"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:6941002
Đang truy cập:106

SÁNG THẾ KÝ: 31, 32, 33, 34, 35

prednisolone cost

buy prednisolone eye drops over the counter click here buy prednisolone acetate eye drops

cheap prednisolone

buy prednisolone

antidepressants online

antidepressants uk blogs.recneps.net how to get antidepressants without seeing a doctor

imodium

imodium recursosred.es

naltrexone weight loss

naltrexone weight loss movidafm.net

 

BÀI BA MƯƠI MỐT

Được Cứu Qua Nước

d. Được Cứu Qua Nước

Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho Nô-ê, không những cứu ông khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời mà còn cứu khỏi thế hệ cong quẹo, ngoan cố và gian ác thời đó. Để được cứu khỏi thời đại gian ác đó, ông cần được cứu qua nước. 1Phi-e-rơ 3:20 nói rõ rằng Nô-ê được cứu qua nước. Được cứu qua nước nghĩa là gì? Để hiểu điều này, chúng ta phải biết bối cảnh của thế hệ thời Nô-ê.

Nô-ê đã sống trong thời đại cong quẹo và ngoan cố. Hậu quả sự sa ngã đầu tiên của con người là bản chất gian ác của Sa-tan đã tiêm vào trong con người. Trong sự sa ngã thứ hai, con người lìa khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời để bước vào nền văn hóa nhân loại. Bản chất gian ác của Sa-tan tiêm vào con người trong sự sa ngã thứ nhứt đã phát triển thành nền văn hóa vô thần của nhân loại trong sự sa ngã thứ hai. Trong sự sa ngã thứ ba, nền văn hóa này dẫn đến một thế hệ gian ác, sản sinh một thế hệ cong quẹo, ngoan cố và hư hoại. Trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, thế hệ này bị kết án. Chính trong thế hệ như vậy mà Nô-ê được sinh ra. Không những có sự kết án của Đức Chúa Trời trên thời đại đó mà quyền lực tối tăm gian ác cũng ở trên trái đất. Vào thời điểm sa ngã thứ ba, quyền lực tối tăm gian ác đã làm hư hoại trái đất, và làm đất đầy sự hung bạo. Hậu quả là, Đức Chúa Trời đã can thiệp để xét xử thế hệ đó và kết liễu thời đại đó. Bất cứ ai sống trên đất vào thời đại đó đều ở dưới hai điều: sự đoán phạt của Đức Chúa Trời và quyền lực gian ác của sự tối tăm.

Chúng ta đang sống trong cùng một thời đại như vậy. Trong Ma-thi-ơ chương 24 và Lu-ca chương 17, Chúa Jesus ví thời đại của chúng ta với thời đại của Nô-ê. Bối cảnh của Nô-ê giống hoàn toàn với bối cảnh của chúng ta; đó là hình ảnh báo trước về bối cảnh chúng ta. Hãy nhìn vào tình hình thế giới hôm nay. Chắc chắn thế giới này đang ở dưới sự kết án của Đức Chúa Trời. Nó cũng ở dưới quyền lực gian ác, dưới ảnh hưởng của tội lỗi. Không một người trẻ hay người lớn nào có thể đứng vững trước quyền lực hay ảnh hưởng gian ác của xã hội hiện thời. Các bậc cha mẹ Cơ-đốc cầu nguyện cho con cái mình ngay cả trước khi chúng sinh ra. Với lòng run rẩy sợ sệt, họ dâng con cái mình cho Chúa, cố gắng giúp chúng nhận biết Đức Chúa Trời và lìa xa ảnh hưởng của thế giới tối tăm này. Tuy nhiên, khi đến sáu tuổi, những đứa trẻ này phải đi học và một khi đã đến trường, chúng bị phục dưới ảnh hưởng gian ác của thời đại tối tăm này. Hầu như tất cả trẻ em đều bị ảnh hưởng ít nhất là ở một mức độ nào đó. Không ai được miễn trừ. Chúng ta có thể thấy trên trái đất này có một quyền lực gian ác, một ảnh hưởng xấu xa của sự tối tăm như vậy. Mọi người đều ở dưới sự đoán phạt của Đức Chúa Trời, ở dưới quyền lực và sự tối tăm của Kẻ Ác. Vì thế, sự cứu rỗi trọn vẹn của Đức Chúa Trời không những cứu chúng ta khỏi sự kết án của Ngài mà cũng cứu chúng ta khỏi quyền lực và ảnh hưởng gian ác của thời đại tối tăm này. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Phi-e-rơ đã khuyên mọi người “Khá tự cứu mình khỏi thế hệ cong quẹo này” (Công. 2:40).

Một lần nữa, tôi nói rằng hầu như mọi điều trong Sáng Thế Ký là hạt giống cần phải có sự phát triển hơn nữa. Được cứu qua nước là vấn đề báp-têm. 1Phi-e-rơ 3:20-21 bày tỏ rằng nước mà Nô-ê đã trải qua là hình bóng về báp-têm. Có thể xem điều đó như sự đề cập đầu tiên về báp-têm trong Kinh Thánh. Do đó, nó là hạt giống về sự báp-têm. Hạt giống báp-têm này đầu tiên được phát triển trong trường hợp con cái Ítx-ra-ên vượt Biển Đỏ. 1Cô-rin-tô 10:1-2 bảo rằng việc họ vượt qua Biển Đỏ là sự báp-têm. Vượt qua các dòng nước của Biển Đỏ là hình bóng rõ ràng về báp-têm bằng nước. Sau đó, khi thời đại Tân Ước đến, điều đầu tiên xảy đến để mở ra thời đại này là sự báp-têm bằng nước. Đức Chúa Trời đã sai Giăng Báp-tít thực hiện điều này. Ông đã đến với mục đích làm báp-têm cho con người bằng nước.

Bây giờ chúng ta hãy xem trường hợp của dân Ítx-ra-ên. Mặc dầu là tuyển dân của Đức Chúa Trời nhưng họ đã sa ngã và bị trôi giạt vào xứ Ai-cập. Cả xứ Ai-cập ở dưới sự đoán phạt của Đức Chúa Trời. Vì dân Ítx-ra-ên sống ở đó, chắc chắn họ cũng ở dưới sự đoán phạt của Đức Chúa Trời. Đồng thời, họ đang ở dưới quyền lực của Pha-ra-ôn và dân Ai-cập. Việc họ ra khỏi Ai-cập không phải là thoát khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời; đó là thoát khỏi xứ Ai-cập, thoát khỏi ách nô lệ ở Ai-cập.

Hãy xem sự cứu rỗi mà con cái Ítx-ra-ên đã vui hưởng. Trước hết, họ vui hưởng sự cứu chuộc của huyết chiên con. Họ giết chiên con và bôi huyết trên mày cửa. Bằng cách này, người Ítx-ra-ên được bao phủ bởi huyết cứu chuộc và được cứu khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời thi hành sự đoán phạt trên xứ Ai-cập, những ai ở dưới huyết này đều được cứu. Con cái Ítx-ra-ên đã được cứu khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời bởi huyết này. Kế đến, tất cả họ đã ăn thịt chiên con. Mục đích của việc làm này không phải để cứu họ khỏi sự đoán phạt mà là để làm họ mạnh mẽ hầu ra khỏi xứ Ai-cập. Khi ăn chiên con, họ mang giày, thắt lưng, cầm gậy và sẵn sàng ra đi. Đương khi ăn, họ đang sửa soạn để ra khỏi xứ Ai-cập.

Điều gì đã giải cứu Ítx-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập và khỏi quyền lực của Pha-ra-ôn? Mặc dầu Đức Chúa Trời đã cứu họ thoát khỏi sự đoán phạt của Ngài, nhưng Pha-ra-ôn, vua xứ Ai-cập, không để họ đi. Pha-ra-ôn là hình bóng về Sa-tan. Pha-ra-ôn, tức Sa-tan, dường như nói rằng “Các ngươi, con cái Ítx-ra-ên, đã được cứu khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời và các ngươi đã ăn thịt chiên con. Các ngươi sẵn sàng ra đi. Các ngươi nghĩ rằng sự ra đi của các ngươi sẽ dễ dàng sao? Đây là lãnh thổ của ta. Đây là sức mạnh của ta, vương quốc của ta và đế quốc của ta. Ta có quyền lực ở đây và ta sẽ không để cho các ngươi ra đi”. Do đó, Pha-ra-ôn đã sai quân đội bắt dân Ítx-ra-ên lại. Nhưng Đức Chúa Trời đã đến để cứu họ, không phải bằng cách sai các thiên sứ hay giáng lửa thiêu đốt Pha-ra-ôn và đạo quân của ông mà bằng cách rẽ Biển Đỏ để họ có thể đi qua. Sau khi dân Ítx-ra-ên vượt qua Biển Đỏ, đạo quân Ai-cập đuổi theo. Trong khi đuổi theo dân của Đức Chúa Trời và khi họ rượt đến giữa biển, Đức Chúa Trời bảo Môi-se giơ tay ra trên biển để những dòng nước ấy phủ lấp người Ai-cập (Xuất. 14:26). Môi-se làm theo và biển đã vâng lời. Đạo quân Pha-ra-ôn và tất cả sức mạnh của người Ai-cập đều bị chôn vùi. Con cái Ítx-ra-ên được giải cứu. Họ được cứu khỏi điều gì? Không phải khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời mà khỏi quyền lực của Ai-cập và Pha-ra-ôn, tức thoát khỏi quyền lực của thế giới và Sa-tan.

Con cái Ítx-ra-ên đã vui hưởng sự cứu rỗi gấp đôi. Phương diện thứ nhứt của sự cứu rỗi là huyết cứu chuộc, và phương diện thứ hai là dòng nước phán xét. Ha-lê-lu-gia về huyết cứu chuộc và dòng nước phán xét! Chúng ta đều biết huyết cứu chuộc là gì, nhưng tôi không chắc nhiều người biết dòng nước phán xét là gì. Với chúng ta, dòng nước phán xét là thập tự giá của Đấng Christ. Sự chết của Chúa Jesus trên thập tự giá là dòng nước phán xét. Một câu trong Thánh Ca 438 của chúng ta nói rằng “Tôi đã vượt qua Biển Đỏ của sự chết Ngài”. Sự chết của Chúa là dòng nước phán xét. Sa-tan và thế giới đã bị phán xét trên thập tự giá. Khi Chúa Jesus sắp đi lên thập tự, Ngài đã tuyên bố “Hiện nay có sự xét đoán thế giới này, hiện nay bá chủ của thế giới này bị đuổi ra” (Gi. 12:31). Cả Sa-tan và thế giới này đã bị phán xét trên thập tự giá.

Chúa đã cứu dân Ngài ra khỏi thế giới bằng cách đoán phạt thế giới. Đức Chúa Trời thi hành sự phán xét của Ngài trên dân Ai-cập và sự đoán phạt đó là sự cứu rỗi cho dân Ítx-ra-ên. Với Sa-tan và thế giới của hắn, thập tự giá là một sự đoán phạt; nhưng với chúng ta, sự đoán phạt này trên thập tự giá là một sự giải cứu. Đó không phải là cứu khỏi sự định tội của Đức Chúa Trời mà là cứu khỏi quyền lực của Sa-tan và ảnh hưởng gian ác của thời đại tăm tối này. Vì vấn đề này đã sáng tỏ, chúng ta có thể trở lại trường hợp của Nô-ê.

1. Nô-ê Được Cứu Khỏi Sự Đoán Phạt 
Của Đức Chúa Trời Bởi Con Tàu Được Trét Chai

Rõ ràng, Nô-ê đã ở dưới sự định tội của Đức Chúa Trời. Ông cũng ở dưới quyền lực gian ác của thời đại ông đang sống. Nô-ê đóng một con tàu được trét chai cả trong lẫn ngoài. Chai là hình bóng về huyết cứu chuộc. Do đó, Nô-ê được cứu khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời bởi lớp chai trét trên tàu.

2. Nô-ê Được Cứu Khỏi Thế Giới Bị Đoán Phạt
Qua Dòng Nước Phán Xét

Điều gì đã cứu Nô-ê thoát khỏi thời đại gian ác đó? Nước lụt do Đức Chúa Trời giáng xuống như một sự đoán phạt trên thế giới tội ác đó. Nước lụt phán xét này đã phân rẽ Nô-ê khỏi thời đại đó. Nước Biển Đỏ đã chôn vùi người Ai-cập và phân rẽ con cái Ítx-ra-ên khỏi thế giới Ai-cập, và nước lụt đã làm cùng một điều như vậy cho Nô-ê. Một mặt, nước lụt phán xét thời đại gian ác đó; mặt khác, phân rẽ Nô-ê khỏi thời đại đó. Dòng nước phán xét thế giới đã cứu Nô-ê khỏi thế hệ tội lỗi. Kết quả của hai phương diện trong sự cứu rỗi trọn vẹn của Đức Chúa Trời là: Nô-ê được cứu khỏi sự định tội của Đức Chúa Trời cũng như thoát khỏi thế hệ tội lỗi đó.

Hầu như không Cơ-đốc nhân nào biết về phương diện thứ hai trong sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Mỗi Cơ-đốc nhân thật đều biết rằng huyết đã giải cứu chúng ta khỏi sự định tội của Đức Chúa Trời, khỏi sự hủy diệt đời đời. Chúng ta cảm tạ Đức Chúa Trời về điều này. Nhưng có bao nhiêu Cơ-đốc nhân ngợi khen Chúa về sự cứu rỗi qua nước? Tôi đã ngợi khen Chúa rất nhiều về điều này. Cách đây hơn bốn mươi năm, tôi đã bắt đầu ngợi khen Chúa về sự cứu rỗi qua huyết và về sự cứu rỗi qua nước. “Cảm tạ Chúa vì con đã được cứu khỏi sự định tội của Đức Chúa Trời và cũng thoát khỏi quyền lực gian ác của Sa-tan. Ha-lê-lu-gia! Con đã ra khỏi Ai-cập!” Vì rất ít Cơ-đốc nhân biết rằng họ đã được cứu khỏi thời đại gian ác của thế giới này, nên gánh nặng của tôi là tất cả chúng ta phải nhìn thấy phương diện thứ hai trong sự cứu rỗi trọn vẹn của Đức Chúa Trời. Sự cứu rỗi lớn của Đức Chúa Trời không chỉ cứu chúng ta khỏi sự đoán phạt của Ngài mà cũng cứu chúng ta khỏi quyền lực của Sa-tan.

a. Thế Giới Cùng Mọi Thời Đại Của Nó 
Đã Bị Đức Chúa Trời Định Tội

Thế giới cùng mọi thời đại của nó đã bị Đức Chúa Trời định tội. Có một thế giới với nhiều thời đại. Có thời đại theo kiểu cũ và thời đại theo kiểu tân thời. Có thời đại để tóc ngắn và có thời đại để tóc dài. Tất cả những thời đại này đều bị Đức Chúa Trời định tội. Thế giới vào thời đại của Nô-ê đã bị định tội (Sáng. 6:11-13), và thế giới vào thời đại của người Ai-cập cũng đã bị định tội (Xuất. 14:26-28).

Cả thế giới là một hệ thống của Sa-tan, đã hệ thống hóa toàn thể nhân loại. Thế giới này có các bộ khác nhau cũng như có các thời đại khác nhau. Trong cùng một thời đại, anh em có bộ giáo dục, bộ kinh tế, bộ tôn giáo,v.v… Mỗi bộ này là một bộ trong hệ thống của Sa-tan nhằm hệ thống hóa con người. Cả thế giới cùng mọi thời đại và các bộ của nó đều ở dưới sự định tội của Đức Chúa Trời (Gi. 12:31; 16:11). Tuy nhiên, ý định của tôi không chỉ là để chúng ta thấy sự định tội của Đức Chúa Trời. Chúng ta chỉ nên xem qua về điều này để sau đó tiếp tục đến với sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.

b. Dân Đức Chúa Trời Được Cứu Khỏi Thế Giới 
Bởi Sự Đoán Phạt Của Đức Chúa Trời Trên Thế Giới

Dân Đức Chúa Trời được cứu khỏi thế giới bởi sự đoán phạt của Ngài trên thế giới. Đức Chúa Trời cứu chúng ta khỏi thế giới bị định tội bằng điều gì? Bằng cùng một điều mà Ngài đã đoán phạt thế giới. Nước lụt mà Đức Chúa Trời dùng để thi hành sự đoán phạt của Ngài trên thế giới thời xưa đã cứu Nô-ê khỏi thế giới thời đó. Biển Đỏ mà Đức Chúa Trời dùng để phán xét người Ai-cập đã cứu con cái Ítx-ra-ên khỏi quyền lực gian ác của người Ai-cập. Thập tự giá mà bởi đó Đức Chúa Trời đoán phạt Sa-tan và thế giới của hắn cũng đã cứu chúng ta khỏi thế giới bị định tội này.

Là Cơ-đốc nhân, chúng ta được cứu bởi thập-tự-giá-đoán-phạt của Đấng Christ. Thập tự giá thi hành sự đoán phạt của Đức Chúa Trời trên Sa-tan và thế giới. Chúng ta đã được cứu khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời bởi huyết cứu chuộc của Đấng Christ (La. 5:9). Chúng ta đã được cứu khỏi thế giới bị định tội bởi sự chết đoán phạt của Đấng Christ. Ga-la-ti 1:4 chép “Đấng đã phó chính Mình vì tội lỗi chúng ta, hầu giải cứu chúng ta khỏi thời đại gian ác hiện tại này”. Mặc dầu Đấng Christ đã chết vì các tội phạm của chúng ta nhưng mục đích là cứu chúng ta khỏi thời đại gian ác hiện tại này. Tôi đã nghe nhiều bài giảng về sự chết của Đấng Christ là sự cứu rỗi khỏi tội lỗi, nhưng hầu như tôi chưa nghe một bài giảng nào bảo rằng mục đích sự chết của Đấng Christ là để cứu tôi khỏi đời gian ác hiện tại này.

Ga-la-ti 6:14 chép “Nhưng về phần tôi, tôi quyết hẳn chẳng khoe khoang gì, chỉ khoe khoang về thập tự giá của Chúa chúng ta là Jesus Christ đó thôi; vì nhờ thập tự giá ấy, thế giới đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế giới cũng vậy”. Với Phao-lô, thế giới ở trên thập tự giá, và đối với thế giới, Phao-lô cũng ở trên thập tự giá. Với anh em, thế giới có ở trên thập tự giá không? Đối với thế giới, anh em có đang ở trên thập tự giá không? Trong cách nhìn của chúng ta, thế giới này phải ở trên thập tự giá. Nó đã bị đóng đinh rồi. Anh em có yêu thích một điều gì đó mà đã bị đóng đinh không? Với thế giới, chúng ta đang ở trên thập tự giá. Tôi nghe cha mẹ của một thánh đồ nhiều lần nói rằng “Con trai tôi chết rồi”. Một số người chồng có thể nói rằng vợ họ đã chết, và một số người vợ có thể nói rằng chồng họ đã chết. Điều đó đúng. Tất cả những người chồng, người vợ, con trai, con gái Cơ-đốc đều chết. Chúng ta đã chết đối với thế giới và thế giới đã chết đối với chúng ta qua sự chết đoán phạt của Đấng Christ.

3. Báp-têm Bằng Nước Tượng Trưng Cho 
Sự Chết Đoán Phạt Của Đấng Christ Cứu Chúng Ta Khỏi Thế Giới Bị Đức Chúa Trời Định Tội

Khi chịu báp-têm, anh em được chôn. Không gì có thể đem người ta ra khỏi thế giới cách hiệu quả bằng chôn. Cũng vậy, điều gì có thể đem anh em ra khỏi thế giới cách hữu hiệu hơn là báp-têm? Giả sử một người kia rất yêu thế giới. Người ấy gắn bó nhiều với thế giới. Vợ, con và tất cả người thân đều yêu mến anh. Anh có nhiều tiền trong ngân hàng và nhiều công việc làm ăn dưới quyền kiểm soát của mình. Làm thế nào một người như vậy có thể ra khỏi thế giới? Cách dễ nhất là anh được chôn. Một khi người thân làm đám tang trọng thể cho anh, anh sẽ chấm dứt đối với thế giới. Do đó, không điều gì phân rẽ một người khỏi thế giới hơn là việc chôn người đó.

Báp-têm là gì? Tôi lấy làm tiếc mà nói rằng nhiều người xem báp-têm như một nghi lễ làm cho một người trở nên một thành viên trên danh nghĩa của cái gọi là Hội Thánh. Trước khi kinh nghiệm báp-têm thật sự, tôi đã trải qua một nghi lễ như vậy. Chúng ta đừng bao giờ báp-têm người ta theo cách nghi lễ. Hễ khi nào sắp làm báp-têm cho ai, chúng ta phải cầu nguyện và vận dụng linh bằng uy quyền và danh quyền năng của Chúa Jesus. Sau đó, chúng ta báp-têm người đó, đặt họ vào trong “mộ” và chôn họ. Sự chôn này phân rẽ họ khỏi thế giới.

Chúng ta đã được báp-têm vào trong sự chết của Đấng Christ (La. 6:3). Chúng ta đã được đồng chôn với Đấng Christ trong báp-têm (Côl. 2:12). Chúng ta đã chết và được chôn đối với sự sơ học của thế giới (Côl. 2:20). Chúng ta đã trải qua nước lụt và Biển Đỏ. Nước lụt đoán phạt thế hệ thời Nô-ê đã giải cứu ông, và Biển Đỏ đoán phạt người Ai-cập đã giải cứu dân Ítx-ra-ên. Đó là sự cứu rỗi mà chúng ta cần hôm nay. Mỗi Cơ-đốc nhân cần phương diện thứ hai trong sự cứu rỗi trọn vẹn của Đức Chúa Trời. Anh em có vui hưởng phương diện này trong sự cứu rỗi của Ngài không? Tôi có thể reo lên mà nói “Tôi đã được phân rẽ khỏi xứ Ai-cập! Tôi đã được phân rẽ khỏi dòng dõi gian ác, cong quẹo và ngoan cố này!”

a. Được Tiêu Biểu Bởi Trận Đại Hồng Thủy

Báp-têm bằng nước được tiêu biểu bởi trận đại hồng thủy là điều đã cứu Nô-ê khỏi thời đại gian ác của ông (1Phi. 3:20-21). Nô-ê được báp-têm trong một hồ báp-têm lớn và đã kinh nghiệm sự báp-têm rất lâu, kéo dài ít nhất bốn mươi ngày. Con số 40 tượng trưng cho sự thử thách. Không ai có thể xây một hồ báp-têm lớn đến thế hay chứa nhiều nước như thế. Sự đề cập lần đầu tiên về báp-têm trong Kinh Thánh là sự báp-têm cả thế giới. Sự báp-têm của chúng ta cũng giống như vậy. Một khi chúng ta bước vào hồ báp-têm này thì không cách gì ra khỏi. Mặc dầu chúng ta bước ra khỏi hồ báp-têm trong phòng nhóm thật dễ dàng, nhưng Nô-ê không có cách gì ra khỏi hồ báp-têm được dùng để báp-têm ông. Nô-ê đã bị chôn trong ngôi mộ toàn thế giới. Đó là hạt giống về báp-têm. Sự chết của Đấng Christ là bao hàm tất cả. Sự báp-têm dựa trên sự chết của Ngài, mang tính toàn thế giới, thậm chí cả vũ trụ, ngập tràn nước phán xét và chôn vùi.

b. Được Tiêu Biểu Bởi Những Dòng Nước Của Biển Đỏ

Báp-têm bằng nước, tượng trưng cho sự chết đoán phạt của Đấng Christ, cũng được tiêu biểu bởi những dòng nước Biển Đỏ đã cứu dân Ítx-ra-ên ra khỏi thời đại của người Ai-cập (Xuất. 14:26-28). Chúng ta có hai hình bóng về báp-têm bằng nước: nước lụt và Biển Đỏ. 1Phi-e-rơ 3:20-21 nói rằng nước lụt mà Nô-ê đã trải qua là hình bóng về báp-têm cứu chúng ta, còn 1Cô-rin-tô 10:1-2 bảo rằng Biển Đỏ mà dân Ítx-ra-ên đã vượt qua cũng là báp-têm để cứu dân Đức Chúa Trời khỏi quyền lực gian ác, khỏi ách nô lệ của kẻ thù. Tất cả nghề nghiệp, thú vui, giải trí, thể thao của thế giới đều bị chôn vùi trong Biển Đỏ của báp-têm chúng ta. Loại báp-têm có hiệu lực này trong quyền năng của Linh giải cứu chúng ta khỏi thế giới, khỏi thời đại gian ác đã bị Đức Chúa Trời định tội và phán xét.

c. Được Tiêu Biểu Bởi 
Thùng Rửa, Biển Bằng Đồng Và Biển Pha Lê

Cùng với các hình bóng tiêu biểu cho báp-têm, chúng ta có các dấu hiệu trong Kinh Thánh nói lên ý nghĩa của báp-têm. Báp-têm được tiêu biểu bởi Thùng Rửa trong Đền Tạm (Xuất. 30:18-21). Phía trước Đền Tạm là Thùng Rửa. Khu vực bên ngoài lằn ranh phân cách của Đền Tạm tượng trưng cho thế giới. Giả sử có một người ra khỏi thế giới và muốn trở thành một thầy tế lễ, bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời bên trong Đền Tạm. Trước hết, người đó phải đi qua Bàn Thờ, tượng trưng cho thập tự giá của Đấng Christ. Trên Bàn Thờ, các của lễ chuộc tội được dâng lên. Sau khi trải qua Bàn Thờ, các tội phạm của người đó được xử lý và người đó được cứu. Nhiều Cơ-đốc nhân nghĩ rằng sau khi trải qua Bàn Thờ, người đó có thể bước ngay vào Nơi Thánh phía trong Đền Tạm. Tuy nhiên, người đó không thể di chuyển nhanh được vì sau khi đi qua Bàn Thờ, người đó cần được rửa sạch tại Thùng Rửa. Thùng Rửa không kết liễu các tội phạm của người đó. Các tội phạm đã được giải quyết tại Bàn Thờ rồi. Thùng Rửa xử lý sự dơ bẩn thuộc đất. Vì sự dơ bẩn của đất vẫn còn bám trên người đó nên cần được rửa sạch. Sự tẩy rửa của Thùng Rửa loại trừ sự dơ bẩn này. Huyết ở tại Bàn Thờ, không ở trong Thùng Rửa. Sau khi các tội phạm của người đó được xử lý tại Bàn Thờ và sau khi sự dơ bẩn thuộc đất đã được rửa sạch tại Thùng Rửa, người đó có thể bước vào Nơi Thánh và bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

Nhiều Cơ-đốc nhân không biết cách bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Đúng vậy, họ đã được cứu tại thập tự giá, nhưng trong nhận thức của họ, vẫn còn có vách ngăn, có vật cản ngăn họ bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Đó là gì? Đó là sự dơ bẩn của thế giới. Họ thiếu sự tẩy sạch của Thùng Rửa để loại trừ sự dơ bẩn của thế giới. Nói cách khác, các tội phạm của họ đã được giải quyết tại thập tự giá, nhưng thế giới của họ chưa được chôn vùi dưới Biển Đỏ. Thùng Rửa là dấu hiệu của báp-têm, nước lụt và Biển Đỏ.

Nguyên tắc tương tự với một Biển bằng đồng và mười Thùng Rửa cùng với Đền Thờ. Một khi con cái Ítx-ra-ên đã được vững lập trong xứ Ca-na-an, họ xây dựng Đền Thờ. Cùng với Đền Thờ, họ xây một Biển bằng đồng và mười Thùng Rửa (1Vua 7:23,38). Đồng biểu thị cho sự phán xét. Biển bằng đồng và mười Thùng Rửa cho thấy sự nhận thức đầy đủ về báp-têm. Anh em không thể bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời cho đến khi trải qua ý nghĩa thật sự của báp-têm, nghĩa là, chôn thế giới.

Chẳng hạn như, chúng ta phải chôn việc mua sắm có tính thế giới của mình. Khi đọc bài này, linh anh em có thể nói rằng anh em có nan đề với việc mua sắm. Anh em đã không đi mua sắm dưới sự dẫn dắt của Chúa. Tất nhiên, nếu đi mua sắm dưới sự dẫn dắt của Chúa, anh em không có nan đề. Tuy nhiên, nếu đi mua sắm không dưới sự dẫn dắt của Chúa, anh em sẽ bị chết trong vài ngày. Anh em sẽ không thể cầu nguyện tốt hay bước vào sự hiện diện của Chúa được lâu. Anh em có thể lý luận rằng không có gì sai với loại trang phục đó. Mặc dầu không có gì sai về mặt đạo đức, nhưng linh anh em bảo rằng chừng nào còn mặc loại trang phục đó, anh em không thể cầu nguyện với sự hiện diện của Ngài. Mặc dầu anh em vẫn có thể cầu nguyện ngoài sự hiện diện của Đức Chúa Trời nhưng anh em không thể cầu nguyện vào trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời cho đến khi loại bỏ trang phục đó. Nếu làm như vậy, anh em sẽ được giải phóng. Khi ấy, chúng ta nên làm gì? Nên nhảy vào Biển bằng đồng.

Báp-têm cũng được tiêu biểu bởi biển pha lê (Khải. 4:6). Trong Khải Thị chương 4, Giăng ở trong linh và thấy ngai của Đức Chúa Trời. Trước ngai là một biển pha lê. Điều này nghĩa là gì? Đồng chỉ về sự phán xét và pha lê nói đến sự vạch trần. Bất cứ điều gì được rửa trong Thùng Rửa hay trong Biển Đồng đều không thể được nhìn thấy từ bên ngoài, nhưng vì biển pha lê trong suốt như pha lê nên có thể thấy được mọi điều được rửa trong đó. Trong Khải Thị 15:2, [chúng ta] thấy biển pha lê được trộn với lửa. Đây cũng là dấu hiệu về sự báp-têm hoàn vũ. Biển được trộn với lửa. Tất nhiên, biển thì chứa đầy nước nhưng biển này được trộn với lửa. Điều này nghĩa là gì? Do sự sa ngã của Sa-tan và sự sa ngã của con người, sáng tạo cũ đã bị Đức Chúa Trời phán xét. Kể từ ban đầu, Đức Chúa Trời đã phán xét nhiều lần. Đức Chúa Trời đã phán xét thời đại tiền A-đam bằng nước. Ngài cũng phán xét thời đại A-đam bằng nước vào thời Nô-ê. Tuy nhiên, sau nước lụt, Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ không bao giờ phán xét thế giới bằng nước nữa (Sáng. 9:11). Ngài sẽ phán xét bằng lửa. Do đó, trong Khải Thị 15:2, biển được trộn với lửa; lửa đang cháy trong biển. Hai loại phán xét được Đức Chúa Trời thi hành trên tạo vật sa ngã là sự đoán phạt bằng nước và bằng lửa. Biển pha lê được trộn với lửa sẽ được tổng kết trong Hồ Lửa (Khải. 20:10,14-15). Mọi điều mà đã được chôn vào lúc anh em báp-têm, sẽ đến Hồ Lửa.

Khải Thị 15:2-3 bày tỏ rằng những người được cứu đang đứng trên biển pha lê vui mừng, ca hát. Họ hát hai loại bài ca: bài ca Môi-se là bài được hát lần đầu tiên trên bờ Biển Đỏ và bài ca Chiên Con. Họ hát bài ca Môi-se vì Môi-se đã đem họ vượt qua Biển Đỏ, và họ hát bài ca Chiên Con của Đức Chúa Trời vì Ngài đã đem họ vượt qua biển báp-têm. Do đó, tất cả những người được cứu đều đứng trên biển pha lê. Đây là hồ báp-têm hoàn vũ. Cuối cùng, mọi vật thọ tạo sẽ bị đốt (2Phi. 3:6-7,10,12). Toàn cõi thọ tạo sẽ trải qua báp-têm và những sự cũ kỹ sẽ bị đốt và được tẩy sạch bởi lửa hừng vào trong Hồ Lửa. Đó là hồ báp-têm hoàn vũ.

d. Trong Trời Mới Đất Mới Không Còn Thế Giới 
Và Cũng Không Còn Nước Phán Xét Nữa

Cuối cùng, Trời Mới Đất Mới, cõi sáng tạo mới, sẽ được đem vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời, và Giê-ru-sa-lem Mới sẽ xuống. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời sẽ ở đó. Sẽ không “còn biển nữa” (Khải. 21:1). Hồ Lửa sẽ là sự tổng kết tất cả các loại báp-têm trải suốt các thời đại. Mọi điều khác sẽ ở trong sự hiện diện của chính Đức Chúa Trời là Đấng lấy Giê-ru-sa-lem Mới làm nơi ngự đời đời của Ngài. Do đó, được cứu qua nước có nghĩa là bất cứ điều gì không thuộc về Đức Chúa Trời và không vì Đức Chúa Trời đều phải được rửa sạch bởi nước lụt. Sau cùng, nước lụt này sẽ được trộn với lửa và tổng kết trong Hồ Lửa. Chúng ta, những người được cứu khỏi mọi điều khác hơn Đức Chúa Trời, sẽ ở trong sự tổng kết là Giê-ru-sa-lem Mới.

Nguyên tắc tương tự trong nếp sống Hội Thánh hôm nay. Hội Thánh là bức tranh thu nhỏ của Giê-ru-sa-lem Mới, và hồ báp-têm là hình bóng về Hồ Lửa. Mỗi sự báp-têm là một bức tranh cho thấy toàn bộ những điều tiêu cực đã được chôn trong hồ báp-têm sẽ tuôn vào Hồ Lửa là như thế nào. Tôi xin hỏi anh em, sự mua sắm thế tục của anh em ở đâu? Thời trang mới của anh em ở đâu? Mái tóc dài và những chiếc váy ngắn của anh chị em ở đâu? Tất cả đều ở trong hồ báp-têm. Hồ báp-têm sẽ chuyển chúng đến Hồ Lửa. Đó là ý nghĩa của việc được cứu qua nước. Sự cứu rỗi này sẽ kết thúc thời đại cũ và dẫn đến thời đại mới. Sự cứu rỗi này sẽ đem chúng ta ra khỏi thế hệ cũ, cong quẹo, ngoan cố, và dẫn chúng ta vào trong Vương Quốc của Đấng Christ. Do đó, bài kế tiếp sẽ nói đến nếp sống Vương Quốc trong sự phục sinh.

 

 

 

BÀI BA MƯƠI HAI

Đời Sống Trong SỰ Phục Sinh

(1)

Trong bài vừa qua, chúng ta đã thấy Nô-ê và những người ở với ông trong tàu đã trải qua nước lụt. Như đã thấy, trải qua nước là hình bóng về báp-têm trong Tân Ước. Sau nước lụt, con tàu tấp trên dãy núi A-ra-rát (Sáng. 8:4). Đó cũng là dấu hiệu, hình, bóng về sự phục sinh của Đấng Christ. Theo Kinh Thánh, con tàu là hình bóng về Đấng Christ. Con tàu trải qua nước, tượng trưng cho Đấng Christ trải qua những dòng nước sự chết dưới sự phán xét của Đức Chúa Trời. Khi con tàu tấp trên núi, điều đó có nghĩa là Đấng Christ đã phục sinh từ những dòng nước sự chết.

E. Đời Sống Trong Sự Phục Sinh

Kinh Thánh thật kỳ diệu. Sáng Thế Ký 8:4 nói rằng con tàu tấp trên núi A-ra-rát vào ngày 17 Tháng thứ bảy. Nếu đọc cẩn thận Kinh Thánh cùng với lịch sử và những tự điển tra cứu từ cổ tốt nhất, anh em sẽ thấy rằng, vào thời điểm Lễ Vượt Qua tại Ai-cập, Tháng thứ bảy được đổi thành Tháng thứ nhất (Xuất. 12:2). Dân Do-thái có hai loại lịch: lịch thường và lịch thánh. Lịch thường là lịch cũ và lịch thánh là lịch mới, bắt đầu từ Lễ Vượt Qua đầu tiên. Khi Đức Chúa Trời bảo dân Ítx-ra-ên hãy lập Lễ Vượt Qua, Ngài bảo họ rằng tháng đó phải được tính là Tháng thứ nhất của năm. Theo tiếng Hê-bơ-rơ, tháng đó được gọi là Abib (Xuất. 13:4), có nghĩa là nẩy mầm, đâm chồi, ra mầm xanh. Điều này nghĩa là trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, Lễ Vượt Qua được kể là một khởi đầu mới của sự sống. Tại sao tôi chỉ ra điều này? Vì Chúa Jesus đã bị đóng đinh vào ngày Lễ Vượt Qua, ngày 14 của tháng đó (Xuất. 12:6; Gi. 18:28). Theo lịch thánh, Ngài đã bị đóng đinh vào Tháng thứ nhất, và theo lịch thường, Ngài đã bị đóng đinh vào Tháng thứ bảy, cùng một tháng khi con tàu tấp trên núi. Chúa đã bị đóng đinh vào ngày 14 của tháng đó, và sau ba ngày, được phục sinh. Vì thế, theo lịch thánh, Đấng Christ đã được phục sinh vào ngày 17 Tháng thứ nhất. Theo lịch thường, đó là vào ngày 17 Tháng thứ bảy, là chính ngày con tàu tấp trên núi A-ra-rát. Do đó, theo hình bóng đầu tiên về con tàu tấp trên núi, chúng ta được biết ngày chính xác về sự phục sinh của Đấng Christ. Điều này thật kỳ diệu.

Trong 1Phi-e-rơ 3:20-21, Phi-e-rơ gắn kết sự phục sinh của Đấng Christ với con tàu. Ông nói “Tám hồn đã được cứu qua nước. Nước ấy là hình bóng chỉ về báp-têm hiện nay cứu rỗi anh em… bởi sự phục sinh của Jesus Christ”. Hình bóng của báp-têm đó cũng cứu chúng ta qua sự phục sinh. Một lần nữa tôi nói rằng con tàu tấp trên đỉnh núi tượng trưng cho sự phục sinh của Đấng Christ từ những dòng nước sự chết. Ngày tháng của hai sự kiện này giống như nhau.

1. Hình Bóng Về Hội Thánh

a. Được Phục Sinh Với Đấng Christ

Chúng ta tìm thấy điều gì sau sự phục sinh? Chúng ta thấy một nếp sống mới. Nô-ê và bảy người khác đã có một nếp sống mới. Tôi cũng muốn anh em để ý đến sự kiện số người trong tàu là 8 người. Số 8 có nghĩa là sự phục sinh. Một tuần có 7 ngày, và khởi đầu của một tuần mới là ngày thứ tám. Đấng Christ đã được phục sinh vào ngày thứ nhứt của tuần, tức vào ngày thứ tám (Gi. 20:1). Vì thế, số 8 tượng trưng cho sự phục sinh. Trong nếp sống mới này, những người đó đã ở trong sự phục sinh. Bất cứ điều gì họ làm đều ở trong sự phục sinh.

Không nhiều Cơ-đốc nhân nhận thức ý nghĩa thật của hình bóng đó trong phần Lời này. Chúng ta nên hiểu phần Lời này theo cách hình bóng. Tất cả Cơ-đốc nhân đều đồng ý rằng con tàu là hình bóng về Đấng Christ, và 1Phi-e-rơ 3:20-21 cho biết rõ rằng việc trải qua nước lụt là hình ảnh báo trước về báp-têm. Dựa trên hai sự kiện này, chúng ta phải nhận thức rằng mọi điều liên quan đến Nô-ê và 7 người ở với ông sau nước lụt cũng phải là một phần của hình bóng trọn vẹn này, tạo nên một bức tranh trọn vẹn của hình bóng này. Chúng ta không nên dừng lại bằng cách nói rằng việc trải qua nước lụt là hình bóng về báp-têm, và con tàu tấp trên núi là hình bóng về sự phục sinh của Đấng Christ. Còn nếp sống của 8 người sau nước lụt thì sao? Nói cách khác, nếp sống của những người sau sự phục sinh như thế nào? Nếp sống của 8 người sau nước lụt tượng trưng cho điều gì? Tượng trưng cho nếp sống Hội Thánh. Nếp sống của những người được phục sinh sau sự phục sinh là nếp sống Hội Thánh. Điều này hoàn toàn lô-gíc. Tám người trong tàu tượng trưng cho chúng ta, tín đồ Tân Ước.

Tôi muốn nói đôi lời với người trẻ. Khi còn là một Cơ-đốc nhân trẻ, tôi đã dùng tâm trí rất nhiều về những lời tuyên bố trong Kinh Thánh nói rằng chúng ta ở trong Đấng Christ. Tôi cố tưởng tượng cách ở trong Đấng Christ là thể nào. Tôi không thể thấy thực tại cũng không hiểu được ý nghĩa của điều này. Một ngày nọ, khi đang suy xét những gì con tàu Nô-ê đã trải qua, Chúa tỏ cho tôi rằng 8 người trong tàu là bức tranh cho thấy việc chúng ta ở trong Đấng Christ là như thế nào. Tám người đó đã ở trong tàu khi con tàu trải qua nước lụt. Vì thế, trong con tàu đó, họ cũng đã trải qua nước lụt, nhưng chính họ không chạm đến nước lụt. Chính con tàu đã chống chọi với những dòng nước lụt. Điều này trả lời cho câu hỏi làm thế nào sự đóng đinh của Đấng Christ có thể trở thành của chúng ta, và làm thế nào chúng ta đã bị đóng đinh trong Đấng Christ. Khi con tàu ra khỏi nước lụt, 8 người trong đó cũng đã bước ra. Khi con tàu tấp trên đỉnh núi, 8 người trong tàu này cũng đã được phục sinh và tấp trên đỉnh núi. Ê-phê-sô 2:6 nói rằng chúng ta đã được đồng sống lại với Đấng Christ. Trước khi được sanh ra, chúng ta đã được phục sinh. Khi Đấng Christ được phục sinh từ những dòng nước sự chết, chúng ta đã ở trong Ngài. Do đó, trong Hội Thánh, chúng ta là những người đã phục sinh.

Nếu nhìn vào bức tranh của hình bóng này, chúng ta sẽ thấy Hội Thánh là một cộng đồng khác; đó không phải là xã hội cũ. Cộng đồng và xã hội cũ đã bị chôn rồi. Khi được báp-têm, chúng ta đã chôn cộng đồng và xã hội cũ rồi. Nước lụt đến và chôn vùi xã hội cũ của Nô-ê, chỉ 8 người được phục sinh. Bây giờ, nếp sống của 8 người đó trên con đường mới phải là hình bóng về nếp sống Hội Thánh. Chúng ta là người Hội Thánh và người Hội Thánh là người đã phục sinh. Chúng ta là một cộng đồng khác, một xã hội khác. Nếp sống Hội Thánh là một cộng đồng mới.

Sau nước lụt, 8 người được cứu qua con tàu đã bắt đầu có nếp sống mới. Trước nước lụt, họ thấy nhiều điều ác và bất kỉnh. Nhưng họ đã được cứu, được phân rẽ, được phục sinh và được dẫn vào nếp sống mới. Nếp sống mới đó là hình bóng về nếp sống Hội Thánh. Cùng với tất cả các hạt giống khác được gieo trong Sáng Thế Ký, hạt giống về nếp sống Hội Thánh cũng được gieo ở đó. Mỗi phần trong nếp sống của 8 người này đều là hình ảnh báo trước về một phần của nếp sống Hội Thánh.

b. Những Người Xác Thịt, Được Tượng Trưng Bởi Con Quạ,

Trở Lại Với Thế Giới Bị Đức Chúa Trời Đoán Phạt

Trước khi 8 người này bắt đầu nếp sống mới trên đất mới, Nô-ê đã làm vài cuộc kiểm tra. Ông thả một con quạ và một bồ câu (8:7-12). Con quạ đại diện cho người xác thịt. Nếu đọc cẩn thận Lê-vi Ký chương 11, anh em sẽ thấy quạ là một giống chim không sạch. Tất cả những giống chim không sạch đều không tinh sạch vì chúng ăn những vật chết, những xác chết. Nói cách khác, chúng ăn sự chết. Chúng không sạch vì chúng sống nhờ sự chết. Sự chết là điều ô uế trong cách nhìn của Đức Chúa Trời. Theo Cựu Ước, khi một người tiếp xúc với sự chết, lập tức người đó trở nên không tinh sạch. Trong khi những giống chim không sạch ăn sự chết, thì những giống chim sạch ăn hạt, ngũ cốc. Trong mỗi hạt đều có sự sống. Những giống chim sạch là tinh sạch vì chúng sống nhờ sự sống. Dưới mắt của Đức Chúa Trời, không gì tinh sạch bằng sự sống và không gì ô uế bằng sự chết. Anh em ăn sự chết hay sự sống? Anh em ăn xác chết hay hạt giống? Hễ ai ăn xác chết đều là quạ, và hễ ai ăn hạt giống đều là bồ câu.

Nô-ê thật khôn ngoan, trước hết đã thả con quạ ra. Khi quạ ra khỏi tàu, dường như nó xổ lồng. Nó thấy xác chết nổi trên dòng nước đoán phạt và bắt đầu ăn. Khi bị giam trong tàu, quạ không có cơ hội để ăn xác chết, vì trong tàu không có xác chết. Tuy nhiên, khi ra khỏi tàu, nó thấy trên mặt nước đầy xác chết, đầy sự chết. Điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là bên trong Hội Thánh không có sự chết và tất cả quạ đều bị chết đói. Trong Hội Thánh, những ai quen sống bằng sự chết đều đang chết đói. Một ngày kia, khi có cơ hội thoát ra, quạ sẽ bay đi và bắt đầu ăn xác chết. Trải qua nhiều năm, tôi đã thấy nhiều “con quạ” như thế. Họ ở trong nếp sống Hội Thánh trong một khoảng thời gian rồi thoát ra để tiếp xúc với thế giới đã bị Đức Chúa Trời phán xét, và bắt đầu ăn xác chết. Bất kỳ ai yêu mến thế giới bị kết án này đều giống như quạ, sống nhờ những điều thuộc sự chết. Ngay cả Đê-ma, người đã từng ở với sứ đồ Phao-lô, cũng đã yêu mến thế giới và lìa bỏ Phao-lô (2Ti. 4:10). Yêu mến thế giới là ăn những điều chết bị Đức Chúa Trời kết án và đoán phạt.

c. Những Người Thuộc Linh, Được Tượng Trưng 
Bởi Chim Bồ Câu, Ơ Lại Với Hội Thánh 
Và Quan Tâm Đến Sự Sống Trong Linh

Sau khi thả quạ đi, Nô-ê thả một chim bồ câu. Bồ câu không thể tìm thấy nơi nào để nghỉ chân, vì đất vẫn còn bị bao phủ bởi những dòng nước sự chết. Vì không có chỗ cho nó, bồ câu bay trở về tàu (8:9). Sau bảy ngày, Nô-ê lại thả bồ câu ra, và lần này nó trở về với một lá ô-liu tươi (8:11, Bản ASV). Theo hình bóng, ô-liu tượng trưng cho Linh, và lá ô-liu tươi, mới, tượng trưng cho sự sống mới trong Linh. Bồ câu đã thấy lá ô-liu tươi này và gắp về. Đó là dấu hiệu của sự sống.

Để mở ra một cơ hội mới cho Hội Thánh, cần có một lá ô-liu tươi. Nếu muốn có Hội Thánh tại một thành nào đó, chúng ta nên sai một hay hai “chim bồ câu” ra đi để xem ở đó có lá ô-liu tươi nào không. Nếu có, thì có thể có nếp sống Hội Thánh tại thành phố đó. Bằng không, những “bồ câu” này nên trở về tàu. Khi Nô-ê thả bồ câu lần thứ ba, nó không trở về vì vùng đất của sự sống đã lộ ra. Đây cũng là một dấu hiệu cho thấy chúng ta có thể có nếp sống Hội Thánh. Giả sử những thánh đồ nào đó có ý định bắt đầu nếp sống Hội Thánh tại một thành phố nào đó. Họ phải xác định những dòng nước sự chết ở đó đang dâng lên hay đã rút xuống. Nếu dòng nước đó đã rút xuống và một vài cây ô-liu đã mọc lên với những lá tươi non, điều đó có thể là dấu hiệu cho thấy rằng Hội Thánh sẽ có tại đó. Họ cần chờ cho đến khi những dòng nước sự chết rút dần và miền đất sự sống lộ ra. Đó sẽ là thời điểm để họ bắt đầu nếp sống Hội Thánh. Trước khi bắt đầu có nếp sống Hội Thánh tại bất cứ nơi nào, chúng ta phải hành động theo nguyên tắc này, kiểm tra tình hình để xem nơi đó có tốt cho nếp sống Hội Thánh hay không.

 d. Dâng Đấng Christ Cho Đức Chúa Trời 
Được Tượng Trưng Bởi Các Của Lễ 
Và Qua Thập Tự Giá Được Tượng Trưng Bởi Bàn Thờ

Những người được phục sinh đã làm gì sau khi họ ra khỏi tàu và bắt đầu nếp sống mới? Điều đầu tiên họ làm khi ra khỏi tàu là dựng một Bàn Thờ và dâng các sinh tế cho Đức Chúa Trời (8:20-22). Điều đầu tiên trong nếp sống Hội Thánh không nên là công việc; đó phải là dâng Đấng Christ cho Đức Chúa Trời qua thập tự giá. Nô-ê đã dựng một Bàn Thờ và dâng các sinh tế cho Đức Chúa Trời (8:20). Cả Bàn Thờ và các sinh tế đều là hình bóng. Bàn Thờ là hình bóng về thập tự giá của Đấng Christ và các sinh tế là hình bóng về các phương diện khác nhau của Đấng Christ. Chúng ta phải dâng Đấng Christ trong các phương diện khác nhau cho Đức Chúa Trời. Chúng ta phải dâng Đấng Christ mà mình đã kinh nghiệm lên Đức Chúa Trời. Nếu kinh nghiệm Đấng Christ là của lễ thiêu, chúng ta nên đem Ngài như của lễ thiêu đến với Đức Chúa Trời và dâng Ngài lên Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời muốn chúng ta đem Đấng Christ đến với Ngài. Khi kinh nghiệm Đấng Christ và đem Đấng Christ mình đã kinh nghiệm đến với Đức Chúa Trời, đó là điều làm Đức Chúa Trời vui thỏa. Chúng ta phải dâng Đấng Christ lên Đức Chúa Trời để Ngài thỏa mãn. Trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta phải quan tâm điều này. Chúng ta cần học cách kinh nghiệm Đấng Christ, đem Đấng Christ đến với Đức Chúa Trời và chia sẻ Đấng Christ với Đức Chúa Trời. Đây là điều Đức Chúa Trời sẽ chấp nhận.

Chúng ta dâng Đấng Christ lên Đức Chúa Trời qua thập tự giá. Đừng hành động –hãy đến với thập tự giá. Đừng cố gắng làm hay cư xử bất cứ điều gì –hãy đến với thập tự giá. Thập tự giá sẽ làm gì với anh em? Thập tự giá chỉ làm một điều: xóa bỏ anh em. Trước khi làm điều gì cho Đức Chúa Trời, anh em nên đến với thập tự giá để được thập tự giá xóa bỏ. Nếu một người trẻ nào đó muốn làm theo điều răn hiếu kính cha mẹ, trước hết người đó nên để thập tự giá xóa bỏ mình. Nếu chồng muốn thương yêu vợ, người chồng cũng phải bị xóa bỏ. Với người vợ có ý định thuận phục chồng cũng vậy. Anh em có định làm việc cho Đức Chúa Trời không? Trước khi làm việc cho Ngài, anh em phải đến với thập tự giá và bị xóa bỏ. Cuối cùng, sẽ không có công tác, sự phục vụ hay cách cư xử thiên nhiên. Sau khi trải qua thập tự giá, chỉ có Đấng Christ là còn lại. Đấng Christ như vậy sẽ là mùi thơm ngọt ngào đối với Đức Chúa Trời.

1) Làm Thỏa Mãn Đức Chúa Trời

Khi dâng Đấng Christ mà mình đã kinh nghiệm lên Đức Chúa Trời qua thập tự giá, Đức Chúa Trời sẽ thỏa mãn. Tất cả chúng ta phải được xóa bỏ tại Bàn Thờ để có thể dâng Đấng Christ mình đã kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày. Tôi cám ơn Chúa biết bao, vì trải qua nhiều năm, các Hội Thánh trong quốc gia này vẫn đang thực hành hai điểm đó. Chúng ta đang được xóa bỏ và cũng đang kinh nghiệm Đấng Christ, đem Đấng Christ đến Đức Chúa Trời và chia sẻ Ngài với nhau trong hiện diện của Đức Chúa Trời. Hễ khi nào đến với nhau theo cách này, chúng ta biết chắc rằng Đức Chúa Trời được thỏa mãn. Làm thế nào biết Ngài thỏa mãn? Vì chúng ta thỏa mãn. Khi anh em đói, chắc chắn Đức Chúa Trời cũng đói. Khi anh em không vui, Đức Chúa Trời cũng không vui. Nhưng khi anh em thỏa mãn, chính Đức Chúa Trời mà anh em dâng Đấng Christ lên, cũng được thỏa mãn. Càng tự mình làm việc, anh em sẽ càng không thỏa mãn. Càng cố gắng cư xử cho phải lẽ, anh em sẽ càng thấy mình đói và khát. Tuy nhiên, một khi đã bị xóa bỏ trên thập tự giá và kinh nghiệm Đấng Christ cách đầy đủ, anh em sẽ được đầy dẫy, vui mừng và thỏa mãn. Anh em sẽ nói “Ha-lê-lu-gia! Tôi được đầy dẫy và thỏa mãn. Tôi có sự bình an. Tôi có thức ăn và nước uống. Tôi có mọi sự”. Đây là dấu hiệu cho thấy Đức Chúa Trời đang thỏa mãn.

2) Tránh Khỏi Sự Rủa Sả

Dâng Đấng Christ lên Đức Chúa Trời qua thập tự giá khiến sự rủa sả phải tránh xa. Hậu quả sự sa ngã thứ nhứt là con người bị đặt dưới sự rủa sả (3:17). Sự rủa sả là gì? Nói cho cùng, sự rủa sả là sự chết. Sự chết, bao gồm mọi đau khổ khác, là kết cuộc của sự rủa sả. Việc chúng ta dâng Đấng Christ lên Đức Chúa Trời qua thập tự giá làm cho sự rủa sả tránh xa. Điều này nghĩa là nó làm cho sự chết tránh xa. Mọi lằm bằm, nói tầm phào, chỉ trích, than phiền,v.v… đều là dấu hiệu của sự rủa sả của sự chết. Tất cả những điều này được loại trừ bởi kinh nghiệm Đấng Christ qua thập tự giá. Không kinh nghiệm Đấng Christ qua thập tự giá, chúng ta sẽ ở dưới sự rủa sả của sự chết, lằm bằm, nói tầm phào, chỉ trích và than phiền. Khi đó, nếu đến với buổi nhóm Hội Thánh, chúng ta sẽ ở dưới sự rủa sả của sự chết. Hễ khi nào đến buổi nhóm và có cảm nhận rằng buổi nhóm đó ở dưới sự chết, điều đó có nghĩa là, không nhiều thì ít, buổi nhóm đó đang ở dưới sự rủa sả nào đó. Nhưng khi đến với buổi nhóm và buổi nhóm đó đầy dẫy sự sống, chúng ta có cảm nhận rằng điều gì đó đang sống động, nóng cháy, và chiếu sáng; không có sự rủa sả ở đó. Sự rủa sả bị ngăn chặn. Thay vì có sự rủa sả của sự chết, chúng ta có phước hạnh của sự sống. Trong Kinh Thánh, sự rủa sả cuối cùng là sự chết, và phước hạnh lớn nhất là sự sống. Sự sống là phước hạnh có sẵn của Đức Chúa Trời (Thi. 133:3). Trong một buổi nhóm tốt của Hội Thánh, sự chết bị nuốt mất và sự rủa sả bị ngăn chặn.

3) Đem Phước Hạnh Đến Trên Đất

Dâng Đấng Christ lên Đức Chúa Trời qua thập tự giá là đem phước hạnh đến trên đất (8:22). Có tám điều được đề cập trong Sáng Thế Ký 8:22. Thứ nhứt là mùa gieo hạt, thời điểm gieo hạt giống. Trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta phải gieo Đấng Christ vào trong người khác. Chúng ta phải rao giảng Phúc Âm và cung ứng Đấng Christ là Hạt Giống Sự Sống cho người khác. Khi gieo Ngài, chúng ta có mùa gieo hạt. Sau điều này, chúng ta có mùa gặt. Mùa gieo hạt là sự bắt đầu, mùa gặt là sự hoàn thành, thời điểm thu hoạch. Không những chúng ta cung ứng Đấng Christ cho người khác, mà còn đem mùa gặt đến. Sản sinh một người mới với Đấng Christ trong người đó là mùa gặt của chúng ta.

Điểm thứ ba và thứ tư là lạnh và nóng. Nếu anh em muốn khỏe mạnh, thì nơi ở tốt nhất là nơi mà trời lạnh vào mùa đông và nóng vào mùa hè. Chúng ta không nên hâm hẩm. Một mặt, Hội Thánh phải lạnh –lạnh đối với Sa-tan, tội lỗi và thế giới. Với Sa-tan, tội lỗi và thế giới, chúng ta giống như một núi băng khổng lồ. Chúng ta cũng phải lạnh đối với bản ngã, xác thịt, sự-sống-hồn và tất cả những điều tiêu cực khác. Chúng ta có thể nói “Ớ Sa-tan, hãy đến đây. Chúng ta sẽ làm ngươi đông lạnh cho đến chết”. Mặt khác, chúng ta cần sưởi ấm, hâm nóng người khác. Sáng Thế Ký 8:22 cũng nói về mùa hè và mùa đông, ngày và đêm. Đây là phước hạnh của sự sống.

Trong nếp sống Hội Thánh đúng đắn, phải có giá lạnh, mùa đông đối với Sa-tan, và ban đêm để chúng ta ngủ. Chúng ta cũng cần có sức nóng, mùa hè và ban ngày đối với Đức Chúa Trời. Đây là phước hạnh. Hãy nhìn xã hội ngày nay. Không có lạnh, nóng, hè, đông, ngày hay đêm. Những người tham dự các hộp đêm biến đêm thành ngày và ngày thành đêm. Vì không có nếp sống đúng đắn nên họ ở dưới sự rủa sả. Trong Hội Thánh, chúng ta phải có nếp sống đúng đắn dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời. Không như chúng ta, nhiều người không đã không quen với nếp sống Hội Thánh. Chúng ta, những người đã quen với nếp sống Hội Thánh, thật sự đang ở dưới phước hạnh của Đức Chúa Trời, không những về thuộc linh và tinh thần mà ngay cả về thuộc thể. Tất cả những người trong Hội Thánh đều rất khỏe mạnh vì họ ở dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời qua nếp sống Hội Thánh. Nhiều người trong Hội Thánh có thể làm chứng rằng trước khi bước vào nếp sống Hội Thánh, họ yếu đuối và bệnh hoạn. Nhiều người mắc bệnh về tâm thần, nhưng sau khi ở trong nếp sống Hội Thánh, họ trở nên tỉnh táo và khỏe mạnh. Đây là phước hạnh. Phước hạnh này đến như kết quả của việc dâng Đấng Christ lên Đức Chúa Trời qua thập tự giá. Thưa các chị, nếu muốn được khỏe mạnh, các chị cần kinh nghiệm Đấng Christ và dâng Ngài lên cho Đức Chúa Trời qua thập tự giá. Nếu sống cách này trong một thời gian ngắn, chị em sẽ thấy mình mạnh mẽ thể nào và tinh thần trở nên tỉnh táo làm sao. Mỗi chị em trẻ sống theo cách này đều sẽ khỏe mạnh cả về tinh thần lẫn tình cảm. Hầu hết các chị em trẻ đều mắc bệnh hoặc về tình cảm hoặc về tinh thần. Không một bác sĩ nào có thể giúp họ. Tuy nhiên, nếu chị em sống nếp sống Hội Thánh, chính Đấng Christ mà chị em dâng lên cho Đức Chúa Trời, sẽ chữa lành chị em. Ngài giỏi hơn bất kỳ bác sĩ tâm thần nào. Đừng tìm đến bác sĩ –hãy đến với Đấng Christ và dâng Ngài lên cho Đức Chúa Trời. Khi đó, chị em sẽ khỏe mạnh, tỉnh táo, và quân bình về tình cảm. Vì nếp sống Hội Thánh là nếp sống đúng đắn nên nếp sống này đem phước hạnh của Đức Chúa Trời đến. Bình an, vui vẻ, thương yêu, cảm thông, nhân từ, sống bình thường –đều là những dấu hiệu của một nếp sống phước hạnh như vậy, là nếp sống đến bởi sự kinh nghiệm Đấng Christ qua thập tự giá.

e. Hoàn Thành Mục Đích Của Đức Chúa Trời

Nếp sống Hội Thánh trở lại với ban đầu để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời (9:1-2,6-7). Ban đầu là sự biểu lộ và đại diện Đức Chúa Trời (1:26). Đức Chúa Trời đã tạo dựng con người như hình Ngài để con người có thể biểu lộ Ngài, và Ngài đã giao cho con người quyền quản trị để con người có thể đại diện Ngài. Con người đã thất bại trước Đức Chúa Trời trong cả hai điều này. Do đó, Đức Chúa Trời đã cứu 8 người qua nước và đem họ vào trong sự phục sinh, vào một thời đại mới. Sau đó, Đức Chúa Trời tuyên bố lại mục tiêu của Ngài cho loài người đã được phục sinh. Đây là nếp sống Hội Thánh. Trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta đã được đem trở lại mục tiêu nguyên thủy của Đức Chúa Trời –đó là con người biểu lộ và đại diện Ngài. Bây giờ, trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Ngài.

Hội Thánh thậm chí có thể và phải thi hành uy quyền thiên thượng của mình để cai trị tình hình thế giới hiện nay. Chúng ta phải nói với Chúa “Chúa ơi, chúng con không đồng ý với tình trạng này trong thế giới hiện nay. Nó phải vì những gì Ngài quan tâm”. Chúng ta phải vận dụng linh và tuyên bố như vậy trước toàn thể vũ trụ. Hội Thánh có quyền làm điều này. Rất tiếc mà nói, phần lớn Cơ-đốc nhân đã mất cái nhìn về điều này. Họ không nhận thức rằng Hội Thánh có quyền như vậy.

Chúng ta là một dân được phục sinh, một dân từ chỗ sa ngã đã được đem trở lại điều ban đầu. Chúng ta đã sa ngã trong A-đam, nhưng trong Đấng Christ, chúng ta đã được khôi phục. Trong Đấng Christ, chúng ta đã được đem trở lại ban đầu để biểu lộ và đại diện Đức Chúa Trời. Trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta có sự sống để biểu lộ Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể nói với người khác rằng “Anh em có muốn thấy Đức Chúa Trời không? Anh em có muốn biết Đức Chúa Trời không? Hãy đến với Hội Thánh, anh em sẽ thấy Ngài. Trong Hội Thánh, anh em sẽ thấy sự biểu lộ Đức Chúa Trời”. Hơn nữa, Hội Thánh được ban cho uy quyền để đại diện Đức Chúa Trời trong thời đại này trên đất. Chúng ta là những đại sứ của Đấng Christ (2Cô. 5:20). Đừng cầu nguyện với Chúa, Đấng có uy quyền và quyền tể trị cả vũ trụ này, theo cách nài nỉ, đáng thương. Vì có uy quyền, chúng ta nên cầu nguyện để thi hành và tuyên bố uy quyền này. Qua sự cầu nguyện, chúng ta nên bày tỏ thái độ của mình bằng cách nói “Chúng con không đồng ý với những điều ác đang xảy ra trên quốc gia này”. Chúa sẽ tôn trọng loại cầu nguyện như vậy vì trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta là đại diện của Đức Chúa Trời.

Sáng Thế Ký 1:26 nói rằng con người được làm nên như hình ảnh của Đức Chúa Trời. Cô-lô-se 3:10 bảo rằng Hội Thánh là Người Mới được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Điều này nghĩa là nếp sống Hội Thánh thay thế A-đam sa ngã. A-đam đã đánh mất vị trí, và Hội Thánh đã được đặt vào chỗ đó. Bây giờ, Hội Thánh thay thế A-đam để thi hành uy quyền thần thượng trên muôn vật. Sau nước lụt, Đức Chúa Trời phán với Nô-ê rằng mọi loài sống đều ở dưới quyền của ông (9:2). Không những vào thời điểm tạo dựng, mà cũng vào thời điểm phục sinh, mọi loài sống đã được định ở dưới uy quyền của con người. Chúng không được định để ở dưới uy quyền của con người sa ngã, nhưng ở dưới uy quyền của con người được phục sinh. Anh em là người sa ngã hay là người phục sinh trong nếp sống Hội Thánh? Tất cả chúng ta phải chỗi dậy và nói với kẻ thù rằng chúng ta không đồng ý với những việc làm gian ác của nó và nó phải tránh xa chúng ta. Nhiều khi chúng ta cần phải cầu nguyện như vậy. Chúng ta nên cầu nguyện theo cách này trong các buổi nhóm cầu nguyện của Hội Thánh. Đôi khi “những con quạ” không chỉ ăn xác chết mà cũng trở lại để quấy rối nếp sống Hội Thánh. Vì thế, chúng ta phải thi hành uy quyền và nói với kẻ thù rằng chúng ta không đồng ý với những sự quấy rối như thế và không cho phép chúng xảy ra. Chúng ta có quyền nói điều này vì chúng ta đã được đặt vào vị trí đại diện Đức Chúa Trời. Chúng ta đã được đặt vào vị trí ban đầu của con người. Đây là nếp sống Hội Thánh. Chúng ta không những sống mà còn cai trị. Một Hội Thánh tại một địa phương nào đó nên cai trị địa phương đó. Nếu Hội Thánh đó đúng đắn và ở trong vị trí đúng đắn, Hội Thánh có uy quyền để cai trị mọi tình thế.

f. Sống Dưới Giao Ước Của Đức Chúa Trời

1) Không Còn Đoán Phạt Bằng Sự Chết Nữa

Sau đó, Đức Chúa Trời lập một giao ước với Nô-ê và với mọi loài sống (9:8-11). Giao ước này chủ yếu có một phương diện –sự chết không bao giờ xảy đến nữa qua sự phán xét bằng những dòng nước sự chết. Giao ước ở đây chủ yếu ngụ ý rằng trong nếp sống Hội Thánh không còn có sự chết nữa mà là sự sống. Tám người đã sống dưới giao ước đó. Vì không ở trong bối cảnh của họ, chúng ta khó hiểu được những cảm xúc của họ khi ra khỏi tàu. Giả sử anh em là một trong các nàng dâu của Nô-ê. Sau khi ra khỏi tàu, anh em vẫn còn sợ, nghĩ rằng một lát sau nước lụt có thể lại xảy đến. Có lẽ anh em sẽ tự nhủ: “Trước nước lụt, tôi thật vững tâm. Tôi nhìn trời, và trời thật trong xanh. Tôi thật vững tâm vì bầu trời thật quang đãng. Tôi không sợ hãi. Bây giờ qua kinh nghiệm nước lụt, tôi không còn vững tâm nữa. Bầu trời quang đãng, nhưng biết đâu nước lụt sẽ lại đến”. Những người này không vững tâm; họ cảm thấy bị đe dọa và sợ hãi. Điều này có nghĩa là ngay cả sau khi được cứu và được đem vào nếp sống Hội Thánh, chúng ta vẫn còn ở dưới sự đe dọa của sự chết. Nhiều người bị đe dọa bởi những tội ám ảnh và khả năng dễ nổi nóng. Họ ghét sự nổi nóng của mình. Cách đây hai tuần, bầu trời của họ thật quang đãng, nhưng thình lình sấm nổ vang và trời mưa như trút –đó là sự nổi nóng của họ. Hễ khi nào điều này xảy ra, họ sợ hãi. Nhiều thánh đồ đã nói với tôi “anh Lý ơi, ở trong nếp sống Hội Thánh rất tốt. Nhưng chúng tôi không có đức tin hay sự bảo đảm rằng ngày nào cũng sẽ như vậy. Hôm nay tôi rất tử tế với vợ, nhưng biết đâu hai ngày sau, tôi sẽ nổi nóng và thế là phá sản. Tôi không biết chắc và không có sự bình an. Tôi đầy lo sợ”. Một số chị em không có sự bình an với chồng hay với chính mình. Họ sợ rằng nước lụt sẽ lại đến, và những dòng nước sự chết sẽ trở lại.

Cảm nhận được sự lo sợ mà Nô-ê và những người khác sẽ có, nên Đức Chúa Trời lập một giao ước với họ. Dường như Đức Chúa Trời phán rằng “Hãy bình an và vững tâm. Nước lụt sẽ không đến nữa. Sẽ không còn những dòng nước sự chết nữa”. Điều này nghĩa là chúng ta có thể vững tâm và bình an trong nếp sống Hội Thánh vì không có sự chết nữa. Bây giờ trong Đấng Christ, không có sự định tội (La. 8:1), không có nước sự chết. Chúng ta đang ở trong La-mã chương 8 là nơi không có sự định tội, không nước lụt, không sự chết và không sự phán xét. Càng nói “Không còn nữa”, càng nhận thức rằng chúng ta không có sự chết. Đừng tin cảm xúc của anh em và đừng nghe những lời thuyết phục của anh em. Những lời thuyết phục của anh em không đáng tin cậy; đó là lời nói dối. Anh em phải sống dưới giao ước của Đức Chúa Trời. Đừng sống dưới cảm xúc, những lời thuyết phục của anh em hay bất kỳ môi trường nào. Giao ước của Đức Chúa Trời tuyên bố rằng hễ khi nào bầu trời đầy mây, Đức Chúa Trời sẽ khiến cầu vồng xuất hiện. Khi nhìn thấy cầu vồng, anh em biết rằng nước lụt sẽ không đến. Nếu vợ hay chồng của anh chị em rất vui vẻ trong hai tuần, bất ngờ bầu trời trở nên đầy mây thì đừng tin vào đó. Anh em phải nói “Chúa ơi, hãy ban cầu vồng”. Đừng tin rằng chồng mình sẽ nổi nóng, nhưng hãy nói “Chúa ơi, Ngài là thành tín. Ngài có thể xua tan đám mây và khiến cầu vồng xuất hiện”. Nếu nói như vậy, bầu trời sẽ quang đãng.

Đừng tin anh em yếu đuối. Đó là sự lừa dối của Sa-tan. Đừng tin rằng anh em sẽ nổi nóng, sẽ sa ngã. Nếu tin điều tiêu cực và nói tiêu cực thì điều tiêu cực sẽ đến. Những lời tiên tri như vậy chắc chắn được ứng nghiệm. Nếu sợ điều gì đó và nói trước về điều đó thì điều đó sẽ xảy ra. Đừng tin vào những yếu đuối của mình. Anh em có tin những yếu đuối của mình không? Bây giờ anh em đang sống dưới sự yếu đuối của mình hay dưới giao ước của Đức Chúa Trời? Toàn bộ Tân Ước được gọi là chúc thư mới. Một chúc thư thậm chí tốt hơn cả giao ước. Chúng ta có một chúc thư gồm 27 Sách, một giao ước gồm 27 Sách. Giao ước này nói rằng “Cho nên hiện nay chẳng có sự định tội cho những kẻ ở trong Đấng Christ Jesus” (8:1). Giao ước này cũng nói rằng “Ân điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta đã được làm cho hoàn hảo trong sự yếu đuối” (2Cô. 12:9). Anh em có tin điều này không? Nếu tin, nên đáp “A-men” cách mạnh mẽ. Giao ước này cũng nói “Đấng Christ… đã bãi bỏ sự chết” (2Ti. 1:10). Anh em có tin điều này không? Đừng nhìn chính mình –hãy nhìn xem Đấng Christ. Hễ khi nào nhìn chính mình, anh em sẽ run sợ. Chúng ta không nên sống bởi chính mình, nhưng sống dưới giao ước của Đức Chúa Trời. Ô, chúng ta có một giao ước! Giao ước Đức Chúa Trời đã lập với Nô-ê rất ngắn, hầu như chỉ dài nửa chương. Nhưng giao ước của chúng ta có đến 27 Sách. Anh em có yếu đuối không? Anh em phải nói “Không, tôi không còn yếu đuối nữa, vì giao ước nói với tôi rằng tôi có thể mạnh mẽ trong ân điển vốn ở trong Đấng Christ Jesus” (2Ti. 2:1) và tôi có thể “khoe khoang trong sự yếu đuối tôi, hầu cho quyền năng của Đấng Christ có thể phủ che tôi” (2Cô. 12:9). Nói cách thuộc linh, tôi thích bài hát mà tôi đã học khi còn nhỏ “Jesus yêu tôi –Tôi biết điều này vì Kinh Thánh nói với tôi như vậy”. Chúng ta cũng có thể nói “Tôi mạnh mẽ trong ân điển –tôi biết điều này vì Kinh Thánh nói với tôi như vậy”. Chúng ta có thể tuyên bố “Tôi sẽ được gìn giữ không bị sa ngã –tôi biết điều này vì Kinh Thánh nói với tôi như vậy” (Giu. 24). Một số anh em có thể không có đức tin để nói như vậy. Anh em có thể nghĩ rằng điều này là quá đáng, và hỏi “Làm thế nào anh có thể nói: ‘Tôi sẽ được gìn giữ không bị sa ngã –tôi biết điều này?’ Tôi không dám nói như vậy. Nếu tối nay tôi nói như vậy, chắc chắn ngày mai tôi sẽ sa ngã”. Đúng, anh em sẽ ngã chỉ vì anh em nói tiên tri rằng mình sẽ ngã. Anh em sẽ ngã vì anh em đang sống theo cảm xúc của mình, không sống dưới giao ước của Đức Chúa Trời.

Trong giao ước của Ngài, Đức Chúa Trời phán “Chẳng có nước lụt nữa, cũng chẳng còn sự đoán phạt bằng nước lụt nữa”. Nếu sống vào thời đó, anh em có đáp “A-men” không? Tôi sẽ đáp “A-men” nhiều lần. Khi thấy những đám mây, Nô-ê không cần lo sợ vì ông biết rằng cầu vồng sẽ xuất hiện. Vì thế, khi đám mây giận dữ xuất hiện, anh em có thể nói “Chúa ơi, con sẽ không nóng giận. Hãy khiến cầu vồng xuất hiện. Con không quan tâm đến đám mây –Con quan tâm đến cầu vồng. Bầu trời tối tăm và nhiều mây nhưng cầu vồng đầy màu sắc sẽ xuất hiện. Hãy nhìn xem cầu vồng”. Khi nói như vậy, anh em gọi những điều không có như đã có bởi đức tin. Đức tin này không theo trí tưởng tượng của anh em nhưng theo 27 Sách giao ước thành văn của Đức Chúa Trời.

Sau nước lụt, 8 người đã trở nên những người của giao ước. Họ là dân thuộc về giao ước. Trong nếp sống Hội Thánh, trong sự phục sinh của Đấng Christ, chúng ta là dân thuộc về giao ước. Chúng ta có một giao ước. Chúng ta không đang sống dưới bất kỳ niềm tin, sự suy nghĩ hay lời nói dối nào; chúng ta đang sống dưới giao ước của Đức Chúa Trời. Ngày nay, chúng ta đang sống dưới Tân Ước. Anh em có yếu đuối không? Anh em có sắp nóng giận, đánh vợ hay yêu mến thế giới không? Anh em có thể nói “Không, vì Kinh Thánh nói với tôi như vậy”. Chúng ta được an toàn, được bảo đảm và được bảo vệ bởi những lời hứa trong giao ước của Đức Chúa Trời. Những lời hứa này thật lớn lao và quí báu, bởi đó chúng ta có thể là những người dự phần bản chất thần thượng của Đức Chúa Trời và thoát khỏi sự hư nát đang ở trong thế giới bởi tư dục (2Phi. 1:4).

2) Với Cầu Vồng Như Dấu Hiệu Về Sự Thành Tín 
Của Đức Chúa Trời Trong Việc Giữ Giao Ước Ngài

Cầu vồng mà Đức Chúa Trời đặt trên mây như một dấu hiệu của giao ước (9:12-17) có ý nghĩa gì? Điều đó tiêu biểu cho sự thành tín của Đức Chúa Trời. Sự thành tín của Đức Chúa Trời là cầu vồng. Trong Khải Thị, Sách cuối cùng của Kinh Thánh, sứ đồ Giăng thấy Đức Chúa Trời đang ngự trên ngai và xung quanh ngai ấy có một cầu vồng (Khải. 4:3). Là Sách kết luận của Kinh Thánh, Khải Thị luôn đem chúng ta trở lại với điều ban đầu của Kinh Thánh. Trong Sách đầu tiên của Kinh Thánh, có một cầu vồng, và trong Sách cuối cùng của Kinh Thánh, chúng ta vẫn thấy một cầu vồng. Sự thành tín của Đức Chúa Trời còn mãi đến đời đời. Ngài không thể tự chối Mình (2Ti. 2:13). Một khi đã phán, Ngài giữ Lời. Chính Ngài là Sự Thành Tín. 1Cô-rin-tô 1:9 nói “Đức Chúa Trời là thành tín, do Ngài mà anh em đã được gọi vào trong sự tương giao của Con Ngài là Jesus Christ, Chúa chúng ta”, và 1Giăng 1:9 nói “Nếu chúng ta thừa nhận tội mình, thì Ngài là thành tín và công chính sẽ tha tội cho chúng ta và tẩy sạch chúng ta khỏi mọi sự bất chính”. Đức Chúa Trời là thành tín.

Đức Chúa Trời thành tín với điều gì? Ngài thành tín với những gì Ngài phán. Ngài thành tín với Lời Ngài, và Lời Ngài là chúc thư, giao ước. Giao ước đơn giản là chính Lời của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là thành tín trong bất cứ điều gì Ngài phán. Đây là cầu vồng. Hễ khi nào đám mây xuất hiện, anh em phải gọi sự thành tín của Đức Chúa Trời đến. Điều này nghĩa là anh em gọi cầu vồng đến. Hễ khi nào cảm thấy yếu đuối, anh em phải kêu đến sự thành tín của Đức Chúa Trời rằng “Ô Đức Chúa Trời, Ngài là thành tín. Con yếu đuối, nhưng Ngài phải làm cho con mạnh mẽ theo như Lời Ngài”. Tất cả chúng ta đang sống dưới giao ước với sự thành tín của Đức Chúa Trời như một dấu hiệu chắc chắn rằng nước lụt sẽ không có nữa. Đây là nếp sống Hội Thánh.

Nếp sống Cơ-đốc và nếp sống Hội Thánh của chúng ta hoàn toàn là nếp sống của giao ước. Chúng ta ở dưới giao ước. Hết câu này đến câu khác trong Tân Ước, chúng ta tìm thấy những lời hứa của Đức Chúa Trời. Tôi muốn cho anh em một lời hứa trong số đó mà tôi đã kinh nghiệm rất nhiều. “Chẳng có sự cám dỗ nào xảy đến cho anh em ngoài thường tình loài người; nhưng Đức Chúa Trời là thành tín, ắt chẳng để cho anh em bị cám dỗ quá sức đâu, song cùng lúc bị cám dỗ, Ngài chắc cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu nổi” (1Cô. 10:13). Có một câu cho mọi tình huống mà anh em đối diện. Nếu anh em bám chặt vào giao ước của Đức Chúa Trời, tôi có thể hứa với anh em rằng bất kể điều gì xảy đến cho anh em, thì luôn luôn có một câu Kinh Thánh như một lời hứa sống để anh em nương dựa và sống bởi đó. Tất cả chúng ta cần học tập sống dưới giao ước của Đức Chúa Trời là như thế nào. Chúng ta không nên bị đe dọa hay sợ hãi bởi những đám mây kết án, cảm xúc hay hoàn cảnh. Chúng ta đang ở dưới giao ước của Đức Chúa Trời, hoàn toàn ở dưới phước hạnh của Ngài. Không còn sự định tội, không còn sự đoán phạt, không còn sự rủa sả nữa. Sự chết đã bị hủy bỏ. Trong Hội Thánh, chúng ta liên tục vui hưởng sự sống. Mọi điều là sự sống. Đừng sợ hãi vì thất nghiệp hay không có sức khỏe. Đừng để bất kỳ sự tối tăm hay điều tiêu cực nào đe dọa mình. Chúng ta là dân giao ước và chúng ta có một lời hứa thỏa đáp cho mọi tình trạng. Chúng ta phải đứng dưới giao ước và không tin vào bất kỳ sự thất bại, yếu đuối, tối tăm hay điều tiêu cực nào. Phần định của chúng ta là ở dưới giao ước được rảy huyết. Ha-lê-lu-gia! Chúng ta là dân thuộc giao ước! Không có mây và không nước lụt –chỉ có sự sống. Không có sự rủa sả –chỉ có phước hạnh. Nếp sống Hội Thánh là một nếp sống như thế, và dân Hội Thánh là dân ở dưới giao ước. Chúng ta thực sự có thể được gọi là Hội Thánh của giao ước.

 

 

 

BÀI BA MƯƠI BA

Đời Sống Trong SỰ Phục Sinh
(2)

Trong bài này, chúng ta sẽ thấy thêm nữa hình bóng về nếp sống Hội Thánh như được tiêu biểu trong Sáng Thế Ký chương 8 và 9, lần này sẽ xem đôi điều về mặt tiêu cực.

g. Sự Thất Bại 
Của Người Lãnh Đạo Và Uy Quyền Đại Diện

Giữa tất cả các phương diện tích cực của nếp sống Hội Thánh, một điều gì đó tiêu cực đã xảy ra –Sự thất bại của Nô-ê, người lãnh đạo và là uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời trên đất mới (9:20-27).

1) Do Sự Thành Công Của Công Việc

Tại sao Nô-ê thất bại? Vì ông đã rất thành công. Theo lời ký thuật của Sáng Thế Ký, Nô-ê đã trở thành người lãnh đạo trên đất mới và là tổ phụ của toàn thể nhân loại trên đất. Vào thời đó, với tư cách là tổ phụ và là người lãnh đạo của toàn thể nhân loại, Nô-ê chắc chắn đang ở dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời. Nô-ê bắt đầu trở thành một nông gia và trồng một vườn nho (9:20). Chúng ta biết ông đã thành công trong điều này vì vườn nho đã sản sinh nho mà từ đó làm ra rượu (9:21). Sau đó, Nô-ê có phần nào phóng túng. Rượu nho thì bổ dưỡng và Nô-ê đã uống quá mức. Ông đã say trong sự phóng túng này. Lẽ ra nên tiết chế, nhưng ông đã không làm như vậy và đã trở nên say sưa. Bị say rượu, ông không những phóng túng mà còn bất cẩn, trở nên lõa lồ mà không biết. Ông không ý thức sự lõa lồ của mình, và Cham, con trai ông, nhìn thấy điều này. Điều này cho thấy rằng tất cả chúng ta phải cẩn thận khi kinh nghiệm bất kỳ sự thành công nào dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời vì sự thành công đó dễ dàng khiến chúng ta phóng túng và bất cẩn. Chúng ta không nên vui vẻ quá đáng với sự thành công của mình. Thay vào đó, chúng ta nên vui mừng trong sự chịu khổ. Khi chịu khổ, chúng ta phải vui mừng (La. 5:3). Nhưng khi thành công, chúng ta phải cẩn thận. Bất cứ loại thành công nào cũng đều có thể làm cho anh em phóng túng trong hiện diện của Đức Chúa Trời. Sau khi phóng túng, anh em có thể trở nên bất cẩn. Rồi anh em có thể mất ý thức, thậm chí trở nên lõa lồ. Lõa lồ nghĩa là gì? Nghĩa là đánh mất sự che phủ của mình trong cách nhìn của Đức Chúa Trời.

Ở đây tôi phải nói một lời mạnh mẽ. Là người sa ngã, chúng ta cần sự che phủ. Chúng ta cần sự che phủ không những về thuộc linh mà cũng về thuộc thể. Về thuộc linh và thuộc thể, chúng ta phải được che phủ trong hiện diện của Đức Chúa Trời. Trước khi sa ngã, con người trần truồng trước mặt Đức Chúa Trời. Không có gì sai trong sự trần truồng đó vì không có tội lỗi. Sau khi sa ngã, vì tội lỗi đã bước vào nên trần truồng là một điều tội lỗi. Chúng ta tội lỗi trong bản chất và cần một sự che phủ đúng đắn trong hiện diện của Đức Chúa Trời.

Nói theo thuộc thể, y phục là sự che phủ đúng đắn của chúng ta. Ngay sau khi sa ngã, A-đam và Ê-va khám phá thấy mình lõa lồ và đã cố hết sức để che phủ mình (3:7), nhưng họ đã không làm tốt điều đó. Rồi Đức Chúa Trời đến, che phủ họ bằng những tấm da của con sinh (3:21). Sự che phủ đó cũng là hình bóng về Đấng Christ là sự che phủ cho con người sa ngã. Nói cách thuộc thể, con người sa ngã cần sự che phủ, đặc biệt là trước mặt Đức Chúa Trời. Những thầy tế lễ không được phép lõa lồ, họ phải được che phủ hoàn toàn khi bước vào hiện diện của Đức Chúa Trời (Xuất. 20:25-26; 28:40-43).

Con người ngày nay thích khỏa thân, phơi bày thân thể càng nhiều càng tốt. Không cần phải hỏi Kinh Thánh nói gì về điều này –hãy tự hỏi chính mình. Anh em không cảm thấy trần truồng là điều xấu hổ sao? Bản chất anh em tự nói rằng điều đó là xấu hổ. Tình trạng ngày nay thật đáng thương. Người ta không chỉ đi ngược với Kinh Thánh mà còn trái nghịch bản chất và ý thức của họ. Cả nam lẫn nữ phải che phủ thân thể. Do sự nhận thức sâu xa này, tôi cố gắng che phủ mình càng nhiều càng tốt. Tôi không thích để thân thể mình phơi bày. Càng được che phủ, càng giấu mình dưới sự che phủ, chúng ta càng có sự bình an. Khi còn trẻ, tôi thấy một số người mặc quần ngắn vào mùa hè. Nếu mặc quần ngắn khi đứng lên cung ứng, tôi sẽ không thể nào phát ngôn. Ngay cả đứng trên bục giảng đi chân không hay mặc áo sơ-mi ngắn tay, tôi cũng thấy thật khó chia sẻ. Càng phô bày thân thể vật lý, chúng ta càng ít có sự bình an. Nếu đọc Kinh Thánh, anh em sẽ thấy rằng nhận thức về sự lõa lồ xuất phát từ sự sa ngã. Dù thánh khiết đến đâu, chúng ta vẫn cần sự che phủ. Thân thể vật lý của chúng ta phải được che phủ. Nếu để toàn thân thể mình được che phủ, kể cả đầu và đôi tay, tôi có thể phát ngôn tốt hơn nhiều vì tôi biết chắc rằng không một ai thấy tôi. Tôi có thể phát ngôn theo cách được che phủ. Tất cả chúng ta phải che phủ chính mình càng nhiều càng tốt.

Chúng ta cần sự che phủ thuộc linh thậm chí nhiều hơn sự che phủ thuộc thể. Sự che phủ thuộc linh của chúng ta là gì? Đó là Đấng Christ. Theo hình bóng, tất cả những vải vóc và quần áo là hình bóng về Đấng Christ là Sự Che Phủ của chúng ta (Lu. 15:22; Thi. 45:13). Nói cách thuộc linh, lõa lồ là đánh mất sự che phủ trong hiện diện của Đức Chúa Trời, tức là đánh mất Đấng Christ là sự che phủ của mình. Trong sự tương giao, nhiều khi các anh trở nên phấn khởi quá mức về sự thành công nào đó mà họ đã đạt được. Trong sự chuyện trò đầy phấn khởi đó, khi họ trở nên phóng túng và bất cẩn, họ đánh mất Đấng Christ là sự che phủ. Trong hiện diện của Đức Chúa Trời, họ nói mà không có sự che phủ. Tôi đã thấy điều này giữa các chị em. Một số chị em yêu dấu đã cầu nguyện cách rất thuộc linh với sự che phủ hoàn toàn trong buổi nhóm Hội Thánh, nhưng khi đến giờ tương giao với nhau về những điều lý thú nào đó, họ trở nên phóng túng và bất cẩn. Họ đánh mất Đấng Christ là sự che phủ của mình. Trong một ý nghĩa, họ đã say rượu và lõa lồ. Hễ khi nào thấy tình trạng này giữa chị em, tôi không dám bước vào. Do được học tập trước đây, tôi đã đến chỗ nhận thức rằng thấy sự lõa lồ của bất kỳ thánh đồ nào đều không tốt. Khi các chị tham gia loại tương giao hứng thú, lõa lồ đó, thật không tốt cho tôi để nhìn thấy điều gì ở đó. Tôi muốn thấy một buổi nhóm cầu nguyện tuyệt vời, một buổi nhóm hết sức cao cả, với những lời cầu nguyện mạnh mẽ và tất cả anh chị em hoàn toàn ở dưới sự che phủ của Đấng Christ. Thật phước hạnh khi thấy một buổi nhóm như thế. Nhưng khi thấy tình trạng tiêu cực, tôi bỏ chạy vì không muốn thấy những gì được phô bày ở đó. Tất cả chúng ta phải cẩn thận để không bị phấn khởi đến mức trở nên phóng túng, bất cẩn, say sưa, lõa lồ và đánh mất sự che phủ đúng đắn. Nhiều khi chúng ta thích điều này ngay cả trong khi nói về những điều thuộc linh hay về nếp sống Hội Thánh. Thậm chí có thể khi đang nói về một buổi nhóm Hội Thánh cao trọng, nhưng chúng ta nói theo cách lõa lồ, không có sự che phủ của Đấng Christ. Là người sa ngã, chúng ta phải giữ chính mình được Đấng Christ che phủ trong mọi loại hoạt động, trong mọi điều chúng ta làm hay nói. Tôi sẽ không nói bất kỳ điều gì mà không có Đấng Christ che phủ. Tôi sẽ không nói với vợ, con hay với anh chị em mà không có Đấng Christ che phủ. Nếu làm bất kỳ điều gì mà không có sự che phủ của Đấng Christ, có nghĩa là tôi đang phóng túng, bất cẩn, say sưa và lõa lồ. Điều đó có nghĩa là tôi đã đánh mất sự tiết chế. Điều này chính xác đã xảy ra với Nô-ê.

Người trẻ phải học tập cách được che phủ hoàn toàn trong thái độ, lời nói và ngay cả trong sự tương giao. Đây là một bài học thật sự. Bất cứ điều gì anh em thiếu kém hiện nay sẽ bị phơi bày hoàn toàn khi lớn tuổi hơn. Chúng ta, người lớn tuổi hơn, phải nhận thức rằng sự thiếu hụt hiện nay của chúng ta phơi bày sự thiếu học tập của mình khi còn trẻ. Điều này tương tự trong sự giáo dục. Nếu không học tập đầy đủ khi còn trẻ, anh em sẽ cảm thấy mình thiếu tri thức nào đó khi lớn tuổi. Được cứu càng sớm càng tốt. Người trẻ phải được khích lệ học tập những bài học hôm nay. Bằng không, khi lớn tuổi hơn, sự thiếu hụt của họ sẽ phơi bày việc thiếu học tập hôm nay. Bây giờ là lúc học một số bài học về những chi tiết tinh tế liên quan đến đời sống thuộc linh.

2) Cham, Cha Của Ca-na-an 
Bị Rủa Sả Do Phơi Bày Sự Thất Bại

Nô-ê đã phạm sai lầm và thất bại. Khi tỉnh rượu, Nô-ê đã không xưng tội. Ông lập tức rủa sả người đã phơi bày sự lõa lồ của mình (9:22,24-25). Khi còn trẻ, tôi phần nào không vui với Nô-ê về điều này. Tôi nói “Nô-ê ơi, ông không nhận thức mình đã sai rồi sao? Lẽ ra ông nên xưng tội với Đức Chúa Trời, và sau đó, xưng tội với Cham, người con đã thấy ông lõa lồ. Thay vì thừa nhận, ông đã rủa sả”. Tôi thực sự băn khoăn. Nô-ê đã rủa sả kẻ phơi bày, và chúc phước cho những người che phủ. Ông đã rủa sả bất cứ ai đã không vì ông, và chúc phước cho kẻ nào đã vì ông. Có lẽ một vài người trong anh em cũng có nan đề với phân đoạn Lời này. Có lẽ anh em không hiểu tại sao điều này xảy ra.

Nói cách thuộc linh, thật dễ cho một người như Nô-ê khiêm nhường và xưng tội. Anh em không nghĩ rằng điều này là dễ sao? Nhưng rủa sả và chúc phước sẽ là điều rất khó cho người đã thất bại và bị phơi bày. Nô-ê là trưởng gia đình và là người đứng đầu nhân loại. Mọi người đều nhìn xem ông. Ông đã thất bại và bị phơi bày. Lẽ ra ông nên khiêm nhường, xưng ra và thừa nhận rằng mình đã thất bại. Tuy nhiên, vì Đức Chúa Trời đã lập ông làm người lãnh đạo, nên ông phải nói không theo sự nhận thức tội lỗi của mình, mà theo sự cai trị của Đức Chúa Trời. Làm điều nào thì dễ hơn –hạ mình và thừa nhận hay nói theo sự cai trị của Đức Chúa Trời? Thật dễ dàng để ai đó hạ mình, thừa nhận sự thất bại và xưng nó ra. Nhưng nếu Nô-ê làm như vậy, điều gì sẽ xảy đến cho sự cai trị của Đức Chúa Trời trên đất này? Hậu tự của ông sẽ ra sao? Gia tể của Đức Chúa Trời, sự quản trị của Đức Chúa Trời sẽ như thế nào? Nếu Nô-ê xưng tội như vậy thì rất tốt, nhưng điều đó có nghĩa là phá hỏng sự cai trị của Đức Chúa Trời trên đất. Ngoài Nô-ê, ai có thể đại diện Đức Chúa Trời để phát ngôn theo cách uy quyền như vậy? Không một ai ngoài Nô-ê có thể thực hiện công việc đó. Thật khó cho Nô-ê, một người đã thất bại, đại diện Đức Chúa Trời bằng cách phát ngôn theo cách của một người cai trị. Trong khi ông nói theo cách như vậy, có lẽ lương tâm đã quấy rầy và Ma Quỉ chắc đã kiện cáo lương tâm ông, rằng “Vì ngươi đã thất bại như thế làm sao ngươi có thể nói như vậy được?” Đôi khi những người dẫn dắt trong Hội Thánh sa vào loại tình trạng này, họ bỏ qua và không nói gì. Vì thế, không có sự cai trị thần thượng .

Đừng xét đoán Nô-ê theo quan niệm con người. Trong sự cai trị của Đức Chúa Trời, Nô-ê là một gương mẫu tốt. Dầu đã thất bại, ông vẫn rất mạnh mẽ để đại diện Đức Chúa Trời trong sự phát ngôn mang tính quản trị. Thật khó cho Nô-ê khi làm điều đó. Đừng nhìn Nô-ê từ khía cạnh của ông, khía cạnh thất bại. Phải nhìn tình trạng đó từ khía cạnh quản trị của Đức Chúa Trời. Chắc chắn Nô-ê đã sai. Ông đã phóng túng, bất cẩn, say sưa và lõa lồ. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn Nô-ê theo quan điểm về sự quản trị của Đức Chúa Trời.

Chúng ta nên làm gì khi người lãnh đạo sai phạm? Vấn đề này ảnh hưởng đến sự quản trị của Đức Chúa Trời. Có hai điều ở đây: sự quản trị thần thượng và thất bại của con người. Nếu muốn hiểu phân đoạn Lời thần thượng này, chúng ta phải thấy sự quản trị thần thượng là gì. Đó không chỉ là vấn đề về sự thất bại của con người. Dầu người lãnh đạo đúng hay sai, sự quản trị của Đức Chúa Trời vẫn phải được quan tâm. Cham, người phơi bày sự lõa lồ của Nô-ê, đã bất kể sự quản trị của Đức Chúa Trời. Phơi bày sự thất bại của người lãnh đạo có liên quan đến sự quản trị thần thượng. Tất cả chúng ta phải thấy điều này. Giả sử Nô-ê không phải là người lãnh đạo và không phải là uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời trên đất thì những gì người khác làm khi ông thất bại sẽ không nghiêm trọng đến thế. Bất kỳ điều gì họ làm sẽ không tác động đến sự quản trị của Đức Chúa Trời hay làm cho họ đụng đến sự xử lý mang tính quản trị của Ngài. Nhưng Nô-ê là người lãnh đạo, và là uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời trên đất. Thái độ của chúng ta phải thế nào đối với sự thất bại của một người lãnh đạo như thế? Điều này làm chúng ta đụng đến sự xử lý mang tính quản trị của Đức Chúa Trời. Môi-se đã sai trong việc cưới người nữ Ê-thi-ô-bi làm vợ (Dân. 12:1). Mi-ri-am nói nghịch với ông và đã bị rủa sả phải mắc bệnh phung (Dân. 12:10). Bà bị rủa sả vì đã bất kể đến sự quản trị của Đức Chúa Trời và đụng đến uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời theo cách tiêu cực.

Tại sao Kinh Thánh mạnh mẽ nói rằng hễ ai coi thường hay không tôn trọng cha mẹ sẽ bị rủa sả” (Phục. 27:16). Vì điều này liên hệ đến sự quản trị của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của trật tự, Đức Chúa Trời với sự quản trị của Ngài. Nếu nhìn vào sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, anh em sẽ thấy muôn vật ở trong một trật tự đúng đắn. Trật tự này có quan hệ đến sự quản trị của Đức Chúa Trời. Trong sự quản trị hoàn vũ của Đức Chúa Trời, cha mẹ là uy quyền của Đức Chúa Trời trên con cái. Khi con cái không tôn trọng cha mẹ là phản loạn chống lại sự quản trị của Đức Chúa Trời. Chúng không tôn trọng uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời trên đất. Khi làm như vậy, chúng nhận lấy sự rủa sả. Đa-vít đã sai nghiêm trọng khi giết U-ri và cướp vợ ông. Áp-sa-lôm, con trai Đa-vít, đã phản lại ông và bị rủa sả bằng sự chết (2Sa. 15:10; 18:14-15). Ngày nay, rất nhiều người trẻ xem thường và không tôn trọng cha mẹ, và kết quả là chúng đánh mất phước hạnh của Đức Chúa Trời. Hãy xem cách chúng sống và hành động –giống như thú vật cấp thấp. Chúng đã bỏ mất phước hạnh mà Đức Chúa Trời đã định cho con người. Tại sao chúng đánh mất phước hạnh của Đức Chúa Trời? Vì chúng bị rủa sả do không tôn trọng cha mẹ. Kinh Thánh nói rõ rằng ai tôn trọng cha mẹ sẽ nhận được phước hạnh sống lâu (Êph. 6:2-3). Thưa các bạn trẻ, nếu tôn trọng cha mẹ, anh em sẽ được phước bằng sự sống lâu, sống bình thường. Anh em sẽ biết làm thế nào để được khôn ngoan và cư xử như thể nào. Anh em sẽ biết điều gì là đúng đắn để có một đời sống bình thường. Anh em sẽ không ở dưới sự rủa sả, sống như thú vật cấp thấp. Có lối sống sai là dấu hiệu của sự rủa sả.

Tại sao Cham bị rủa sả? Vì ông đã đụng đến uy quyền của Đức Chúa Trời và đụng đến sự quản trị của Đức Chúa Trời. Nô-ê đã sai. Nhưng về phần Cham, lẽ ra ông nên xem xét vị trí của mình và sự quản trị của Đức Chúa Trời. Thất bại của người lãnh đạo luôn luôn trở thành một thử nghiệm cho chúng ta. Chúng ta có thật sự ở dưới sự quản trị của Đức Chúa Trời không? Nếu có, chúng ta sẽ được chúc phước. Nếu không, chúng ta sẽ mất phước. Thất bại của Nô-ê là một thử nghiệm cho các con trai ông. Cùng một sự thử nghiệm nhưng một người bị rủa sả còn hai người lại nhận được phước. Từ một sự thử nghiệm, anh em nhận được rủa sả hay phước hạnh là tùy thuộc vào cách anh em đụng đến sự quản trị của Đức Chúa Trời. Dầu thất bại của Nô-ê là điều xấu, nhưng đó lại là cơ hội tốt để Sem và Gia-phết nhận được phước hạnh.

Khi còn trẻ, tôi cảm thấy tiếc về phần ký thuật này của Kinh Thánh. Dường như hễ khi nào Đức Chúa Trời thực hiện điều gì đó thì Sa-tan bước vào để phá hỏng. Lúc đó, tôi chỉ thấy mặt đen, không thấy mặt trắng. Sau này, Chúa đã tỏ cho tôi rằng mặt trắng quan trọng hơn mặt đen. Nô-ê đã thất bại –đó là mặt đen. Sự phóng túng, bất cẩn, say sưa và lõa lồ của Nô-ê đều do công việc của Ma Quỉ qua xác thịt. Nhưng sự thất bại do Ma Quỉ gây ra này đã dẫn đến một phước hạnh lớn. Không có thất bại này, phước hạnh của Đức Chúa Trời không bao giờ có thể trở nên thiết thực như ngày nay. Tuy nhiên, đừng nói rằng “Chúng ta hãy làm ác để điều tốt có thể đến”. Đừng bao giờ nói như vậy. Phước hạnh của Đức Chúa Trời luôn luôn vượt quá sự tổn thất do Sa-tan gây ra. Sa-tan luôn phá hoại, nhưng Đức Chúa Trời liên tục ban phước. Dường như Đức Chúa Trời phán “Ớ Sa-tan, ngươi hãy cứ phá hoại những gì mà Ta đã làm đi. Một khi ngươi đã gây ra sự thiệt hại, Ta sẽ đến để ban phước. Phước hạnh của Ta sẽ vượt trỗi hơn sự phá hoại của ngươi”. Ai sẽ nhận phước hạnh này? Chỉ những người ở dưới sự quản trị của Đức Chúa Trời. Đừng bối rối bởi sự phá hoại mà Sa-tan làm ra đối với công tác của Đức Chúa Trời. Hãy giữ mình dưới sự quản trị của Đức Chúa Trời; và từ sự thiệt hại do Sa-tan gây ra, anh em sẽ nhận được phước hạnh.

Cham đã bỏ mất cơ hội bằng vàng để nhận được phước hạnh. Ông bỏ mất cơ hội vì không chú ý đến sự quản trị thần thượng. Việc ông nói lại với anh em mình dựa trên sự thật. Ông đã không lan truyền tin đồn hay nói dối. Nhưng Sem và Gia-phết, hai anh em của ông, đã nhận biết và tôn trọng sự quản trị của Đức Chúa Trời. Anh em có bao giờ để ý điều họ làm không? “Sem và Gia-phết đã lấy một cái áo choàng, để nó trên vai của họ, đi thụt lùi và che phủ sự lõa lồ của cha mình, và mặt họ xoay qua phía khác nên không thấy sự trần truồng của cha” (9:23). Thậm chí họ không nhìn thoáng qua sự lõa lồ của cha. Điều họ làm không những đúng đắn và có đạo đức mà còn hoàn toàn ở dưới sự quản trị của Đức Chúa Trời. Đừng bao giờ quên rằng tình trạng đó không những có liên hệ đến cách cư xử của con người mà còn quan hệ đến sự quản trị của Đức Chúa Trời. Hãy cẩn thận. Dù cha của anh em đúng hay sai thì đó là vấn đề cá nhân. Đừng quên rằng ông ở trong vị trí uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời trên đất. Nếu phơi bày sự thất bai của ông, anh em sẽ tự làm cho mình đụng đến sự quản trị của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải thấy điều này. Tôi nói điều tôi đã hoàn toàn kinh nghiệm. Sem và Gia-phết nhận biết sự quản trị của Đức Chúa Trời. Họ đã bước vào, không nhìn vào sự thất bại mà che phủ.

Thấy sự thất bại của người khác không phải là một phước hạnh. Khi đến thăm nhà một anh em, đừng đi quanh nhà để biết chi tiết. Điều đó không phải là phước hạnh mà là một sự rủa sả. Với anh em, điều đó không phải là được mà là mất. Hễ khi nào đến thăm nhà một anh chị em nào, anh em nên đến đó như người mù. Đây là lý do vì sao tôi có câu trả lời tốt cho nhiều người hỏi tôi về người khác. Tôi nói “Tôi không biết”. Tôi nói thật khi nói như vậy vì thực sự tôi không biết. Tôi đã được mời đến nhà một anh em kia nhiều lần, tôi không biết gì ngoài phòng khách và phòng ăn. Tôi không biết nhà bếp ở đâu. Tôi không muốn biết những điều như thế. Tôi thích được mù. Tôi muốn không biết gì cả. Tôi chỉ muốn biết điều mà Chúa đặt nặng trong tôi. Thưa anh chị em, hãy học tập đừng biết gì. Hãy học tập đừng thấy gì. Hãy học tập trở nên mù và điếc. Anh em có biết sự nói tầm phào ra từ đâu không? Nó ra từ việc thấy và nghe. Nếu điếc và mù, anh em sẽ không có gì để nói tầm phào. Tất cả chúng ta phải học tập không thấy tình trạng của người khác. Đừng cố gắng thấy những điều như thế, vì điều đó sẽ làm anh em đụng đến sự quản trị của Đức Chúa Trời. Đụng đến sự quản trị của Đức Chúa Trời không phải là điều nhỏ.

Trải nhiều năm, gần năm mươi năm, tôi đã thấy và nghe nhiều thánh đồ yêu dấu chỉ trích anh Nghê Thác Thanh. Tôi có thể làm chứng cách mạnh mẽ với anh em rằng không một ai trong những người chống đối anh Nghê hay chỉ trích rằng anh sai còn họ thì đúng mà nhận được phước hạnh. Nhiều người trong họ đã chịu mất mát thuộc linh. Một số mất sức khỏe còn số khác mất công ăn việc làm. Chắc chắn là không có trường hợp ngoại lệ. Trong những năm đầu, tôi không biết lý do cho điều này. Dần dần tôi biết rằng đó là vì tất cả những người chống đối và chỉ trích này đã đụng đến sự quản trị của Đức Chúa Trời.

Đây không phải là vấn đề người lãnh đạo đó đúng hay sai; mà là vấn đề anh em có ở dưới sự quản trị của Đức Chúa Trời hay không. Nếu người lãnh đạo luôn luôn đúng một trăm phần trăm, anh em sẽ không bao giờ được đưa vào thử nghiệm. Thất bại hay lỗi lầm của người lãnh đạo trở thành sự thử nghiệm của anh em để chứng tỏ anh em đang ở đâu. Nếu anh em ở trong vị trí đúng đắn dưới sự quản trị của Đức Chúa Trời, thất bại của người lãnh đạo sẽ trở nên phước hạnh của anh em.

Tôi xin kể cho anh em một câu chuyện về kinh nghiệm của tôi. Trong thời gian sáu năm, từ 1942 đến 1948, anh Nghê đã rời khỏi chức vụ. Do công việc của ma quỉ tại Trung Quốc, có một trận bão thuộc linh đã ngăn cản anh Nghê khỏi chức vụ. Anh và tôi đã xa nhau trong trận chiến này. Sau trận chiến đó, tức năm 1946, tôi từ miền Bắc được mời đến thủ phủ ở miền Nam. Khi một số đồng công, những người có liên quan đến trận bão chống anh Nghê và cũng biết tôi rất rõ, từ xa đã đến để gặp tôi, họ nói “Anh Lý à, anh có thể nói rằng anh Nghê đã từng sai không?” Tôi đáp “Thưa anh em, anh ấy sai hay đúng không phải là việc của tôi. Anh em phải thừa nhận một điều là tất cả chúng ta đều mắc nợ anh Nghê rất nhiều. Tất cả chúng ta phải thừa nhận rằng anh ấy giống như một người cha đối với tất cả chúng ta. Nếu anh ấy không phải là cha đối với anh em, tôi phải làm chứng mạnh mẽ rằng, trong gia tể của Chúa, chắc chắn anh ấy là cha đối với tôi. Trước khi gặp anh Nghê, tôi không biết gì về gia tể của Chúa. Anh ấy là cha thuộc linh của tôi và tình trạng thuộc linh của tôi có được là do anh ấy”. Sau đó, tôi kể cho họ câu chuyện về Nô-ê. Tôi nói “Thưa anh em, hãy xem trường hợp của Nô-ê. Nô-ê có sai không? Chắc chắn ông đã sai. Nhưng, vấn đề không phải là Nô-ê đúng hay sai, vấn đề là chúng ta đã được hiện hữu từ đâu. Nô-ê không phải là cha chúng ta sao? Nếu ông ấy là người hàng xóm và không phải là cha anh em, đó sẽ là một chuyện khác. Nhưng xin nhớ rằng sự hiện hữu của anh em ra từ ông. Ông ấy là cha của anh em. Bất cứ điều gì anh em là và bất cứ điều gì anh em đã nhận được, đều ra từ ông. Điều này làm anh em đụng đến sự quản trị thần thượng. Thưa anh em, tôi không thấy điều mà người ta đã kết án anh Nghê. Cho dù có thấy anh ấy sai, tôi cũng không có vị trí để nói bất cứ điều gì về việc làm sai của anh, vì anh là cha thuộc linh của tôi, và sự hiện hữu thuộc linh của tôi ra từ anh. Tôi không bao giờ có thể nói bất cứ điều gì nghịch lại anh. Tôi ở dưới sự quản trị của Đức Chúa Trời. Thưa anh em, anh em phải suy xét rằng chống nghịch cha thuộc linh của chúng ta không phải là chuyện nhỏ. Khi không nghịch lại anh Nghê, thì cảm xúc bề trong của anh em như thế nào?” Tất cả họ đã thừa nhận rằng họ cảm thấy rất nhiều sự sống. Khi tôi hỏi “Còn bây giờ thì sao?” Họ đáp “Phải thừa nhận rằng chúng tôi chỉ thấy chết chóc. Không có sự xức dầu hay tưới mát bên trong. Chúng tôi đang khô hạn”. Sau đó, tôi nói “Thưa anh em, anh em nên nghe theo cảm nhận thật này. Đừng quan tâm đến sự phân tích của tâm trí. Theo sự phân tích của tâm trí anh em, anh Nghê bị kết án, nhưng ngay khi kết án anh ấy, anh em chết chóc. Càng kết án, anh em càng chết chóc”. Lập tức, các anh em này đã quay lại và đã được cứu khỏi tình trạng chết chóc.

Tất cả chúng ta phải quan tâm đến sự quản trị của Đức Chúa Trời. Tôi tin rằng giữa vòng chúng ta có sự quản trị của Đức Chúa Trời. Nếu đây là sự khôi phục của Chúa thì sự quản trị thần thượng đang ở giữa vòng chúng ta.

Sự rủa sả và chúc phước của Nô-ê đã được Đức Chúa Trời cảm thúc trong sự xử lý mang tính quản trị của Ngài. Chúng không theo cảm xúc cá nhân của Nô-ê, nhưng theo sự quản trị của Đức Chúa Trời. Chúng không ra từ chính Nô-ê, nhưng từ chính Đức Chúa Trời, Đấng thi hành sự quản trị của Ngài trên nhân loại. Một trong các con trai của Nô-ê đã bị rủa sả và hai người còn lại được chúc phước. Sự rủa sả đến trước và các phước hạnh theo sau. Theo lịch sử và địa lý, Sem, con trưởng của Nô-ê, là tổ phụ của dân Hê-bơ-rơ, dân Do-thái. Cham, con thứ hai, tổ phụ của dân da đen. Con trai của Cham là Cúc, tổ phụ của người Ê-thi-ô-pi. Gia-phết, con thứ ba của Nô-ê, tổ phụ của người Âu.

3) Sem Và Gia-phết 
Nhận Được Phước Hạnh Do Che Phủ Sự Thất Bại.

Lời tiên tri được phát ngôn qua Nô-ê nói rõ rằng Gia-phết sẽ được Đức Chúa Trời mở rộng (9:27). Để hoàn thành một lời này cần đến nhiều thế kỷ. Lịch sử cho biết rằng người Âu đã được mở rộng. Hãy xem lịch sử của năm thế kỷ vừa qua. Một sự mở rộng, sự bành trướng đã xảy ra với người Âu kể từ thời đại Columbus. Sự bành trướng này vẫn đang tiếp diễn. Sự bành trướng này chủ yếu do ba yếu tố giữa người Âu: sức mạnh chính quyền, khoa học và nghệ thuật bao gồm kỹ năng và thương mại. Do ba nhân tố này, người Âu vẫn đang liên tục bành trướng. Người Mỹ là sự bành trướng của người Âu. Cuối cùng, qua nước Mỹ, nền văn hóa của người Âu đã lan khắp thế giới. Đây là sự ứng nghiệm lời chúc phước được nói tiên tri cho Gia-phết. Một từ của lời tiên tri, “được mở rộng”, dành cho Gia-phết đã cần nhiều thế kỷ để được ứng nghiệm. Nhiều quốc gia bước theo thể chế của người Âu vì người Âu rất mạnh trong vấn đề này, nhờ học tập từ người La-mã. Hơn nữa, các ngành khoa học, kỹ năng và nghệ thuật đều ra từ người Âu. Tất cả điều này là sự ứng nghiệm lời tiên tri của Đức Chúa Trời rằng Gia-phết sẽ được mở rộng.

Bây giờ chúng ta đến với Sem. “Người lại nói rằng: Chúc tụng Chúa, Đức Chúa Trời của Sem”. Sự mở rộng thuộc về Gia-phết, nhưng Đức Chúa Trời là thuộc về Sem. Giê-hô-va, chính Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của Sem. Tất cả người Do-thái phải khoe rằng “Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của chúng tôi”. Ngay cả Chúa Jesus cũng nói với người đàn bà Sa-ma-ri rằng sự cứu rỗi ra từ dân Do-thái (Gi. 4:22). Bất cứ điều gì có liên quan đến Đức Chúa Trời đều đã ra từ dân Do-thái. Ai đã viết Cựu Ước? Người Do-thái. Ai đã viết Tân Ước? Ngoại trừ Lu-ca là thầy thuốc người Ngoại Bang, Tân Ước được viết bởi người Do-thái. Ngay cả Lu-ca cũng viết với sự hiểu biết mà ông đã nhận từ những tín đồ Do-thái. Tất cả những điều về Đức Chúa Trời, về Phúc Âm của Đức Chúa Trời, về Đấng Christ và về sự cứu rỗi đều ra từ người Do-thái. Giê-hô-va Ê-lô-him đã được nói tiên tri là Giê-hô-va của Sem. Sem không có sự quản trị hay khoa học; Sem có Đức Chúa Trời. Lời tiên tri này tuyên bố rằng Gia-phết được mở rộng phải ở trong những trại của Sem (9:27). Người Âu, bao gồm người Mỹ, thật mạnh mẽ, nhưng họ cần những trại của người Hê-bơ-rơ. Nếu không tin những gì người Do-thái rao giảng, anh em không có trại, không có sự an nghỉ.

Hậu tự của Sem đã không xây Ba-by-lôn, họ dựng những trại giống như Áp-ra-ham đã làm và xây Đền Tạm cho Đức Chúa Trời. Chúa Jesus, một trong những hậu tự của Sem, đã được ví như Đền Tạm (Trại, Giăng 1:14). Cuối cùng, Giê-ru-sa-lem Mới cũng sẽ là nhà trại đời đời của Đức Chúa Trời (Đền Tạm, Khải. 21:2-3), mang danh của mười hai chi phái Do-thái và danh của mười hai sứ đồ người Do-thái. Những hậu tự của Gia-phết, người Âu, bao gồm người Mỹ, thực sự đã ở trong những trại cứu rỗi của Sem. Lời tiên tri này đã và đang được ứng nghiệm.

Gia-phết đã được mở rộng và cần ở trong những trại của Sem. Cham bị rủa sả vì đã đụng đến sự quản trị của Đức Chúa Trời. Ông đã đánh mất phước hạnh. Dưới sự rủa sả, ông đã trở thành nô lệ của các nô lệ. Điều này đã được lịch sử chứng minh chưa? Rồi. Nhưng hãy đến với Công Vụ 13:1 “Vả, Hội Thánh tại An-ti-ốt có mấy tiên tri và giáo sư, tức là Ba-na-ba, Si-mê-ôn gọi là Ni-giê, Lu-si-út quê ở Sy-ren, Ma-na-hên là người đồng dưỡng với vua chư hầu Hê-rốt, cùng Sau-lơ”. Trong câu này, chúng ta thấy các giống dân khác nhau đã trở thành một Hội Thánh. Chúng ta thấy ở đây liệt kê một số tiên tri và giáo sư giữa vòng những thành viên nổi bật của Hội Thánh, đang thi hành chức năng. Ba-na-ba và Sau-lơ là người Do-thái. Si-mê-ôn được gọi là Ni-giê (nghĩa là đen). Từ tên gọi này, có lẽ ông là một người da đen. Lu-si-út, quê ở Sy-ren, đến từ Phi Châu. Sy-ren là một thành ở Bắc Phi, ngày nay là Ly-bi. Ma-na-hên đã được trưởng dưỡng cùng với Hê-rốt. Hê-rốt, dầu là hậu tự của người I-đu-mê (người Ê-đôm) nhưng có quan hệ về mặt chính quyền với người La-mã (người Âu). Vì thế, dầu nguồn gốc của Ma-na-hên không được biết nhưng là em nuôi của Hê-rốt, chắc chắn ông đã bị Âu hóa. Do đó, chúng ta thấy năm thành viên quan trọng thi hành chức năng của Hội Thánh tại An-ti-ốt bao gồm hai người Do-thái, tức dòng dõi của Sem, một từ châu Phi và một có lẽ là người da đen, cả hai có lẽ là dòng dõi của Cham, và một người ít ra về mặt văn hóa có liên quan đến dòng dõi của Gia-phết. Tất cả họ đã trở thành một Hội Thánh. Bất kể anh em là dòng dõi của ai, đừng cảm thấy thất vọng. Vì đã được tái sinh, nên tất cả chúng ta đều là người Hội Thánh. Chúng ta sanh ra từ nhiều nguồn gốc khác nhau, nhưng bây giờ đều ở trong cùng một Hội Thánh. Tất cả chúng ta đã được sanh ra trong sự ứng nghiệm lời tiên tri của Đức Chúa Trời liên quan đến nhân loại được nói đến qua Nô-ê. Nhưng thân thế thiên nhiên của chúng ta đã được thay đổi bởi sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ.

 

 

BÀI BA MƯƠI BỐN

Đời Sống Trong SỰ Phục Sinh

(3)

 Trong các bài vừa qua, chúng ta chủ yếu đề cập đến tiểu sử của Nô-ê. Trong đó, chúng ta đã thấy con tàu do Nô-ê đóng đã trải qua nước lụt và dẫn ông cùng gia đình vào một thời đại mới là như thế nào. Theo hình bóng, vào thời đó, Nô-ê và gia đình đang sống trong sự phục sinh và loại nếp sống đó là hình bóng về nếp sống Hội Thánh. Hình bóng về nếp sống Hội Thánh trong sự phục sinh cho thấy người Hội Thánh được phục sinh với Đấng Christ là như thế nào, họ thờ phượng Đức Chúa Trời bằng Đấng Christ là làm sao và thể nào họ đã phục hồi mục đích ban đầu của Đức Chúa Trời, là biểu lộ và đại diện Ngài. Hơn nữa, hình bóng này cũng cho thấy người Hội Thánh sống dưới giao ước của Đức Chúa Trời là như thế nào. Chúng ta có thể gọi họ là dân giao ước. Bất kỳ điều gì họ làm đều ở dưới giao ước của Đức Chúa Trời và đầy phước hạnh. Nhưng tiếc thay, chúng ta cũng đã thấy trong hình bóng về nếp sống Hội Thánh đó, có một sự thất bại, vì trong một ý nghĩa, Nô-ê, uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời, đã thiếu Đức Chúa Trời. Do thất bại đó, những điều nào đó đã bị phơi bày. Một số đã nhận được phước hạnh và một số khác đã nhận sự rủa sả.

h. Dẫn Đến Các Giáo Phái Được Tiêu Biểu Bởi Các Dân

Trong bài này, chúng ta phải xem xét một phương diện không được vui của nếp sống Hội Thánh. Với lịch sử Hội Thánh, có phương diện vinh hiển và cũng có phương diện đáng thẹn, không vui. Chúng ta cần xem phương diện không vui này.

Sau nước lụt, Nô-ê và gia đình đã có một khởi đầu mới. Giữa họ có sự hiệp nhất thực sự. Họ là một trong mọi sự. Trước hết, họ là một với Đức Chúa Trời. Là những người trong sự phục sinh (theo hình bóng, số 8 chỉ về sự phục sinh), 8 người này là một với Đức Chúa Trời. Họ đã thờ phượng một Đức Chúa Trời. Thứ hai, họ chỉ có một mục tiêu là biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Ngài. Mục tiêu của họ là trở về mục đích mà Đức Chúa Trời đã định từ ban đầu. Ban đầu, Đức Chúa Trời định rằng con người sẽ biểu lộ Ngài bằng hình ảnh của Ngài và đại diện Ngài với quyền quản trị của Ngài. Sau nước lụt, dòng dõi mới này đã trở về với mục đích ban đầu của Đức Chúa Trời, tức biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Ngài. Thứ ba, 8 người này là một trong ý kiến, ngôn ngữ, quan niệm và sự hiểu biết. Tất cả họ đều đã nói cùng một điều. Họ hoàn toàn là một thực sự.

Ngày tháng trôi qua, nhân loại ngày càng sinh sôi nảy nở. Dân số gia tăng kinh khủng. Kết quả là sự chia rẽ. Họ không những chia thành họ hàng và dòng dõi mà cũng chia thành các dân tộc. Một dân tộc là một vương quốc, một đế quốc, trong đó một người nào đó thi hành uy quyền mà được gọi là đầu. Hễ khi nào một ai đó thi hành uy quyền trên người khác, đó là đế quốc, một quốc gia. Vào lúc khởi đầu thời đại mới của đời sống trong sự phục sinh, chỉ có một đầu đại diện, tức Nô-ê, người đại diện Đức Chúa Trời, là đầu thật sự. Có một gia đình với một đầu. Đó là một đơn vị trọn vẹn. Tuy nhiên, cuối cùng, dòng dõi Nô-ê không những chia thành các gia đình mà cũng thành các quốc gia. Điều đó thật kinh khủng.

Như chúng tôi đã nhiều lần chỉ ra trong các bài trước, Sáng Thế Ký, một Sách bao hàm tất cả, là Sách của những hạt giống. Hầu như mọi điều bày tỏ trong toàn bộ Kinh Thánh đều được gieo trong Sách này như một hạt giống. Những hạt giống được gieo trong Sáng Thế Ký phát triển trong các Sách còn lại của Kinh Thánh, trở thành mùa gặt trong Sách Khải Thị. Điều này cũng đúng với hạt giống về sự chia rẽ. Hạt giống về sự chia rẽ được gieo trong Sáng Thế Ký chương 10, lớn lên trong các Thư Tín Tân Ước và trở thành mùa gặt trong Sách Khải Thị. Bây giờ chúng ta cần dành một ít thời gian để xem xét hạt giống về sự chia rẽ giữa vòng dân Đức Chúa Trời.

1) Ban Đầu Là Một

Ban đầu, dân của Đức Chúa Trời là một. Vì sao họ là một? Mặc dầu họ là một vì yếu tố gia đình đã giữ họ lại với nhau, nhưng yếu tố chính của sự hiệp nhất giữa họ là họ có một Đức Chúa Trời. Nô-ê và gia đình đã thờ phượng một Đức Chúa Trời. Một Đức Chúa Trời này là yếu tố chính gìn giữ dân Đức Chúa Trời trong sự hiệp nhất. Gia đình Nô-ê là một vì họ đã thờ phượng một Đức Chúa Trời duy nhất. Sự thờ phượng Đức Chúa Trời là điều quan trọng. Khi sự thờ phượng Đức Chúa Trời bị thay đổi, toàn bộ tình trạng giữa vòng dân Đức Chúa Trời cũng bị thay đổi. Khi có những sự thờ phượng khác nhau giữa vòng dân Đức Chúa Trời thì cũng có những sự chia rẽ giữa họ. Do đó, yếu tố chính gìn giữ sự hiệp nhất của dòng dõi mới này là họ không có một Đức Chúa Trời nào khác ngoài một Đức Chúa Trời chân thật duy nhất. Cũng vậy, chúng ta chỉ có một Đức Chúa Trời. Chúng ta thờ phượng Đức Chúa Trời duy nhất này. Đức Chúa Trời của chúng ta là một duy nhất. Vì thế, chúng ta cũng là một. Ê-phê-sô 4:6 nói về một Đức Chúa Trời và Cha. Vì khi chỉ có một Đức Chúa Trời và Cha, chúng ta là một.

Hơn nữa, như tôi đã đề cập, Nô-ê và gia đình ông là một vì họ có một mục tiêu duy nhất. Nô-ê cũng như các con đã không vì lợi ích riêng của họ. Tất cả họ đều vì mục tiêu của Đức Chúa Trời. Mục tiêu của Đức Chúa Trời là gì? Đó là con người biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Ngài. Nô-ê và gia đình ông không có Đức Chúa Trời nào khác và không có mục tiêu nào khác. Mục tiêu của họ không phải là canh tác, giáo dục hay kỹ nghệ. Mục tiêu của họ không phải là những lợi ích riêng. Mục tiêu duy nhất của họ là biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Ngài. Chúng ta phải được ấn tượng sâu xa về điều này. Mặc dầu có một Đức Chúa Trời, nhưng chúng ta có thể có những mục tiêu khác nhau. Nếu có những mục tiêu khác nhau, chúng ta sẽ bị chia rẽ. Mục tiêu của anh em là gì? Có phải là làm cho mình có một danh hay để được nổi tiếng không? Có phải là xây dựng điều gì đó khác hơn là mục đích của Đức Chúa Trời không? Chúng ta ở đây, tại Anaheim, để biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Ngài. Chúng ta có một thế đứng vững chắc để tuyên bố trước cả vũ trụ, thậm chí trước Sa-tan và tất cả các thiên sứ phản loạn, các bậc cầm quyền, các thế lực và các quỉ, rằng chúng ta, các Hội Thánh địa phương, đang đứng hiệp nhất với Đức Chúa Trời vì mục đích Ngài. Mục tiêu duy nhất của chúng ta là biểu lộ Đức Chúa Trời. Chúng ta ở đây là để biểu lộ Ngài.

Tôi muốn nói lời đơn sơ với một số người mới thường đến với các buổi nhóm của chúng ta. Anh em có biết chúng tôi đang biểu lộ gì ở đây không? Những người của chúng tôi không phải là những người thông minh hay mặc đẹp. Những người dẫn dắt không có vẻ đẹp, hình thức hay sự hấp dẫn [bên ngoài] nào. Chúng tôi không có đại dương cầm hay phong cầm. Thậm chí chúng tôi không có bảng hiệu. Chúng tôi là gì? Không là gì cả. Chúng tôi chỉ là tiếng kêu trong đồng vắng (Gi. 1:23). Khi đến với các buổi nhóm của chúng tôi, anh em không thấy điều gì bên ngoài. Nhưng chắc chắn là anh em thấy một điều gì đó –chính Đức Chúa Trời được biểu lộ. Có lẽ sau khi tham dự một buổi nhóm, anh em tự nhủ “Ở với họ rất tốt, nhưng mình không biết chính xác họ tốt vế điều gì. Họ hát chẳng đúng nhạc lý. Chẳng ai ăn mặc hấp dẫn cả. Chẳng có vẻ đẹp hay hình thức bên ngoài. Nhưng giữa họ có một điều gì đó”. “Điều gì đó” này là sự biểu lộ Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là sự biểu lộ của chúng ta. Ngài là hình thức, vẻ đẹp và sự thu hút của chúng ta. Là Hội Thánh, chúng ta đã trở về với mục đích ban đầu của Đức Chúa Trời, mục đích Ngài đã dự định từ ban đầu –đó là con người biểu lộ Ngài và đại diện Ngài. Đây là sự khôi phục của Chúa.

Là Hội Thánh, chúng ta đại diện Đức Chúa Trời. Đây là lý do vì sao nhiều lần chúng tôi cầu nguyện “Chúa ơi, chúng con ra lệnh cho Ngài. Ngài phải làm điều gì đó. Chúng con ở đây đang đại diện Ngài, không phải là chính chúng con. Vì chúng con là đại diện của Ngài. Ngài phải làm điều gì đó cho chính Ngài”. Anh em có thể cầu nguyện như vậy không? Anh em có dám cầu nguyện theo cách này không? Nếu không đứng vào vị trí đại diện Đức Chúa Trời, lương tâm sẽ không cho phép anh em thốt ra lời cầu nguyện như thế. Nhưng một khi đứng vào vị trí đại diện Đức Chúa Trời, lương tâm anh em sẽ chứng thực và làm anh em mạnh mẽ nói “Chúa ơi, chúng con ra lệnh cho Ngài. Ngài phải biện minh cho đường lối Ngài. Đây là sự khôi phục của Ngài, mục đích của Ngài. Ngài phải can thiệp. Vì chúng con ở đây không đại diện cho bất kỳ điều gì khác ngoài Ngài, Chúa ơi, Ngài phải can thiệp”. Đây là nếp sống Hội Thánh đúng đắn. Hễ  khi nào như vậy, chúng ta có sự hiệp nhất duy nhất. Chúng ta duy nhất là một. Không cần phải nói “Anh em ơi, chúng ta hãy là một”. Nếu cần phải nói như vậy thì đã quá trễ quá. Ngay khi trở lại với điều ban đầu, với mục đích nguyên thủy của Đức Chúa Trời là con người biểu lộ và đại diện Ngài, tự phát chúng ta là một. Chúng ta là một vì chúng ta có một mục tiêu.

2) Cuối Cùng Bị Chia Rẽ

Thế thì tại sao những người này bị chia rẽ? Họ bị chia rẽ vì đã bắt đầu có những sự thờ phượng khác nhau và có những mục tiêu, mối quan tâm và mục đích khác nhau. Sáng Thế Ký 10:31 bày tỏ bốn cách mà những người này đã bị chia rẽ: theo dòng họ, theo ngôn ngữ, tức là theo lời nói, quan niệm, sự hiểu biết và cách bày tỏ khác nhau; theo các miền đất khác nhau và theo các quốc gia khác nhau. Tôi xin nói đôi lời về từng điều trong bốn điều này.

Dòng họ (gia đình) tiêu biểu cho điều gì? Tiêu biểu cho mối quan hệ trong xác thịt. Nhiều người không quan tâm đến Đức Chúa Trời, không quan tâm đến mục đích hay những gì Ngài quan tâm. Họ chỉ quan tâm đến dòng họ của mình. Tại sao với dòng họ, họ là một? Chỉ vì dòng họ bao gồm những người thân. Nguyên tắc tương tự giữa vòng dân Chúa ngày nay. Nhiều sự chia rẽ là do những mối quan hệ trong xác thịt gây ra. Mọi quan hệ thuộc xác thịt đều là khởi đầu của một sự chia rẽ. Dầu không ở trong cùng một gia đình theo xác thịt, nhưng chúng ta có thể có mối quan hệ thuộc xác thịt. Có lẽ anh em yêu một anh em nào đó vì anh ấy là loại người anh em yêu, nhưng anh em không thể yêu những loại người khác. Nếu thương yêu những người nào đó vì họ là loại người anh em thương yêu, thì anh em là gia đình thuộc xác thịt, hình thành những mối quan hệ theo khẩu vị xác thịt của mình. Vì thế, để duy trì sự hiệp nhất đích thực, chúng ta phải đắc thắng những mối quan hệ xác thịt.

Một nguyên nhân khác của sự chia rẽ là ngôn ngữ. Ngôn ngữ không chỉ có nghĩa là lời nói mà còn có nghĩa là cách diễn đạt sự hiểu biết của anh em. Ngôn ngữ là sự bày tỏ quan niệm của anh em. Những sự chia rẽ có thể xảy ra do những hiểu biết và quan niệm khác nhau của chúng ta. Anh em giữ một quan niệm, tôi giữ một quan niệm khác và người thứ ba giữ một quan niệm khác. Cuối cùng, cả ba sẽ nói những thứ tiếng khác nhau. Dầu tất cả đều nói tiếng Anh, nhưng mỗi người nói theo cách của mình, nói theo ngôn ngữ riêng của mình. Điều này sẽ dẫn đến đấu tranh và chia rẽ. Chúng ta có những gia đình bởi những quyền lợi thuộc xác thịt và có những ngôn ngữ do những quan niệm và cách nói khác nhau. Những cách nói khác nhau này tạo ra sự đấu tranh và đấu tranh dẫn đến sự chia rẽ. Hãy nhìn vào lịch sử Cơ-đốc Giáo. Ban đầu, nhiều thánh đồ yêu dấu hiệp một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, vào một thời điểm nào đó, một số trong họ tiếp nhận những quan niệm khác nhau và bắt đầu nói khác nhau; họ bắt đầu nói một thứ ngôn ngữ khác. Điều đó tạo nên sự rắc rối. Đây là lịch sử chia rẽ trong Cơ-đốc Giáo trải qua nhiều thế kỷ. Ngôn ngữ thực sự là một yếu tố gây chia rẽ.

Những miền đất tiêu biểu cho điều gì? Tiêu biểu cho lãnh thổ. Khi còn trẻ, tôi đã biết rằng các giáo sĩ, những người đã đến tỉnh nhà của tôi rao giảng cùng một Chúa, cùng một Phúc Âm, đã tổ chức một hội đồng trong đó họ chia tỉnh này thành các khu vực. Họ nói rằng khu vực kia thuộc về Hội Báp-tít Miền Nam và những khu vực còn lại thuộc về Hội Trưởng Lão, Hội Anh Em Mở Rộng,v.v… Họ chia phần đất đó của quốc gia này thành bốn hay năm khu vực. Họ nghiêm nhặt về điều này, nói với những người xâm phạm khu vực họ rằng “Tại sao các anh đến khu vực chúng tôi để rao giảng? Các anh không biết rằng chúng tôi đã đồng ý chia một phần đất của quốc gia này thành nhiều khu vực sao?”

Chúa đã dẫn dắt chúng tôi chia sẻ vấn đề lập trường địa phương của Hội Thánh tại Mỹ. Cách đây mười năm, lập trường địa phương của Hội Thánh bị chống đối kịch liệt. Bây giờ điều này đã trở thành điểm nóng trên thị trường. Người ta đang nói về Hội Thánh địa phương và nhiều người công bố rằng họ là Hội Thánh địa phương tại địa phương họ. Tuy nhiên, rất nhiều nhóm đã không trở thành các Hội Thánh địa phương mà trở thành những bè phái địa phương. Một số người nói với chúng tôi “Chúng tôi là Hội Thánh địa phương tại đây. Đừng đến quấy rối chúng tôi”. Người khác thì nói “Chúng tôi là Hội Thánh địa phương ở đây và chúng tôi có sự tự trị”. Sự tự trị này là gì? Đó là chia đất vì lợi ích của bản ngã. Khi người ta nói “Đừng quấy rầy chúng tôi –chúng tôi là Hội Thánh địa phương tại địa phương này”, thì trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, họ là bè phái địa phương, không phải là Hội Thánh địa phương. Ngày nay, những người gây chia rẽ sẽ dùng bất kỳ lời bào chữa nào để gây chia rẽ. Đúng, tất cả các Hội Thánh địa phương là độc lập về mặt địa phương, nhưng về mặt hoàn vũ, tất cả các Hội Thánh địa phương là một Thân Thể. Chúng ta có thể nói rằng có nhiều Hội Thánh địa phương, nhưng không bao giờ có thể nói rằng có nhiều Thân Thể. Dầu có thể có một ngàn Hội Thánh địa phương, nhưng Thân Thể Đấng Christ về mặt hoàn vũ vẫn là một. Đấng Christ không có nhiều hơn một Thân Thể. Nếu anh em ở Anaheim tuyên bố rằng họ là Hội Thánh tại Anaheim và người khác không nên quấy rầy họ, lập tức họ trở thành một bè phái địa phương. Họ đã chia đất.

Chúng ta hãy lấy ví dụ về nước Mỹ, một quốc gia gồm năm mươi tiểu bang. Năm mươi tiểu bang này không phải là những miền đất bị chia cắt. Chúng ta có thể đi từ tiểu bang này đến tiểu bang kia. Hôm nay anh em có thể là công dân ở California và ngày mai là công dân ở Oregon. Một thời gian ngắn sau, anh em có thể dọn đến Arizona và trở thành công dân tại đó. Dầu nước Mỹ gồm năm mươi tiểu bang nhưng không chia thành năm mươi vùng đất.

Một khi anh em trở thành một gia đình xác thịt, anh em sẽ có một ngôn ngữ khăng khăng giữ ý kiến và một đường lối chia rẽ làm chia cắt miền đất. Cuối cùng, anh em sẽ trở thành một quốc gia. Thật ý nghĩa vì trong Anh Ngữ, từ giáo phái (denomination) bao gồm từ quốc gia (nation). Theo biểu tượng, đó là một quốc gia; trong Cơ-đốc Giáo, đó là một giáo phái. Giáo phái có nghĩa là điều được đặt tên. Theo biểu tượng, có các quốc gia như Ê-thi-ô-pi, Ai-cập, Sê-ba,v.v… ; trong Cơ-đốc Giáo có các giáo phái như Lutheran, Trưởng Lão, Tân Giáo,v.v… Tất cả những điều này là các quốc gia hay các giáo phái. Tất cả đều bị chia rẽ.

Khi tôi được cứu, tất cả các mục sư và chấp sự rất vui khi dùng từ giáo phái. Sau đó, Chúa dấy chúng tôi lên để lên án giáo phái, và những mục sư, chấp sự đó không dùng từ liệu này nữa. Dầu không còn dùng từ giáo phái nữa, nhưng họ vẫn còn giữ những tên gọi khác nhau. Anh em có nhận thức rằng mỗi tên gọi là một sự chia rẽ không? Mỗi giáo phái, mỗi tên gọi, là một sự chia rẽ. Đừng nói rằng tên gọi của chúng ta là “Hội Thánh địa phương”. Chúng ta không có tên gọi nào. Chẳng hạn, mặt trăng không có tên; nó chỉ là mặt trăng. Chúng ta chỉ nên gọi mặt trăng là “mặt trăng”. Một số người nói rằng mặt trăng Mỹ sáng hơn mặt trăng Trung Quốc. Nhưng không có chuyện mặt trăng Mỹ hay mặt trăng Trung Quốc. Tối đa là anh em chỉ có thể nói mặt trăng ở Mỹ hay mặt trăng tại Trung Quốc. Đó là một mặt trăng. Chỉ có một mặt trăng. Cũng vậy, Hội Thánh chỉ là Hội Thánh. Từ “Hội Thánh địa phương” không phải là tên gọi của chúng ta mà nói lên bản chất của chúng ta. Chúng ta không phải cái gọi là các Hội Thánh gây chia rẽ và bị chia rẽ; chúng ta là Hội Thánh tại một địa phương. Vì thế, từ liệu “Hội Thánh địa phương” chỉ về bản chất chúng ta; đó không phải là tên gọi. Đừng xem “Hội Thánh địa phương” như là một tên gọi. Tối đa là chúng ta chỉ có thể nói Hội Thánh tại một địa phương nào đó, như Hội Thánh tại Los Angeles, Hội Thánh tại Anaheim,v.v…

Trong gia đình, không có vua. Người đứng đầu gia đình không phải là vua. Khi anh em khác nhau về ý kiến hay sự bày tỏ, anh em vẫn không có vua. Khi phân chia đất, có thể vẫn không có vua. Tuy nhiên, một khi anh em được đặt tên và trở thành một quốc gia, anh em có vua và lập tức bị chia cắt. Ban đầu, sự hiệp nhất dựa trên một Đức Chúa Trời và một mục tiêu, còn sự chia rẽ được tạo ra bởi nhiều sự thờ phượng khác nhau, thậm chí thờ phượng những đối tượng khác nhau với những mối quan tâm và mục đích khác nhau. Cuối cùng, nhiều gia đình được hình thành, tiếng nói được thể hiện, đất bị chia thành nhiều lãnh thổ và các quốc gia, hoặc chúng ta có thể nói là các giáo phái đã được hình thành. Hậu quả là sự chia rẽ. Nếu nhìn vào lịch sử Cơ-đốc Giáo, anh em sẽ thấy nó bị chia cắt chính xác là như vậy.

Trong suốt thập niên 30 [của thế kỷ 20], tôi đã nói nhiều về vấn đề các giáo phái. Một ngày nọ, khi trở về quê sau một thời gian xa vắng, một số bạn bè đã mời tôi đến dự tiệc với nhiều nhà lãnh đạo Cơ-đốc lớn tuổi hơn, những người biết tôi khá rõ. Khi đến đó, tôi thấy mình, một người chưa đầy ba mươi tuổi, bị bao quanh bởi một nhóm người cao niên, người nào cũng trên sáu mươi. Một người trong họ, bắt đầu đến nói với tôi rằng “Ông Lý à, những năm qua, trong sự rao giảng của ông, ông đã kết án các giáo phái. Chúng tôi muốn hỏi tại sao, từ khi ông rao giảng chống lại các giáo phái, chính ông cũng đã thành lập một giáo phái khác?” Họ nghĩ rằng họ đã đánh bại tôi. Tôi đáp “Tôi vui mừng được ở đây với tất cả anh em, vì đây là thời gian tốt nhất để tôi làm sáng tỏ toàn bộ vấn đề này. Sứ đồ Phao-lô quở trách những người Cô-rin-tô vì họ nói rằng “Tôi thuộc A-bô-lô”, “Tôi thuộc Phao-lô”, và “Tôi thuộc Sê-pha”. Thậm chí một số người nói “Tôi thuộc về Đấng Christ”. Sứ đồ Phao-lô quở trách tất cả những người gây chia rẽ đó tại Cô-rin-tô (1Cô. 1:11-13). Tất cả anh em đều nói rằng mình là Báp-tít, là Trưởng Lão hay Nhóm Độc Lập của người Hoa. Xin cho tôi biết từ lòng thành thật của anh em, nếu sứ đồ Phao-lô ở đây, anh em có được ông chấp nhận không?” Họ nói “Không. Tất nhiên, Phao-lô sẽ không bao giờ chấp nhận chúng ta”. Họ đã thành thật. Họ phải thành thật vì tôi đã buộc họ phải thành thật rồi. Sau đó, tôi nói tiếp “Vì anh em đồng ý rằng thật không đúng khi nói: Tôi là người của Báp-tít hay Tôi là người của Trưởng Lão, thế thì anh em đặt tôi ở đâu? Anh em sẽ đặt tôi trong Giáo Phái Trưởng Lão hay trong Hội Báp-tít hay trong Nhóm Độc Lập của người Hoa?” Họ nói “Chúng tôi không đặt anh ở đâu cả”. Sau đó, tôi nói “Nhưng anh em phải đặt tôi ở chỗ nào chứ. Sao tôi lại không có chỗ nào?” Họ sửng sốt. Tôi nói tiếp “Bởi sự thương xót và ân điển của Chúa, chắc chắn tôi yêu Ngài. Vì yêu Ngài, tôi phải rao giảng Phúc Âm cho người chưa tin. Nhiều người đã được cứu qua sự rao giảng của tôi. Tôi sẽ đặt họ ở đâu? Tôi sẽ gởi họ đến giáo phái nào –Báp-tít, Trưởng Lão, hay Nhóm Độc Lập của người Hoa?” Họ không nói gì. Sau đó, tôi nói “Các anh có thấy tình trạng đó không? Bây giờ, các anh có thấy tại sao một mặt tôi giảng nghịch lại sự chia rẽ, và mặt khác, tại sao dường như với anh em, tôi thành lập một sự chia rẽ khác? Chúng ta cần đến với nhau. Chúng tôi không là một với anh em vì anh em buộc chúng tôi vào chỗ không là một với anh em. Bây giờ, nếu anh em hứa với tôi rằng từ ngày mai, anh em sẽ hạ xuống tất cả các bảng hiệu của mình và quên đi tất cả các tên gọi khác nhau của mình, thì tôi hứa với anh em rằng tôi sẽ tương giao với tất cả anh em tối nay và chúng tôi sẽ đóng cửa phòng nhóm của chúng tôi ngay. Khi đó, chúng ta có thể đến với nhau như một Hội Thánh trong thành phố này. Điều này thì sao?” Lúc này, họ nói “Không, chúng tôi không thể làm điều này”. Tôi kết luận “Vì các anh không làm điều này, thì ai chịu trách nhiệm về các sự chia rẽ?” Sau tối đó cho đến ngày tôi rời Hoa Lục, không một ai trong họ quấy rầy tôi nữa. Họ đã thua vụ kiện tại phiên tòa thiên thượng. Họ muốn giữ những tên gọi mang tính chia rẽ, giáo phái. Một số muốn nói “Chúng tôi là Nhóm Độc Lập Người Hoa. Không gì tốt hơn điều này”. Một số khác nói “Chúng tôi là thế hệ thứ ba của Hội Trưởng Lão. Làm thế nào chúng tôi có thể chối bỏ tên gọi này?” Ngoài ra. còn một số khác muốn nói “Chúng tôi là Hội Báp-tít. Hội Báp-tít thì tốt hơn Hội Trưởng Lão. Họ chỉ có sự rảy nước là điều không đúng, còn chúng tôi có sự dìm mình”. Chúng ta đều quen thuộc với loại đấu tranh này.

Khi chúng tôi đến Đảo Đài-loan, Chúa đã chúc phước cho công tác ở đó. Chúng tôi đã gia tăng số lượng từ chưa đầy năm trăm đến hơn hai mươi ngàn. Trong suốt mười ngày Hội Đồng tại Đài-bắc năm 1957, tôi đã chia sẻ ít nhất ba mươi bài về lập trường hiệp nhất. Sau mười ngày đó, tất cả trưởng lão đều cảm thấy rằng chúng tôi nên tiếp xúc một số nhóm tự do hàng đầu ngay trong thành phố Đài-bắc. Có ít nhất hai hay ba nhóm tuyên bố là phi giáo phái, chỉ nhóm họp trong danh Chúa. Đầu tiên, chúng tôi cử hai hay ba trưởng lão đến thăm các nhóm này để có sự trao đổi kỹ lưỡng với họ về sự hiệp nhất giữa vòng thánh đồ. Sau đó, chúng tôi mời mỗi nhóm cử một vài người dẫn dắt của họ đến gặp chúng tôi. Khi tất cả chúng tôi đến với nhau, chúng tôi nói với họ “Thưa anh em, có lẽ anh em nghĩ rằng vì chúng tôi đông về số lượng so với anh em, nên chúng tôi sẽ thao túng tình thế. Hãy bình an. Chúng tôi có lòng thành thật khi nói chuyện với anh em. Chúng tôi có ý định nghiêm túc vì sự khôi phục của Chúa và vì sự hiệp nhất đích thực của Thân Thể. Chúng tôi sẵn sàng từ bỏ chức vụ trưởng lão và để các anh em làm trưởng lão. Chúng tôi sẵn sàng giao toàn bộ tài sản của tất cả các phòng nhóm vào tay anh em. Hơn nữa, chúng tôi sẵn sàng tổ chức một hội đồng để nói với các thánh đồ làm một với anh em và thuận phục tất cả anh em. Chúng tôi hứa với anh em điều này và thậm chí sẵn sàng viết và ký biên bản”. Lập tức, họ bị buộc phải nói thật. Họ nói “Thưa anh em, chúng tôi đánh giá cao sự chân thành của anh em, nhưng chúng tôi vẫn muốn là chính mình”. Những lãnh đạo của mỗi nhóm đều nói như nhau. Từ điều này, chúng tôi học được rằng họ không muốn là một. Tại sao họ không sẵn sàng là một? Vì họ thích có những đế quốc nhỏ riêng, những quốc gia nhỏ của riêng mình.

Sau Thế Chiến I, Ông Wilson của nước Mỹ và các nhà lãnh đạo của Anh và Pháp đã thành lập Hội Quốc Liên trong nỗ lực hiệp nhất tất cả các nước trên thế giới. Điều đó đã kết thúc trong thất bại. Tiếp đó, sau Thế Chiến II, ông Roosevel và các nhà lãnh đạo khác của thế giới đã làm việc để thành lập Liên Hiệp Quốc. Các quốc gia này có thật sự hiệp nhất không? Họ chỉ hiệp nhất trong những cuộc đấu tranh. Về nguyên tắc, điều tương tự đã xảy ra tại quê tôi cách đây khoảng năm mươi năm. Không lâu sau khi được cứu, tôi đến gặp mục sư của mình và hỏi ông tại sao Cơ-đốc nhân chia rẽ như thế. Ông nói “Ồ, anh phải phấn khởi. Tôi có tin vui cho anh. Tất cả các giáo phái trong tỉnh chúng ta sắp được hiệp nhất”. Sau thời gian đó không lâu, vị mục sư đó nói với tôi rằng càng cố gắng hiệp nhất, họ càng chia rẽ. Trong hội đồng của họ được tổ chức vì mục đích hiệp nhất, họ luôn đấu tranh chống lại nhau. Nếu anh em không tin tôi, hãy nhóm hiệp tất cả lãnh đạo của các giáo phái lại và hãy xem điều gì sẽ xảy ra. Hết thảy họ sẽ nói những điều khác nhau. Họ có thể cùng nói tiếng Anh nhưng họ nói với những quan niệm khác nhau. Anh em sẽ thấy những sự chia rẽ giữa họ

Bất đồng quan điểm và nói khác nhau là một điều rủa sả. Nếu bất đồng quan điểm, anh em sẽ là người đầu tiên gánh lấy sự rủa sả. Nếu nói khác nhau, anh em sẽ là người trước nhứt làm chết linh của mình. Chắc chắn anh em sẽ làm thiệt hại nếp sống Hội Thánh, nhưng chính anh em sẽ gánh chịu sự mất mát lớn nhất. Bất đồng quan điểm và nói khác nhau không bao giờ là phước hạnh mà luôn luôn là rủa sả. Suốt 45 năm xem xét và quan sát, tôi chưa bao giờ thấy người bất đồng nào mà không gánh chịu sự mất mát. Thưa anh em, chúng ta không cần phải bất đồng quan điểm. Chúng ta không có một Đức Chúa Trời sao? Chúng ta không có một quyển Kinh Thánh sao? Chúng ta không tin vào một Chúa sao? Vì có chung một Đức Chúa Trời, một Kinh Thánh và một Chúa, chúng ta hãy quên mọi quan điểm gây bất đồng và hãy nói cùng một điều vì những gì Chúa quan tâm. Đây là lý do vì sao sứ đồ Phao-lô khuyên tất cả chúng ta “nói cùng một điều và giữa vòng anh em không nên có chia rẽ; nhưng hãy đồng lòng hiệp ý để có cùng một tâm trí  cùng một ý kiến” (1Cô. 1:10), và “có cùng một tâm trí với nhau y theo Đấng Christ Jesus; để anh em có thể tôn vinh Đức Chúa Trời với sự đồng lòng hiệp ý  một miệng” (La. 15:5-6).

Năm đầu của công tác trong sự khôi phục của Chúa tại quốc gia này, tôi đã được mời đến Tyler, Texas. Vì biết rằng Cơ-đốc nhân luôn giữ những ý kiến khác nhau, nên tôi rất thận trọng và dè giữ. Tôi không lớn tiếng nói “A-men, Ngợi khen Chúa”. Trong khi một số người đang cầu nguyện, tôi ngồi đó và nói thầm “A-men, ô Chúa”, nghĩ rằng không ai có thể nghe. Cuối cùng, một người kia đã nói “Anh Lý à, có lẽ anh không biết thói quen ở đây. Mọi người không quen nghe tiếng “A-men”. Tôi ngưng đáp A-men thành tiếng mà người khác có thể nghe được. Về sau, một số người đến với tôi và nói “Những người trong quốc gia này không đồng ý với tiếng đáp A-men trong buổi lễ”. Cách đây nhiều năm, trong một số cái gọi là các Hội Thánh của Wesley, họ có một “góc A-men”, và bất kỳ ai muốn đáp A-men đều phải ngồi ở đó. Chúng ta không nên bối rối bởi những điều như đáp A-men. Dù mọi người có nói A-men hay không, nói lớn hay nhỏ, với chúng ta, những điều đó đều được cả.

Có nhiều sự tranh luận về báp-têm. Một số người nói rảy nước là cách đúng đắn. Một số nói rằng chỉ có dìm mình là đúng với Kinh Thánh. Một số khác khăng khăng phải dìm người báp-têm ngã ra phía trước, một số khác bảo phải dìm ngã ra phía sau. Một số nhất định chỉ dìm mình một lần, số khác bảo phải ba lần. Người khác nữa tranh luận về việc nên dùng loại nước nào [để làm báp-têm], nóng hay lạnh, nước mặn hay nước ngọt, trong hồ nhân tạo hay trong hồ thiên nhiên, sông hay biển. Có nhiều ý kiến khác nhau. Chúng ta không nên bị chia rẽ bởi những điều này. Miễn là tất cả chúng ta thờ phượng một Đức Chúa Trời và tin vào một Chúa Jesus Christ, Con Đức Chúa Trời, đã nhục hóa làm Cứu Chúa chúng ta, đã chết trên thập tự giá vì các tội phạm chúng ta bằng cách đổ huyết Ngài để cứu chuộc chúng ta, Đấng đã phục sinh vào ngày thứ ba, và bây giờ là Chúa ngự trên các từng trời và cũng là sự sống bên trong chúng ta. Tất cả chúng ta nên là một và không nên bị chia rẽ bởi bất kỳ điều gì.

Sau khi Chúa dẫn dắt chúng ta thực hành đọc–cầu-nguyện-Lời Đức Chúa Trời và kêu cầu Danh Chúa, một số Cơ-đốc nhân bắt đầu chống đối chúng ta trong những vấn đề này. Một số chỉ trích chúng ta, một số khác thậm chí đã định tội chúng ta cách gian ác về hai điều này. Nếu đọc–cầu-nguyện-Lời hay kêu cầu Danh Chúa làm thay đổi đời sống một người, thì tôi tán thành. Điều đó tốt hơn mười ngàn lần việc đi xem phim hay coi những trận thi đấu thể thao, và tốt hơn nhiều so với nhạc rock.

Về vấn đề Đấng Tam–Nhất thì theo Kinh Thánh, chúng ta tin Đức Chúa Trời duy nhất, Đức Chúa Trời Tam­–Nhất –Cha, Con và Linh. Chúng ta tin chính xác theo những gì Kinh Thánh nói. Nhưng một số người, trong sự định nghĩa Đấng Tam–Nhất theo quan niệm của họ, nói rằng “Cha, Con và Linh là ba Thân Vị riêng biệt trong bản chất của một Đức Chúa Trời”. Thế thì, Đức Chúa Trời duy nhất này là như thế nào? Ngài không phải là một Thân Vị sao? Như Cha là một Thân Vị, Con là một Thân Vị và Linh là một Thân Vị, thì chính Đức Chúa Trời cũng phải là một Thân Vị. Nếu vậy thì trong một Đức Chúa Trời phải có bốn Thân Vị. Nói về Đấng Tam–Nhất với loại thuật ngữ như vậy tạo ra sự rắc rối và làm những người sử dụng lúng túng. Chúng ta không nên vướng vào điều này. Griffith Thomas, nổi tiếng vì cách giải thích Sách La-mã, trong cuốn Những Nguyên Tắc Thần Học, đã nói rằng thuật ngữ “Thân Vị”… không được nhấn mạnh quá đáng, bằng không, sẽ dẫn đến Tam Thần Thuyết… Lẽ thật và kinh nghiệm về Đấng Tam–Nhất không tùy thuộc vào thuật ngữ thần học”. Đấng Tam–Nhất là huyền nhiệm không thể hiểu thấu. Không ai có thể giải thích cách đầy đủ. Chúng ta chỉ có thể nói rằng theo Kinh Thánh, có một Đức Chúa Trời duy nhất: Ngài là Tam–Nhất, Cha, Con và Linh; Ê-sai 9:6 nói rằng Con là Cha và 2Cô-rin-tô 3:17 cho biết Chúa là Linh. Chúng ta đơn sơ tin tất cả những gì Kinh Thánh nói. Chúng ta không thể nói thêm điều gì. Những ai giữ quan niệm ba Thân Vị khác biệt “trong bản chất của một Đức Chúa Trời” có thể là những anh em Cơ-đốc, nhưng họ gây chia rẽ do ý kiến và thuật ngữ của mình. Dù họ giữ loại quan niệm đó, nhưng ngay khi tin một Đức Chúa Trời Tam–Nhất: Cha, Con và Linh, và tin Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời đã nhục hóa để làm Cứu Chúa chúng ta, Đấng đã chết trên thập tự giá vì các tội phạm chúng ta bằng cách đổ huyết Ngài để cứu chuộc chúng ta, Đấng đã phục sinh vào ngày thứ ba, và hiện nay là Chúa trên các từng trời và cũng là sự sống bên trong chúng ta, thì chúng ta sẽ công nhận họ là anh em trong Đấng Christ. Chúng ta tin Đấng Tam–Nhất theo Lời thuần khiết của Kinh Thánh. Chúng ta không nên khăng khăng giữ ý kiến bằng cách giữ những quan niệm hay thuật ngữ gây chia rẽ của thần học. Chúng ta ở đây vì sự hiệp nhất của Thân Thể trong sự khôi phục của Chúa. Bất đồng quan điểm dẫn đến sự rủa sả, nhưng hiệp nhất đem đến phước hạnh. “Thật tốt đẹp và vui thỏa thay khi anh em ăn ở với nhau trong sự hiệp nhất, vì tại đó Chúa đã ban phước, là chính sự sống cho đến đời đời” (Thi. 133:1,3).

i. Tổng Kết Trong Ba-by-lôn 
Được Tượng Trưng Bởi Ba-bên

Từ các nước, Ba-bên đã xuất hiện. Điều này có nghĩa là từ các giáo phái, Ba-by-lôn đã xuất hiện. Tất cả các sự chia rẽ và giáo phái sẽ tổng kết trong Ba-by-lôn Lớn. Ba-by-lôn là từ Hi-lạp tương đương với từ Ba-bên trong tiếng Hê-bơ-rơ. Nếu đọc Tân Ước, chúng ta có thể thấy từ giữa các sự chia rẽ trong Cơ-đốc Giáo, tức từ giữa tất cả các giáo phái, Ba-by-lôn đã xuất hiện. Tất cả các nước vào thời xưa đã dẫn đến Ba-bên và tất cả các giáo phái trong Cơ-đốc Giáo cuối cùng sẽ tổng kết trong Ba-by-lôn Lớn. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng Sáng Thế Ký là Sách của những hạt giống, vì ở đây trong Sáng Thế Ký chương 10, chúng ta có hạt giống Ba-by-lôn, và trong Khải Thị chương 17 và 18 chúng ta có mùa gặt của Ba-by-lôn Lớn.

1) Từ Dòng Dõi Của Sự Rủa Sả.

Ba-bên ra từ các dân thuộc dòng dõi rủa sả (10:6,8). Dòng dõi bị rủa sả gắn liền với Cham. Cúc, người xây tháp Ba-bên, là con của Cham; và Nim-rốt, con của Cúc, đã trở thành vua đầu tiên cai trị vương quốc Ba-bên.

Đây là hình bóng về Cơ-đốc Giáo. Cơ-đốc Giáo hoàn toàn được tiêu biểu bởi các dân. Từ giữa các dân này, Ba-bên đã xuất hiện từ dòng dõi bị rủa sả. Nguyên nhân của sự rủa sả là gì? Sự phản loạn. Cham đã bị rủa sả do phản loạn chống lại sự quản trị của Đức Chúa Trời. Ở dưới sự rủa sả của Đức Chúa Trời do Cham phản loạn chống lại sự quản trị thần thượng, dòng dõi của Cham đã bị Sa-tan lợi dụng để thành lập Ba-bên, hệ thống của Sa-tan. Ngày nay cũng đúng như vậy. Ba-by-lôn đã được xây dựng bởi các Cơ-đốc nhân không quan tâm đến sự quản trị của Đức Chúa Trời mà quan tâm đến vương quốc riêng của họ.

Trong mỗi giáo phái, kể cả Giáo Hội Công Giáo La-mã, đều có những Cơ-đốc nhân thật, được cứu. Họ là dân của Đức Chúa Trời thuộc về Chúa. Nhưng tổ chức của giáo phái mà họ ở trong đó thì không thuộc Đức Chúa Trời. Những tổ chức của giáo phái đã bị Sa-tan lợi dụng để thiết lập hệ thống của Sa-tan nhằm hủy phá gia tể của Đức Chúa Trời về nếp sống Hội Thánh đúng đắn. Tất cả tín đồ thật, bất kể ở đâu, trong các giáo phái hay ngay cả trong Giáo Hội Công Giáo La-mã, đều được cứu; nhưng hệ thống, tổ chức gian ác đó ở dưới sự thẩm phán của Đức Chúa Trời.

2) Nim-rốt Là Vua Đầu Tiên Của Ba-bên 
Đem Sự Thờ Lạy Hình Tượng Vào

Theo lịch sử, Nim-rốt là vua đầu tiên của Ba-bên, là người đã đem vào nhiều điều về sự thờ lạy hình tượng (10:10). Sự thờ lạy hình tượng đó đã phát minh một hình tượng gian ác nhất: Nữ Thần Madonna bồng con. Theo Sách “Hai Ba-by-lôn” thì Nữ Thần này là mẹ của Nim-rốt và cũng là vợ của ông. Hình tượng này, được phát minh bởi sự thờ phượng của người Ba-by-lôn, đã lan tràn khắp đất –đến Ai-cập, Ấn-độ, Hi-lạp, La-mã, Tây Tạng, Trung Quốc và Nhật Bản. Thậm chí hình tượng này đã thâm nhập vào Giáo Hội Công Giáo La-mã. Khi Giáo Hội Công Giáo La-mã sai các giáo sĩ đến Trung Quốc cách đây vài trăm năm, những giáo sĩ này đã tìm thấy cùng một hình tượng đó trong những chùa chiềng Phật Giáo và gởi về Va-ti-căn một bản báo cáo về điều này. Điều này được minh chứng trong quyển “Hai Ba-by-lôn”. Trước khi được cứu, lúc còn bé, tôi đã đến nhà thờ Công Giáo tại Trung Quốc và đã thấy hình tượng này. Cũng trong thời gian đó, tôi đã đến một ngôi chùa Phật Giáo của người Hoa và thấy ở đó cùng một bức tranh như vậy. Sau khi được cứu, trong sự rao giảng, tôi nói với người khác rằng trong một số điều, Giáo Hội Công Giáo và Phật Giáo ra cùng một nguồn. Cùng một hình tượng mẹ bồng con được tìm thấy trong các nhà thờ Công Giáo và trong các chùa chiềng Phật Giáo. Điều này phơi bày nguồn gốc của một số điều trong Giáo Hội Công Giáo ngày nay.

Như các quốc gia dẫn đến Ba-bên, thì các giáo phái cuối cùng sẽ dẫn đến Ba-by-lôn Lớn. Đây không phải là những lời nghe vui tai. Nhưng đừng bối rối. Khi các quốc gia này trở thành Ba-bên, Đức Chúa Trời đã can thiệp để kêu gọi Áp-ra-ham. Ông đã làm điều gì đó tốt hơn những gì ông đã làm trước đó. Tiểu sử của Áp-ra-ham tốt hơn nhiều so với của Nô-ê. Ai là Áp-ra-ham ngày nay? Dân Hội Thánh. Trong một ý nghĩa, chúng ta là Nô-ê ngày nay; trong một ý nghĩa khác, chúng ta là Áp-ra-ham ngày nay. Về dòng dõi hung ác này, chúng ta là những Nô-ê ngày nay, và về Cơ-đốc Giáo thuộc giáo phái, chúng ta là Áp-ra-ham ngày nay, người đã được kêu gọi ra khỏi Ba-bên. Chúng ta sẽ thấy nhiều hơn về đời sống của Áp-ra-ham trong các bài sau.

 

 

BÀI BA MƯƠI LĂM

Đời Sống Trong SỰ Phục Sinh

(4)

2. Hình Bóng Về Vương Quốc

Trong những bài trước, chúng ta đã thấy nhiều điều phong phú được tìm thấy trong Sáng Thế Ký. Trong bài nầy, chúng ta sẽ thấy một điều khác trong những sự phong phú nầy –đó là Vương Quốc. Vương Quốc là một trong nhiều lẽ thật được gieo như một hạt giống trong Sáng Thế Ký, được phát triển trải suốt Kinh Thánh và được gặt hái như một vụ mùa trong Sách Khải Thị. Chúng ta đã thấy rằng sau nước lụt, Nô-ê và gia đình ông đã sống một đời sống trong sự phục sinh và đời sống đó là hình bóng về Hội Thánh. Bây giờ chúng ta sẽ thấy rằng đời sống trong sự phục sinh cũng là hình bóng về Vương Quốc. Vương Quốc là một chủ đề lớn trong Kinh Thánh. Đó là một vấn đề có ý nghĩa nhất.

a. Khởi Đầu Thời Kỳ Nhân Trị

1) Con Người Được Ban Cho Uy Quyền Trên Người Khác

Vương Quốc được ngụ ý trong Sáng Thế Ký 9:1-7. Câu 6 chép “Hễ kẻ nào làm đổ máu người thì sẽ bị người khác làm đổ máu lại”. Đây là một câu quan trọng trong Sáng Thế Ký. Tất cả giáo sư Kinh Thánh đều đồng ý rằng trong câu nầy, câu nói rõ rằng Đức Chúa Trời đã ban cho con người uy quyền trên người khác, chúng ta có thể thấy đây là sự khởi đầu thời kỳ nhân trị. Trước thời nầy, Đức Chúa Trời không hề ban cho con người uy quyền trên người khác. Mọi người đều ở dưới sự cai trị trực tiếp của Đức Chúa Trời. Nhưng bởi sa ngã, đã có bản chất phản loạn trong nhân loại. Vì lý do nầy, Đức Chúa Trời đã thiết lập một uy quyền trên đất để đại diện cho Ngài cai trị trên con người. Từ khởi đầu Sáng Thế Ký cho đến thời điểm của Sáng Thế Ký 9:6, ngoại trừ chồng là đầu vợ (3:16), thì không có một ngụ ý nào cho thấy Đức Chúa Trời ban cho con người uy quyền trên người khác. Tuy nhiên, sau nước lụt, khi ở trong sự phục sinh, con người đã sống trên đất theo cách mới. Đức Chúa Trời đã thiết lập một uy quyền đại diện trên đất.

2) Nô-ê Là Uy Quyền Đại Diện

Sau nước lụt, Nô-ê là uy quyền đại diện. Là đầu của một dòng dõi mới, Nô-ê là uy quyền đại diện dưới Đức Chúa Trời. A-đam không phải là uy quyền đại diện của Đức Chúa Trời trên con người. Ông được chỉ định có uy quyền trên các tạo vật nhưng không trên con người. Nếu đọc kỹ Sáng Thế Ký chương 1, anh em sẽ thấy rằng A-đam có uy quyền trên cá, các loài chim trời, các loài thú, các loài bò sát và “mọi vật sống di chuyển trên mặt đất” (c. 26,28). Nhưng không có một từ nào cho thấy rằng A-đam được ban cho uy quyền trên người khác. Nhưng sau khi Nô-ê trở thành đầu của dòng dõi mới, Đức Chúa Trời đã ban cho ông uy quyền không những trên các tạo vật khác mà còn trên chính con người.

3) Vương Quốc Của Đức Chúa Trời Trên Đất 
Giữa Vòng Loài Người

Nếu đọc kỹ Sáng Thế Ký chương 9, anh em sẽ thấy có hình bóng về Vương Quốc. Vương Quốc là gì? Vương Quốc là sự cai trị, thống trị. Trong Sáng Thế Ký chương 9, chúng ta thấy hình bóng về Vương Quốc của Đức Chúa Trời trên đất giữa vòng loài người. Sự cai trị bằng uy-quyền-Đức-Chúa-Trời-ban-cho giữa vòng con người trên đất mới nầy tượng trưng cho sự cai trị của Vương Quốc Đức Chúa Trời trong sự sống phục sinh.

b. Trước Vương Quốc Đó

1) Đất Đầy Dẫy Bạo Lực

Tình trạng trên đất trước thời Vương Quốc như thế nào? Trước hết, đất đầy dẫy bạo lực (6:11,13). Tại sao đất đầy dẫy bạo lực? Vì không có uy quyền đại diện nên không ai được trao cho uy quyền để cai trị trên người khác. Không có một uy quyền đại diện nào trên con người trước nước lụt. Ví thử ngày nay không có một chính quyền ở cấp địa phương, tiểu bang hay liên bang thì chúng ta có được sống bình an không? Không, đất sẽ đầy dẫy bạo lực. Ban đêm không ai được ngủ ngon vì tất cả mọi người đều sợ bị mất trộm. Vì không có một sự cai trị như vậy trước nước lụt nên đất đầy bạo lực. Như sẽ thấy trong bài tiếp theo, sự cai trị trong suốt thời gian đó là lương tâm con người. Trong vườn Ê-đen, trước khi sa ngã, con người ở dưới sự cai trị trực tiếp của Đức Chúa Trời, tức sự cai trị thần thượng (Thần Trị). Sau khi sa ngã, con người ở dưới sự cai trị của chính lương tâm mình. Tuy nhiên, sự cai trị của lương tâm, hay chúng ta có thể nói là sự-tự-cai-trị, đã không có hiệu quả. Kết quả của sự-tự-cai-trị nầy là cả đất đầy dẫy bạo lực. Do đó, sau nước lụt, Đức Chúa Trời đã ban cho con người uy quyền để cai trị trên người khác và bắt đầu cho Thời Kỳ Nhân Trị.

2) Con Người Không Quan Tâm Đến 
Điều Đức Chúa Trời Quan Tâm

Thứ hai, trước thời Vương Quốc, con người không quan tâm đến điều Đức Chúa Trời quan tâm. Theo Lu-ca 17:26-27, trước nước lụt, người ta ăn uống, cưới, gả. Không ai quan tâm đến điều Đức Chúa Trời quan tâm. Cuối cùng, sự đoán phạt của Đức Chúa Trời đã giáng trên họ.

c. Trong Vương Quốc Đó

Nhưng sau nước lụt, mọi điều đã đổi khác. Dưới sự cai trị của uy quyền đại diện Đức Chúa Trời, tức là hình bóng về Vương Quốc của Đức Chúa Trời, tình hình đã khác đi.

1) Đất Đầy Dẫy Bình An

Sau nước lụt, đất đầy dẫy bình an. Chúng ta biết điều nầy vì 9:20 nói rằng Nô-ê đã trồng một vườn nho. Mi-chê 4:3-4 cho thấy rằng khi dân của Đức Chúa Trời có một vườn nho thì điều đó có nghĩa là có sự bình an trên đất. Những câu nầy trong Sách Mi-chê, tức những câu nói về Vương Quốc sắp đến, cho thấy rằng con người sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn lưỡi liềm vì không còn chiến tranh nữa, và ai nấy đều ngồi dưới cây nho và cây vả của mình. Điều nầy nghĩa là có hoà bình. Việc Nô-ê trồng vườn nho chứng tỏ rằng ông đang vui hưởng sự bình an trong Vương Quốc. Vào lúc đó, không có bạo lực. Nếp sống Hội Thánh đúng đắn ngày nay là một Vườn Nho Thật, nơi đó không có sự tranh đấu mà là được nghỉ ngơi.

2) Con Người Được Khôi Phục Lại Như Ban Đầu

Trong Vương Quốc đó, con người được khôi phục lại cho mục đích mà Đức Chúa Trời đã hoạch định cho con người từ ban đầu: biểu lộ và đại diện cho Đức Chúa Trời (9:1-7). Điều rất thú vị là chúng ta thấy các từ trong 1:26-28 được lặp lại trong chương 9 nầy. Điều nầy có nghĩa là sau nước lụt, con người được đem trở lại lúc ban đầu để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời, với mục tiêu bày tỏ Đức Chúa Trời và đại diện Ngài.

d. Dẫn Đến Sự Phản Loạn Của Ba-bên

Khi đến phần cuối của Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy rằng Vương Quốc sẽ kết thúc bằng một tình trạng không vui –tức là một sự phản loạn lớn. Điều đó hoàn toàn giống với hình bóng trong Sáng Thế Ký. Thật tốt đẹp biết bao khi Nô-ê vui hưởng sự bình an trong Vương Quốc và nhân loại được khôi phục lại như lúc ban đầu để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, kết quả của tất cả những điều nầy là sự phản loạn ở Ba-bên. Sự phản loạn của nhân loại ở Ba-bên hoàn toàn do sự hành động của Sa-tan.

1) Sa-tan Xúi Giục Con Người Lạm Dụng Uy-Quyền-
Đức-Chúa-Trời-Ban-Cho Để Lập Nên Các Quốc Gia

Sa-tan đã xúi giục con người lạm dụng uy-quyền-Đức-Chúa-Trời-ban-cho trên người khác để hình thành các quốc gia. Đức Chúa Trời ban cho con người uy quyền cai trị người khác để có sự hòa bình, nhưng Sa-tan đã xúi giục con người và khiến cho họ lạm dụng uy quyền nầy để hình thành các quốc gia. Mặc dù Đức Chúa Trời có ý định để con người cai trị trên người khác nhưng Ngài không có ý định để họ hình thành các quốc gia. Việc hình thành các quốc gia là công tác của Sa-tan. Sa-tan khiến con người lạm dụng uy quyền, sử dụng nó để hình thành các quốc gia và thiết lập các đế quốc nhỏ cho chính họ.

2) Sa-tan Xúi Giục Con Người 
Phản Loạn Với Đức Chúa Trời

Sa-tan xúi giục con người phản loạn với Đức Chúa Trời bằng cách xây thành và tháp Ba-bên. Việc xây thành và tháp Ba-bên là lời tuyên bố độc lập với Đức Chúa Trời. Nhân loại tuyên bố rằng họ độc lập với Đức Chúa Trời.

3) Bị Đức Chúa Trời Đoán Phạt

Sự phản loạn đó đã bị Đức Chúa Trời trực tiếp đoán phạt. Khi đoán phạt đất vào lúc nước lụt, Đức Chúa Trời đã không trực tiếp làm điều đó. Ngài sai nước lụt đến đoán phạt thời đại đó. Tuy nhiên, ở Ba-bên, Đức Chúa Trời đã đích thân ngự xuống và trực tiếp đoán phạt sự phản loạn đó. Ngài không sai bất kỳ ai khác xử lý sự phản loạn nầy mà chính Ngài xử lý.

e. Hội Thánh Là Vương Quốc Trong Thực Tại

Bây giờ chúng ta đến Tân Ước là nơi sẽ thấy Vương Quốc thật, Vương Quốc trong thực tại. Tân Ước là Sách về Vương Quốc. Cả Tân Ước nói về Vương Quốc. Điều đầu tiên trong sự rao giảng của Tân Ước là gì? Là Vương Quốc. Vương Quốc được rao giảng trong các chương mở đầu của các Sách Phúc Âm. Tân Ước rao giảng Phúc Âm theo cách Vương Quốc, không theo cách được lên thiên đàng. Tân Ước không nói “Hãy ăn năn vì thiên đàng dành sẵn cho các ngươi rồi”, nhưng nói “Hãy ăn năn vì Vương Quốc các từng trời đã đến gần” (Mat. 3:2; 4:17). Ngày nay, con người đang nghe hàng ngàn bài giảng về Phúc Âm. Anh em có từng nghe bài giảng Phúc Âm nào bảo người ta ăn năn vì Vương Quốc sắp đến không? Trong cả đời mình, tôi chưa hề nghe một Phúc Âm như vậy. Ngày nay, khi Cơ-đốc nhân rao giảng Phúc Âm, hầu hết họ đều nói về tội lỗi, thiên đàng và địa ngục. Hầu như không ai nói về Phúc Âm có liên quan đến Vương Quốc. Nhưng trong sự rao giảng đầu tiên về Phúc Âm, Tân Ước cho biết phải ăn năn vì Vương Quốc.

Phúc Âm là vì Vương Quốc. Mục đích của sự rao giảng Phúc Âm là để con người có thể vào trong Vương Quốc. Phúc Âm được rao giảng để con người được cứu, được đủ điều kiện, được trang bị để bước vào Vương Quốc. Sự tái sinh cũng là vì Vương Quốc (Gi. 3:3,5). Nếu không được tái sanh, không thể bước vào Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Anh em đã được cứu, được tẩy sạch trong huyết và được tái sanh chưa? Để làm gì? Trước khi vào trong Hội Thánh, tôi được bảo rằng chúng ta phải được cứu, được tẩy sạch và tái sanh để có thể lên thiên đàng. Trong Hội Thánh, chúng ta đã thấy một điều gì đó cao hơn –đó là được cứu, được tẩy sạch và tái sanh vì Hội Thánh (Êph. 5:25,23; Công.. 20:28). Phúc Âm về Vương Quốc là đem tội nhân phản loạn vào trong Hội Thánh. Nhưng bây giờ chúng ta cần thấy thực tế của Hội Thánh là gì. Thực tế của Hội Thánh là Vương Quốc. Nếu đã được cứu, được tẩy sạch và tái sanh cho Hội Thánh, điều đó có nghĩa là anh em đã kinh nghiệm những điều nầy cho thực tế của Vương Quốc.

Gánh nặng của tôi trong bài nầy là chia sẻ với anh em nếp sống Hội Thánh thật là gì. Nếp sống Hội Thánh thật là Vương Quốc. Phúc Âm là vì Vương Quốc. Được cứu, được tẩy sạch và được tái sanh hoàn toàn là vấn đề của Vương Quốc.

Trên thực tế, Hội Thánh là Vương Quốc. Một số Cơ-đốc nhân khẳng định rằng thời đại nầy là thời đại Hội Thánh và Vương Quốc chưa đến. Theo quan niệm của họ, sau khi thời đại Hội Thánh qua đi, thời đại Vương Quốc sẽ bắt đầu. Mặc dù theo một ý nghĩa, cách hiểu nầy là đúng, nhưng theo một ý nghĩa khác lại không đúng. Như chúng ta sẽ thấy, Hội Thánh ngày nay là Vương Quốc. Hội Thánh đúng đắn, thực tế và sống động là Vương Quốc, và Vương Quốc là thực tế của Hội Thánh. Nếu không có Vương Quốc, không có Hội Thánh. Sự cứu rỗi và tái sanh của chúng ta là vì Hội Thánh và Hội Thánh là Vương Quốc

1) Hội Thánh Được Xây Dựng, 
Vương Quốc Được Thiết Lập

Khi Hội Thánh được xây dựng, Vương Quốc được thiết lập. Sự xây dựng Hội Thánh là thiết lập Vương Quốc. Điều nầy được chứng minh trong Ma-thi-ơ 16:18-19. Trong câu 18, Chúa phán “Ta sẽ xây Hội Thánh Ta trên đá nầy” và trong câu 19, Chúa phán với Phi-e-rơ “Ta sẽ ban cho ngươi các chìa khóa của Vương Quốc các từng trời”. Trong câu 18, Ngài nói về Hội Thánh; trong câu 19, Ngài thay từ “Hội Thánh” bằng từ “Vương Quốc”. Điều nầy chứng tỏ rằng Hội Thánh và Vương Quốc là các từ liệu có thể hoán đổi cho nhau; cả hai chỉ về cùng một điều.

Hai câu nầy cho thấy rằng để xây dựng Hội Thánh thì các chìa khóa của Vương Quốc phải được trao cho Phi-e-rơ. Tôi tin rằng Phi-e-rơ chỉ có hai chìa. Hai chìa đó là gì và ông đã sử dụng khi nào? Mỗi cánh cửa, mỗi lối vào, đều có một ổ khóa riêng biệt và cần một chìa khóa riêng. Phi-e-rơ dùng chìa khóa đầu tiên vào ngày Lễ Ngũ Tuần (Công Vụ. 2). Chìa khóa nầy đã mở cửa cho người Do-thái vào trong Vương Quốc. Sau đó, trong nhà của Cọt-nây (Công Vụ. 10), ông đã dùng chìa thứ hai để mở cánh cửa cho người Ngoại Bang vào trong Vương Quốc. Chúa đã ban hai chìa nầy cho Phi-e-rơ và Phi-e-rơ đã dùng để mở hai lối vào Vương Quốc, một cho người Do-thái và một cho người Ngoại Bang để Hội Thánh được xây dựng. Vương Quốc mà người Do-thái và Ngoại Bang được vào là Hội Thánh.

Ai có thể nói rằng Hội Thánh ngày nay không phải là Vương Quốc? Ví dụ căn hộ của anh em là nhà của anh em. Anh em không thể nói “Tôi có căn hộ nhưng không có nhà”. Hễ khi có căn hộ là có nhà vì căn hộ đó chính là nhà. Cũng vậy, khi có Hội Thánh trên đất thì Đức Chúa Trời có Vương Quốc. Đừng nói rằng Hội Thánh không phải là Vương Quốc vì Hội Thánh là Vương Quốc.

2) Nếp Sống Hội Thánh Là Vương Quốc

La-mã 14:17 cho thấy rằng nếp sống Hội Thánh là Vương Quốc. La-mã là Sách nói về nếp sống Cơ-đốc và nếp sống Hội Thánh. Trước chương 12, Sách này nói đến nếp sống Cơ-đốc. Trong chương 12, Sách bắt đầu nói về nếp sống Thân Thể. Khi đọc chương 12 đến 14, anh em sẽ thấy rằng chương 14 là một phần nói về nếp sống Thân Thể thiết thực và nếp sống Thân Thể thiết thực này là Vương Quốc. Trong La-mã 14:17, Phao-lô nói đến Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Trong câu nầy, ông không nói đến nếp sống Hội Thánh hay nếp sống Thân Thể; ông nói rằng “Vương Quốc Đức Chúa Trời là... sự công chính, bình an và vui mừng trong Thánh Linh”. Đây không phải là một vấn đề cho tương lai mà cho hiện nay. Nếp sống Thân Thể, nếp sống Hội Thánh, là Vương Quốc.

3) Ngày Nay, Những Người Trong Hội Thánh 
Đang Ở Trong Vương Quốc

Khải Thị 1:9 cho thấy rằng ngày nay, những người trong Hội Thánh là đang ở trong Vương Quốc. Ngày nay, trong Hội Thánh, chúng ta đang ở dưới sự cai trị thiên thượng của Đức Chúa Trời. Tất cả chúng ta đều cần Đức Chúa Trời cai trị. Khi được Đức Chúa Trời cai trị, chúng ta có thể cai trị cho Đức Chúa Trời bằng uy quyền thiên thượng. Lần đầu tiên Vương Quốc được nói có quan hệ đến Hội Thánh (Ma. 16) là đề cập đến việc trói và mở. Đây là việc chúng ta cai trị bởi uy quyền của Đức Chúa Trời. Khi ở dưới sự cai trị của Đức Chúa Trời, chúng ta có thể vận dụng uy quyền của Ngài để cai trị trên hoàn cảnh của mình.

Là Cơ-đốc nhân trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta có cần đến sự cai trị bên ngoài của con người hay của cảnh sát không? Thật là xấu hổ nếu cần đến một sự cai trị bên ngoài như vậy vì chúng ta đã có sự cai trị thiên thượng bên trong. Giả sử anh em mua thực phẩm ở nơi bán thức ăn nhanh và người thu ngân đã thối tiền lại quá nhiều, anh em có thể nào bình an ăn thức ăn đó không? Không. Anh em phải trả lại số tiền thối dư. Vì sự cai trị bên trên và bên trong không cho phép anh em lấy đi quyền lợi của người khác. Không cần đến cảnh sát phải ra lệnh cho anh em trả lại tiền. Là những người trong Hội Thánh, chúng ta đang ở dưới sự cai trị thiên thượng của Đức Chúa Trời. Có thực tế của Vương Quốc giữa chúng ta.

Tuy nhiên, vì con người vẫn còn trong bản chất sa ngã, nên đôi khi chúng ta cần phải có người khác cai trị. Chỉ vâng phục sự cai trị thiên thượng không thôi thì chưa đủ, một số chị em cần phải được chồng cai trị. Có thể họ quá cảm tính nên cần phải được chồng cai trị. Đây là sự cai trị của chồng chứ không phải sự cai trị thiên thượng. Vì nhiều chị em vẫn còn quá thiên nhiên, không thực sự đang sống bởi Đấng Christ hoặc bước đi trong linh, nên họ cần chồng cai trị. Nếu họ sống bởi Đấng Christ và bước đi trong linh thì không cần đến sự cai trị của chồng. Khi những người vợ ở dưới sự cai trị thiên thượng, họ không cần sự cai trị của chồng.

Anh chị em trẻ là sinh viên, học sinh, có thể cần đến thầy cô giáo cai trị. Ở nhà, có thể họ cũng cần cha mẹ dùng đến uy quyền để cai trị. Tuy nhiên, nói cách nghiêm túc, nếu tất cả anh chị em trẻ hoàn toàn ở dưới sự cai trị thiên thượng của Đức Chúa Trời thì họ không cần một sự cai trị nào khác. Ở trường, ở nhà, ở các tiệm tạp hóa hay ở bất kỳ nơi nào, sự cai trị thiên thượng của Đức Chúa Trời là quá đủ. Đây là Vương Quốc. Chúng ta đang ở trong Vương Quốc, và Vương Quốc đang ở trong Hội Thánh. Hội Thánh là Vương Quốc, và Vương Quốc là thực tế của Hội Thánh.

Thực tại của Hội Thánh là Vương Quốc là điều hoàn toàn dựa trên sự sống trong linh. Sự sống trong linh là gì? Đó là sự sống ở dưới sự cai trị thiên thượng của Đức Chúa Trời. Hễ khi sống và bước đi trong linh, chúng ta đang ở dưới sự cai trị thiên thượng của Đức Chúa Trời. Một nếp sống ở dưới sự cai trị của Đức Chúa Trời như vậy là thực tế của nếp sống Hội Thánh. Đây là thực tế của Vương Quốc ngày nay. Vương Quốc thật sự đang ở trong Hội Thánh sống động nầy.

f. Hội Thánh Đem Vương Quốc Đến Chỗ Hiển Lộ

Hội Thánh, với Vương Quốc là thực tại, sẽ đem Vương Quốc đến chỗ hiển lộ. Có các phương diện khác nhau của Vương Quốc. Vương Quốc trong thực tại là một phương diện, và Vương Quốc trong sự hiển lộ là một phương diện khác. Trong Hội Thánh, chúng ta có Vương Quốc trong thực tại nhưng Vương Quốc chưa được hiển lộ. Điều đó được nhận thức bên trong chứ không lộ ra bên ngoài. Trong khi sự nhận thức, tức thực tại bên trong, về Vương Quốc, ở trong Hội Thánh ngày nay thì sự biểu lộ bên ngoài chỉ đến trong tương lai.

Nếu đang ở trong thực tại của Vương Quốc, anh em sẽ trả lại phần thối dư khi người thâu ngân ở tiệm bách hóa hoặc nhà hàng thối lại. Người khác không thể hiểu được khi chúng ta làm điều nầy. Họ ngạc nhiên vì chúng ta đã không lợi dụng tình huống như vậy chỉ vì người ta không hiểu được việc trả lại tiền dư và không lợi dụng người khác là một ví dụ về thực tại bề trong của Vương Quốc trong nếp sống Cơ-đốc. Người thế giới không thể thấy rằng đây là Vương Quốc. Nhưng khi Chúa Jesus trở lại, Vương Quốc sẽ hiển lộ. Khi đó, mọi người đều sẽ nói “Đây chính là Vương Quốc hiển lộ”.

Theo một ý nghĩa, Vương Quốc đang ở đây, nhưng theo một ý nghĩa khác, Vương Quốc sắp đến. Điều nầy cũng giống như Chúa Jesus. Theo một ý nghĩa, Chúa đang ở đây với chúng ta. Nhưng theo một ý nghĩa khác, Chúa sắp đến. Trong khi Chúa đang ở với chúng ta theo cách bề trong, thì Ngài cũng sắp đến theo cách bên ngoài. Ngày nay, chúng ta cần nói với người khác rằng chúng ta tin Chúa Jesus và có Ngài ở bên trong, cần giải thích với họ tin Chúa có nghĩa là gì và có Ngài bên trong có nghĩa là gì. Nhưng khi Chúa đến cách bên ngoài và đem Vương Quốc đến chỗ hiển lộ thì không cần giải thích gì thêm nữa. Mọi người đều sẽ thấy Vương Quốc hiển lộ. Sự hiển lộ của Vương Quốc, tức Vương Quốc trong sự hiển lộ, sẽ được Hội Thánh là thực tại của Vương Quốc, đem đến. Sự hiển lộ của Vương Quốc sẽ không xuất hiện thình lình mà sẽ xuất hiện qua nếp sống Hội Thánh. Vì sao? Vì cần phải có người đắc thắng cai trị trên Kẻ Ác, đắc thắng thế giới, chuẩn bị con đường và thiết lập bàn đạp để Đấng Christ có thể trở lại. Sau đó sự hiển lộ của Vương Quốc sẽ đến.

1) Hội Thánh Sản Sinh Người Đắc Thắng

Hội Thánh sản sinh người đắc thắng. Điều nầy được khải thị đầy đủ trong Khải Thị chương 12. Trong chương này, chúng ta thấy người đàn bà tượng trưng cho toàn thể dân của Đức Chúa Trời (c. 1), bao gồm các thánh đồ Cựu Ước và tín đồ Tân Ước, mà tín đồ Tân Ước là Hội Thánh. Đừng nghĩ rằng cả Hội Thánh với từng người trong đó đều sẽ là người đắc thắng. Không, chỉ có một số trong Hội Thánh là người đắc thắng, còn lại thì không. Điều nầy cũng giống như một gia đình trong đó có người già, người trẻ và người mạnh mẽ. Ai là người đắc thắng trong gia đình? Những người mạnh mẽ. Theo Dân Số Ký, những người trong độ tuổi trên 20 dưới 50, đều là chiến sĩ. (Dân. 1:20; 4:3). Tất cả những người dưới 20 và trên 50, đều là những người vui hưởng. Chiến sĩ là người mạnh mẽ, là những người trên 20 và dưới 50. Trong nếp sống Hội Thánh ngày nay, chúng ta có một số người thuộc linh trên 50; họ là những người vui hưởng. Cảm ơn Chúa, chúng ta cũng có một số người trẻ hơn, những người thuộc linh dưới 20; họ là những người vui hưởng còn trẻ. Nhưng chúng ta càng cảm ơn Chúa hơn nữa vì có một số người thuộc linh trên 20 và dưới 50. Đây là những người mạnh mẽ đánh trận. Đây là những chiến sĩ. Chiến trận trong tay họ. Tất cả những người còn lại là người vui hưởng. Hội Thánh đang tạo nên những người mạnh mẽ nầy, người đắc thắng, những người sẽ đánh trận với Sa-tan, kẻ thù của Đức Chúa Trời và chống lại thế giới của nó.

2) Người Đắc Thắng Đem Vương Quốc Đến

Theo Khải Thị chương 12, khi người đắc thắng được cất lên trời, Sa-tan sẽ bị ném xuống đất (c. 5,9). Sau đó là lời công bố Vương Quốc Đức Chúa Trời đã đến (c. 10). Vương Quốc của Đức Chúa Trời đến qua người đắc thắng. Hội Thánh sản sinh người đắc thắng, còn người đắc thắng sẽ đánh bại kẻ thù để đem Vương Quốc đến chỗ hiển lộ. Chúng ta sẽ nói nhiều hơn về điều nầy trong Nghiên Cứu Sự Sống Sách Khải Thị.

g. Cai Trị Trong Sự Phục Sinh

Hội Thánh là sự cai trị của Vương Quốc. Nhưng sự cai trị nầy không ở trong xác thịt hay trong sự sống thiên nhiên của chúng ta mà phải là sự cai trị trong sự phục sinh. Loại cai trị này không chỉ cho tương lai mà còn phải ở trong linh chúng ta hôm nay. Giả sử, các trưởng lão giữa anh em lạm quyền, dùng uy quyền để cai trị người khác trong nếp sống Hội Thánh thì điều đó sẽ không bao giờ hiệu quả. Nếu các trưởng lão cố làm điều nầy thì sâu xa trong linh, chúng ta biết là họ không đang cai trị trong sự phục sinh; họ đang cai trị trong địa vị mà thôi. Tất cả chúng ta phải học tập là: trong Hội Thánh, nơi có thực tại của Vương Quốc, chúng ta phải cư xử trong linh. Phải sống và bước đi trong sự phục sinh. Hễ khi nào bước đi trong sự phục sinh, chúng ta sẽ có uy quyền. Thật đúng khi nói rằng các anh là đầu và các chị nên ở dưới quyền làm đầu đó. Tuy nhiên, nếu các anh không sống và hành động trong linh mà các chị lại sống và hành động trong linh, thì chúng ta sẽ có nhận thức sâu xa rằng các anh không có quyền làm đầu mà các chị lại có một loại uy quyền nào đó. Trong trường hợp như vậy, các chị sẽ có uy quyền vì sự sống của họ ở trong sự phục sinh. Khi nói bằng con người thiên nhiên của mình, lập tức chúng ta đánh mất lập trường. Nhưng khi nói và hành động trong linh, chúng ta duy trì vị trí của uy quyền. Sự cai trị trong Hội Thánh không mang tính con người hay thiên nhiên mà phải ở trong sự phục sinh.

Tôi xin nói vài lời với những người vợ, người chồng. Nếu người chồng dùng uy quyền theo cách thiên nhiên, ngay lập tức người ấy mất vị trí là đầu mà trở thành đuôi. Tuy nhiên, nếu người đó sống trong linh thì Linh của Đức Chúa Trời sẽ nói với mọi người rằng đây là đầu và họ sẽ vâng phục người đó. Ngay cả một đứa nhỏ trong nhà cũng nhận ra điều đó. Có những lúc cha mẹ cãi nhau, con cái sẽ nói “Mẹ ơi, mẹ sai rồi. Ba đúng. Mẹ phải lắng nghe ba”. Những lúc khác thì con cái sẽ nói “Ba ơi, ba đang ở trong xác thịt. Vì ở trong xác thịt, làm sao ba có thể làm đầu được?”. Những điều như vậy đã xảy ra nhiều lần trong các gia đình Cơ-đốc. Không những Thánh Linh ở trong chúng ta mà ngay cả những đứa nhỏ trong nhà cũng biết chúng ta đang ở trong xác thịt hay trong linh. Ngay cả đứa con gái nhỏ 2, 3 tuổi cũng biết chúng ta đang ở đâu. Hỡi người chồng, đừng dùng quyền làm đầu của mình theo cách địa vị. Anh em phải sống, phải bước đi trong linh và là người hoàn toàn ở trong sự phục sinh. Nếu làm như vậy, anh em sẽ là đầu.

Cai trị trong Vương Quốc của Đức Chúa Trời là vấn đề trong sự phục sinh. Ở trong sự phục sinh là ở trong linh. Ô, chúng ta cần ở trong linh biết bao! Mặc dù nhiều khi các bà vợ có thể không công bằng nhưng Thánh Linh trong họ công bằng. Họ cũng có một linh công bằng bên trong đang nói với họ rằng “Chồng của con đúng”. Tuy nhiên, nếu không ở trong linh, chúng ta sẽ mất lập trường. Chúng ta sẽ mất sự cai trị thiên thượng. Để ở trong sự phục sinh, chúng ta phải ở trong linh. Khi ở trong linh, chúng ta ở dưới sự cai trị thiên thượng và tự nhiên sự cai trị nầy được vận hành trên toàn bộ hoàn cảnh.

1) Với Đấng Christ Trong Thời Đại Mới

Một ngày kia, người đắc thắng sẽ sống lại và cai trị với Đấng Christ (Khải. 20:4,6). Chỉ khi nào chết, chúng ta mới không thể cai trị với Đấng Christ. Những người được sống lại sẽ cai trị với Đấng Christ trong thời đại mới suốt một ngàn năm.

2) Trên Các Nước

Những người được sống lại sẽ cai trị với Đấng Christ trên các nước (Khải. 2:26-27; 12:5). Khi còn là thanh niên, tôi đã đọc điều nầy, tôi không thể tin như vậy. Tôi tự nói với mình rằng “Chắc chắn là mình không xứng đáng để cai trị các nước”. Anh em có thật sự tin rằng khi sống lại, anh em sẽ là những vua đồng trị với Đấng Christ trên các nước không? Nếu tin điều nầy, tôi yêu cầu anh em hãy xem lại chính mình. Trông anh em có giống một vị vua không? Trong nếp sống Hội Thánh, trong thực tại của Vương Quốc, chúng ta đang được kỷ luật để có quyền làm vua. Chúng ta cần phải sống trong linh, bước đi trong linh, được xử lý trong sự sống thiên nhiên, và luôn luôn ở trong sự phục sinh. Nếu đang ở trong sự phục sinh, anh em sẽ là người xứng đáng nhất. Anh em sẽ là vua.

Giả sử tôi là người lớn tuổi trong gia đình và người lớn tuổi giữa vòng anh em. Nếu cư xử theo thứ bậc thiên nhiên, tôi sẽ nói với gia đình rằng “Các con không biết rằng cha là trưởng gia đình sao? Các cháu không biết rằng ông là ông nội và tất cả đều là cháu đang ở dưới quyền của ông sao?”. Nếu cư xử như thế, tôi trở nên giống như một con rùa. Mặc dù tôi cố gắng hành động cho xứng đáng nhưng thật ra tôi đã đánh mất phẩm giá của mình. Nếu tôi nói với anh em rằng “Anh em không nhận thấy rằng tôi là người lớn tuổi nhất sao, tôi là người có đủ điều kiện nhất sao? Tôi phải được tôn trọng giữa anh em”. Nếu có thái độ nầy, tôi sẽ trở nên như bò cạp và không có phẩm giá nào cả. Tuy nhiên, càng sống trong linh, bước đi trong linh, và ở trong sự phục sinh, tôi càng có phẩm giá thật sự. Đây là vương quyền. Vương quyền của chúng ta nằm trong sự bước đi đúng đắn trong linh, trong sự sống phục sinh. Không cần tranh giành quyền lực hay uy quyền. Cách tốt nhất để có uy quyền là cứ giữ mình trong sự phục sinh. Đó là sự nở hoa, tượng trưng cho sự phục sinh, của cây gậy A-rôn, ban cho ông uy quyền trong chức vụ (Dân. 17:3-10).

h. Dẫn Đến Sự Phản Loạn

Theo hình bóng của Vương Quốc được tìm thấy trong Sáng Thế Ký, Vương Quốc đã dẫn đến sự phản loạn ở Ba-bên. Bây giờ, trong sự ứng nghiệm của Vương Quốc trong Khải Thị chương 20, chúng ta thấy sự phản loạn thật. Anh em có tin rằng sau 1000 năm có sự cai trị thiên thượng dưới vương quyền của Đấng Christ trong sự phục hưng (Công Vụ. 3:21, bản ASV) lại có thể có một sự phản loạn như vậy không? Nhưng sự ứng nghiệm trong cả mặt hình bóng lẫn thực tại đều như thế. Kết quả là một sự phản loạn.

Nhiều giáo sư Cơ-đốc nói rằng khi nào Chúa đến thì mọi sự đều đúng đắn cả. Tôi mạnh mẽ nói rằng không phải như vậy. Ngay cả sau khi Chúa trở lại, bản chất phản loạn vẫn còn ở trong con người. Ngay cả sau thời kỳ phục hưng trong suốt 1000 năm, bản chất con người phản loạn vẫn còn trong họ.

1) Sa-tan Được Thả Ra 
Để Làm Bộc Lộ Bản Chất Phản Loạn Của Con Người

Vào cuối 1000 năm, Sa-tan sẽ được thả ra khỏi ngục (Khải. 20:7). Tại sao Chúa cho phép Sa-tan được thả ra? Sa-tan được thả tự do để làm bộc lộ bản chất phản loạn giấu kín trong nhân loại. Khải Thị 20:8 nói về Gót và Ma-gót. Nếu nhìn vào bản đồ Kinh Thánh, anh em có thể thấy Gót và Ma-gót nằm ở phía bắc của trái đất. Khuynh hướng của nhân loại ngày nay cho thấy sự phản loạn nầy. Ngay cả sau 1000 năm cai trị thiên thượng, bản chất phản loạn vẫn còn ở trong con người. Do đó, Đức Chúa Trời thả Sa-tan ra khỏi ngục để làm bộc lộ sự phản loạn trong con người.

2) Cả Con Người Lẫn Sa-tan 
Đều Bị Đức Chúa Trời Đoán Phạt

Sau sự phản loạn đó, Đức Chúa Trời sẽ đến thi hành sự đoán phạt của Ngài trên con người lẫn Sa-tan. Sự đoán phạt nầy sẽ tẩy sạch bản chất phản loạn khỏi nhân loại.

Chúng ta không nên học về Vương Quốc như một giáo lý. Tất cả chúng ta phải thấy hiện nay mình đang ở đâu. Chúng ta đang ở trong nếp sống Hội Thánh dưới sự cai trị thiên thượng. Bây giờ chúng ta cần ở trong sự phục sinh để sống và bước đi theo linh hầu có được thực tại của Vương Quốc giữa vòng chúng ta.

 

 

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2