp lấy hết của cải và lương thực của Sô-đôm và Gô-mô-rơ, rồi đi. Họ cũng bắt Lót, là con trai của anh Áp-ram, ở tại Sô-đôm, và hết thảy gia tài người, rồi đem đi”. Đó là sự thử nghiệm sau cùng mà Áp-ra-ham kinh nghiệm vì cớ miền đất ấy.
Khi Áp-ra-ham nghe tin cháu mình bị bắt, ông không nói: “Ta biết Lót lẽ ra không nên đến ở một nơi như vậy. Khi Lót làm như vậy, chắc chắn tay của Đức Chúa Trời sẽ giáng trên Lót cách nặng nề”. Áp-ra-ham đã làm gì? Câu 14 nói: “Khi Áp-ra-ham hay được anh em mình bị quân giặc bắt, bèn chiêu tập ba trăm mười tám gia nhân đã tập luyện, sanh đẻ nơi nhà mình mà đuổi theo các vua đó đến đất Đan”. Điều này cho thấy Áp-ra-ham thật là một người đắc thắng. Ông đắc thắng bản ngã và được đem đến chỗ không còn có những cảm xúc cá nhân. Cho dầu Lót đã đối xử với ông thế nào chăng nữa, ông vẫn nhìn nhận Lót là anh em mình. Mặc dầu Lót không bao giờ đắc thắng, ông vẫn là cháu của Áp-ra-ham. Lót là một con người bình thường tại Mê-sô-bô-ta-mi, ông là một con người bình thường khi đến Ha-ran, và ông là một người bình thường khi đến Ca-na-an. Thậm chí ông chọn lựa đất tốt cho chính mình và dời đến Sô-đôm. Lót không có mỹ đức nào ngoại trừ ông đã buồn rầu trước lối sống dâm loạn của những người vô luật pháp (2 Phi 2:7-8). Trừ ra điều này, ông không có một chứng cớ nào khác. Tuy nhiên, Áp-ra-ham vẫn nhìn nhận Lót là cháu của mình. Chỉ có những người đứng trên đất Hếp-rôn, tức là nền tảng của sự tương giao, mới có thể tham dự vào chiến trận thuộc linh. Để có được sức mạnh cho chiến trận, chúng ta không được chứa chấp bất cứ một sự phàn nàn nào trong lòng mình. Cho dầu bị anh em đối xử sai quấy, chúng ta vẫn kể họ là anh em mình, vẫn phải cầu nguyện cho họ và giúp đỡ họ một cách không giới hạn. Chỉ có loại người này mới có quyền năng để chiến đấu trong chiến trận thuộc linh. Áp-ra-ham chiến đấu bằng cách đứng trên nền tảng này. Vì vậy, ông có thể chiến thắng kẻ thù.
Khi Áp-ra-ham đánh bại kẻ thù và giành lại Lót từ tay họ, ông rất dễ trở nên kiêu ngạo. Ông rất dễ nói với Lót: “Chú đã nói trước rồi, nhưng cháu đâu có nghe!” Ông rất dễ bày tỏ một vẻ mặt khinh khỉnh, như thể Lót nợ ông điều gì đó vì ông đã giải cứu Lót. Nhưng Áp-ra-ham không tỏ ra như vậy.
Sau khi Áp-ra-ham đem về mọi tài sản, kể cả Lót và tài sản của Lót, cùng với phụ nữ và dân chúng, vua Sô-đôm đến đón ông tại thung lũng Sa-ve. Mên-chi-xê-đéc, vua của Sa-lem cũng đem bánh và rượu đến đón ông. “Vua Sô-đôm nói với Áp-ram: Hãy giao người cho ta, còn của cải, thì ngươi thâu lấy” (Sáng 14:21). Áp-ra-ham đã học được bài này trước đó. Ông không kể tài sản là chiến lợi phẩm từ cuộc chiến khó nhọc của mình, và ông không cho rằng mình đáng nhận chúng. Trái lại, “Áp-ra-ham đáp rằng: Tôi giơ tay lên trước mặt Chúa, là Đức Chúa Trời chí cao, Đấng sở hữu trời và đất, mà rằng: Hễ vật gì thuộc về vua, dầu đến một sợi chỉ, hay là một sợi dây giày đi nữa, tôi cũng chẳng hề lấy; e vua nói rằng: Ta đã làm cho Áp-ram giàu có” (cc. 22-23). Ông đứng ở một vị trí mà có thể nói với người khác rằng, ngoài Đức Giê-hô-va, không ai có thể cho ông điều gì cả.
Áp-ra-ham gọi Đức Chúa Trời là “Đấng sở hữu trời và đất”! Chúng ta không nên xem nhẹ danh hiệu này. Danh này có nghĩa là vì Áp-ra-ham đứng cho Chúa, trời trở nên của Chúa và đất cũng trở nên của Ngài. Đức Chúa Trời không còn là Chúa của trời mà thôi, nhưng là Đấng sở hữu trời và đất! Áp-ra-ham không sáng tác ra danh hiệu “Đấng sở hữu trời và đất”, ông đã học được điều đó từ Mên-chi-xê-đéc. Sau khi ông giết Kết-rô-lao-me và các vua khác, ông gặp Mên-chi-xê-đéc tại thung lũng Sa-ve, đó là thung lũng của vua. Sau khi giành được chiến thắng, ông không gặp những người khác tại một nơi cao của tường thành, nhưng tại đáy của một thung lũng khiêm nhường. Mên-chi-xê-đéc đến gặp ông với bánh và rượu, rồi chúc phước cho ông: Chúc phước cho Áp-ram của Đức Chúa Trời chí cao, Đấng sở hữu trời và đất. Đáng chúc tụng thay Đức Chúa Trời chí cao, là Đấng đã phó các kẻ thù vào tay ngươi” (cc. 19-20). Vì có một người đứng trên đất cho Đức Chúa Trời, Mên-chi-xê-đéc có thể công bố Đức Chúa Trời là Đấng sở hữu trời và đất. Đây là lần đầu tiên trong Kinh-thánh, Đức Chúa Trời được gọi là Đấng sở hữu trời và đất. Sau khi Áp-ra-ham giành được chiến thắng trên đất, Đức Chúa Trời được gọi là Đấng sở hữu trời và đất!
Áp-ra-ham đã trải qua tất cả những cuộc thử nghiệm. Cuối cùng ông đã đắc thắng! Đó là công tác của Đức Chúa Trời trên Áp-ra-ham. Đáng chúc tụng thay Đức Chúa Trời chí cao, là Đấng sở hữu trời và đất!
CHƯƠNG BỐN
ÁP-RA-HAM VÀ CON TRAI MÌNH
(1)
Kinh-thánh: Rô 4:3, 17:22; Ga 4:23-26, 28; Sáng 15-16:4a, 15-16
LỜI HỨA CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
VÀ ĐỨC TIN CỦA ÁP-RA-HAM
Vấn đề Ca-na-an đã ổn thỏa đối với Áp-ra-ham, nhưng từ Sáng-thế Ký chương 15, chúng ta thấy vấn đề về người con trai của ông. Nói như vậy không có nghĩa Ca-na-an không còn là vấn đề gì nữa sau chương mười lăm, mà có nghĩa trọng tâm không còn đặt nơi Ca-na-an, nhưng nơi dòng dõi của ông.
Lời Hứa Của Đức Chúa Trời
Sáng-thế Ký 15:1 chép: “Sau các việc đó, trong một khải tượng, có lời Chúa phán cùng Áp-ram rằng: Hỡi Áp-ram, đừng sợ: Ta là thuẫn đỡ cho ngươi và là phần thưởng vô cùng lớn lao của ngươi”.
Thật ý nghĩa khi Đức Chúa Trời làm cho Áp-ra-ham vững lòng với một lời phán như vậy, mặc dầu ông vừa mới chiến thắng trở về. Chúng ta phải nhận biết rằng Áp-ra-ham chỉ là một con người, và chiến thắng của ông là chiến thắng của một con người; đó không phải là chiến thắng của một siêu nhân. Mặc dầu Đức Chúa Trời ban cho ông một chiến thắng, Ngài không làm cho ông trở nên một siêu nhân. Áp-ra-ham dễ từ chối sự giàu có của Sô-đôm khi ông vui hưởng bánh và rượu từ nơi Mên-chi-xê-đéc. Lúc ấy ông rất dễ từ chối mọi sự. Nhưng sau giây phút chiến thắng ấy, khi những cảm xúc phấn khởi và náo động đã qua, lúc bắt đầu trầm tư trong căn lều của mình, chắc chắn ông đã lo âu vì gây hấn với bốn vua qua việc ông giải cứu Lót, và thế nào ông đã làm mất lòng vua Sô-đôm khi từ chối nhận tài sản của vua ấy. Áp-ra-ham không thể tránh khỏi tâm trạng phần nào sợ hãi. Chúng ta có thể khám phá ra điều này qua lời Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham. Đức Chúa Trời luôn luôn có lý do khi Ngài phán. Đức Chúa Trời phán “Đừng sợ”, bởi vì Áp-ra-ham sợ hãi. Đức Chúa Trời ban cho ông hai lý do để không sợ: (1) “Ta là thuẫn đỡ cho ngươi”, không ai có thể tấn công ngươi nữa. (2) “Ta là... phần thưởng vô cùng lớn lao của ngươi”; vì vậy, bất cứ điều gì Áp-ra-ham mất, ông có thể tìm thấy trong Ngài. Đức Chúa Trời đã an ủi Áp-ra-ham.
Câu 2 nói: “Áp-ram thưa rằng: Lạy Chúa là Đức Chúa Trời, Ngài sẽ cho tôi điều chi? Tôi sẽ chết không con, có phải kẻ nối nghiệp nhà tôi là Ê-li-ê-se, người Đa-mách này không?” Áp-ra-ham nói với Chúa rằng nan đề của ông không đơn giản như vậy. Dường như ông xoay vấn đề về phía Chúa: “Lạy Chúa, Ngài không biết sao?” Chúa thích nghe chúng ta nói chuyện. Một mặt, Chúa muốn chúng ta kính sợ Ngài. Mặt khác, Ngài thích nghe chúng ta nói chuyện. Khi Đức Chúa Trời phán, chúng ta nghe. Khi chúng ta thưa với Ngài, Đức Chúa Trời nghe. Áp-ra-ham đang thưa với Đức Chúa Trời rằng nan đề của ông không phải là tài sản, mà là một đứa con trai. Vấn đề Ca-na-an đã ổn thỏa rồi. Bây giờ là nan đề về một đứa con. Ông nói: “Ngài sẽ cho tôi điều chi, tôi sẽ chết không con, có phải kẻ nối nghiệp nhà tôi là Ê-li-ê-se, người Đa-mách này không?” Người Đa-mách này không do ông sinh ra, không phải là con của Áp-ra-ham. Mặc dầu Áp-ra-ham đã nghe Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn” và “Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi như bụi trên đất”, mặc dầu vấn đề Ca-na-an đã ổn thỏa, nhưng ông vẫn chưa có con!
Đức Chúa Trời dạy chúng ta một bài học ở đây. Ngài không biết mọi sự sao? Ngài không biết Áp-ra-ham cần có một đứa con trai sao? Ngài biết chứ, nhưng Ngài thích thấy chúng ta làm bạn của Ngài. Ngài muốn chúng ta vào trong lòng Ngài và tâm trí Ngài. Ngài muốn chúng ta nói chuyện với Ngài như vậy. Đức Chúa Trời đã hứa cho ông một đứa con trai, nhưng Ngài muốn chính Áp-ra-ham xin Ngài điều này. Áp-ra-ham nói rằng nếu Đức Chúa Trời muốn có một dân tộc, Ngài phải ban cho ông một đứa con trai, và đứa con ấy phải được sinh ra từ gia đình ông, chứ không phải từ một nơi nào khác. Dân tộc ấy phải đến qua một người do ông sinh ra, không phải qua một người do ông mua về. Dân tộc ấy phải thuộc về các con ông, không phải các đầy tớ của ông. Áp-ra-ham nhận biết rằng không có ai trong số ba trăm mười tám đầy tớ đã được huấn luyện của mình, hoặc Ê-li-ê-se người Đa-mách, có thể giải quyết nan đề này. Ông cần một người do ông sinh ra. Chỉ có một người do ông sinh ra mới giải quyết được nan đề này. Đó là điều ông muốn nói khi ông thưa chuyện với Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham thật là bạn của Đức Chúa Trời! Ông đã đi vào lòng Đức Chúa Trời! Không có một đứa con trai, thì miền đất này là hư không và lời hứa không ích gì cho Áp-ra-ham! Không có một đứa con trai thì ông không bao giờ nhận được ơn phước. Nhận thức này là kết quả của công tác Đức Chúa Trời trong Áp-ra-ham.
Sau khi Áp-ra-ham nói, Đức Chúa Trời không trả lời ngay. Ngài cho phép Áp-ra-ham tiếp tục nói. Đức Chúa Trời là một Đức Chúa Trời giỏi lắng nghe. Câu 3 chép: “Áp-ram nói: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi”.
Áp-ra-ham Được Xưng Công Chính
Các câu từ 4 đến 6 nói rằng: “Và, kìa lời Chúa đến cùng người rằng: Kẻ đó chẳng phải là người kế nghiệp ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi. Đoạn Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy. Áp-ram tin Chúa, thì Ngài kể sự đó là công chính cho người”. Đó là lần đầu tiên Kinh-thánh nói về đức tin. Áp-ra-ham là tổ phụ của đức tin. Ông tin lời Đức Chúa Trời một cách dứt khoát, và Đức Chúa Trời kể điều đó là công chính cho ông.
Đức Chúa Trời bảo Áp-ra-ham: “Ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi”. Điều này cho chúng ta thấy Đức Chúa Trời không đạt đến mục tiêu bởi nhiều người mà Ngài qui tụ lại, nhưng do những người Ngài đã sinh ra. Những người không do Đức Chúa Trời sinh ra thì không đáng kể; họ không thể hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Mục đích đời đời của Đức Chúa Trời được hoàn thành qua những người Ngài đã sinh ra.
Đức Chúa Trời hỏi Áp-ra-ham có đếm được những vì sao trên trời không, và Ngài bảo ông rằng dòng dõi ông cũng sẽ nhiều như sao trời vậy. Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời kể điều đó là công chính cho ông. Như chúng tôi đã đề cập, trước hết, Đức Chúa Trời phải làm việc trên một người và đạt được điều gì đó trong người ấy trước khi Ngài có thể đạt được điều gì đó trong nhiều người khác. Để Đức Chúa Trời có được nhiều tín đồ, trước hết Ngài phải chiếm hữu được một tín đồ. Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời kể điều đó là công chính cho ông.
CON ĐƯỜNG THẬP TỰ GIÁ
Chúng ta cần phải lưu ý đến những lời sau đây: “Chúa phán cùng người rằng: Ta là Chúa đã đem ngươi ra khỏi U-rơ, thuộc về xứ Canh-đê, để ban cho ngươi xứ này làm sản nghiệp. Áp-ra-ham thưa rằng: Lạy Chúa là Đức Chúa Trời, bởi đâu tôi biết mình sẽ được xứ này làm sản nghiệp?” (Sáng 15:7-8). Ban đầu, Đức Chúa Trời phán với ông: “Ta là thuẫn đỡ cho ngươi, và phần thưởng vô cùng lớn lao của ngươi”. Nhưng Áp-ra-ham nói với Chúa: “Tôi sẽ chết không con”. Sau đó Đức Chúa Trời bảo ông rằng chỉ có người từ gan ruột ông ra mới là người kế nghiệp ông, và dòng dõi ông sẽ như sao trên trời. Kế đến, ông xin Đức Chúa Trời cho thêm bằng cớ. Ông muốn biết làm thế nào ông có thể bảo đảm miền đất ấy là cơ nghiệp của mình. Áp-ra-ham tin lời hứa của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời công nhận đức tin của ông. Câu hỏi của ông không phải là dấu chỉ của sự vô tín, nhưng là lời cầu xin một dấu hiệu cho đức tin của ông. Để trả lời câu hỏi này, Đức Chúa Trời bày tỏ cho những người tin Ngài đường lối đạt đến mục tiêu của Ngài.
Đức Chúa Trời đã trả lời Áp-ra-ham như thế nào? Câu 9 và 10 chép: “Ngài phán với người: Hãy đem cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con chiên đực ba tuổi, một con cu rừng và một con bồ câu con. Áp-ram bắt đủ các con vật đó, mổ chúng ở giữa, để mỗi nửa con hai bên đối nhau, nhưng không mổ những con chim ra làm hai”. Câu 12 chép: “Và khi mặt trời vừa lặn, Áp-ram ngủ mê, và nầy, một cơn kinh hãi của sự tối tăm lớn giáng trên người”. Các câu 17 và 18 chép: “Khi mặt trời đã lặn, trời tối tăm, kìa, có một lò lửa bốc khói lên, và một ngọn đèn cháy sáng ngang qua ở giữa các miếng đã mổ. Trong ngày ấy, Chúa lập một giao ước cùng Áp-ram, mà phán rằng: Ta cho dòng dõi ngươi miền đất này, từ sông Ai-cập đến sông lớn, tức sông Ơ-phơ-rát”. Đó là câu trả lời của Đức Chúa Trời.
Áp-ra-ham “mổ chúng ở giữa, để mỗi nửa con hai bên đối nhau... kìa, có một lò lửa bốc khói và một ngọn đèn cháy sáng ngang qua ở giữa các miếng đã mổ”. Đó là bằng cớ. Đó là một bức tranh về con đường thập tự giá. “Mổ ở giữa” có nghĩa là gì? Mổ ở giữa là chết; đó là thập tự giá. Còn ngang qua “ở giữa các miếng” có nghĩa gì. Ngang qua “ở giữa các miếng” nghĩa là chết, cũng có nghĩa là trải qua thập tự giá. Đức Chúa Trời bày tỏ cho Áp-ra-ham việc ông thừa kế miền đất dựa trên công tác thập tự giá, và dòng dõi ông có thể đứng được tại miền đất này nhờ sự chết của thập tự giá.
Chúng ta cần phải nhận thức rằng thập tự giá là nền móng của mọi sự sống thuộc linh. Không trải qua thập tự giá, chúng ta không thể sống cho Đức Chúa Trời trên trái đất này. Mặc dầu có thể rao giảng một sứ điệp về thập tự giá, chúng ta cũng chẳng đem lại hiệu quả gì trừ phi trước hết chúng ta phải được thập tự giá xử lý. Chỉ có những ai đã trải qua thập tự giá mới có lò lửa bốc khói và ngọn đèn cháy sáng. Nói cách khác, chỉ những ai đã trải qua sự chết mới có ánh sáng thật, là ánh sáng thanh tẩy và luyện lọc.
Nan đề mà nhiều người mắc phải là bất cứ khi nào họ thấy mình có một chút quyền năng hay một ít thành quả trong công tác, thì họ nghĩ rằng mình hữu dụng trong tay Đức Chúa Trời. Thật ra, không phải như vậy. Toàn bộ vấn đề tùy thuộc vào việc anh em đem loại tố chất nào vào công việc Chúa. Nếu đem một điều gì đó của mình vào công tác, anh em đã thất bại rồi. Anh em không thất bại vì không biết nói năng, vì không đủ quyền năng, hay vì không đủ quen thuộc với Kinh-thánh. Anh em thất bại vì anh em là con người sai trật. Công tác thập tự giá chưa được thực hiện trong anh em. Anh em cần phải sáng tỏ rằng chỉ có những ai đã trải qua thập tự giá mới thừa kế được miền đất. Những ai chưa trải qua sự chết sẽ không thừa kế miền đất. Chúng ta cần công tác luyện lọc. Thuần khiết trong công việc Chúa là điều khó khăn biết bao! Thuần khiết nghĩa là gì? Thuần khiết nghĩa là không có gì pha trộn cả. Khi công tác cho Chúa, chúng ta dễ nói một lời trong linh và lời tiếp theo trong xác thịt biết bao! Chúng ta thật dễ nói một lời bởi Chúa và lời tiếp theo là bởi chính mình! Đó là pha trộn, và đó là không thuần khiết. Do đó, chúng ta cần Chúa đem một lò lửa bốc khói đi ngang qua các miếng để thực hiện công tác luyện lọc trong chúng ta. Hiệu lực của sự chết Đấng Christ sẽ làm cho chúng ta thành một người thuần khiết. Chúa không muốn chúng ta làm một con người pha trộn. Ngài muốn luyện lọc chúng ta để chúng ta được thuần khiết.
Những gì trải qua các miếng không những là một lò lửa bốc khói mà còn là một ngọn đèn cháy sáng. Trước khi có lò lửa bốc khói, phải có thập tự giá, và trước khi có ngọn đèn cháy sáng, cũng phải có thập tự giá. Vì vậy, để có ánh sáng thật, một người trước hết phải trải qua sự chết. Một người chưa trải qua sự chết có thể rất khôn ngoan và hiểu biết; những người khác có thể nghĩ rằng anh ấy nói năng rất thông minh. Nhưng một người như vậy không có chút ánh sáng nào xuyên thấu cả. Ngọn đèn cháy sáng, là ánh sáng thật, đến từ thập tự giá, đến từ hành động đi ngang qua các miếng, tức là do trải qua sự chết. Không ai có thể thi hành chức vụ công tác cho Đức Chúa Trời dựa trên sự khôn ngoan hay kiến thức của con người mình. Để thi hành một chức vụ như vậy, một người cần phải kinh nghiệm thập tự giá trước mặt Chúa. Rao giảng giáo lý về thập tự giá là một điều dễ dàng, nhưng những câu này bày tỏ cho chúng ta thấy chỉ những ai biết và kinh nghiệm thập tự giá mới có thể đứng cho Đức Chúa Trời.
Sau khi Áp-ra-ham mổ mọi món ở giữa và đặt mỗi miếng đâu vào nhau, thì ông ngủ. Thình lình một sự tối tăm lớn giáng trên ông. Một người chưa biết thập tự giá sẽ nghĩ rằng mình quá đủ điều kiện để công tác cho Chúa và không có gì phải sợ hãi cả, nhưng người biết thập tự giá sẽ thấy sự tối tăm lớn giáng trên mình. Người ấy sẽ nhận thức rằng mình không thể làm được gì cả và mình hoàn toàn bất lực, không thể tự làm gì được. Khi một người được Chúa đem đến chỗ yếu đuối và khi người ấy cảm thấy mình không thể làm gì được và không xứng đáng làm gì cả, người ấy có thể bắt đầu công tác cho Chúa. Khi chúng ta thật sự thấy công việc này là công việc Chúa và thấy mình vô dụng, và khi chúng ta thật thấy sự thánh khiết của Chúa và sự bẩn thỉu của mình, Chúa sẽ bắt đầu sử dụng chúng ta.
Áp-ra-ham thừa kế miền đất ấy như thế nào? Đức Chúa Trời cho ông thấy ông phải trải qua sự chết; ông phải trải qua thập tự giá. Chỉ bằng cách đi qua con đường thập tự giá, chúng ta mới thừa kế miền đất, và chỉ khi ấy chúng ta mới có thể sống cho Đức Chúa Trời liên tục trên trái đất này.
“DÒNG DÕI NGƯƠI”
Sáng-thế Ký 15:5 nói: “Đoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán: Ngươi hãy ngó lên trời và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi sẽ như vậy”. Từ ngữ “dòng dõi” chỉ về con cháu ông. Từ ngữ này ở số ít, chứ không phải số nhiều. Điều này rất kỳ lạ vì nói theo phương diện loài người, nếu con cháu ông nhiều như sao trên trời, “dòng dõi” lẽ ra phải số nhiều. Nhưng khi Đức Chúa Trời nói với Áp-ra-ham về sự gia tăng bội phần của dòng dõi ông, Ngài dùng chữ dòng dõi ở số ít. Vì sao Ngài dùng hình thức số ít của từ ngữ này? Ai là hạt giống duy nhất? Trong Ga-la-ti 3:16, Phao-lô nói: “Ngài không nói: cho các dòng dõi”, như chỉ về nhiều người, nhưng nói: Cho dòng dõi ngươi”, như chỉ về một người, tức là Đấng Christ”. Như vậy, dòng dõi mà Đức Chúa Trời nói đến không phải là nhiều người, nhưng chỉ về một người. Người này không phải Y-sác, mà là Đấng Christ.
Điều này cho chúng ta thấy Người thừa kế miền đất là một dòng dõi. Theo Áp-ra-ham, dòng dõi này là Y-sác. Nhưng trong một văn mạch rộng lớn hơn, dòng dõi này là Đấng Christ. Y-sác chỉ là hình bóng; thực chất là Đấng Christ. Nói cách khác, Đấng Christ sẽ thừa kế miền đất và ban phước cho trái đất. Cả quyền năng lẫn uy quyền đều ở nơi Đấng Christ. Công tác khôi phục của Đức Chúa Trời được thực hiện bởi Đấng Christ, không phải bởi Y-sác.
Vấn đề quyền làm con rất quan trọng. Nếu vấn đề quyền làm con và dòng dõi không được giải quyết ổn thỏa, không ai có thể thực hiện công tác khôi phục của Đức Chúa Trời. Nếu Áp-ra-ham không được đưa đến chỗ trọn vẹn, ông không thể đem Y-sác đến. Trước hết, Áp-ra-ham phải trở nên một chiếc bình trước khi Y-sác được đem đến. Điều này có nghĩa là Đấng Christ vinh hiển sẽ được đem đến chỉ khi nào một nhóm người tin như Áp-ra-ham đã tin; chỉ khi ấy công tác của Đức Chúa Trời mới hoàn thành. Y-sác chỉ là hình bóng; thực tại là Đấng Christ. Cũng vậy, Áp-ra-ham là hình bóng, thực tại là hội-thánh. Giống như Áp-ra- ham là một chiếc bình để đem Y-sác đến, hội-thánh là một chiếc bình để đem Đấng Christ vinh hiển đến.
Đức Chúa Trời muốn Áp-ra-ham trở nên một chiếc bình để đem Y-sác đến. Dòng dõi của Áp-ra-ham sẽ hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời; chính Áp-ra-ham không hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Vì vậy, tự hội-thánh không là gì cả. Điều quan trọng là hội-thánh đem Đấng Christ đến và bày tỏ Đấng Christ trên đất để khôi phục tất cả công tác của Đức Chúa Trời trên đất. Áp-ra-ham là một chiếc bình để đem Y-sác đến. Ngày nay, hội-thánh là một chiếc bình để đem Đấng Christ đến.
SỰ THỬ NGHIỆM THỨ NHẤT — SỰ RA ĐỜI CỦA ÍCH-MA-ÊN
Đưa Y-sác đến không phải là một điều đơn giản. Áp-ra-ham phải bị thử nghiệm. Để chúng ta trở nên chiếc bình cho Đức Chúa Trời, đem Đấng Christ đến, và bày tỏ uy quyền của Ngài, cần phải có nhiều sự thử nghiệm. Sau Sáng-thế Ký chương 15, Kinh-thánh cho chúng ta thấy Áp-ra-ham chịu thử nghiệm ba lần về người con của ông y như ông đã được thử nghiệm ba lần về miền đất Ca-na-an. Hai trong số những thử nghiệm này xảy ra trước khi con ông ra đời, và một xảy ra sau khi nó ra đời. Cả ba cuộc thử nghiệm này đã chuẩn bị Áp-ra-ham cho việc đem Y-sác đến. Nói cách khác, hội-thánh phải được thử nghiệm và được chuẩn bị trước khi có thể đem Đấng Christ vinh hiển trở lại trái đất.
Chương 15 cho chúng ta biết Áp-ra-ham đã nói với Chúa: “Đức Chúa Trời ơi, Ngài sẽ cho tôi điều gì, tôi sẽ chết không con, có phải kẻ nối nghiệp nhà tôi là Ê-li-ê-se, người Đa-mách không?” Đức Chúa Trời phán: “Ai ở trong gan ruột ngươi ra sẽ là người kế nghiệp ngươi”. Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời kể điều đó là công chính cho người. Lời hứa sinh một đứa con trai đã có đó, và đức tin đã có đó. Tuy nhiên, ngày này qua ngày khác, chẳng có đứa con nào. Tháng nọ tiếp tháng kia, không có đứa con nào, và năm này sang năm khác, cũng chẳng có đứa con nào cả. Điều này cho chúng ta thấy đức tin phải bị thử nghiệm. Đức tin của Áp-ra-ham gia tăng từng bước một.
Sáng-thế Ký 16:1 nói: “Vả, Sa-rai, vợ Áp-ram, vẫn không sanh con”. Bấy giờ ông đã tám mươi lăm tuổi. Vợ ông là Sa-ra không thể sinh con cho ông. Ông phải làm gì đây? Vào thời điểm ấy, vợ ông nói với ông: “Nầy, Chúa đã làm cho tôi son sẻ, vậy xin ông hãy vào cùng đầy tớ gái của tôi; có lẽ tôi sẽ nhờ nó mà có con chăng” (c. 2). Áp-ra-ham đã làm gì? “Áp-ram nghe theo lời của Sa-rai... Sa-rai, vợ Áp-ra-ham, bắt A-ga là đầy tớ gái Ai-cập của mình, đưa cho chồng mình” (cc. 2-3). Kinh-thánh nói cách cụ thể rằng “Áp-ram đã trú ngụ mười năm tại đất Ca-na-an” (c. 3). Khi Áp-ra-ham mới đến Ca-na-an, Đức Chúa Trời hứa: “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi xứ này” (12:7). Ngay trước những sự kiện ấy, Đức Chúa Trời lại hứa: “Ai ở trong gan ruột ngươi ra sẽ là người kế nghiệp ngươi”. Tuy nhiên, khi đã tám mươi lăm tuổi, ông vẫn chưa có con. Ông trở nên nóng lòng. Để có một đứa con, ông vào cùng A-ga là vợ lẽ mình. A-ga đã có thai và sinh ra Ích-ma-ên. Kinh-thánh nói rõ ràng: “Khi A- ga sanh Ích-ma-ên cho Áp-ram, thì Áp-ram đã được tám mươi sáu tuổi” (16:16).
Đây là một vấn đề lớn. Đức Chúa Trời định rằng Áp-ra-ham sẽ sanh một đứa con, nhưng Ngài ấn định là Áp-ra-ham sanh con qua Sa-ra và ông sẽ sanh con vào tuổi một trăm. Tuy nhiên, Áp-ra-ham rút ngắn thời gian khoảng mười bốn năm bằng năng lực riêng của mình. Hơn nữa, đứa con ấy do A-ga sinh ra. Đó là sự thử nghiệm đầu tiên mà Áp-ra-ham đã đối diện về vấn đề đứa con của mình.
Ông tin lời Đức Chúa Trời. Ông tin rằng Đức Chúa Trời sẽ ban cho mình một đứa con trai. Nhưng ông không nhận thức rằng tin có nghĩa là dừng lại những hoạt động riêng của mình và chờ đợi công việc của Đức Chúa Trời! Ngay khi tin, chúng ta nên dừng công việc riêng của mình. Hê-bơ-rơ 4:10 nói: “Vì ai vào sự nghỉ ngơi của Ngài thì nghỉ công việc mình, cũng như Đức Chúa Trời đã nghỉ công việc của Ngài vậy”. Khi tin, chúng ta không nên hấp tấp. Bất cứ khi nào chúng ta tin, chúng ta nên an nghỉ. Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, nhưng ông không học được bài học này. Ông không thấy rằng nếu ông tin, lẽ ra ông phải chờ đợi và không nên tự làm một điều nào cả. Ông nghĩ rằng để tin, ông nên giúp đỡ Đức Chúa Trời và tự làm một điều gì đó. Hậu quả là ông chấp nhận lời khuyên của vợ mình, lấy A-ga làm vợ lẽ và sinh ra Ích-ma-ên. Áp-ra-ham đã giúp Đức Chúa Trời một tay! Ông nghĩ rằng, vì Đức Chúa Trời đã hứa cho ông một đứa con, ông sẽ làm thành ý muốn của Ngài bằng cách hành động như vậy! Ông đâu có làm điều gì khác. Tất cả những gì ông làm là tự hành động theo điều mà Đức Chúa Trời đã hứa với ông. Nhưng chính hành động này đã đem lại sự thất bại cho ông!
Nguyên Tắc Lời Hứa Và Nguyên Tắc Ích-ma-ên
Vấn đề không phải là Áp-ra-ham nên có một đứa con hay không, mà vấn đề là đứa con ấy phải được sinh ra qua ai. Lòng Đức Chúa Trời không thỏa mãn với việc Áp-ra-ham có một đứa con. Con của Áp-ra-ham phải được sinh bởi Sa-ra thì lòng Đức Chúa Trời mới thỏa mãn. Đó là điểm mâu thuẫn giữa Đức Chúa Trời và Áp-ra-ham.
Đó cũng là điểm làm cho nhiều Cơ-đốc-nhân ngày nay bối rối. Nhiều người hỏi: “Tôi rao giảng lẽ thật thì có gì sai?” Lời Đức Chúa Trời nói chúng ta nên làm chứng và rao giảng phúc-âm. Đó là những điều tốt. Nhưng điểm Đức Chúa Trời quan tâm là ai làm công việc ấy. Ai là người rao giảng? Sanh con cái là điều đúng đắn, nhưng vấn đề thực sự là ai sinh chúng ra. Trọng tâm của Đức Chúa Trời không ở nơi điều gì đã xảy ra, mà nơi nguồn gốc của điều ấy. Thông thường, chúng ta chỉ chú ý đến sự đúng đắn của kết quả và hình thức. Bất cứ điều gì chúng ta cho là đúng thì được kể là đúng, và bất cứ điều gì chúng ta cho là phải thì được kể là phải. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời quan tâm điều ấy đến từ đâu và ai làm điều đó. Nói rằng một điều là ý muốn của Đức Chúa Trời thì chưa đủ. Chúng ta vẫn cần hỏi ai đang hoàn thành ý muốn ấy? Có một đứa con là ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng ai sẽ sinh đứa con ấy để hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời? Nếu sự sinh sản được thực hiện bởi năng lực riêng, kết quả sẽ là Ích-ma-ên.
Đức Chúa Trời có ý định rằng Áp-ra-ham sẽ làm cha. Vì vậy, Ngài thực hiện một công tác đặc biệt trên ông để bày tỏ cho ông thấy đối với Đức Chúa Trời, làm Cha có nghĩa là gì. Đối với Đức Chúa Trời, làm Cha nghĩa là mọi sự cần phải đến từ Đức Chúa Trời. Nếu Áp-ra-ham không thấy rằng mọi sự đến từ Đức Chúa Trời và Ngài là Cha, ông sẽ không đủ điều kiện để làm cha nhiều dân tộc. Tuy nhiên, việc sinh ra Ích-ma-ên phát xuất từ chính Áp-ra-ham, không phải từ Đức Chúa Trời.
Những sự thử nghiệm lớn lao nhất cho các con cái Đức Chúa Trời nằm trong vấn đề họ lựa chọn nguồn nào cho công tác mình. Nhiều con cái Chúa thường nói điều này, điều nọ là “tốt”, là “đúng”, hay “theo ý Chúa”. Nhưng phía sau những điều “tốt” và “đúng”, hay “theo ý Chúa” ấy, bản ngã đang làm mọi việc, chẳng nhận biết thập tự giá và không nhường chỗ cho Đức Chúa Trời để Ngài xử lý sự sống thuộc xác thịt. Trong những điều kiện như vậy, họ làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời bằng cách thực hiện nhiều điều gọi là tốt lành và đúng đắn. Kết quả không phải là Y-sác, mà là Ích-ma-ên. Chúng ta phải xin Đức Chúa Trời phán với chúng ta và bày tỏ cho chúng ta thấy ai thật sự đang làm những điều này. Đó là vấn đề then chốt. Có thể chúng ta làm việc ở một nơi nào đó, rất siêng năng và cứu nhiều người, nhưng nói cho cùng, số người được cứu và bề mặt công tác không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta đã làm điều đó bởi Đức Chúa Trời hay bởi chính mình. Điều đáng tiếc hơn hết mà chúng ta có thể làm là tự mình dạy Lời của Đức Chúa Trời, rao giảng lẽ thật và sử dụng ân tứ của Đức Chúa Trời. Nếu đã làm như vậy, chúng ta nên cúi đầu xưng tội. Chúng ta phải nhận biết rằng những công tác làm ra “vì cớ Ngài”, mà không bởi Ngài, và được thực hiện mà không nhận biết Ngài là Cha, thì chẳng có giá trị thuộc linh gì cả. Đức Chúa Trời phải đem chúng ta đến điểm đó. Công tác thuộc linh của chúng ta có thuần khiết hay không tùy thuộc vào việc công tác ấy có bao nhiêu phần đến từ Đức Chúa Trời và bao nhiêu phần đến từ bản ngã.
Vì Áp-ra-ham muốn có một đứa con, lẽ ra ông nên nhận thức rằng Đức Chúa Trời là Cha, lẽ ra ông nên đứng qua một bên và để cho Ngài làm Cha. Áp-ra-ham muốn có Y-sác, nhưng đáng ra ông không nên cố gắng tự mình sinh Y-sác. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn có Đấng Christ để thừa kế miền đất và nếu chúng ta muốn đứng về phía Đức Chúa Trời, chúng ta không nên tự tìm cách đem Ngài đến. Chúng ta không nên tự hành động hay làm một điều gì cả. Chúng ta phải dẹp bỏ chính mình. Đó là sự thử nghiệm lớn lao và khó khăn nhất. Đó là điểm các đầy tớ của Đức Chúa Trời thường thất bại nhất. Chúng ta phải nhớ rằng công việc của Đức Chúa Trời phải là không những không có tội lỗi, mà còn phải là không có nỗ lực riêng của chúng ta. Không những Đức Chúa Trời hỏi công tác được thực hiện tốt như thế nào, mà Ngài còn hỏi ai làm công tác ấy. Đáng tiếc thay, khuyên người ta bỏ tội lỗi là một điều dễ dàng, nhưng khuyên họ bỏ nỗ lực riêng không phải là chuyện dễ. Nguyện Đức Chúa Trời đem chúng ta đến chỗ có thể nói với Chúa: “Con muốn làm theo ý muốn Ngài! Ngài ở trong con và Ngài phải ban năng lực cho con để làm theo ý muốn Ngài. Con không ở đây để tự làm theo ý muốn Ngài! Phải là Chúa, chứ không phải con!”
Chúng ta phải nhớ rằng: “Đức Giê-hô-va phán: Ý tưởng Ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối Ta. Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối Ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng Ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu” (Ê-sai 55:8-9). Vì vậy, bất cứ điều gì chúng ta tự làm, dầu theo mắt mình là tốt lành, đều không thể thỏa mãn lòng Đức Chúa Trời. Ngay cả việc tự thực hiện ý muốn của Ngài sẽ không làm thỏa lòng Ngài. Điều duy nhất làm thỏa lòng Ngài là điều được thực hiện bởi chính Ngài mà thôi. Mặc dầu Ngài hạ mình xuống và muốn sử dụng chúng ta, chúng ta phải nhớ rằng mình chỉ là các đầy tớ mà Ngài sử dụng như những chiếc bình trong tay Ngài. Chúng ta không thể thay thế Ngài trong bất cứ điều gì. Chúng ta chỉ có thể để cho Đức Chúa Trời hành động qua mình; chúng ta không thể tự mình làm gì cả. Cuối cùng, Y-sác được sinh bởi Áp-ra-ham, nhưng Y-sác là con trai sinh ra bởi lời hứa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã làm cho Y-sác ra đời. Đức Chúa Trời sinh đứa con này qua Áp-ra-ham. Nguyên tắc lời hứa hoàn toàn khác với nguyên tắc Ích-ma-ên. Nguyện Chúa thương xót chúng ta và giải cứu chúng ta khỏi nguyên tắc Ích-ma-ên.
Ân Điển Và Luật Pháp
Áp-ra-ham cưới A-ga và sinh ra Ích-ma-ên. Ga-la-ti chương 4 nói rằng “con của người tớ gái sinh ra theo xác thịt... từ núi Si-nai, sinh con để làm tôi mọi, ấy là A-ga. Bây giờ A-ga này là núi Si-nai trong Ả-rập...” (cc. 23-25). Nói cách khác, A-ga tượng trưng cho luật pháp. Luật pháp là gì? Luật pháp tượng trưng cho sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời. Mười Điều Răn tượng trưng cho những sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời đối với con người. Đức Chúa Trời muốn điều này và muốn điều kia. Giữ luật pháp có nghĩa là gì? Giữ luật pháp nghĩa là cho Đức Chúa Trời một điều gì đó và làm thỏa lòng Ngài.
Nhưng Ga-la-ti 3:10 nói: “Đáng rủa thay là kẻ không tiếp tục giữ mọi sự đã chép trong sách luật pháp”. Nói cách khác, những người nói: “Tôi sẽ làm hài lòng Đức Chúa Trời” thì bị rủa sả. Vì sao họ bị rủa sả? Bởi vì con người không thể tự làm hài lòng Đức Chúa Trời, và họ không đủ điều kiện để làm hài lòng Ngài (Rô 8:7-8). Trong Kinh-thánh, luật pháp thường được đề cập liên hệ đến xác thịt. Rô-ma chương 7 là một chương đặc biệt về luật pháp. Đó cũng đặc biệt là một chương nói về xác thịt. Xác thịt là gì? Nói cách đơn giản, xác thịt là nỗ lực riêng, xác thịt là bản ngã. Bất cứ khi nào cố gắng giữ luật pháp, chúng ta ở trong xác thịt. Bất cứ khi nào một người cố gắng làm hài lòng Đức Chúa Trời bằng nỗ lực riêng, thì luật pháp xuất hiện. Người nào cố gắng làm hài lòng Đức Chúa Trời với sức mạnh của xác thịt là người Đức Chúa Trời không hài lòng. Đó là điều được tượng trưng bởi A-ga và Ích-ma-ên. A-ga tượng trưng cho luật pháp, trong khi Ích-ma-ên tượng trưng cho xác thịt là kết quả.
Áp-ra-ham là một người tin. Ông cố gắng làm hài lòng Đức Chúa Trời và hoàn thành mục tiêu của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời muốn ông có một đứa con, và ông cố gắng tự có con. Điều này không theo ý muốn của Đức Chúa Trời sao? Không phải ông làm điều đó để Đức Chúa Trời được hài lòng sao? Điều đó có thể sai lầm sao? Tuy nhiên, Phao-lô nói: “Con của người tớ gái sinh ra theo xác thịt”. Ý muốn của Đức Chúa Trời cần phải được thực hiện, đó là điều đúng đắn. Nhưng vấn đề là ai nên là người thực hiện ý muốn ấy. Nếu chúng ta cố gắng tự làm theo ý muốn Ngài, kết quả là Ích-ma-ên. Áp-ra-ham sai lầm, không phải trong mục tiêu, nhưng trong nguồn của mình. Mục tiêu của ông là thấy lời hứa của Đức Chúa Trời được thực hiện, nhưng ông sai lầm vì đã làm điều đó bởi năng lực riêng.
Bây giờ chúng ta đã sáng tỏ. Không những Đức Chúa Trời khước từ những ai làm các điều không đẹp lòng Ngài nhưng Ngài cũng sẽ khước từ cả những ai làm các điều đẹp lòng Ngài mà tự làm bởi chính họ. Chúng ta không làm hài lòng Đức Chúa Trời nếu chúng ta phạm tội, và chúng ta cũng không làm hài lòng Ngài nếu chúng ta cố gắng làm điều tốt bởi xác thịt mình. Chúng ta có làm hài lòng Đức Chúa Trời hay không tùy thuộc vào việc thập tự giá có thực hiện công tác xử lý xác thịt và sự sống thiên nhiên của chúng ta hay không. Chúng ta có nói rằng: “Đức Chúa Trời ôi, con không thể làm gì cả, và con không đủ điều kiện làm gì cả; con chỉ có thể nhìn xem Ngài” không? Người thật sự tin Đức Chúa Trời là người không hành động theo xác thịt. Đức Chúa Trời là Chủ của công tác. Điều gây xúc phạm đến Đức Chúa Trời hơn hết là chiếm chỗ của Ngài trong công tác. Lỗi lầm của chúng ta thường nằm ở đó. Chúng ta không thể tin, chúng ta không thể tin cậy, và không thể chờ đợi. Chúng ta không thể phó thác mọi sự cho Đức Chúa Trời. Đó là gốc rễ của sự xúc phạm chúng ta gây ra cho Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời định rằng Áp-ra-ham sẽ sinh một đứa con trai qua Sa-ra. Ga-la-ti 4:23 cho chúng ta biết “con của đàn bà tự do sinh ra bởi lời hứa”. Người đàn bà tự do là Sa-ra. A-ga tượng trưng cho luật pháp, trong khi Sa-ra tượng trưng cho ân điển. Luật pháp và ân điển có gì khác nhau? Tự mình làm việc là luật pháp, trong khi ân điển là Đức Chúa Trời làm việc cho chúng ta. Nói cách đơn giản, ân điển là Đức Chúa Trời làm mọi sự cho chúng ta. Nếu chúng ta làm, đó không phải ân điển. Chỉ khi nào Đức Chúa Trời làm cho chúng ta thì mới là ân điển. Ân điển, theo như Kinh-thánh định nghĩa, không phải là kiên nhẫn hay chịu đựng, cũng không phải là làm bất cứ điều gì bởi chúng ta. Ân điển là điều gì cụ thể mà Đức Chúa Trời làm trong chúng ta. Công tác cụ thể Đức Chúa Trời muốn làm trong Áp-ra-ham là sinh Y-sác qua Sa-ra. Y-sác phải được Áp-ra-ham sinh ra, nhưng ông phải sinh Y-sác bởi ân điển và bởi lời hứa của Đức Chúa Trời.
Không Chết Đi Thì Không Có Sự Sống
Sáng-thế Ký chương 16 nói rằng Áp-ra-ham sinh Ích-ma-ên khi ông tám mươi sáu tuổi. Vào thời điểm ấy, ông vẫn còn năng lực xác thịt và sức mạnh thiên nhiên. Đó là lý do vì sao Ga-la-ti chương 4 nói rằng Ích-ma-ên sinh bởi xác thịt. Sáng-thế Ký chương 21 cho biết khi Áp-ra-ham sinh Y-sác, ông đã một trăm tuổi (c. 5). Rô-ma chương 4 nói rằng khi ông một trăm tuổi, Áp-ra-ham kể thân thể mình như đã chết và tử cung Sa-ra như đã khô (c. 19). Nói cách khác, năng lực xác thịt và sức mạnh thiên nhiên của ông đã ra đi hết. Áp-ra-ham không còn sức mạnh để sinh con, và Sa-ra cũng vậy. Đức Chúa Trời lựa chọn thời điểm này để Y-sác ra đời. Điều này nghĩa là Đức Chúa Trời muốn Áp-ra-ham kể mình là người đang hấp hối và thậm chí đã chết để ông có thể tin cậy Đức Chúa Trời là Đấng ban sự sống cho kẻ chết và gọi những điều không có như đã có. Ý định của Đức Chúa Trời là Áp-ra-ham nhận thức rằng ông không phải là Cha. Thật thú vị khi Đức Chúa Trời muốn ông làm cha, nhưng đồng thời, Ngài muốn ông thấy rằng ông không phải là Cha. Ngài chờ đợi cho đến khi mọi năng lực thiên nhiên của Áp-ra-ham ra đi rồi Ngài mới ban Y-sác cho ông.
Đây là loại công tác Đức Chúa Trời muốn thực hiện trong chúng ta. Ngài vẫn đang chờ đợi. Cho dầu phải chờ đợi mười bốn năm, Ngài vẫn còn chờ đợi. Ngài đang chờ đợi ngày chúng ta nhận thức mình không thể làm điều đó và khi chúng ta thấy mình như người chết. Khi ấy chúng ta sẽ sinh Y-sác. Ngài không thể dùng chúng ta hôm nay vì thời điểm của chúng ta chưa đến. Không những Đức Chúa Trời theo đuổi việc hoàn thành ý muốn Ngài, mà Ngài còn theo đuổi một sự hoàn thành phát xuất từ Ngài. Nếu chúng ta chỉ có giáo lý và kiến thức mà chưa bao giờ được đưa đến chỗ nói với Ngài: “Con chấm dứt rồi, con đã chết và con không thể làm điều đó”, thì Ngài không thể dùng chúng ta, và chúng ta không thể sinh Y-sác hay hoàn thành mục tiêu của Ngài được.
Có một điều kiện rất quan trọng để sinh Y-sác, đó là vấn đề thời gian. Chúa không thể thật sự sử dụng chúng ta và chúng ta không thể thật sự bày tỏ Đấng Christ hay giương cao chứng cớ của Đức Chúa Trời trên đất cho đến khi chúng ta là một cụ già một trăm tuổi. Đó là thời điểm mọi sự liên quan đến chúng ta đều chấm dứt. Trước khi ngày ấy đến, mọi việc chúng ta tự làm đều là Ích-ma-ên.
Bây giờ câu hỏi là chúng ta muốn Ích-ma-ên hay Y-sác. Sinh Ích-ma-ên là điều dễ dàng; nếu giống như A-ga, chúng ta có thể sinh Ích-ma-ên bất cứ lúc nào. Làm nhiều điều bởi A-ga là một việc dễ dàng. Nếu giống A-ga, chúng ta không cần chờ đợi, nhưng nếu muốn giống Sa-ra, chúng ta cần phải chờ đợi. Khi sinh Ích-ma-ên, một người không cần chờ đợi. Nhưng để sinh được Y-sác, người ấy cần phải chờ đợi. Một người phải chờ đợi lời hứa của Đức Chúa Trời, chờ đợi thời điểm và chờ đợi Ngài hành động. Những ai không thể chờ đợi Đức Chúa Trời hành động, không để cho Đức Chúa Trời hành động và không nhờ Đức Chúa Trời hành động cho mình sẽ đưa tay ra nắm lấy Ích-ma-ên. Những ai muốn có Y-sác thì phải chờ đợi Đức Chúa Trời. Sẽ đến một ngày chúng ta không thể tự mình làm gì cả, là khi chúng ta không có khả năng làm gì cả, không có tài năng làm gì cả, và hoàn toàn chấm dứt trong chính mình. Đó sẽ là ngày Đấng Christ được bày tỏ ra trong chúng ta cách trọn vẹn và mục tiêu của Đức Chúa Trời sẽ được hoàn thành. Trước thời điểm đó, mọi sự chúng ta tự làm sẽ không có giá trị thuộc linh; trái lại, còn có hại. Trong công tác thuộc linh, vấn đề không phải là chúng ta làm nhiều bao nhiêu, mà là chúng ta có được bao nhiêu công tác của Chúa. Trong các vấn đề thuộc linh, công việc của Đức Chúa Trời và công việc của con người là hai điều hoàn toàn khác nhau. Có một sự khác biệt lớn lao giữa giá trị công việc Chúa và giá trị công việc loài người. Chỉ có điều nào đến từ Ngài mới có giá trị thuộc linh. Bất cứ điều nào không ra từ Ngài thì không có giá trị thuộc linh.
Như vậy, Ích-ma-ên là gì? Ích-ma-ên là bất cứ điều gì sinh non. Đó là tự hành động. Chúng ta có thể nói Ích-ma-ên bao hàm hai tính chất: trước hết là nguồn gốc sai trật, và thứ hai là chưa đến thời điểm. Trong vấn đề thuộc linh, không có gì thử nghiệm chúng ta hơn là vấn đề thời gian. Thường thì không cần nhiều thời gian xác thịt chúng ta mới lộ ra. Đức Chúa Trời chỉ cần để chúng ta qua một bên trong vòng ba tháng thì xác thịt chúng ta sẽ không chịu nổi. Nhưng Đức Chúa Trời không bao giờ thỏa lòng khi Ngài thấy một Ích-ma-ên trước thời điểm của Ngài. Mặc dầu chúng ta có thể nói một vài lời hay làm một vài điều, và mặc dầu những điều ấy có vẻ thuộc về Đức Chúa Trời, Ngài vẫn không hài lòng về chúng. Mục tiêu của Đức Chúa Trời phải được đạt đến theo thời điểm của Đức Chúa Trời và nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời. Đó là nguyên tắc Y-sác, tức là nguyên tắc thời điểm của Đức Chúa Trời và quyền năng của Đức Chúa Trời.
Áp-ra-ham Được Xưng Công Chính Một Lần Nữa
Rô-ma 4:19-22 nói: “Và không suy yếu trong đức tin mình, ông kể thân thể mình đã chết (gần trăm tuổi), cũng như tử cung Sa-ra đã chết [khô]; nhưng đối với lời hứa của Đức Chúa Trời, ông không nghi ngờ trong sự vô tín, mà bởi đức tin lại được làm cho mạnh mẽ, dâng vinh quang cho Đức Chúa Trời, và tin chắc rằng những gì Ngài đã hứa thì Ngài cũng có thể làm được. Vì thế, điều ấy cũng được kể là công chính cho ông”.
Chúng ta nên lưu ý rằng, về thời điểm, sự công chính Áp-ra-ham nhận được bởi đức tin được đề cập đến trong những câu này khác với sự công chính được nói đến trong Rô-ma 4:3, là câu nói rằng: “Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, và điều đó được kể là công chính cho người”. Đó là lời Phao-lô trích từ Sáng-thế Ký 15:6. Câu ấy nói đến thời điểm trước khi Áp-ra-ham tám mươi lăm tuổi. Lúc ấy, Đức Chúa Trời phán với ông trong một khải tượng: “Ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi”. Đức Chúa Trời cũng đưa Áp-ra-ham ra ngoài trời, bảo ông hãy nhìn lên trời và đếm các vì sao, rồi Ngài phán “Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy”. Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời và Ngài kể điều đó là công chính cho người. Đó là sự xưng công chính lần thứ nhất. Mặc dầu Áp-ra-ham tin, đức tin của ông chưa trọn vẹn, và về sau, ông sanh Ích-ma-ên bởi chính xác thịt mình. Các từ ngữ “được kể cho người là công chính” trong Rô-ma 4:22 chỉ về sự kiện trong Sáng-thế Ký chương 17. Vào thời điểm ấy, ông đã chín mươi chín tuổi. Mặc dầu thấy thân thể mình dường như đã chết và tử cung của vợ mình đã chết khô, ông vẫn không nghi ngờ trong sự vô tín. Ông hoàn toàn tin rằng Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành điều Ngài đã hứa. Điều đó được kể là công chính cho ông. Như vậy, đó là sự xưng công chính bởi đức tin một cách sâu xa hơn. Đã hơn mười năm trôi qua, Đức Chúa Trời vẫn dạy Áp-ra-ham cùng một bài học, ấy là bài học đức tin. Ban đầu, có chính yếu tố của Áp-ra-ham trong đức tin của ông. Sau nhiều năm, ông hoàn toàn mất hi vọng trong chính mình, nhưng ông vẫn có thể tin. Đức Chúa Trời kể ông là công chính dựa trên đức tin của ông. Đức Chúa Trời đã đưa ông đến chỗ thật sự tin. Đó là kết quả của công tác Đức Chúa Trời trong ông. Điều này cho chúng ta thấy chẳng phải do người mong muốn, chẳng phải do người bôn ba, mà là do Đức Chúa Trời thương xót (Rô 9:16). Ngài là Đấng khởi xướng công tác, và Ngài là Đấng thực hiện công tác. Nguyện Chúa thương xót chúng ta. Nguyện Ngài giúp chúng ta học bài học đức tin, và nguyện chúng ta chỉ ngưỡng trông một mình Ngài!
Watchma