"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:6869491
Đang truy cập:86

SÁNG THẾ KÝ: 6, 7, 8, 9, 10

nearest abortion clinics to jackson ms

nearest abortion clinics to jackson ms redirect

lamictal pregnancy birth defects

lamictal and pregnancy tests charamin.jp

 

 

BÀI SÁU

S Phục Hồi Và Sáng Tạo Thêm 
Của Đức Chúa Trời

 (3)

Mục Đích

Trong bài này, chúng ta xem xét sự tạo nên sự sống con người, sự sống cao hơn với ý thức cao nhất. Vì bài vừa qua là phần mở ngoặc, nên bây giờ chúng ta tiếp tục nghiên cứu tiến trình phục hồi và sáng tạo thêm của Đức Chúa Trời.

13)  Hội Nghị Của Đức Chúa Trời Tam–Nhất

Sáng Thế Ký 1:26 bày tỏ rằng có một hội nghị giữa vòng Đấng Tam–Nhất, do Đấng Tam–Nhất tổ chức. Chúng ta nói “giữa vòng” vì Đức Chúa Trời là Tam–Nhất. Theo ngôn ngữ con người, chúng ta có thể nói rằng có Ba Thân Vị trong Đấng Tam–Nhất, một Đức Chúa Trời với ba Thân Vị. Tôi không thể giải thích điều này. Tôi chỉ có thể nói rằng Đức Chúa Trời là Tam–Nhất, rằng chúng ta có một Đức Chúa Trời với ba Thân Vị. Có một hội nghị được tổ chức bởi ba Thân Vị này của Đấng Tam–Nhất, và một quyết định đã được đưa ra. Hội nghị này cùng với quyết định được đưa ra đã khởi xướng cho sự trưởng thành sự sống. Sau khi Đức Chúa Trời đã tạo nên gia súc, thú vật và các loài bò sát vào phần đầu của ngày thứ sáu, Ngài đã không tạo nên con người ngay. Trái lại, Ngài đã có một Hội Nghị để bàn về vấn đề này. Sáng Thế Ký 1:26 nói “Và Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng Ta hãy làm nên con người…”. Nếu đọc câu này cẩn thận, chúng ta thấy có điều gì đó giống như một hội nghị. Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy…”. Đức Chúa Trời là một; nhưng đại từ ở đây là “Chúng Ta”. Điều này chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời là Tam–Nhất. Câu này không nói “Ta hãy làm nên…” Nếu Kinh Thánh nói “Ta” mà không nói “Chúng Ta” hẳn sẽ không cần nói “hãy”. Cụm từ “Chúng Ta hãy làm nên” có nghĩa là Chúng Ta hãy có sự tương giao nào đó. Dầu anh em có thể cho rằng tôi suy luận quá nhiều, tuy nhiên, trong Kinh Thánh, chúng ta có lời này: “Chúng Ta hãy…”

Sau khi tạo nên mọi điều thuộc sự sống đã nói ở trên, Đức Chúa Trời vẫn cần tạo nên con người là sự sống thọ tạo cao nhất để biểu lộ chính Ngài theo hình ảnh Ngài và theo hình dạng Ngài. Để hoàn thành công tác này cần có Đức Chúa Trời Tam–Nhất –Cha, Con và Linh– hành động trên con người. Điều này được chứng minh đầy đủ bởi các Sách tiếp theo của cả Kinh Thánh.

Cho đến lúc này, chúng ta đã thấy tám điều của sự sống. Đừng quên điều này. Đức Chúa Trời đã tạo nên cỏ, cây thân thảo, cây thân mộc vào cuối ngày thứ ba trước các-vì-sáng-ngày-thứ-tư. Sau các-vì-sáng-ngày-thứ-tư, Ngài tạo nên cá và chim vào ngày thứ năm. Trong phần đầu của ngày thứ sáu, Đức Chúa Trời đã tạo nên gia súc, đại diện là bò; thú vật, đại diện là sư tử, và các loài bò sát. Do đó, có ba điều của sự sống thực vật và năm điều của sự sống động vật. Với chúng ta, dường như khắp trái đất đã đầy dẫy sự sống. Tuy nhiên, chưa có sự trưởng thành của sự sống.

Sự trưởng thành của sự sống trên đất là sự sống con người. Ngay cả ngày nay, sau 6.000 năm, không một sự sống nào trên đất này có thể trỗi hơn sự sống của con người.Đừng đánh giá thấp chính mình. Anh em rất cao trọng, cao hơn cỏ, cao hơn cây thân thảo, và cây thân mộc, cao hơn cả gia súc, thú vật,  loài bò sát. Anh em có sự sống thọ tạo cao nhất. Ngoài con người, không có sự trưởng thành của sự sống. Do đó, Đức Chúa Trời Tam–Nhất đã tổ chức một hội nghị và khởi xướng cho sự trưởng thành của sự sống. Đức Chúa Trời Tam–Nhất quyết định tạo nên sự sống thọ tạo cao nhất.

14) Con Người Được Tạo Nên Như Là Trung Tâm

Con người đã được tạo nên như là trung tâm, tức sự sống cao hơn với ý thức cao nhất. Đây là sự trưởng thành của sự sống, là sự sống có hình ảnh của Đức Chúa Trời và có thể thay mặt Đức Chúa Trời thi hành quyền quản trị. Trên trái đất này, con người là trung tâm. Như chúng tôi đã lưu ý trước đây, trời dành cho đất, và đất dành cho con người. Mọi điều trên bầu trời –ánh nắng, mưa và không khí– đều vì sự lớn lên của sự sống trên đất. Không có ánh sáng mặt trời, mưa và không khí, không thể có sự sống trên đất. Vì thế, trời dành cho đất, và đất này, với đủ loại sự sống, đều dành cho con người. Tất cả chúng ta đều biết rằng các khoáng chất là dành cho thực vật, thực vật dành cho động vật, và cả hai, thực vật và động vật, đều dành cho con người, và con người dành cho Đức Chúa Trời. Do đó, con người là trung tâm.

Các từng trời đã được chuẩn bị và trái đất được sửa soạn xong. Mọi thứ đã sẵn sàng để con người hiện hữu. Ngợi khen Chúa! Đức Chúa Trời đã không tạo nên con người trước, rồi sau đó bảo con người chờ cho đến khi Ngài chuẩn bị các từng trời và sửa soạn trái đất. Trái lại, sau khi Đức Chúa Trời chuẩn bị các từng trời, sửa soạn trái đất, và sẵn sàng mọi thứ, thì con người xuất hiện. Sau cùng, Đức Chúa Trời tạo nên con người. Con người được xếp cuối, dầu vậy con người đã là và vẫn là trung tâm.

Điều này rất giống với hôn nhân theo tục lệ Đông Phương. Trong hôn nhân, chú rễ chuẩn bị mọi thứ, và sau cùng, cô dâu xuất hiện. Cô dâu không xuất hiện trước rồi sau đó chờ mọi thứ được chuẩn bị. Nhưng là, sau khi mọi sự đã chuẩn bị xong, cô dâu đến.Cũng vậy, cả trái đất là nơi dành cho Lễ Cưới của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã chuẩn bị mọi điều cho Lễ Cưới của Ngài. [Nhưng] Cô Dâu là ai? Cô Dâu là con người.

Con người là sự trưởng thành của toàn thể sự sống thọ tạo. Không có con người, không có sự trưởng thành. Hãy xem cây cỏ. Cỏ xanh tươi và mềm mại, nhưng thiếu hình thể, dáng vẻ. Nó không có gương mặt. Cây thân thảo, bao gồm bắp và lúa mì, có hình dạng phát triển hơn. Tuy nhiên, cũng không có gương mặt. Cây thân mộc thì to lớn hơn, mang trái cũng như hạt giống; nhưng không một cây nào có gương mặt để biểu lộ nó. Sau ba mức độ này của sự sống thực vật, chúng ta có cá, mức độ thứ nhất của sự sống động vật. Cá có gương mặt với hai mắt nhỏ, nhưng đầu nó không được phân biệt rõ. Cá không có cổ. Tuy nhiên, chim có mặt rõ rệt và có cổ. Chúng có hai mắt, hai taivà một miệng nhỏ, phần nào giống với mặt con người hơn. Gia súc, ngựa và bò có mặt giống với mặt người. Tiếp theo gia súc, chúng ta có thú rừng, đặc biệt là sư tử. Mặt của sư tử gần giống với mặt người. Mặc dầu Darwin dại dột nói rằng con người là dòng dõi của khỉ, tuy nhiên, điều đó chỉ đúng khi nói rằng mặt của một số loài thú giống với mặt người. Tuy nhiên, dù cho mặt chim, gia súc, thú vật, chim ưng, bò và chiên giống với mặt người đến đâu, vẫn không phải là người. Chúng vẫn thiếu hụt và còn thấp kém.Chúng không phải là sự trưởng thành của sự sống thọ tạo.

Ê-xê-chi-ên 1:5,10 nói về bốn sinh vật. Bốn sinh vật này trông giống như con người. Mỗi con có bốn mặt: mặt người ở phía trước, mặt sư tử ở bên phải, mặt bò ở bên trái, và mặt chim ưng ở phía sau. Chim ưng ở phía sau vì mặt chim ưng không giống mặt người nhiều. Mặt của sư tử và bò giống với mặt người nhiều hơn. Tuy nhiên, mặt người là cao nhất. Vì thế, sự sống con người là sự trưởng thành của tất cả sự sống thọ tạo, có khả năng biểu lộ Đức Chúa Trời và thi hành quyền cai trị của Đức Chúa Trời.

Điều kỳ diệu và nổi bậc nhất về sự sống con người là ý thức. Chúng ta có ý thức cao nhất. Ý thức của chúng ta cao hơn của cá, chim ưng, bò, và sư tử. Về ý thức, sự sống con người là sự sống cao nhất. Chúng ta cần reo mừng: “Ha-lê-lu-gia!” Trong vũ trụ và trên đất này, con người đã được sinh ra. Con người đã được tạo nên, có một sự sống với ý thức cao nhất, một sự sống có thể biểu lộ và đại diện Đức Chúa Trời. Điều này thật kỳ diệu! Sự tạo nên con người thật quan trọng và có tính quyết định đến nỗi Đức Chúa Trời Tam–Nhất phải tổ chức một hội nghị trước khi thực hiện điều đó. Bầu trời đã được phục hồi. Các từng trời đã được chuẩn bị cho mục đích phục vụ trái đất. Đất khô hiện ra vì mục đích sản sinh sự sống thực vật, sự sống động vật, và sự sống con người. Hãy xem bầu trời: có mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, mưa, và không khí. Hãy nhìn trái đất: có cỏ, cây thân thảo và cây thân mộc. Có các loài chim trên không, cá dưới nước, gia súc, thú vật, và các loài bò sát trên đất. Là trung tâm của tất cả điều này, con người là sự biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Đức Chúa Trời. Sau khi Đức Chúa Trời tạo nên con người, Ngài nghỉ ngơi. Ngài thỏa lòng.

b. Những Điểm Trọng Tâm

Bây giờ chúng ta đến những điểm trọng tâm về sự phục hồi và sáng tạo thêm của Đức Chúa Trời.

1) Để Khôi Phục Trái Đất

Đức Chúa Trời cần khôi phục trái đất nhằm sản sinh sự sống và thi hành sự cai trị (Sáng. 1:9,26,28). Hễ trái đất còn ở dưới những dòng nước sự chết thì không thể sản sinh sự sống hay thi hành sự cai trị. Để có hai điều này, trái đất cần được khôi phục.

2)  Để Có Con Người

Điểm chính thứ hai là để có con người làm sự biểu lộ của chính Đức Chúa Trời và để xử lý kẻ thù của Đức Chúa Trời (Sáng. 1:26-28). Sau này, chúng ta sẽ xem nhiều hơn về điểm này.

3)  Để Sản Sinh Sự Sống

Điểm chính thứ ba là để sản sinh sự sống. Điều này là cần thiết cho khả năng biểu lộ Đức Chúa Trời và cai trị cho Đức Chúa Trời. Xin nhớ ba điểm chính này: khôi phục trái đất, có được con người, và sản sinh sự sống. Mặc dầu Đức Chúa Trời đã tạo nên vô số điều, nhưng theo ký thuật trong Sáng Thế Ký chương 1 và 2, Ngài chỉ đề cập đến những vấn đề thuộc sự sống và những điều có liên quan đến sự sống vì sự phục hồi và sáng tạo thêm của Ngài tập trung vào sự sống. Toàn bộ sự sáng tạo của Đức Chúa Trời đều chú trọng vào sự sống. Ngài đã khôi phục trái đất, tạo nên con người, và sản sinh đủ loại sự sống nhằm mục đích biểu lộ chính Ngài và xử lý kẻ thù của Ngài.

c. Mục Đích

 Bây giờ chúng ta đến mục đích của Đức Chúa Trời trong sự phục hồi và sáng tạo thêm. Điều này cực kỳ quan trọng.

1) Để Có Con Người Biểu Lộ Đức Chúa Trời

Mục đích chính của sự phục hồi và sáng tạo thêm của Đức Chúa Trời là để có con người, một người tập thể, nhằm biểu lộ Đức Chúa Trời (Sáng. 1:26-27). Con người mà Đức Chúa Trời tạo nên là một người tập thể. Đức Chúa Trời không tạo nên nhiều người. Đức Chúa Trời tạo nên loài người cách tập thể trong một người là A-đam. Đức Chúa Trời tạo nên A-đam, và A-đam là một người tập thể, người tập hợp. Khi A-đam được tạo nên, chúng ta đều đã được tạo nên. Nếu hôm nay anh em ba mươi tuổi, đừng nói rằng anh em đã được tạo nên cách đây ba mươi năm. Anh em đã được sanh ra cách đây ba mươi năm, nhưng anh em đã được tạo nên cách đây sáu ngàn năm rồi.Mặc dầu tôi sanh ra trước anh em bốn mươi năm, nhưng chúng ta đều đã được tạo nên cùng một lúc. Khi A-đam được tạo nên, chúng ta đều đã được tạo nên vì chúng ta đều đã được tạo nên cách tập thể trong A-đam. Chúng ta đã được bao hàm trong A-đam.Đức Chúa Trời đã không tạo nên một người cá thể, nhưng là một người tập thể để biểu lộ Ngài. Trong câu 26, Đức Chúa Trời phán: “Để họ” –một người, nhưng đại từ lại là “họ”. Điều này chứng tỏ rằng con người này là một người tập thể. Trong câu này, như đại từ “Chúng Ta” biểu thị Đức Chúa Trời là Tam–Nhất, thì đại từ “họ” biểu thị con người là tập thể. Đức Chúa Trời đã tạo nên một người tập thể như thế theo hình và tượng Ngài để có thể biểu lộ chính Đức Chúa Trời.

(a) Với Hình Ảnh Của Đức Chúa Trời Bên Trong.

Sáng Thế Ký 1:26 nói “Và Đức Chúa Trời phán: Chúng Ta hãy làm nên con người như hình ảnh Chúng Ta và theo hình dạng Chúng Ta…” Ở đây chúng ta thấy hai điều: hình ảnh và hình dạng. Tất cả các học giả thông thạo Kinh Thánh đều đồng ý rằng hình ảnh chỉ về điều gì đó bên trong và hình dạng chỉ về điều gì đó bên ngoài. Tất cả chúng ta đều có điều gì đó bên trong –sự thông minh, ý chí và tình cảm. Về bên ngoài, chúng ta có hình trạng, hình dạng của thân thể.

(1) Hình Ảnh Của Đức Chúa Trời Là Đấng Christ.

2Cô-rin-tô 4:4 và Cô-lô-se 1:15 đều nói rằng hình ảnh của Đức Chúa Trời là Đấng Christ. Đấng Christ là hình ảnh của Đức Chúa Trời không thấy được. Đức Chúa Trời là không thấy được; dầu vậy, Ngài có một hình ảnh. Đức Chúa Trời không thấy được có một hình ảnh thấy được. Chẳng ai từng thấy Đức Chúa Trời bao giờ, nhưng Đấng Christ đã giải bày Ngài (Gi. 1:18). Tất cả chúng ta, không nhiều thì ít, đều đã thấy Đấng Christ. Phi-e-rơ đã thấy Ngài. Giăng đã thấy Ngài. Sau sự phục sinh của Ngài, có năm trăm anh em đã đồng thời thấy Ngài (1Cô. 15:6). Ngài thực sự là hình ảnh của Đức Chúa Trời. Hê-bơ-rơ 1:3 nói rằng Đấng Christ là hình ảnh giống hệt của Thân Vị Đức Chúa Trời.

(2) Con Người Được Tạo nên Theo Hình Ảnh Của Đấng Christ

Vì đã được tạo nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời và hình ảnh của Đức Chúa Trời là Đấng Christ, nên con người đã được tạo nên theo hình ảnh của Đấng Christ. Trong Sáng Thế Ký 1:26, Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy làm nên con người theohình ảnh của Chúng Ta…” Nhưng câu 27 nói “Đức Chúa Trời đã tạo nên con ngườitheo hình ảnh Ngài”. Chắc chắn ở đây “hình ảnh của Ngài” có nghĩa là hình ảnh của Đấng Christ. Do đó, con người đã được làm nên theo hình ảnh của Đấng Christ.

(3) A-đam Là Hình Bóng Của Đấng Christ.

La-mã 5:14 nói rằng A-đam, người đầu tiên, là hình bóng, hình ảnh của Đấng Christ.Nếu chụp hình một ai đó, thì bức hình này là hình ảnh hay hình bóng của người đó. A-đam là tấm hình của Đấng Christ. Đấng Christ là hình ảnh của Đức Chúa Trời, và A-đam là hình ảnh của Đấng Christ. Như tấm hình là sự biểu lộ của một người nào đó, thì con người đã được làm nên để biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời, là Đấng Christ.

Tôi muốn dùng minh họa về chiếc bao tay. Bao tay được làm theo hình ảnh và hình dáng của bàn tay. Cả bàn tay lẫn bao tay đều có năm ngón. Bao tay được làm như hình ảnh của bàn tay để một ngày kia, bàn tay được xỏ vào trong đó. Bàn tay lấp đầy bao tay, và bao tay đó biểu lộ bàn tay. Tại sao con người được làm nên như hình ảnh của Đấng Christ? Vì ý định của Đức Chúa Trời là đến một ngày, Đấng Christ sẽ vào trong con người và được biểu lộ qua con người. La-mã 9:21,23 nói rõ rằng con người đã được làm nên như một chiếc bình, tức là như một vật chứa. Con người không phải là con dao, cái búa, hay bất kỳ dụng cụ nào. Con người là một chiếc bình, một vật chứa. La-mã 9:21,23 nói thêm rằng con người đã được làm nên như một chiếc bình tôn trọng để chứa đựng Đức Chúa Trời, chứa đựng sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. 2Cô-rin-tô 4:7 nói rằng chúng ta có của báu này trong những bình bằng đất. Chiếc bình này giống như bao tay; đến một ngày, bàn tay sẽ xỏ vào trong đó; nội dung được đem vào vật chứa nầy. Chúng ta đơn giản là một chiếc bình chứa đựng Đấng Christ.

(4) Đấng Christ Được Làm Nên Theo Hình Dạng Của Con Người

Đã có một ngày, Đấng Christ đến để được làm nên theo hình dạng của con người (Phi. 2:6-8). Con người đã được làm nên theo hình ảnh của Đấng Christ, và Đấng Christ được làm nên theo hình dạng của con người. Điều này không kỳ diệu sao? Aitheo ai? Điều này mang tính hỗ tương. Con người đã được làm nên theo Đấng Christ và Đấng Christ đã được làm nên theo hình dạng của con người, hầu cho qua sự chết và phục sinh của Ngài, con người có thể nhận được sự sống của Đức Chúa Trời. Đó là một huyền nhiệm; tuy nhiên, đó cũng là một sự kiện. Ha-lê-lu-gia! Tất cả chúng ta đã nhận được sự sống này.

(5) Con Người Có Thể Được Biến Đổi Thành 
Và Được Đồng Hóa Theo Hình Ảnh Của Đấng Christ.

Vì có sự sống thần thượng này, chúng ta có thể được biến đổi thành và được đồng hóa theo hình ảnh của Đấng Christ (2Cô. 3:18, theo Hy Văn; La. 8:29). Ở đây chúng ta có hai điều: sự biến đổi và sự đồng hóa. Sự biến đổi là bên trong, còn sự đồng hóa là bên ngoài.

Chúng ta có sự thông minh, ý chí và tình cảm, là những điều đã được làm nên theoĐấng Christ. Chắc chắn rằng Đấng Christ có sự thông minh tốt nhất, ý chí tốt nhất và tình cảm tốt nhất. Sự thông minh, ý chí và tình cảm của chúng ta là không thật. Hãy xem lại một lần nữa minh họa về bàn tay và bao tay. Bàn tay người có một ngón cái và bốn ngón, thì bao tay cũng có một ngón cái và bốn ngón khác. Chúng ta không thể phủ nhận ngón cái của bao tay là một ngón cái, nhưng so với ngón cái thật, chúng ta thấy có sự khác nhau lớn. Hãy so sánh sự thông minh của chúng ta với sự thông minh của Đấng Christ. Sự thông minh của chúng ta giống như ngón cái rỗng của bao tay. Sự thông minh của Đấng Christ giống như ngón cái thật của bàn tay người. Chúng ta có sự khôn ngoan, nhưng một lần nữa sự khôn ngoan của chúng ta giống như ngón cái rỗng và sự khôn ngoan của Đấng Christ giống như ngón cái thật. Tuy nhiên, đến một ngày, ngón cái thật sẽ bước vào trong ngón cái của bao tay và hai ngón cái sẽ trở thành một! Một là dáng vẻ bên ngoài, sự biểu lộ; một là thực tại, nội dung. Sự khôn ngoan của chúng ta chỉ là chiếc bình chứa đựng sự khôn ngoan của Đấng Christ, tức sự biểu lộ sự khôn ngoan của Đấng Christ. Anh em có tình yêu không? Có, tất cả chúng ta đều có tình yêu, nhưng tình yêu của chúng ta giống như chiếc bao tay rỗng. Hỡi những người vợ, đừng mong đợi tình yêu đến từ chồng. Cho dù chồng yêu vợ đến đâu, tình yêu đó vẫn là trống rỗng. Ngợi khen Chúa vì tình yêu đó là trống rỗng! Nó phải trống rỗng để tình yêu của Chúa có thể bước vào.

Nhưng điều này không phải lúc nào cũng dễ. Phải cần một sự xử lý nào đó để tình yêu của Đấng Christ có thể bước vào trong chúng ta. Những ngón tay của bao tay có thể xoắn lại hay cong vẹo, kháng cự lại bàn tay muốn xỏ vào. Cũng vậy, chúng ta cần một số xử lý nào đó để tình yêu của Đấng Christ có thể vào trong chúng ta. Đến một ngày, tình yêu của Đấng Christ sẽ vào trong tình yêu trống rỗng của người chồng. Lúc đó, chị em sẽ vui hưởng tình yêu thật, tình yêu của Đấng Christ, qua tình yêu trống không của chồng mình. Ngợi khen Chúa!

Bất cứ điều gì chúng ta có, bất cứ điều gì chúng ta là, và bất cứ điều gì chúng ta có thể làm chỉ là một hình dạng trống rỗng, cao nhất chỉ là dùng làm chiếc bình để chứa đựng tất cả những gì Đấng Christ là, tất cả những gì Đấng Christ có, và tất cả những gì Đấng Christ có thể làm.

Đấng Christ ở trong chúng ta. Sự sống của Đấng Christ đang liên tục thực hiện công tác biến đổi bên trong chúng ta. Tình yêu, tình cảm và suy nghĩ của chúng ta là không đầy đủ. Không điều gì chúng ta có theo thiên nhiên là đầy đủ vì nó trống rỗng và giới hạn. Thể yếu, yếu tố của Đấng Christ phải truyền vào trong tất cả những gì chúng ta là.Sự khôn ngoan của Đấng Christ phải truyền vào trong sự khôn ngoan trống rỗng của chúng ta, ban cho chúng ta tâm trí của Đấng Christ (Phi. 2:5). Tâm trí chúng ta phải là chiếc bình chứa đựng tâm trí của Đấng Christ; tâm trí của Đấng Christ phải đầy dẫy tâm trí chúng ta. Khi đó, tâm trí chúng ta sẽ được biến đổi thành hình ảnh của Đấng Christ. 2Cô-rin-tô 3:18 nói rằng chúng ta đều để mặt trần mà ngắm xem và chiếu lại sự vinh hiển của Chúa như một cái gương, và được biến đổi theo hình ảnh Ngài. Đây là sự biến đổi bên trong. Sự biến đổi bên trong này cũng sẽ trở thành sự đồng hóa bên ngoài.Chúng ta sẽ được đồng hóa theo hình ảnh của Con Đức Chúa Trời (La-mã 8:29).

(6) Thân Thể Chúng Ta Sẽ Biến Hóa Theo Hình Dạng
 Của Thân Thể Vinh Hiển Của Đấng Christ

Chúng ta đã được dựng nên theo Đấng Christ. Một ngày nọ, Đấng Christ đã đến trong hình dạng giống như hình dạng của chúng ta. Chúng ta đã tiếp nhận Ngài và Ngài đã ngự trong chúng ta. Đấng Christ này bây giờ ở bên trong chúng ta đang thực hiện công tác biến đổi, không những biến đổi chúng ta theo hình ảnh Ngài mà cũng đồng hóa chúng ta nên giống hình thể Ngài. Cuối cùng, Ngài sẽ đến để biến hóa thân thể bên ngoài của chúng ta giống với hình trạng của thân thể vinh hiển của Ngài (Phi.. 3:21). Khi đó, chúng ta sẽ giống như Ngài cách trọn vẹn, hoàn toàn (1Gi. 3:2b). Khi nhìn chúng ta, Ngài sẽ nói “Tất cả các ngươi đều giống như Ta”. Khi nhìn chính mình, chúng ta sẽ nói với Chúa Jesus: “Chúng tôi đều giống như Ngài, và Ngài giống như chúng tôi”.Sẽ không có khác biệt nào. Chúng ta đều sẽ giống Đấng Christ và Đấng Christ sẽ giống chúng ta hoàn toàn. Đấng Christ và chúng ta, chúng ta và Đấng Christ –đều sẽ có cùng một hình ảnh và cùng một chân dung. Đây là mục đích của Đức Chúa Trời khi tạo nên con người để biểu lộ chính Ngài. Trong một ý nghĩa, sự tạo nên con người đã hoàn tất, nhưng tiến trình biến đổi vẫn đang tiếp diễn. Chúng ta đang trong tiến trình biến đổi, chờ đợi sự tái lâm của Ngài.

b) Với Hình Dạng Của Đức Chúa Trời Bên Ngoài

Con người được tạo nên, về bên trong, không những như hình ảnh của Đức Chúa Trời, mà về bên ngoài, còn theo hình dạng  của Ngài. Mọi vật sống khác trong sự sáng tạo đều theo “loài của chúng”. Tuy nhiên, con người không theo loài người mà theo hình dạng của Đức Chúa Trời. Như hình ảnh hàm ý đến bản thể bề trong của Đức Chúa Trời, thì hình dạng phải hàm ý đến hình thể bên ngoài của Đức Chúa Trời.

Mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và con người là một huyền nhiệm. Một mặt, Kinh Thánh nói rằng Đức Chúa Trời không thể thấy được. Mặt khác, Kinh Thánh cũng cho thấy rằng ngay cả trước khi Chúa nhục hóa làm người, Ngài đã nhiều lần hiện ra như một người với nhiều người trong Cựu Ước. Nhiều lần Đấng Christ đã hiện ra trong hình thể của một thân thể con người. Trong khi Áp-ra-ham ngồi trước cửa trại, ông thấy ba người đang đến (Sáng. 18:2a). Chúa và hai thiên sứ đã hiện ra với ông. Áp-ra-ham mời ba người vào trại và dọn cho họ một bữa ăn thịnh soạn. Cả ba cùng ăn với ông. Đức Chúa Trời đã ăn với Áp-ra-ham và họ đã có một cuộc nói chuyện thông suốt. Đó là lý do vì sao Áp-ra-ham được gọi là bạn của Đức Chúa Trời (Gia-cơ 2:23). Nếu đọc Sáng Thế Ký chương 18, chúng ta sẽ thấy đó là sự ghi chép về sự tương giao giữa bạn bè.Đức Chúa Trời là Bạn đối với Áp-ra-ham. Một lát sau, hai thiên sứ được Chúa sai đi, còn Chúa vẫn ở lại với Áp-ra-ham. Áp-ra-ham đứng trước mặt Chúa như một người bạn (Sáng. 18:16a,22). Đó là Đấng Christ trước khi Ngài nhục hóa.

Lần thứ hai Đấng Christ đã hiện ra trong hình thể của một người là trong trường hợp của Gia-cốp tại Phê-ni-ên. Một người đã đến để chinh phục một Gia-cốp mạnh mẽ (Sáng. 32:24). Tuy nhiên, Gia-cốp đang vật lộn với Đức Chúa Trời! Đức Chúa Trời trong hình thể của một người, đang vật lộn với Gia-cốp. Gia-cốp thực sự mạnh mẽ, và Đức Chúa Trời không thể chinh phục ông cho đến khi Ngài đụng vào bắp vế của ông, và Gia-cốp trở nên khập khiểng. Gia-cốp hỏi: “Xin cho biết tên Ngài là gì?” Đức Chúa Trời phán: “Đừng hỏi tên Ta. Hãy để Ta ban phước cho ngươi”. Cuối cùng, Gia-cốp nhận biết rằng ông đã gặp Đức Chúa Trời mặt đối mặt (Sáng. 32:28-30). Phê-ni-ên có nghĩa là mặt của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã hiện ra tại đó như một người, một người thực sự. Nếu không phải là một người thật, làm thể nào Ngài có thể vật lộn với Gia-cốp?

Một trường hợp khác Đức Chúa Trời hiện ra trong hình thể của một người là trong Giô-suê chương 5. Khi đó, Giô-suê đang nặng lòng về việc đánh bại thành Giê-ri-cô. Có lẽ ngày mai quân đội của Đức Chúa Trời sẽ ra đánh thành Giê-ri-cô, và Giô-suê, lãnh đạo của họ, đang nặng lòng về cuộc chiến đó. Tôi tin rằng vào chiều tối, khi đang xem xét tình hình, thình lình ông thấy một người. Giô-suê hỏi người đó: “Ngươi là người của chúng ta hay của kẻ thù?” Người đó đáp: “Không, bây giờ Ta đến để làm Tướng của đạo binh Đức Giê-hô-va” (Giô. 5:13-14). Người đó bảo Giô-suê: “Hãy lột giày khỏi chân ngươi, vì nơi ngươi đứng là thánh” (Giô. 5:15). Đó là nơi Đức Chúa Trời ở.

Qua những ví dụ này, chúng ta có thể thấy rằng trước khi nhục hóa, Chúa Jesus đã nhiều lần hiện ra trong hình thể của một người. Điều này thực sự huyền nhiệm.

Cỏ không có gương mặt, cây thân thảo hay cây thân mộc cũng không có gương mặt.Bắt đầu từ sự sống động vật, chúng ta đã thấy rằng cá có gương mặt, nhưng không giống với mặt người. Kế đến là chim, gia súc và thú vật. Rồi đến con người có mặt rất giống với Đức Chúa Trời. Đây là một huyền nhiệm. Dù sao đi nữa, chúng ta biết rõ rằng chúng ta được làm nên như hình ảnh của Đức Chúa Trời. Đây là lý do vì sao chúng ta có sự khôn ngoan, ý chí và tình cảm giống với Đức Chúa Trời, nhưng không có thực tại. Những gì chúng ta có chỉ là sự biểu lộ. Chúng ta cần nội dung.

Chúng ta cũng có một hình thể, hình thể của hình ảnh, giống như tấm ảnh. Tuy nhiên, tấm ảnh đó không có thực tại. Khi được tạo nên theo hình thể, hình ảnh của Đức Chúa Trời, con người chưa có thực tại của Đức Chúa Trời. Sau khi được tạo nên, con người vẫn cần nhận Đức Chúa Trời vào. Dù có hình thể và hình ảnh của Đức Chúa Trời bao nhiêu, con người vẫn chưa có thực tại của Đức Chúa Trời hay sự sống của Đức Chúa Trời. Con người đã thất bại. Sau đó, Chúa hiện đến trong hình thể của một người. Ngài đã chết trong hình thể này, và được phục sinh để nâng cao hình thể này. Bởi sự chết và phục sinh của Ngài, bây giờ chúng ta dễ dàng nhận Ngài vào. Chúng ta đã tiếp nhận và có được sự sống thần thượng này, và bởi sự sống thần thượng này, tất cả chúng ta đều có thể có thực tại của Đức Chúa Trời. Sự sống thần thượng này bây giờ đang hành động trong chúng ta để biến đổi sự sống trống rỗng của chúng ta thành hình thể thần thượng cách thực sự. Đó là sự biến đổi. Cuối cùng, chúng ta sẽ được đồng hóa theohình ảnh Ngài. Kinh Thánh là sự khải thị về một huyền nhiệm như vậy. Việc nhìn thấy tất cả chúng ta đều được dựng nên theo hình ảnh và hình dạng của Đức Chúa Trời là hết sức quan trọng, cần yếu và có tính quyết định. Tất cả chúng ta cần thấy Đấng Christ là hình ảnh này như thế nào, và Đấng Christ đã được làm nên trong hình thể của một người là làm sao, để có thể nhận Ngài vào làm sự sống và thực tại của mình. Cuối cùng, Ngài và chúng ta sẽ hòa lẫn với nhau nên một. Chúng ta sẽ là dáng vẻ và sự biểu lộ của Ngài; Ngài sẽ là thực tại và nội dung của chúng ta. Ngài và chúng ta sẽ là một.Ngài sẽ giống chúng ta và chúng ta sẽ giống Ngài. Khi đó, chúng ta sẽ biểu lộ Đức Chúa Trời cho cả vũ trụ.

Bây giờ chúng ta có thể thấy lý do vì sao Đức Chúa Trời tạo nên các từng trời, trái đất, và lý do tại sao Ngài tạo nên sự sống con người. Đây là ý nghĩa và trung tâm của vũ trụ. Nếu không thấy điều này, chúng ta sẽ không biết ý nghĩa của vũ trụ là gì, và không biết mình sẽ đi đâu. Ngày nay, chúng ta biết ý nghĩa của vũ trụ, và biết mình đang ở đâu và sẽ đi đâu. Chúng ta ở đây để biểu lộ Ngài và sẽ gặp Ngài để là một với Ngài.

Khi được cứu, sự sống thần thượng bên trong chúng ta giống như cỏ. Sự sống ấy lớn lên thành cây thân thảo, rồi thành cây thân mộc. Sau đó, bước vào bình diện cao hơn của sự sống –cá, chim, gia súc và thú vật. Chúng ta không bao giờ có thể biểu lộ Đức Chúa Trời cho đến khi đạt đến đỉnh cao của sự sống thọ tạo. Chúng ta cần sự sống con người. Theo Ê-xê-chi-ên 1:5,10 và Khải Thị 4:6-7, trong chín điều thuộc sự sống được chép trong Sáng Thế Ký chương 1, chỉ có bốn điều được đại diện để ở trong hiện diện của Đức Chúa Trời – chim ưng, bò, sư tử và con người. Bốn điều này ở trong hiện diện của Đức Chúa Trời, đại diện cho tất cả tạo vật ở trước mặt Đức Chúa Trời. Trong Ê-xê-chi-ên và Khải Thị, không có sự đề cập đến cỏ, cây thân thảo, cây thân mộc, cá hay loài bò sát. Cho đến đời đời và trong cõi đời đời sẽ không có biển. Vì thế, sẽ không có cá. Chắc chắn sẽ không có loài bò sát. Những điều được đại diện trong hiện diện của Đức Chúa Trời sẽ là con người với gia súc, sư tử và chim ưng. Tất cả chúng ta phải lớn lên cho đến khi đạt đến bình diện sự sống cao hơn, đó là bình diện của gia súc, sư tử và chim ưng. Chúng ta phải tiến tới cho đến khi đạt đến sự sống trưởng thành được tiêu biểu bởi sự sống con người. Chỉ có sự sống này mới có thể biểu lộ Đức Chúa Trời. Chỉ có sự sống này mới có thể cai trị cho Đức Chúa Trời. Đây là mục tiêu của chúng ta.Chúng ta phải lớn lên, lớn lên và lớn lên từ sự sống thực vật đến sự sống động vật, và từ sự sống động vật đến sự sống con người.

Lời Nói Thêm

Anh em đã nghe rằng tất cả các lẽ thật trong Kinh Thánh đều được gieo trong Sáng Thế Ký, đặc biệt trong chương 1. Như đã thấy, Sáng Thế Ký chương 1 nói một điều gì đó về sự sáng, và sự sáng này đã phát triển khắp cả Kinh Thánh. Chúng ta đã thấy sự sáng vào ngày thứ nhứt, các vì sáng vào ngày thứ tư, và sự phát triển của những vì sáng này cho đến cuối Kinh Thánh, trong đó, hai chương cuối nói rằng: “Sẽ không có ban đêm”. Cuối cùng, chính Đức Chúa Trời là Sự Sáng cho những người được chuộc của Ngài. Là những người được chuộc trong Giê-ru-sa-lem Mới, chúng ta sẽ không cần mặt trời, mặt trăng hay bất kỳ sự sáng nào. Sự Sáng sẽ là chính Đức Chúa Trời. Do đó, hạt giống về sự sáng được gieo trong Sáng Thế Ký chương 1 đã phát triển đầy đủ trong Khải Thị chương 22.

Cùng một nguyên tắc, chúng ta có từ “hình ảnh”. “Đức Chúa Trời tạo nên con ngườitheo hình ảnh Ngài”. Hình ảnh của Đức Chúa Trời là để biểu lộ của Đức Chúa Trời.Biểu lộ Đức Chúa Trời chính là làm hiển lộ sự vinh hiển của Ngài. Từ “hình ảnh” nhỏ bé này được phát triển và tiếp tục phát triển cho đến cuối Kinh Thánh, đã trở thành Giê-ru-sa-lem Mới. Toàn bộ Thành có dáng vẻ của bích ngọc (Khải. 21:11). Nếu đọc Khải Thị 4:3, anh em có thể thấy Đấng ngự trên ngai trông giống như bích ngọc. Dáng vẻ của Đức Chúa Trời giống như bích ngọc. Cuối cùng, toàn thể Thành Giê-ru-sa-lem Mới được xây bằng bích ngọc. Tường thành cũng được xây bằng bích ngọc (Khải. 21:18a). Từ mọi góc cạnh, từ mọi hướng và từ mọi phía, Giê-ru-sa-lem Mới đều có dáng vẻ của Đức Chúa Trời. Đó là sự biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời.

Sáng nay, đang khi đọc-cầu nguyện Lời, Anh Al đã hỏi tôi về bốn sinh vật trong Ê-xê-chi-ên 1:5,10 và Khải Thị 4:6-7. Trong Ê-xê-chi-ên, mỗi sinh vật có bốn mặt: phía trước là mặt người, phía sau là mặt chim ưng, mặt sư tử ở bên hữu và mặt bò ở bên tả.Tuy nhiên, nếu đi tiếp từ Ê-xê-chi-ên đến Khải Thị chương 4, anh em thấy có khác nhau một chút. Ở đó, mỗi một trong bốn sinh vật chỉ có một mặt. Sinh vật thứ nhứt không phải là người nhưng là sư tử. Sinh vật thứ hai không phải là bò đực nhưng là bê con. Anh em biết sự khác nhau giữa bò đực và bê con. Bò đực thì lớn tuổi hơn. Điều này thật kỳ lạ. Theo ý kiến tôi, bò trong Ê-xê-chi-ên nên là bê con, còn bê con trong Khải Thị nên là bò đực –con trước phải trẻ hơn, rồi mới đến con già hơn. Nhưng Kinh Thánh đề cập con lớn hơn trước rồi đến con nhỏ hơn –đầu tiên là bò đực, rồi đến bê con. Tôi xin nói với anh em, chúng ta, Cơ-đốc nhân, sẽ không trở thành già hơn, mà là trẻ hơn. Càng lớn lên, chúng ta càng trẻ lại.

Trong Sách Khải Thị, sư tử là sinh vật thứ nhứt, bê con là thứ hai, người là thứ ba và chim ưng là thứ . Anh Al hỏi tôi vì sao có sự khác nhau như vậy giữa Ê-xê-chi-ên và Khải Thị. Lý do là thứ tự của các sinh vật trong Khải Thị là theo thứ tự của bốn Sách Phúc Âm. Trong Ma-thi-ơ, chúng ta có sư tử, tức vua. Trong Mác, chúng ta có tôi tớ, nô lệ, tức bê con. Trong Lu-ca, chúng ta có con người. Trong Giăng, chúng ta có Đức Chúa Trời, chim ưng bay cao. Điều này có ý nghĩa gì? Bốn sinh vật trong Ê-xê-chi-ên, nói cách chính xác, là sự hiển lộ vinh hiển của Đức Chúa Trời. Trong kỳ Hội Đồng về Sách Ê-xê-chi-ên, chúng tôi đề cập đến Ê-xê-chi-ên chương 1, và đã thấy bốn sinh vật là sự hiển lộ của vinh hiển Đức Chúa Trời là thế nào rồi. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời là gì? Đó là Đấng Christ. Khi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời được hiển lộ, đó là Đấng Christ. Nhưng xin lưu ý sự khác biệt. Bốn sinh vật trong Ê-xê-chi-ên là sự hiển lộ vinh hiển của Đức Chúa Trời. Bốn sinh vật trong Khải Thị là sự biểu lộ của chính Đấng Christ. Có một sự tiến bộ từ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đến chính Đấng Christ. Vì thế, trong Khải Thị, diện mạo của bốn sinh vật giống như bốn Sách Phúc Âm. Điều này nghĩa là bốn sinh vật trong Khải Thị chính là sự biểu lộ của Đấng Christ. Tôi không nói bốn sinh vật  Đấng Christ. Bốn sinh vật không phải là Đấng Christ, nhưng là sự biểu lộ Đấng Christ. Bốn sinh vật đó biểu lộ những gì Đấng Christ là. Đấng Christ ở trong bốn phương diện: vua, nô lệ, con người, và chính Đức Chúa Trời. Đấng Christ mang bốn phương diện này, và Đấng Christ này cần một sự biểu lộ trong cõi thọ tạo của Ngài.Do đó, trong vũ trụ này có bốn sinh vật, đại diện cho mọi loại sự sống trên mọi bình diện, để biểu lộ Đấng Christ.

Mọi điều trong Sáng Thế Ký chương 1, ngoại trừ sự tối tăm, những dòng nước sự chết và loài bò sát, đều là Đấng Christ. Linh đã đến để ấp ủ. Đó là Đấng Christ. Đấng Christ là Linh. Đấng Christ cũng là Lời. Sự sáng đã xuất hiện. Sự Sáng này là Đấng Christ. Chắc chắn, không khí là Đấng Christ. Linh là Đấng Christ và Lời là Đấng Christ, sự sáng là Đấng Christ và không khí là Đấng Christ. Đất khô là Đấng Christ. Cỏ là Đấng Christ vì Đấng Christ là Đồng Cỏ xanh tươi. Cây thân thảo là Đấng Christ.Đấng Christ là bắp, lúa mì, hoa phụng tiên và đủ loại cây hoa đẹp. Mọi cây thân mộc đều là Đấng Christ. Đấng Christ là Cây Ô-liu, Cây Vả, Cây Nho, Cây Sự Sống. Cá cũng là Đấng Christ. Với năm ổ bánh và hai con cá, Đấng Christ đã cho năm ngàn người ăn. Phần lớn Cơ-đốc nhân chỉ quan tâm đến năm ổ bánh, quên mất hai con cá.Tuy nhiên, Đấng Christ không những là năm Ổ Bánh, mà cũng là hai Con Cá, tức là điều gì đó từ những dòng nước sự chết để nuôi dưỡng chúng ta. Đấng Christ cũng là các loài chim. Ngài là Chim Ưng. Xuất Ai-cập Ký 19:4 nói rằng Đấng Christ là Chim Ưng Lớn, chở con cái Ítx-ra-ên trên hai cánh Ngài. Là Chim Ưng Lớn, Ngài đã giải cứu dân Ngài ra khỏi Ai-cập. Một ngày nọ, Đấng Christ nói rằng Ngài là Gà Mái Lớn. Cuối Ma-thi-ơ chương 23 (c. 37), Ngài phán: “Ta là Gà Mái. Ta muốn túc (nhóm họp) tất cả các ngươi dưới cánh, nhưng các ngươi chẳng khứng đến cùng Ta”. Đấng Christ là Gia Súc, Bò Đực, Bê, Bò Cái, Chiên, Chiên Con. Đấng Christ cũng là Sư Tử (Khải. 5:5). Cuối cùng, Đấng Christ là Con Người, A-đam Thật. Đấng Christ cũng là Mặt Trời, Sao Mai, và Nguồn Sáng Thật của ánh trăng. Trong chương 1 của Sáng Thế Ký, mọi sự là Đấng Christ và Đấng Christ là mọi sự.

 Nếu chỉ vui hưởng Đấng Christ là cỏ, anh em không đủ điều kiện để biểu lộ Ngài.Nếu vui hưởng Ngài là cây thân thảo và mọi loài cây thân mộc, anh em vẫn không đủ điều kiện. Mặc dầu có thể vui hưởng Đấng Christ như cá, anh em vẫn chưa đủ điều kiện để biểu lộ Ngài. Mặc dầu có thể vui hưởng Đấng Christ nhiều, anh em vẫn chưa đủ điều kiện để biểu lộ Ngài. Anh em phải tiến triển từ tất cả những mức độ của sự sống này cho đến mức độ của sự sống loài chim. Khi đó, anh em bắt đầu có đủ điều kiện để biểu lộ Đấng Christ.

Sự sống loài chim là một trong bốn loại sự sống được đại diện trước ngai Đức Chúa Trời. Như tôi đã đề cập tối qua, trong chín loại sự sống trong Sáng Thế Ký chương 1, chỉ bốn loại được đại diện trước ngai Đức Chúa Trời. Chín loại sự sống đó là: cỏ, cây thân thảo, cây thân mộc, cá, chim, gia súc, thú vật, loài bò sát, và con người.

Trong chín loại này, chỉ có bốn –chim, gia súc, thú vật và con người– có đủ điều kiện để biểu lộ Đấng Christ. Cỏ không đủ điều kiện. Cỏ thì tốt, nhưng là loại sự sống ở mức thấp nhất. Cây thân thảo, cây thân mộc hay cá đều không đủ điều kiện. Dĩ nhiên, mọi loài bò sát đều bị loại bỏ cho đến đời đời. Chúng đi xuống Hồ Lửa.

Chỉ có loài chim, gia súc, thú vật và con người là có gương mặt khác hẳn. Gương mặt là dáng vẻ bên ngoài của bản thể bề trong anh em. Những gì anh em là ở bên trong được biểu lộ ra bên ngoài qua gương mặt. Như tôi đã đề cập trước đó, cỏ, cây thân thảo, cây thân mộc không có gương mặt. Cá có gương mặt, nhưng mặt của chúng không phân biệt được. Và cá không có cổ. Chúng ta cần một cái cổ dài hơn để làm cho mặt chúng ta dễ nhận ra hơn. Trong chín loại này, chỉ có bốn loại có vẻ mặt khác hẳn, và trong bốn loại này, mặt người là tốt đẹp nhất, cao trọng nhất và khác biệt nhất. Thử so sánh mặt anh em với mặt của chim ưng, bê con hay sư tử. Anh em sẽ thấy mặt mình dễ nhìn hơn. Tại sao? Vì sự sống con người bên trong anh em đặc biệt hơn sự sống của chim, gia súc và thú vật.

Theo gia tể của Đức Chúa Trời, Đấng Christ có bốn phương diện. Ngài là Con Người, nhưng Ngài phục vụ mọi người như một Bê Con. Ngài là một Người, nhưng Ngài đánh trận, chỉ huy và nắm quyền cai trị như một Sư Tử. Ngài là một Người, nhưng Ngài có thể bay xa, bay cao như một Chim Ưng. Dầu cần sự sống con người để biểu lộ Đấng Christ, chúng ta vẫn cần sự sống của bò, sự sống của sư tử, và sự sống của chim ưng. Khi có đủ bốn loại sự sống này, chúng ta có thể biểu lộ Đấng Christ cách đầy đủ.

Bây giờ chúng ta có thể thấy rằng từ “hình ảnh” nhỏ bé trong Sáng Thế Ký chương 1 đã trải qua sự phát triển lớn. Chúng ta không những có bốn sinh vật biểu lộ Đấng Christ trong bốn phương diện mà cuối cùng, chúng ta có Giê-ru-sa-lem Mới, một Thành cao với hình ảnh của Đức Chúa Trời biểu lộ Đấng Christ. Đức Chúa Trời trông giống như bích ngọc, và dáng vẻ của Giê-ru-sa-lem Mới cũng như bích ngọc, cùng một dáng vẻ của Đức Chúa Trời. Đây là sự hoàn thành Sáng Thế Ký 1:26. Ha-lê-lu-gia! Ha-lê-lu-gia!

 

BÀI BẢY

S Phục Hồi Và Sáng Tạo Thêm 
Của Đức Chúa Trời

 (4)

Mục Đích

Chúng ta đã thấy con người là trung tâm trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, và sự sống con người là sự sống thọ tạo cao nhất. Chúng ta không nên quên chín điều thuộc sự sống được đề cập trong Sáng Thế Ký chương 1: đó là cỏ, cây thân thảo, cây thân mộc, cá, chim, gia súc, thú vật, loài bò sát, và con người. Con người là sự sống thọ tạo cao nhất. Theo lời chép trong Sáng Thế Ký chương 1, khi đến thời điểm tạo nên con người, Đức Chúa Trời tổ chức một hội nghị. Hội nghị này giữa Thần Cách rất ấn tượng. Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy…”. Điều này hoàn toàn có ý nghĩa. Ba Thân Vị của Đấng Tam–Nhất đều cần thiết cho sự tạo nên con người. Những Sách tiếp theo của toàn bộ Kinh Thánh phát triển chủ đề về công tác của Đức Chúa Trời Tam–Nhất trên con người. Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy làm nên người như hình ảnh Chúng Ta, theo hình dạng Chúng Ta”. Sau đó, Đức Chúa Trời phán: “Hãy để họ”. Đức Chúa Trời không nói nhiều người; Ngài nói người. Người là danh từ số ít, còn họ là đại từ số nhiều. “Chúng ta hãy làm nên người… Hãy để họ…”. Có một Đức Chúa Trời hay nhiều Đức Chúa Trời? Có một người hay nhiều người? Đức Chúa Trời của chúng ta là Duy Nhất mà là Ba. Con người là một mà là tập thể. Ha-lê-lu-gia! Đừng bao giờ quên hai từ “hãy” trong Sáng Thế Ký 1:26. Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy” và Đức Chúa Trời phán: “Hãy để họ”. Từ “Chúng Ta” bày tỏ rằng Đức Chúa Trời duy nhất là Tam–Nhất; từ “họ” bày tỏ rằng con người duy nhất này là tập thể. Đức Chúa Trời Tam–Nhất đã tạo dựng một con người tập thể.

2)  Để Con Người 
Thi Hành Sự Quản Trị Của Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy làm nên con người theo hình ảnh Chúng Ta… và để họ quản trị…”. Đức Chúa Trời đã tạo nên một người tập thể để thi hành sự quản trị của Ngài (Sáng. 1:26-28). Từ liệu sự quản trị bao hàm nhiều điều hơn chỉ là uy quyền. Sự quản trị nghĩa là có uy quyền để cai trị và để lập một vương quốc. Sự quản trị nghĩa là có vương quốc như một phạm vi để thực hiện uy quyền. Nếu tôi có uy quyền mà không có phạm vi để cai trị, thì tôi không có quyền quản trị. Đức Chúa Trời phán: “Để con người quản trị”. Con người được ban cho quyền quản trị trên muôn vật. Hãy nhớ các lời này ‘hình ảnh và sự quản trị’ và gạch chân hai từ nầy trong Kinh Thánh.

Rất ít Cơ-đốc nhân quan tâm đến từ ‘sự quản trị’ khi đọc Sáng Thế Ký chương 1. Chúng ta cần xem xét các từ “hình ảnh” và “sự quản trị” thêm một ít. Hình ảnh là sự bày tỏ. Đức Chúa Trời đã tạo nên con người theo hình ảnh Ngài với ý định để con người có thể bày tỏ Ngài. Đức Chúa Trời không thấy được, khao khát được bày tỏ. Ngài cần một sự bày tỏ. Sự quản trị có nghĩa là Vương Quốc, uy quyền. Con người được làm nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời để bày tỏ Đức Chúa Trời, và được ban cho uy quyền để đại diện Đức Chúa Trời và để quản trị. Chúng ta là sự bày tỏ của Đức Chúa Trời và đại diện của Đức Chúa Trời. Đặc biệt, những người trẻ cần nắm vững hai từ này với hai sự khải thị cơ bản: hình ảnh và sự quản trị. Mục đích sự phục hồi và sáng tạo thêm của Đức Chúa Trời có hai phương diện: có được con người tập thể để bày tỏ Đức Chúa Trời, và để con người tập thể này thi hành sự quản trị của Ngài.

a) Lĩnh Vực

Việc quản trị này bao gồm một lĩnh vực hay một phạm vi. Có ba điều liên hệ đến lĩnh vực này:

(1) Trên Mọi Vật Trong Biển

Con người phải thi hành quyền quản trị trên biển. Biển là chỗ ở của các quỉ (Mat. 8:32; 12:43). Do đó, phạm vi quản trị của Đức Chúa Trời phải bao gồm biển.

2) Trên Mọi Vật Trên Không

Con người phải thi hành quyền quản trị mọi vật trên không, là nơi ở của Sa-tan và các thiên sứ của hắn (Êph. 2:2; 6:12). Trên không trung có những quyền lực gian ác, với Sa-tan là đầu. Ê-phê-sô 2:2 mô tả Sa-tan là bá chủ của quyền lực chốn không trung.

3) Trên Mọi Vật Trên Đất

Con người phải thi hành quyền quản trị trên mọi vật dướiđất, tức lĩnh vực thuộc về hoạt động của Sa-tan. Sa-tan rất năng động trên đất (Lu. 4:5-6). Vì vậy, ở đây, trong Sáng Thế Ký 1:26, đặc biệt nói rằng con người có quyền quản trị “trên khắp đất”. Trái đất đã bị Sa-tan chiếm đoạt. Vì vậy, trái đất cần được con người, tức đại diện của Đức Chúa Trời, cai trị.

Xin nhớ rằng lĩnh vực thuộc sự quản trị của Đức Chúa Trời mà Ngài ủy thác cho con người bao gồm ba phần: biển –chỗ ở của các quỉ; không trung –chỗ ở của Sa-tan và các thiên sứ của hắn; trái đất –phạm vi hoạt động của Sa-tan.

Khi Chúa Jesus sống trên đất, Ngài đã xử lý Sa-tan, các thiên sứ sa ngã, hay các quỷ, bất cứ nơi nào Ngài đến. Đó là lý do vì sao Chúa Jesus quở gió và sóng biển trong cơn bão tố. Gió đến từ các thiên sứ sa ngã trên không trung, và sóng biển đến từ các quỷ ở dưới nước. Chúa bảo gió: “Hãy dừng lại”, và bảo sóng biển: “Hãy yên lặng”. Lập tức gió dừng lại và sóng biển êm lặng như tờ. Các thiên sứ sa ngã và các quỷ bị Chúa Jesus bắt phục và cai trị. Nếu biết cách đọc Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy trong bốn Sách Phúc Âm, Chúa thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời trên biển, không trung và trái đất. Đây là lĩnh vực thuộc sự quản trị của Đức Chúa Trời mà Ngài ủy thác cho con người.

 (b) Ý Định

Quyền quản trị của Đức Chúa Trời không những có lĩnh vực mà cũng có ý định. Ý định của Đức Chúa Trời là gì khi ban cho con người quyền quản trị?

(1) Để Xử Lý Kẻ Thù Của Đức Chúa Trời

Phương diện đầu tiên trong ý định của Đức Chúa Trời là xử lý Sa-tan, kẻ thù của Ngài, được tiêu biểu bởi loài bò sát (Sáng. 1:26). Trong Kinh Thánh, loài bò sát là thuộc về các quỷ, thuộc về Kẻ Ác, và thuộc về Sa-tan. Trong bài vừa rồi, chúng tôi đã chỉ ra rằng chỉ có bốn loài sinh vật, đại diện cho toàn cõi thọ tạo, được đứng trước ngai Đức Chúa Trời là chim ưng, bò, sư tử và con người. Không một loài bò sát nào như rắn hay bò cạp được đại diện trước mặt Đức Chúa Trời. Trong Kinh Thánh, Sa-tan được tượng trưng bởi con rắn (Sáng. 3:1). Trong Khải Thị 12:9, Sa-tan được gọi là “Con Rắn Già (Xưa)”. Hắn đã trở nên già vì lần hắn xuất hiện đầu tiên là trong Sáng Thế Ký chương 3.

Trong sự sáng tạo nguyên thủy của Đức Chúa Trời, Ngài chỉ có một mục đích là bày tỏ chính Ngài. Do sự phản loạn của Sa-tan, bây giờ Đức Chúa Trời có một mục đích khác –xử lý kẻ thù của Ngài. Khi Đức Chúa Trời tạo nên con người, Ngài có cả hai mục đích này. Vì vậy, Ngài tạo nên con người theo hình ảnh Ngài để con người có thể bày tỏ Ngài và Ngài ban quyền quản trị cho con người để con người có thể xử lý kẻ thù của Ngài. Cả hai điều này phải được hoàn thành. Chúng ta cần hình ảnh của Đức Chúa Trời để bày tỏ Ngài và cần quyền quản trị của Đức Chúa Trời để chinh phục kẻ thù của Ngài.

Chúng ta cần bày tỏ Đức Chúa Trời và xử lý Sa-tan trong đời sống gia đình của mình. Nhiều khi người chồng về nhà thì lập tức người vợ không bày tỏ Đức Chúa Trời. Chị biểu lộ con rắn. Gương mặt chị có sự biểu lộ của một con rắn quỉ quyệt. Nhiều khi, người chồng cũng biểu lộ con rắn. Tôi biết điều này bởi kinh nghiệm. Thỉnh thoảng, khi thấy Sa-tan được biểu lộ trong các thành viên của gia đình, tôi không nói lời nào. Tôi vào phòng, quì xuống và cầu nguyện: “Chúa ôi, xin cột trói con rắn”. Nhiều khi, tôi nhận thức rằng chính mình cũng đang biểu lộ con rắn. Một lần nữa, tôi bỏ chạy để cầu nguyện: “Ô Chúa, xin tha thứ con. Xin cột trói con rắn”. Nhiều khi, uy quyền thần thượng của Đức Chúa Trời không được thực thi. Thay vào đó, quyền lực gian ác của Sa-tan được biểu lộ. Gần đây, tôi biết rằng nhiều anh em trẻ đang sống trong nhà sinh viên. Tuy nhiên, tôi e rằng ngay cả trong nhà tập thể này, hình ảnh của Sa-tan vẫn có thể được biểu lộ chứ không phải hình ảnh của Đức Chúa Trời; rằng quyền lực của Kẻ Ác chứ không phải uy quyền của Đức Chúa Trời, sẽ được thực thi. Tất cả chúng ta phải nhận thức rằng ngày nay Đức Chúa Trời phải hoàn thành mục tiêu hai mặt là bày tỏ chính Ngài và xử lý kẻ thù của Ngài. Thực ra, đó không phải là chồng của chị em nổi nóng mà chính là con rắn. Thực ra, đó không phải là vợ anh em nói điều gì đó chọc giận mình mà chính là con rắn. Đừng giải quyết với chồng và cũng đừng giải quyết với vợ. Không phải lỗi của họ. Chúng ta phải xử lý con rắn ở phía sau họ. Lời qua tiếng lại không bao giờ có thể xử lý Sa-tan. Càng tranh luận, Sa-tan càng chiếm nhiều chỗ. Cách duy nhất để xử lý Sa-tan là quỳ gối, cầu nguyện, kêu cầu danh Jesus và xin Ngài cột trói con rắn.

(2) Để Khôi Phục Trái Đất

Phương diện thứ hai trong ý định của Đức Chúa Trời khi ban quyền quản trị cho con người là khôi phục trái đất (Sáng. 1:26-28). Con người có quyền quản trị, bắt phục và chinh phục trái đất. Chinh phục trái đất nghĩa là kẻ thù đã ở đó rồi và cuộc chiến đang diễn ra ác liệt. Do đó, chúng ta phải chiến đấu và chinh phục.

Các bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào hôn nhân cần nhận thức rằng hôn nhân là một cuộc chiến. Nhiều người trong chúng ta biết điều này qua kinh nghiệm. Ngay cả trong tuần trăng mật, chúng ta cũng đang ở trên chiến trường, chiến đấu với chồng hay với vợ mình. Nếu không phải là đánh nhau bên ngoài, thì cũng là đang đánh nhau bên trong. Mỗi lĩnh vực của đời sống –đời sống học đường, đời sống công sở, đời sống gia đình– là một chiến trường. Kẻ thù không bao giờ ngủ. Suốt ngày hắn luôn rình rập, không chỉ trong đời sống gia đình mà còn trong nếp sống Hội Thánh. Ngay cả trong nếp sống Hội Thánh, Sa-tan và các sứ giả của hắn cũng rất bận rộn. Trên đất đang diễn ra một cuộc chiến ác liệt. Ý định của Đức Chúa Trời là khôi phục trái đất.

Trái đất đã và vẫn đang bị Sa-tan chiếm đoạt. Hãy nhìn vào xã hội hôm nay. Hãy nhìn thấy cách mà kẻ thù vẫn đang chiếm đoạt cả trái đất.

Đức Chúa Trời muốn chiếm lại trái đất này. Trái đất đã trở thành một chiến trường trọng yếu, nơi Sa-tan muốn nắm giữ, và cũng là nơi Đức Chúa Trời muốn chiếm lại. Trận chiến diễn ra khắp đất. Hễ ai chiếm được đất thì ấy là kẻ chiến thắng. Nếu Sa-tan có thể nắm giữ trái đất trong tay, hắn đã giành chiến thắng. Nếu Đức Chúa Trời có thể chiếm lại trái đất, Ngài sẽ giành chiến thắng. Chúa Jesus chưa trở lại vì trái đất vẫn còn ở dưới sự chiếm đoạt của Sa-tan quá nhiều. Đó là lý do vì sao Đức Chúa Trời cần Hội Thánh. Hội Thánh phải đánh trận để chiếm lại trái đất, nếu không phải cả trái đất thì ít nhất là một số bàn đạp, một số tiền đồn để Chúa Jesus đặt chân. Trái đất thật quan trọng.

Vấn đề này đã được chứng tỏ đầy đủ qua Thi Thiên 8. Thi Thiên 8 bắt đầu bằng cách nói “Hỡi Đức Giê-hô-va là Chúa chúng tôi, danh Chúa được sang cả trên khắp trái đất biết bao!”. Thi Thiên này cũng kết thúc giống như vậy. Chắc chắn danh Chúa là vượt trỗi trên các từng trời, nhưng theo một ý nghĩa, danh Chúa không được vượt trỗi trên trái đất này. Danh Ngài không vượt trỗi giữa vô số những người sa ngã. Chúng ta cần cầu nguyện: “Danh Cha được tôn thánh” (Mat. 6:9). Ô, danh Chúa phải được biệt ra thánh trên đất này. Nan đề không ở trên các từng trời mà ở đây, tức trên trái đất.

Đức Chúa Trời khao khát Vương Quốc Ngài đến trên trái đất và ý chỉ Ngài sẽ được thực hiện trên đất (Mat. 6:10). Bây giờ chúng ta có thể hiểu lời cầu nguyện mà Chúa Jesus đã dạy. Ngài phán: “Nguyện danh Cha được tôn thánh. Nước Cha được đến”. Chắc chắn điều này có nghĩa là từ các từng trời xuống đất… Lời cầu nguyện này tiếp tục: “Ý Cha được nên, ở đất như ở trời”. Ý chỉ của Đức Chúa Trời hiện đang được thực hiện trên trời. Nhưng trên đất có nhiều sự ngăn trở, cản trở việc thực hiện ý chỉ của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải cầu nguyện: “Nguyện danh Cha được tôn thánh. Nước Cha được đến. Ý Cha được nên, ở đất như ở trời”. Chúng ta phải chiến đấu để khôi phục trái đất.

Vào thời đại Ngàn Năm, trái đất sẽ trở nên Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Điều này được bày tỏ trong Khải Thị 11:15. Khi Chúa Jesus đến để mở ra thời đại Ngàn Năm, cả trái đất sẽ trở nên Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Khi đó trái đất sẽ được Đức Chúa Trời chiếm lại.

Trong cõi đời đời, nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời từ trời sẽ xuống đất mới (Khải. 21:1-2). Nhiều Cơ-đốc nhân mơ ước lên thiên đàng. Đó là giấc mơ tốt và chắc chắn hết thảy chúng ta đều sẽ ở đó. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời khao khát từ trời xuống đất. Chúng ta thích các từng trời nhưng Đức Chúa Trời thích trái đất. Chúng ta sẽ đi lên, nhưng Ngài sẽ đi xuống. Ha-lê-lu-gia! Tôi xin nói cho anh em sự thật là khi chúng ta lên trời, Chúa sẽ nói “Các con ơi, chúng ta hãy đi xuống. Chúng ta hãy đi xuống tiếp quản trái đất”. Trong cõi đời đời, các từng trời không phải là nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời sẽ là Giê-ru-sa-lem Mới, và Giê-ru-sa-lem Mới từ các từng trời sẽ xuống đất mới. Điều này chứng tỏ khát vọng của Đức Chúa Trời là sở hữu trái đất.

Sa-tan, kẻ chiếm đoạt, không những sẽ bị quăng khỏi không trung mà còn bị quăng khỏi trái đất. Theo Khải Thị 12:9, trước hết, Sa-tan từ không trung sẽ bị quăng xuống đất. Sau đó, Sa-tan sẽ bị trói, và từ trái đất, hắn sẽ bị quăng xuống vực sâu không đáy (Khải. 20:2-3). Sẽ không còn mây mù thuộc linh nữa. Chúng ta sẽ có không trung tươi mới, và trái đất được tẩy sạch khỏi mọi ô uế. Điều này sẽ diễn ra trong Thiên Hi Niên. Sa-tan sẽ bị quăng xuống Hồ Lửa (Khải. 20:10). Sau thời đại Ngàn Năm, chúng ta sẽ có cõi đời đời, trong đó nơi cư ngụ đời đời của Đức Chúa Trời sẽ ở trên đất mới. Đức Chúa Trời muốn trái đất.

(3) Để Đem Uy Quyền Của Đức Chúa Trời Đến

Phương diện thứ ba trong ý định của Đức Chúa Trời, khi ban quyền quản trị cho con người, là đem uy quyền của Đức Chúa Trời đến để thực thi uy quyền của Đức Chúa Trời trên khắp đất. Con người phải thực thi uy quyền của Đức Chúa Trời để Vương Quốc của Ngài có thể đến trên đất, hầu ý chỉ của Đức Chúa Trời có thể được thực hiện trên đất và vinh hiển của Đức Chúa Trời có thể được hiển lộ trên đất. Mọi điều này sẽ diễn ra trên đất. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ thỏa lòng nếu chỉ có Vương Quốc của Ngài trên các từng trời. Ngài sẽ không vui nếu ý chỉ Ngài chỉ thành tựu trên các từng trời ,và cũng sẽ không vui nếu chỉ thấy vinh hiển Ngài được tỏ ra trên các từng trời. Ngài muốn tất cả những điều này xảy ra trên đất. Đây là trách nhiệm của Hội Thánh hôm nay. Trong Hội Thánh, chúng ta có Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Trong Hội Thánh, ý chỉ của Đức Chúa Trời được thực hiện. Trong Hội Thánh, vinh hiển của Đức Chúa Trời được hiển lộ. Ha-lê-lu-gia! Chúng ta có tiền vị. Bây giờ, chúng ta có thể biết vì sao Đức Chúa Trời ban cho con người quyền quản trị trên mọi vật trong biển, trên không và trên đất. Ý định của Đức Chúa Trời là kết liễu kẻ thù, chiếm lại trái đất, và làm hiển lộ vinh hiển Ngài.

(4) Sự Hoàn Thành

Điều này đã hoàn thành chưa? Chắc chắn là chưa. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã tạo nên con người cho ý định này. Sa-tan biết rõ điều đó hơn chúng ta nhiều. Kinh Thánh bảo rằng ngay sau khi sáng tạo con người, Sa-tan đã đến làm hủy hoại con người mà Đức Chúa Trời đã dựng nên cho mục đích của Ngài. Con người sa ngã. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời không từ bỏ con người. Chính Ngài đã trở thành người. Ngài đã đến để có thể vào trong con người, làm chính Ngài nên một với con người. Ngài đã đến để làm Người Thứ Hai, tên là Jesus (1Cô. 15:47). Người Thứ Nhất không hoàn thành được mục đích của Đức Chúa Trời; Người Thứ Hai đã hoàn thành. Người Thứ Nhất là một người tập thể, và Người Thứ Hai cũng là một người tập thể. A-đam là đầu của người tập thể thứ nhất, và Đấng Christ là Đầu của người tập thể thứ hai. Mục đích của Đức Chúa Trời được hoàn thành bởi Người Thứ Hai này.

(a) Với Đấng Christ

Sự hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời khi ban quyền quản trị cho con người đã bắt đầu với Đấng Christ.

aa. Khi Đấng Christ Đến, Vương Quốc Của Đức Chúa Trời Đến

Trong Tân Ước, sự rao giảng bắt đầu theo cách khác thường, cách trái với quan niệm của chúng ta. Sự rao giảng đó là: “Hãy ăn năn vì Vương Quốc thiên thượng đã đến gần” (Mat. 4:17). Cụm từ “đã đến gần” có nghĩa là đến. Khi Đấng Christ đến, Vương Quốc Đức Chúa Trời đến. Đấng Christ đem Vương Quốc đến. Con người nhỏ bé Jesus là Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Nhiều Cơ-đốc nhân nghĩ rằng khi Jesus đến thì Vương Quốc chưa đến. Theo quan niệm của họ, khi người Do-thái khước từ Jesus cùng với Vương Quốc, thì Vương Quốc bị tạm ngưng và thời đại Hội Thánh bắt đầu. Họ nghĩ rằng Hội Thánh không phải là Vương Quốc, rằng sau thời đại Hội Thánh, Vương Quốc sẽ được thiết lập vào lúc Jesus tái lâm. Trong Kinh Thánh, có nền tảng nào đó để nói như vậy, và theo một ý nghĩa, điều này đúng, nhưng chỉ đúng một phần. La-mã 14:17 bảo rằng Hội Thánh ngày nay chính là Vương Quốc. Nếp sống Hội Thánh là Vương Quốc. Về một ý nghĩa, người Do-thái đã khước từ Vương Quốc. Một ý nghĩa khác, Chúa đã thiết lập Vương Quốc bằng cách thiết lập Hội Thánh. Chúng ta không bao giờ có thể tách rời Hội Thánh khỏi Vương Quốc. Trong Ma-thi-ơ 16:18, Chúa bảo Phi-e-rơ: “Này Phi-e-rơ, ngươi là viên đá và Ta sẽ xây Hội Thánh Ta trên chính Ta là Vầng Đá này. Các cửa Âm Phủ sẽ không thắng được Hội Thánh này”. Ngay sau điều này (c. 19), Chúa Jesus phán: “Ta sẽ giao các chìa khóa Vương Quốc cho ngươi”. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần và tại nhà của Cọt-nây, Phi-e-rơ đã thiết lập Hội Thánh bằng cách sử dụng chìa khóa Vương Quốc để mở cửa cho cả người Do-thái lẫn người Ngoại bước vào Vương Quốc. Vì vậy, khi Hội Thánh bắt đầu, thì Vương Quốc xuất hiện. Hội Thánh là Vương Quốc. Chắc chắn sẽ có một sự hiển lộ trọn vẹn của Vương Quốc trong tương lai. Nhưng thực tại của Vương Quốc đang ở đây hôm nay. Đó là nếp sống Hội Thánh.

bb. Đấng Christ Đuổi Quỉ Để Đem Vương Quốc Đức Chúa Trời Đến

Bốn Sách Phúc Âm cho thấy rằng bất cứ nơi nào Jesus đến, Ngài đều đối đầu với các quỉ. Jesus không bao giờ dung thứ cho các quỉ mà Ngài đuổi chúng ngay lập tức. Trong Ma-thi-ơ 12:28, Jesus bảo rằng việc Ngài đuổi quỉ là sự đến của Vương Quốc. Đó là quyền quản trị của Đức Chúa Trời. A-đam đã thất bại, không đem Vương Quốc đến; nhưng khi Jesus đến, Ngài đem Vương Quốc đến bởi việc đuổi quỉ. Đuổi quỉ có nghĩa là đem Vương Quốc Đức Chúa Trời đến.

cc. Đấng Christ Ban Cho Môn Đồ Ngài Uy quyền Trên Sức Mạnh Của Kẻ Thù

Đấng Christ cũng ban cho các môn đồ Ngài uy quyền trên cả sức mạnh của Sa-tan. Trong Lu-ca 10:19, Chúa Jesus phán: “Này, Ta ban cho các ngươi uy quyền giày đạp rắn, bò cạp và trên cả sức mạnh của kẻ thù”. Cả rắn lẫn bò cạp đều ở số nhiều, ngụ ý rằng chúng rất nhiều. Trong câu 18 của chương này, chúng ta thấy Sa-tan. Trong câu 20, chúng ta thấy các linh, tức các quỉ. “Rắn” nghĩa là quyền lực của Sa-tan, và “bò cạp” nghĩa là quyền lực của các quỉ. Sa-tan, rắn, và bò cạp, đều có quyền lực nhưng chúng ta có uy quyền. Uy quyền của chúng ta vượt trên quyền lực của chúng. Trên đường phố có nhiều xe hơi [có động cơ] mạnh. Dầu vậy, viên cảnh sát nhỏ bé có uy quyền. Khi cảnh sát ra lệnh: “Dừng lại,” anh em phải dừng lại. Xe hơi có sức mạnh, trong khi cảnh sát có uy quyền. Sa-tan và các quỉ có quyền lực nhưng chúng ta là Cảnh Sát của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải truyền lệnh cho Sa-tan: “Dừng lại!”. Khi Jesus ban uy quyền cho các môn đồ Ngài và họ đã thực thi uy quyền đó để đuổi quỉ, thì họ rất phấn khởi. Tuy nhiên, Chúa Jesus bảo họ rằng: “Chớ mừng trong điều này. Các ngươi hãy vui mừng về điều tốt hơn: ấy là tên các ngươi được ghi trên trời”. Khi Jesus đến, Vương Quốc đến. Khi Jesus đuổi quỉ, Ngài đem Vương Quốc của Đức Chúa Trời đến. Cũng vậy, Jesus thực hiện điều này bởi và qua các môn đồ Ngài. Ngài ban cho họ uy quyền để đuổi quỉ và họ đã thực hiện.

dd. Đấng Christ Nhận Được Mọi Uy quyền

Sau khi phục sinh, Đấng Christ đã nhận được mọi uy quyền trên trời và dưới đất (Mat. 28:18). Là Đức Chúa Trời, Chúa có uy quyền trước khi Ngài phục sinh. Là con người tên Jesus, người Na-xa-rét, Ngài được giao cho mọi uy quyền trên trời, dưới đất sau khi Ngài phục sinh. Jesus là A-đam thật. Quyền quản trị của Đức Chúa Trời đã được giao cho Ngài.

b) Với Hội Thánh, Bao Gồm Các Thánh Đồ

aa. Các Cửa Âm Phủ Không Thể Thắng Được Hội Thánh

Sự hoàn thành ý định của Đức Chúa Trời trong việc ban quyền quản trị cho con người có quan hệ đến Đấng Christ, là Đầu, và Hội Thánh, bao gồm tất cả các thánh đồ, là Thân Thể. Sự hoàn thành ý định của Đức Chúa Trời không chỉ với Đầu mà còn với Thân Thể. Các cửa Âm Phủ không thể thắng được Hội Thánh (Mat. 16:18). Kinh Thánh không nói các cửa Âm Phủ (nghĩa là quyền lực của Sa-tan) không thể thắng được các thánh đồ. Chúng có thể thắng hơn các thánh đồ nếu các thánh đồ sống riêng lẻ hay cá nhân. Anh em cần được xây dựng vào trong Hội Thánh. Thân Thể được xây dựng bằng Đấng Christ không bao giờ bị Sa-tan đánh bại. Sa-tan không bao giờ có thể thắng hơn Hội Thánh được xây dựng.

bb. Thánh Đồ Được Ban Cho Uy Quyền Để Trói Buộc Kẻ Thù

Thánh đồ đã được ban cho uy quyền trói buộc kẻ thù (Mat. 16:19; 18:18). Lời trong Ma-thi-ơ 16:19 được phán cho Phi-e-rơ, còn Lời trong Ma-thi-ơ 18:18 dành cho mọi tín đồ. Giáo Hội Công Giáo công bố rằng Phi-e-rơ có uy quyền đại diện cho Đấng Christ. Họ lấy Ma-thi-ơ 16:19 làm nền tảng cho điều này. Tuy nhiên, phải nói với họ rằng chúng ta cũng có Ma-thi-ơ 18:18. Không những Phi-e-rơ đã được ban cho uy quyền buộc và mở mà chúng ta cũng có. Mỗi tín đồ đã được ban cho uy quyền buộc và mở. Ngày nay, Hội Thánh với tất cả các thánh đồ đều có uy quyền buộc và mở. Nhiều khi chúng ta không chỉ nên cầu nguyện mà cũng nên buộc và mở.

cc. Đức Chúa Trời Sẽ Chà Nát Sa-tan Dưới Chân Các Thánh Đồ

La-mã 16:20 nói “Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ kíp chà nát Sa-tan dưới chân anh em”. Phao-lô nói rằng “sẽ kíp”. Tôi không biết Phao-lô cảm thấy như thế nào khi nói lời này cách đây 1900 năm rồi. Đối với chúng ta, dường như một thời gian dài đã trôi qua. Nhưng chúng ta tin điều này không quá lâu đâu. Chẳng bao lâu nữa, Sa-tan sẽ bị chà nát. Từ chà nát không những có nghĩa là giày đạp hay phá vỡ mà còn có nghĩa là khuất phục. Sa-tan phải ở dưới chân chúng ta. Trong đời sống gia đình, Sa-tan phải ở dưới chân anh em. Trong đời sống hôn nhân, Sa-tan phải ở dưới chân anh em. Trong nếp sống Hội Thánh, Sa-tan phải ở dưới chân anh em. Anh em phải bảo hắn: “Ớ Sa-tan, vị trí của ngươi là ở dưới chân ta”. Ngay bây giờ và tại đây, Sa-tan phải ở dưới chân chúng ta.

dd. Các Thánh Đồ Phải Chiến Đấu Chống Kẻ Thù

2Cô-rin-tô 10:3-5 và Ê-phê-sô 6:11-13 bảo rằng chúng ta phải chiến đấu chống kẻ thù. Không những chiến đấu mà còn phải vật lộn. Vật lộn thì khó hơn chiến đấu. Chúng ta phải vật lộn với các quyền lực gian ác chốn không trung.

ee. Các Thánh Đồ Đắc Thắng Sẽ Có Uy quyền Trên Các Dân

Các thánh đồ đắc thắng sẽ có uy quyền trên các dân (Khải. 2:26-27), và trong Thiên Hi Niên, họ sẽ là các vua đồng trị với Đấng Christ trên khắp đất (Khải. 20:4,6). Bấy giờ, Đức Chúa Trời sẽ cai trị hoàn toàn trái đất này. Đó sẽ là sự hoàn thành điều mà Đức Chúa Trời khao khát có được trong Sáng Thế Ký chương 1.

ff. Tất Cả Thánh Đồ Sẽ Cai Trị Cho Đến Đời Đời

Cuối cùng, tất cả thánh đồ sẽ trị vì như các vua trên đất cho đến đời đời trong Giê-ru-sa-lem Mới. Bấy giờ, Sa-tan, các thiên sứ ác trên không trung, và biển cùng toàn bộ các quỉ sẽ bị quăng vào Hồ Lửa (Khải. 20:10,13-14; Mat. 25:41). Tất cả mọi sự ô uế sẽ được tẩy sạch. Không trung, nước, và trái đất đã bị ô uế. Khi cõi đời đời xuất hiện, tất cả mọi sự ô uế sẽ biến mất. Mọi thứ sẽ trong suốt, và quyền quản trị của Đức Chúa Trời sẽ đến. Uy quyền của Đức Chúa Trời sẽ được thực thi trên đất. Trong lĩnh vực và phạm vi đó, hình ảnh của Đức Chúa Trời sẽ được biểu lộ trọn vẹn và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sẽ được hiển lộ hoàn toàn. Đó là Vương Quốc đời đời, sự quản trị của Đức Chúa Trời.

Sáng Thế Ký chương 1 như một vườn ươm. Mọi hạt giống lẽ thật đã được gieo ở đó. Chúng ta đã thấy từ sự sáng được gieo trong Sáng Thế Ký chương 1 và được phát triển qua toàn bộ Kinh Thánh cho đến Khải Thị 22, tại đó, không cần đến mặt trời, mặt trăng hay bất kỳ ngọn đèn nào. Chính Đức Chúa Trời là Sự Sáng. Cũng vậy, từ hình ảnh lần đầu tiên xuất hiện trong Sáng Thế Ký chương 1 và được phát triển suốt toàn bộ Kinh Thánh cho đến khi chúng ta thấy Giê-ru-sa-lem Mới mang hình ảnh của Đức Chúa Trời, biểu lộ Đức Chúa Trời. Cùng một nguyên tắc, từ sự quản trị cũng cần cả Kinh Thánh để giải thích. Chúng ta bắt đầu từ từ liệu sự quản trị trong Sáng Thế Ký chương 1 đến Khải Thị 22:5, tại đó chúng ta thấy toàn thể các thánh đồ sẽ trị vì với Đức Chúa Trời cho đến đời đời. Đó sẽ là sự hoàn thành chung cuộc sự quản trị của Đức Chúa Trời.

Con người được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời để biểu lộ Ngài, và được ban cho quyền quản trị của Đức Chúa Trời để đại diện Ngài và để xử lý kẻ thù của Ngài. Ngày nay, Hội Thánh chiếm phần lớn trong Người Thứ Hai này. Về mặt tích cực, trách nhiệm và là nhiệm vụ của Hội Thánh là biểu lộ Đức Chúa Trời, và về mặt tiêu cực,  chinh phục kẻ thù. Đây là nhiệm vụ của chúng ta. Chúng ta phải gánh trách nhiệm này.

 

 

BÀI TÁM

S Phục Hồi Và Sáng Tạo Thêm 
Của Đức Chúa Trời

 (5)

 S Hoàn Thành Chung Cuộc

d. Sự Hoàn Thành Chung Cuộc

Trong bài này, chúng ta đến sự hoàn thành chung cuộc, đỉnh điểm của Sáng Thế Ký chương 1. Cần nhớ lại các bước khác nhau trong tiến trình phục hồi và sáng tạo thêm của Đức Chúa Trời. Linh ấp ủ trên sự tối tăm và sự chết. Sự sáng đến và có sự phân rẽ giữa sáng và tối. Đức Chúa Trời tạo nên khoảng không để chia những điều ở trên với những điều ở dưới. Kế đến, Đức Chúa Trời truyền cho đất khô lộ ra khỏi những dòng nước sự chết. Từ đất khô ấy sản sinh sự sống thực vật. Sau khi có sự sống thực vật, các-vì-sáng-ngày-thứ-tư xuất hiện để chiếu sáng trái đất. Sau đó xuất hiện sự sống loài cá, sự sống loài chim, sự sống của gia súc, sự sống của thú vật và mọi loài bò sát. Cuối cùng, Đức Chúa Trời tạo nên con người. Con người là đỉnh điểm trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời vì con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Đây không phải là điều nhỏ

1) Đức Chúa Trời Được Biểu Lộ Và Đại Diện

Con người là sự biểu lộ của Đức Chúa Trời vì con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Con người cũng có quyền quản trị của Đức Chúa Trời. Con người được giao quyền quản trị của Đức Chúa Trời trên biển, không trung, trái đất, và đặc biệt, trên mọi loài bò sát. Con người có sức mạnh, uy quyền, và quyền cai trị vì con người giống như Đức Chúa Trời. Con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời; vì thế, con người có uy quyền. Đỉnh cao trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời là con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và đại diện Ngài với uy quyền của Ngài trên muôn vật.

Khi con người nhìn Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời nhìn con người, cả hai rất giống nhau. Nếu tôi lấy tấm ảnh của anh em, anh em giống với tấm ảnh đó, và tấm ảnh đó giống với anh em. Cũng vậy, Đức Chúa Trời có thể phán: “Hỡi con người, ngươi rất giống Ta”. Con người sẽ đáp: “Đức Chúa Trời ơi, Ngài rất giống con. Cả hai rất giống nhau”. Cũng vậy, khi bước ra từ hiện diện của Đức Chúa Trời, con người là người cai trị trên mọi tạo vật. Con người có uy quyền để cai trị. Đó là quyền cai trị, vương quốc.

Hai từ quan trọng trong chương 1 của Sáng Thế Ký là hình ảnh  quyền cai trị. Anh em có thể quên những loài bò sát và cá, nhưng đừng quên con người có hình ảnh và quyền cai trị. Con người không được làm nên theo hình ảnh của rắn hay bò cạp, mà theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Đây là đỉnh điểm: con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời, thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời để duy trì sự quản trị.

Hình ảnh và quyền cai trị được gieo như hai hạt giống trong Sáng Thế Ký chương 1. Tuy nhiên, những hạt giống này cần cả Kinh Thánh để lớn lên và phát triển. Mùa gặt, sự trưởng thành trọn vẹn, được thấy trong Khải Thị chương 21 và 22. Toàn thể Giê-ru-sa-lem Mới biểu lộ Đức Chúa Trời, mang dáng vẻ của Đức Chúa Trời. Giê-ru-sa-lem Mới cũng thi hành uy quyền thần thượng của Đức Chúa Trời để duy trì quyền cai trị của Đức Chúa Trời cho đến đời đời. Ngày nay, hai hạt giống này đang lớn lên trong anh em và tôi. Hình ảnh của Đức Chúa Trời và uy quyền của Đức Chúa Trời đang liên tục lớn lên bên trong chúng ta

Hãy xem trường hợp của một cặp vợ chồng trẻ. Chồng yêu vợ và vợ yêu chồng. Dù yêu chồng, người vợ vẫn thầm nhủ: “Dù mình yêu chồng, nhưng anh ấy chỉ là một thanh niên hư hỏng”. Nói với người vợ này rằng chồng là đầu vợ là điều chỉ đúng theo giáo lý. Tuy nhiên, người vợ này sẽ nói trong lòng rằng: “Tôi biết chồng là đầu vợ, nhưng thực tế anh ấy là một thanh niên hư hỏng. Tôi khó mà tôn trọng anh ấy được”. Một ngày nọ, người chồng này được cứu và sự sống thần thượng được truyền vào trong anh. Đây là hạt giống và hạt giống này lớn lên trong người trẻ này từng ngày, từng tháng. Có lẽ sau mười tám tháng, người vợ này nhìn chồng và nói “Chắc chắn là tôi phải tôn trọng anh ấy. Trước đây anh ấy chỉ là một thanh niên hư hỏng. Nhưng hôm nay, hãy nhìn anh ấy xem! Anh ấy có một một giá trị nào đó. Anh ấy không còn phóng túng, hời hợt như trước nữa. Anh ấy thật có giá trị”. Chồng không cần phải dùng uy quyền và nói “Em phải biết rằng anh bây giờ là một người chồng Cơ-đốc. Em phải thuận phục anh”. Người chồng không cần nói như vậy. Hễ khi nào người vợ nhìn chồng, cô sẽ nhận thức những lời của anh có trọng lượng, rằng có một điều gì đó quí báu và giá trị ở anh. Tự phát cô tôn trọng anh. Trước đây, cô tranh cãi. Bây giờ cô tôn trọng, xem mọi điều anh nói là đúng đắn vì bây giờ anh mang hình ảnh của Đức Chúa Trời, và từ hình ảnh này toát ra uy quyền thần thượng. Đây là sự cai trị.

Nhiều người đã đọc quyển “Uy Quyền Thuộc Linh” của Anh Nghê Thác Thanh. Họ chỉ lợi dụng quyển sách đó, nói rằng: “Chúng tôi là những trưởng lão của Hội Thánh. Chúng tôi là những người dẫn dắt một nhóm Cơ-đốc nhân. Chúng tôi là uy quyền của Đức Chúa Trời”. Nếu nói như vậy, anh em kể như không còn uy quyền của Đức Chúa Trời. Anh em không mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Khi sống trên đất, Chúa Jesus không bao giờ có bất kỳ thái độ nào với người khác rằng Ngài là uy quyền và người khác phải thuận phục. Ngài không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, khi sống trên đất, Ngài đã mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Ngài cũng có uy quyền của Đức Chúa Trời. Uy quyền luôn luôn toát ra từ hình ảnh.

Sự hoàn thành chung cuộc là Đức Chúa Trời được biểu lộ và đại diện. Không gì có thể cao hơn điều này. Khi Đức Chúa Trời được biểu lộ và đại diện, đó là đỉnh điểm.

Con người đã được làm nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời để có thể biểu lộ Ngài. Đây là vấn đề sự sống. Sự sống với hình ảnh là để biểu lộ của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban cho con người quyền cai trị muôn vật để con người có thể đại diện Ngài. Đây là vấn đề uy quyền. Nếu muốn đại diện Đức Chúa Trời với uy quyền, anh em cần biểu lộ Đức Chúa Trời trong sự sống. Toàn bộ Kinh Thánh chỉ là một chuyện kể về các thánh đồ là những người biểu lộ và đại diện Đức Chúa Trời. Bây giờ chúng ta cần xem 18 trường hợp bao gồm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước.

a) Trường Hợp Của Áp-ra-ham

Chúng ta bắt đầu với Áp-ra-ham. Điều này không có nghĩa là trước Áp-ra-ham không có người nào biểu lộ Đức Chúa Trời. Ít ra có ba người –A-bên, Hê-nóc và Nô-ê. Tuy nhiên, nếu đọc lịch sử của họ, chúng ta không tìm thấy sự ghi chép nào nói rằng họ đã chiến thắng kẻ thù hay chinh phục điều gì. Mãi cho đến Áp-ra-ham, Kinh Thánh không chép về người nào đã chinh phục được kẻ thù. Áp-ra-ham đã dựng một bàn thờ để có thể tiếp xúc Đức Chúa Trời (Sáng. 12:7). Càng tiếp xúc Đức Chúa Trời, anh em càng mang hình ảnh của Ngài. Càng nhìn xem Đức Chúa Trời, anh em sẽ càng giống Ngài. Dựng bàn thờ với mục đích tiếp xúc Đức Chúa Trời nghĩa là ngày càng biến đổi theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham đã không xây tháp. Người dân tại Ba-bên không xây bàn thờ để tiếp xúc Đức Chúa Trời mà đã xây một tháp để làm mình nổi danh (Sáng. 11:4). Đó là sự tự cao. Tuy nhiên, Áp-ra-ham đã được gọi ra khỏi môi trường đó; ông đã dựng một bàn thờ nhỏ, và tại đó, tiếp xúc Đức Chúa Trời. Càng tiếp xúc Đức Chúa Trời, ông càng giống Ngài. Kinh Thánh cho biết rằng cuối cùng, Đức Chúa Trời trở thành bạn của Áp-ra-ham, và Áp-ra-ham được gọi là bạn của Đức Chúa Trời (Gia-cơ 2:23). Nếu đọc Sáng Thế Ký chương 18, anh em sẽ thấy rằng Đức Chúa Trời không đến với Áp-ra-ham như là Đấng Sáng Tạo hay Đức Chúa Trời Toàn Năng mà như một Người Bạn. Đức Chúa Trời và Áp-ra-ham có sự tương giao giống như hai người bạn đang nói chuyện với nhau. Vào lúc đó, Áp-ra-ham càng giống Đức Chúa Trời hơn. Vì thế, chúng ta được bảo rằng Áp-ra-ham đã chinh phục và đánh bại kẻ thù (Sáng. 14:17).

b) Trường Hợp Của Giô-sép.

Giô-sép là nhân vật cuối cùng có tiểu sử được ghi lại trong Sáng Thế Ký. Ông đã sống đời sống thánh khiết và đắc thắng (Sáng. 39:11-12). Ông đã sống cuộc đời rất giống với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là thánh khiết; Giô-sép là thánh khiết. Đức Chúa Trời đắc thắng; Giô-sép cũng đắc thắng. Giô-sép mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Ông là người hoàn thành ý định của Ngài. Câu chuyện về Giô-sép là câu chuyện về một đời sống thánh khiết và đắc thắng, đời sống mà cuối cùng trở nên uy quyền cai trị. Giô-sép đã cai trị trên cả Ai-cập (Sáng. 41:39-45). Trong Sáng Thế Ký chương 1, chúng ta thấy một người được Đức Chúa Trời tạo nên theo hình ảnh Ngài và được giao quyền cai trị của Đức Chúa Trời. Trong vài chương cuối của Sáng Thế Ký, chúng ta cũng thấy một người thực sự biểu lộ Đức Chúa Trời, đại diện Ngài, và cai trị khắp đất.

c) Trường Hợp Của Môi-se

Môi-se không phải là chính trị gia đại tài. Ông là người tiếp xúc Đức Chúa Trời. Sau khi tiếp xúc Đức Chúa Trời, mặt ông sáng ngời vinh hiển thần thượng (Xuất. 34:29-30). Khi mặt Môi-se sáng ngời vinh hiển của Đức Chúa Trời, ông mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Do đó, Môi-se trở thành một người có uy quyền. Ông có uy quyền cai trị trên cả nhà Ítx-ra-ên (Hêb. 3:2,5). Ông cũng có uy quyền để đánh bại kẻ thù (Xuất. 14:30-31). Ông không chiến đấu bằng súng máy hay bom nguyên tử, nhưng bằng cây gậy nhỏ. Cây gậy nhỏ này không những đại diện cho quyền năng mà cũng đại diện cho uy quyền. Môi-se đã dùng cây gậy này và phán với Biển Đỏ: “Hãy mở đường”. Những dòng nước liền rẽ ra. Đó là uy quyền. Môi-se là người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và đại diện Đức Chúa Trời với uy quyền thần thượng.

d) Trường Hợp Của Ítx-ra-ên Với Đền Tạm

Sau Môi-se, chúng ta có dân Ítx-ra-ên. Ítx-ra-ên là dân được gọi là vương quốc của các thầy tế lễ (Xuất. 19:6). Ítx-ra-ên không được gọi là vương quốc các vua, nhưng là vương quốc các thầy tế lễ. Chức tế lễ hoàn toàn có liên quan đến hình ảnh của Đức Chúa Trời. Vương quyền có liên quan đến uy quyền của Đức Chúa Trời. Trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, chúng ta có hai chức vụ: chức tế lễ và vương quyền. Chức tế lễ là để tiếp xúc Đức Chúa Trời và có hình ảnh của Ngài; vương quyền là để đại diện Đức Chúa Trời và thi hành uy quyền của Ngài. Sau này, chúng ta sẽ thấy rằng Cơ-đốc nhân đã được kêu gọi để là thầy tế lễ và vua. Phần định của dân Ítx-ra-ên là trở thành vương quốc thầy tế lễ. Họ được định để tiếp xúc Đức Chúa Trời cho đến khi, giống như Môi-se, mặt họ sáng ngời vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đừng nhìn mặt tiêu cực của dân Ítx-ra-ên. Hãy nhìn mặt tích cực. Với Hòm Giao Ước của Đền Tạm, họ là những thầy tế lễ đã đánh bại thành Giê-ri-cô (Giô. 6:1-21). Nếu đọc Giô-suê chương 6 một lần nữa, anh em sẽ thấy cả quốc gia Ítx-ra-ên không đánh trận bằng gươm hay giáo. Hằng ngày, họ mang chứng cớ và thổi kèn tiếng vang. Sau đó, họ reo la có nghĩa là họ ngợi khen Đức Chúa Trời. Thành Giê-ri-cô sụp đổ. Họ đã không chiến đấu như những binh lính hay chiến binh. Họ đánh trận như những thầy tế lễ. Hễ khi là thầy tế lễ, anh em có đủ điều kiện để đánh bại kẻ thù.

Hỡi những người vợ, vì sao các chị thua trận trong đời sống gia đình? Vì chị em không có vẻ mặt của thầy tế lễ. Có lẽ chị em có vẻ mặt của bò cạp, rùa hay rắn. Nếu không biểu lộ vẻ mặt của thầy tế lễ, chị em đã thua trận rồi. Hỡi những người chồng, chúng ta là đầu, nhưng là loại đầu gì –đầu của một bọ cạp? Người chồng nào có đầu của bọ cạp không bao giờ có thể là một đầu đúng đắn. Anh em phải có đầu mang gương mặt của thầy tế lễ, chiếu sáng vinh hiển của Đức Chúa Trời. Nếu có vẻ mặt của thầy tế lễ, chúng ta sẽ đắc thắng trong đời sống gia đình. Thậm chí tôi muốn kiểm tra các anh em là những người sống trong nhà tập thể [sinh viên]. Anh em có loại vẻ mặt nào? Anh em có vẻ mặt của một thầy tế lễ phản chiếu sự vinh hiển của Chúa hay vẻ mặt của một con chuột? Chúng ta phải là thầy tế lễ. Khi đó, chúng ta sẽ chinh phục toàn bộ hoàn cảnh. Ngay khi có vẻ mặt của thầy tế lễ, anh em có uy quyền. Thành Giê-ri-cô sẽ bị chinh phục.

e) Trường Hợp Của A-rôn Với Cây Gậy Trổ Hoa

Trường hợp của A-rôn rất thú vị. Mặc dầu ý định của Đức Chúa Trời là làm cho toàn thể dân Ítx-ra-ên thành Vương Quốc thầy tế lễ, nhưng dân này đã quên Đức Chúa Trời. Vì thế, từ trong dân này, Đức Chúa Trời đã kêu gọi một chi phái, chi phái Lê-vi, làm chi phái thầy tế lễ. Đầu của chi phái này là nhà A-rôn. Một lần nọ, dân Ítx-ra-ên lằm bằm và nói nghịch A-rôn rằng: “Phải chăng Đức Chúa Trời chỉ ở với ông mà không ở với chúng tôi?” Sau đó, Đức Chúa Trời yêu cầu mỗi một quan trưởng trong mười hai chi phái đem đến một cây gậy có viết tên của chi phái mình trên đó. Cây gậy có nghĩa là uy quyền. Cây gậy của A-rôn là cây gậy duy nhất trổ hoa (Dân. 17:2-10), ra những nụ hạnh nhân. Tại xứ Palestine, cây đầu tiên trổ hoa vào mùa xuân là hạnh nhân. Theo hình bóng, hoa hạnh nhân tượng trưng cho sự sống phục sinh. Sau mùa đông, cây đầu tiên trổ hoa là hạnh nhân –nghĩa là sự sống phục sinh. Cây gậy của A-rôn là một khúc gỗ chết. Qua một đêm, cây gỗ chết này đã trổ hoa, trở thành cây gậy trổ hoa, không phải trổ những trái táo hay nho, mà là những trái hạnh nhân. Điều này nghĩa là nó đang sống bằng sự sống phục sinh. Ở đâu có sự sống, ở đó có uy quyền. Ở đâu có sự sống thần thượng, ở đó có uy quyền thần thượng. Ở đâu có sự sống, ở đó có hình ảnh, và hình ảnh này dẫn đến quyền cai trị. Vì thế, A-rôn có sự sống phục sinh để biểu lộ Đức Chúa Trời. Cho nên, A-rôn có uy quyền để đại diện Đức Chúa Trời.

Thưa các trưởng lão trong các Hội Thánh địa phương, những người dẫn dắt trong tất cả các nhóm phục vụ, các chị em hướng dẫn, tất cả anh chị em phải rất sáng tỏ rằng để là một người dẫn dắt trong các Hội Thánh giữa vòng dân Đức Chúa Trời có nghĩa là anh chị em phải trổ hoa. Anh em phải trổ hoa bằng sự sống phục sinh. Chúng ta chỉ là những khúc gỗ chết. Khúc gỗ chết này có trở thành cây gậy uy quyền hay không, tùy thuộc vào việc có trổ hoa bằng sự sống phục sinh hay không. Nếu có ý định trở thành một người dẫn dắt trong một sự phục vụ nào đó, chúng ta phải chờ xem cây gỗ chết đó mục rữa hay trổ hoa. Nếu trổ hoa với sự sống phục sinh, đó là dấu hiệu uy quyền có ở đó. Nó không còn là một cây gỗ chết; mà là một cây gậy uy quyền.

f) Trường Hợp Của Giô-suê Và Ca-lép

Nguyên tắc tương tự với trường hợp của Giô-suê và Ca-lép. Họ đi theo Chúa cách trọn vẹn (Dân 14:24). Chính Chúa làm chứng rằng Ca-lép đã đi theo Ngài cách trọn vẹn. Vì thế, họ đã đánh bại kẻ thù (Dân. 14:6-9). Khi đi theo Chúa, họ có hình ảnh. Và họ đã có uy quyền.

g) Trường Hợp Của Các Quan Xét

Tôi thích Các Quan xét 5:31. Câu này nói rằng trong thời kỳ Các Quan Xét, có một số người yêu Chúa. Những người yêu Chúa này đã chói sáng như ánh mặt trời. Vì thế, họ đã đánh bại kẻ thù. Hễ khi một người nào đó chiếu sáng như mặt trời, thì sẽ có sự đắc thắng kẻ thù và đem sự yên nghỉ đến cho toàn dân. Cả Sách Các Quan Xét là Sách của sự lặp lại. Hễ khi nào có một người yêu Chúa và chiếu sáng như mặt trời, thì qua người đó có sự đắc thắng. Qua người đó, toàn dân hưởng được sự yên nghỉ.

h) Trường Hợp Của Đa-vít

Đa-vít là người theo lòng Đức Chúa Trời. Nếu đọc 1Sa-mu-ên 13:14, anh em sẽ thấy ban đầu Sau-lơ làm vua. Tuy nhiên, Sau-lơ không có lòng đi theo Đức Chúa Trời. Ông đã mất ngai vua, và Đức Chúa Trời tìm một người khác là người theo lòng Ngài. Chắc chắn người này, tức Đa-vít, có hình ảnh của Đức Chúa Trời. Ông là người đã đánh bại kẻ thù (1Sử. 22:8a).

i) Trường Hợp Của Các Vua

Chúng ta đã thấy chức tế lễ. Bây giờ chúng ta đến với vương quyền. Hễ khi nào các vua là một với Chúa, họ đánh bại kẻ thù (2Sử. 14:2-14). Hễ khi nào không là một với Chúa, họ bị đánh bại. Họ mất uy quyền. Nói cách khác, hễ khi nào các vua mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và biểu lộ Ngài, họ có uy quyền để đánh bại kẻ thù. Ngày nay, chúng ta có cả chức tế lễ và vương quyền. Đừng bao giờ quên rằng chức vụ tế lễ là để biểu lộ hình ảnh, và vương quyền là để cai trị. Bây giờ, chúng ta là những thầy tế lễ để nên giống Đức Chúa Trời, đồng thời, cũng là các vua đại diện Đức Chúa Trời, thi hành uy quyền của Ngài trên kẻ thù.

j) Trường Hợp Của Đa-ni-ên

Đa-ni-ên là một phu tù tại Ba-by-lôn, một người đứng chầu trong cung vua. Tuy nhiên, ông đã sống đời sống thánh khiết, đời sống biểu lộ Đức Chúa Trời (Đa. 1:8). Vì thế, ông trở thành người có quyền lực. Ông có uy quyền trên thế gian vào thời đó (Đa. 6:28).

k) Trường Hợp Của Jesus

Khi Jesus sống trên đất, Ngài biểu lộ Đức Chúa Trời. Bất cứ ở đâu, Ngài đều biểu lộ Đức Chúa Trời. Ngài là một người đích thực và điển hình, nhưng liên tục biểu lộ Đức Chúa Trời. Vì thế, Ngài đã nhận được uy quyền trên mọi sự (Mat. 28:18). Xa-cha-ri 6:13 nói rằng Jesus có hai chức vụ: chức tế lễ và vương quyền. Ngài là Thầy Tế Lễ và Ngài là Vua. Ngày nay, Ngài vẫn là Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm và Vua của các vua. Ngài là Đấng biểu lộ Đức Chúa Trời, Đấng đại diện Đức Chúa Trời. Ngài mang hình ảnh của Đức Chúa Trời, và có uy quyền của Đức Chúa Trời. Đây là Jesus.

l) Trường Hợp Hai Con Trai Của Xê-bê-đê

Một ngày nọ, mẹ của các con Xê-bê-đê cùng hai con trai đến với Jesus để cầu xin (Mat. 20:20-23). Bà có một lời cầu nguyện tốt, xin cho hai con được ngồi bên hữu, bên tả Chúa trong Vương Quốc. Có lẽ tất cả chúng ta đã có lời cầu nguyện như thế. Chúa Jesus đáp lời cầu nguyện của bà, nhưng không theo cách bà cầu xin. Chúa Jesus phán: “Ngươi đã cầu xin về việc ngồi bên hữu, bên tả. Bây giờ ngươi phải biết rằng việc các con ngươi có ngồi bên hữu bên tả hay không thì không do Ta. Điều đó là do Cha. Nhưng Ta bảo ngươi một điều: ngươi phải chịu khổ. Ngươi phải uống những gì Ta uống và chịu những gì Ta chịu”. Điều này nghĩa là nếu muốn có uy quyền, anh em cần có sự sống. Chịu khổ là để có sự sống. Nếu không có sự chết, không có sự sống. Nếu không có sự chịu khổ, không có sự sống. Sự sống chỉ đến qua đau khổ. Nếu muốn nhận được uy quyền, chúng ta cần chiếm được sự sống qua đau khổ.

m) Trường Hợp Của Các Sứ Đồ

Cả Sách Công Vụ và toàn bộ Thư Tín cho thấy các sứ đồ là những người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Do đó, họ luôn luôn có uy quyền của Đức Chúa Trời. Họ có hình ảnh của Đức Chúa Trời và thi hành uy quyền của Ngài. Chúng ta không nên chỉ xem họ là những thầy giảng tốt hay giáo sư lớn. Điều này quá thấp. Đây không phải là đỉnh cao. Chúng ta nên xem họ là những người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và thi hành uy quyền thần thượng.

n) Trường Hợp Tiêu Cực Của Bảy Con Trai Sê-va

Bảy con trai của Sê-va thấy cách Phao-lô dùng danh của Jesus mà đuổi quỉ (Công. 19:13-16). Họ bắt chước Phao-lô, bảo các quỉ rằng: “Ta chỉ Jesus, là Đấng Phao-lô rao giảng, mà đuổi chúng bay”. Các quỉ không dễ bị xử lý như thế. Nó nói “Ta biết Jesus, cũng quen Phao-lô, nhưng các ngươi là ai mà đuổi ta? Ta sẽ vồ lấy các ngươi”. Thay vì đánh bại các quỉ thì các quỉ đã đánh bại họ. Nếu không có hình ảnh, anh em không thể có uy quyền. Các quỉ biết và chính anh em cũng biết điều đó. Nếu không có sự sống, anh em không có uy quyền. Nếu không mang hình ảnh, anh em không bao giờ có thể thi hành quyền cai trị.

o) Trường Hợp Của Tín Đồ Trong Thời Đại Hội Thánh

Cả Khải Thị 5:10 và 1Phi-e-rơ 2:9 đều bảo rằng ngày nay, Cơ-đốc nhân là những thầy tế lễ hoàng gia. Một mặt, chúng ta là các thầy tế lễ; mặt khác, chúng ta là các vua. Tuy nhiên, chúng ta cần tiếp xúc Đức Chúa Trời hầu có thể có hình ảnh thật để mang sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong đời sống. Khi đó, chúng ta có uy quyền để đại diện Đức Chúa Trời. Nhưng phần lớn Cơ-đốc nhân đã bỏ mất điều này. Họ không giống thầy tế lễ; vì thế, họ không phải là vua. Nếu không mang hình ảnh, anh em sẽ mất uy quyền. Ngợi khen Chúa, vì trải qua mọi thế kỷ đã có và vẫn còn có một số thánh đồ tiếp xúc Đức Chúa Trời, giữ mình trong chức tế lễ thật. Họ có uy quyền và thi hành vương quyền.

p) Trường Hợp Của Các Thánh Đồ Đắc Thắng Trong Thời Kỳ Ngàn Năm

Trong thời kỳ ngàn năm, thời đại Ngàn Năm của Vương Quốc sắp đến, các thánh đồ đắc thắng sẽ là các thầy tế lễ và các vua (Khải. 20:4,6). Họ sẽ là các thầy tế lễ biểu lộ Đức Chúa Trời, và là các vua đại diện Đức Chúa Trời.

q) Trường Hợp Của Toàn Thể Thánh Đồ Trong Trời Mới Đất Mới

Trong cõi đời đời, tất cả thánh đồ sẽ phụng sự Đức Chúa Trời như những thầy tế lễ (Khải. 22:3b-4). Họ sẽ biểu lộ Đức Chúa Trời và mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Các thánh đồ cũng sẽ cai trị như các vua, đại diện Đức Chúa Trời với uy quyền của Ngài (Khải. 22:5b).

r) Trường Hợp Của Giê-ru-sa-lem Mới

Cuối cùng, Giê-ru-sa-lem Mới sẽ mang dáng vẻ của Đức Chúa Trời. Khải Thị 4:3a nói rằng dáng vẻ của Đức Chúa Trời giống như bích ngọc. Sau cùng, tường của toàn bộ Thành Giê-ru-sa-lem Mới sẽ được xây bằng bích ngọc (Khải. 21:18a). Cả Thành sẽ có dáng vẻ của Đức Chúa Trời (Khải. 21:11). Khi đó, Thành sẽ thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời (Khải. 21:24,26). Trong cõi đời đời, toàn thể thánh đồ được chuộc sẽ mang hình ảnh của Đức Chúa Trời để biểu lộ Ngài và thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời để đại diện Ngài. Đó là đỉnh điểm và sự hoàn thành chung cuộc.

Chúng ta không phải chờ đợi ngày đó. Ngày nay, tất cả chúng ta đều nếm tiền vị này. Chúng ta có thể vui hưởng hình ảnh của Đức Chúa Trời và quyền cai trị của Ngài. Ngày nay, chúng ta là những thầy tế lễ và các vua. Chúng ta phải gìn giữ quyền con trưởng của mình. Chúng ta ở đây để biểu lộ Đức Chúa Trời với hình ảnh của Ngài, và đại diện Đức Chúa Trời với quyền cai trị của Ngài. Ha-lê-lu-gia! Đây là địa vị và trách nhiệm –dầu vậy, đây cũng là sự vui hưởng! Ngợi khen Chúa! Chúng ta là những thầy tế lễ và là các vua của Đức Chúa Trời. Chúng ta mang hình ảnh của Đức Chúa Trời, và có quyền cai trị của Đức Chúa Trời. Bây giờ, chúng ta là những người trong Hội Thánh biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Đức Chúa Trời. Ha-lê-lu-gia! Chúng ta có hình ảnh và quyền cai trị.

Tôi hi vọng tất cả anh em đều thấy rằng cả Kinh Thánh là sự ghi chép về sự phát triển của hình ảnh và quyền cai trị. Đó không phải là điều nhỏ vì hai điều này là đỉnh cao của sự ghi chép trong Sáng Thế Ký chương 1. Chương này bắt đầu với sự tối tăm, trống rỗng, hoang vu và những dòng nước sự chết. Sau đó Linh ấp ủ, sự sáng phân rẽ, và khoảng không phân cách. Đất khô xuất hiện để sản sinh sự sống. Sau đó xuất hiện sự sống thấp nhất, sự sống cao hơn, sự sống cao hơn nữa và sự sống thọ tạo cao nhất –là con người. Hãy xem tất cả những hình thức sự sống nầy. Với cỏ, cây thân thảo và cây thân mộc thì không có gương mặt. Cá có gương mặt nhưng không rõ nét. Mặt của chim rõ nét hơn. Kế đến, có gia súc và thú vật. Cuối cùng, có mặt người. Tất cả chúng ta phải thừa nhận rằng mặt người là rõ nét nhất. Đó là gương mặt mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Với gương mặt này, tức là với sự biểu lộ này, uy quyền của Đức Chúa Trời đã được giao cho.

Mọi sự đều được quyết định bởi việc chúng ta giống điều gì. Nếu anh em giống như bọ cạp, là điều có liên hệ với các quỉ. Nếu giống như rắn, là điều có liên quan đến Sa-tan, Nhưng nếu giống một người thật sự, điều đó có liên quan đến hình ảnh của Đức Chúa Trời. Một người thật sự mới có uy quyền.

Thế thì, người thực sự là gì? Người thực sự là thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời. Nếu là thầy tế lễ, anh em cũng là vua. Nếu ở trong chức tế lễ, chắc chắn anh em sẽ có vương quyền. Điều này nghĩa là nếu có hình ảnh của Đức Chúa Trời trong đời sống, chắc chắn anh em có uy quyền của Đức Chúa Trời để cai trị cho Ngài.

Cả Kinh Thánh là sự ghi chép về sự phát triển của hình ảnh và quyền cai trị. Trong Sáng Thế Ký chương 1, chúng ta có A-đam theo hình ảnh của Đức Chúa Trời và có quyền cai trị của Ngài, nhưng đây chỉ là một hạt giống nhỏ. Chúng ta tiếp tục với Áp-ra-ham. Áp-ra-ham là người đầu tiên đã trưởng thành và phát triển điều gì đó về hình ảnh và uy quyền của Đức Chúa Trời. Ông tiếp xúc Đức Chúa Trời và đánh bại kẻ thù. Sau đó, chúng ta đến với Giô-sép, người trưởng thành hoàn toàn. Khi đọc câu chuyện của Giô-sép, chúng ta thấy một người mang hình ảnh đầy đủ của Đức Chúa Trời về sự thánh khiết và đắc thắng. Chúng ta thấy người này thi hành uy quyền. Thời đó, uy quyền không phải là Pha-ra-ôn xứ Ai-cập mà là Giô-sép. Giô-sép đã trị vì cả trái đất. Khi tiếp tục lần theo Cựu Ước, chúng ta thấy Đức Chúa Trời đã kêu gọi một dân để trở thành một nước thầy tế lễ. Toàn thể dân tộc này sẽ tiếp xúc Đức Chúa Trời và mang hình ảnh của Ngài như những thầy tế lễ của Ngài. Do đó, họ sẽ là các vua trong mọi loại hoàn cảnh. Họ không cần phải đánh trận. Toàn bộ hoàn cảnh sẽ bị phục dưới chân họ. Sau đó, chúng ta đến với các vua và các tiên tri. Cuối cùng, đến với Jesus. Ngài hoàn toàn là Thầy Tế Lễ cũng là Vua. Với Ngài, có chức tế lễ để biểu lộ Đức Chúa Trời, và vương quyền để đại diện Đức Chúa Trời. Đấng Christ là Đầu. Theo sau Ngài là Thân Thể, kết cấu gồm tất cả các thánh đồ được chuộc. Là Thân Thể, chúng ta giống với Đầu, mang hình ảnh như những thầy tế lễ và thi hành uy quyền như các vua. Ngày nay, chúng ta là những thầy tế lễ và các vua trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta biểu lộ Đức Chúa Trời trong nếp sống Hội Thánh và đại diện Ngài trong mọi hoàn cảnh. Kế đến là thời kỳ ngàn năm, thời kỳ đầy đủ, trong đó tất cả các thánh đồ đắc thắng, theo nghĩa đen, sẽ là những thầy tế lễ biểu lộ Đức Chúa Trời với hình ảnh Ngài, và là các vua đại diện Đức Chúa Trời với uy quyền Ngài, thi hành sự cai trị hoàn toàn trên đất này. Cuối cùng, chúng ta sẽ có cõi đời đời. Trong cõi đời đời, chúng ta sẽ thấy một chung cuộc tuyệt diệu –Giê-ru-sa-lem Mới. Đây sẽ là đỉnh điểm thật sự. Không gì có thể cao hơn hay trọn vẹn hơn điều này. Cả Thành Giê-ru-sa-lem Mới sẽ mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và cả Thành sẽ thi hành quyền cai trị của Đức Chúa Trời. Ha-lê-lu-gia! Đây là sự ghi chép của Kinh Thánh. Kinh Thánh ghi chép lại sự phát triển về hình ảnh Đức Chúa Trời với quyền cai trị của Ngài. Đức Chúa Trời sẽ được biểu lộ và đại diện bởi dân được chuộc của Ngài cho đến đời đời.

Lời Nói Thêm

Chúng ta hãy đến với Sách Ma-thi-ơ và đọc câu cuối của chương 16 và 2 câu đầu của chương 17. Chúa Jesus phán: “Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, trong những người đứng đây có kẻ hẳn chẳng nếm sự chết trước khi chưa thấy Con Người ngự đến trong nước Ngài. Sau sáu ngày, Jesus đem Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng là em người, lánh riêng lên núi cao. Ngài biến hóa trước mặt họ, mặt Ngài sáng chói như mặt trời, áo Ngài trắng như ánh sáng”. Trong những câu này, chúng ta thấy Jesus đến trong Vương Quốc Ngài. Khi Jesus đang chói sáng trong sự biến hóa của Ngài, đó là Vương Quốc đến. Ở đâu có sự chiếu sáng của Jesus, ở đó là Vương Quốc. Sự chói sáng này là việc mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Khi có hình ảnh, lập tức quyền cai trị hiển lộ. Khi chiếu sáng sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, chúng ta không cần cố ý thi hành quyền cai trị. Uy quyền của Đức Chúa Trời có ngay tại đó.

Làm thế nào chúng ta có thể chiếu sáng vinh hiển của Đức Chúa Trời? Chúng ta cần đọc 2Cô-rin-tô 3:18: “Nhưng chúng ta đều để mặt trần mà ngắm xem và chiếu lại sự vinh hiển của Chúa như một cái gương thì đều đang được biến đổi nên cùng một hình ảnh từ vinh quang đến vinh quang, như từ Chúa Linh vậy”. Tôi thích từ “gương mặt, mặt trần”. Trong sự biến hóa, mặt của Chúa Jesus chói sáng như mặt trời rực rỡ. Tuy nhiên, từ “mặt” được đề cập trong 2Cô-rin-tô 3:18 không chỉ là mặt ở bên ngoài mà còn là mặt bên trong. Chúng ta đều có mặt bên ngoài và mặt bề trong. Mặt bên ngoài đơn giản là sự biểu hiện của mặt bề trong. Mặt bề ngoài là bản thể bên ngoài của chúng ta; mặt bề trong là bản thể bề trong của chúng ta. Gương mặt là sự thể hiện toàn bản thể, sự biểu lộ của toàn bản thể chúng ta. Không ai trong chúng ta ở đây có màn che trên mặt bề ngoài của mình cả, nhưng tôi e rằng nhiều người trong chúng ta vẫn còn có một số màn che trên mặt bề trong. Chúng ta cần để mặt trần.

Những điều tôn giáo và những điều thánh khiết cũng như những điều tội lỗi và thế tục có thể là một màn che đối với chúng ta. Nếu nghiên cứu văn mạch của 2Cô-rin-tô chương 3, anh em sẽ thấy màn che được đề cập ở đây đặc biệt chỉ về Cựu Ước theo văn tự. Ngay cả Kinh Thánh cũng có thể là một màn che. Ngay cả văn tự trong Kinh Thánh cũng có thể là màn che, ngăn chúng ta không thấy Chúa sống động. Nếu văn tự của Kinh Thánh có thể là một màn che đối với chúng ta, thì mọi sự khác cũng có thể là một màn che –vợ, chồng, bạn bè, con cái, bản ngã, anh chị em, hành vi tốt, hành vi xấu, hoạt động sốt sắng, công tác cho Đức Chúa Trời, tức là mọi sự. Mọi điều, nếu không phải là chính Chúa, đều có thể là một màn che. Bất kể điều gì thánh khiết đến đâu, thiên thượng đến đâu, thuộc linh đến đâu, hay mang tính tôn giáo đến đâu, hễ không phải là chính Chúa, thì đều có thể là một màn che. Có thể anh em vẫn còn ở dưới loại màn che này. Đó là lý do vì sao anh em ngồi đây mà không thấy Chúa.

2Cô-rin-tô 3:18 nói rằng chúng ta đều để mặt trần mà ngắm xem Chúa như một cái gương. Chúng ta là cái gương. Là một cái gương, chúng ta ngắm nhìn. Những gì cái gương trông thấy, nó đều phản chiếu lại. Chúng ta cần có mặt trần để ngắm xem và phản chiếu vinh hiển của Chúa; giống như Môi-se, khi ông ngắm nhìn sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong bốn mươi ngày, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đã phát sáng từ mặt ông. Khi xuống núi, ông đã tỏa sáng, rực sáng vinh hiển của Đức Chúa Trời. Tất cả chúng ta cần giống như vậy. Tất cả chúng ta cần quên đi mọi điều xấu, tốt, thánh khiết, bất khiết, tôn giáo, không tôn giáo, thuộc linh, không thuộc linh. Bất kể điều đó là gì, nếu không phải là chính Đấng Christ, phải gạt bỏ đi. Chúng ta cần nhận ra sự xảo quyệt của kẻ thù. Sa-tan có thể dùng bất cứ điều gì để làm anh em xoay khỏi việc ngắm xem Chúa. Điều duy nhất Sa-tan không thể sử dụng là chính Chúa.

Trong Tân Ước có ít nhất bốn Sách đặc biệt viết về những điều cản trở con người không ngắm xem Chúa, những điều che khuất con người không tiếp xúc và vui hưởng Chúa. Sách Ga-la-ti đề cập đến Kinh Luật, tôn giáo và truyền thống. Tất cả những điều này là bức màn ngăn cách. Kinh Luật được Đức Chúa Trời ban cho và là thánh. Ngay cả Tân Ước cũng nói rằng Kinh Luật là thánh (La. 7:12). Tuy nhiên, ngay cả điều thánh như Kinh Luật cũng có thể ngăn cách anh em với Đấng Christ, cắt đứt anh em khỏi sự vui hưởng Đấng Christ (Gal. 5:4, theo bản ASV). Chúng ta có thể bị ngăn cách khỏi Đấng Christ, không chỉ bởi những sách vô đạo đức mà ngay cả bởi Kinh Luật được Đức Chúa Trời ban cho. Sao lại thế? Vì mặt anh em có thể hướng về Kinh Luật thay vì hướng về Đấng Christ. Vì vậy, Kinh Luật lập tức trở thành màn che. Kinh Luật luôn hình thành tôn giáo và tôn giáo có những truyền thống lâu đời. Vì thế, chúng ta có Kinh Luật, tôn giáo, và những truyền thống, tất cả tạo nên những lớp cách điện, cách ly anh em với Điện Năng Thần Thượng là chính Chúa.

Cô-lô-se là một Sách khác. Trong Cô-lô-se, từ “triết học” được dùng đến. Từ triết học trong Cô-lô-se thực ra là Trí Huệ Giáo. Trí Huệ Giáo là một triết học cao hơn, đó là sự cấu thành giữa triết học Hi-lạp, Ai-cập và Ba-by-lôn, cộng với triết học của Cơ-đốc Giáo, tức là bao hàm cả triết học của Do-thái Giáo. Đó hoàn toàn là một sự pha trộn. Triết học đó, sản phẩm cao nhất của văn hóa loài người, đã bước vào Hội Thánh đầu tiên, tạo ra một cản trở lớn. Mặc dầu triết học có thể tốt và là sản phẩm tốt nhất của văn hóa loài người, nhưng vì không phải là Chúa, nên trở thành một màn che. Nó phải được xử lý.

Chúng ta đến với một Sách khác, Sách Hê-bơ-rơ. Nếu đọc Sách này, anh em sẽ thấy Sách liệt kê tất cả những điều tốt trong Do-thái Giáo. Sách này cho chúng ta thấy rằng tất cả những điều tốt trong Do-thái Giáo cần được xem là những hình bóng, hình ảnh, và bóng của Đấng Christ.

Giả sử trước khi đến thăm tôi, anh em gởi đến tôi tấm hình của anh em. Vì yêu anh em, tôi quí trọng tấm hình đó. Điều này đúng đắn. Tôi chỉ yêu thích tấm hình của anh em. Bây giờ, đích thân anh em đến thăm tôi, thay vì nhìn anh em, tôi cứ ngắm nhìn mãi tấm hình và yêu thích nó. Ngay cả tấm hình của anh em đã trở thành màn che mắt tôi. Anh em sẽ nói “Anh ngốc ơi, quăng tấm hình đó đi. Hãy nhìn tôi đây”.

Trước khi Jesus đến, Đức Chúa Trời đã dùng Cựu Ước để trình bày cho dân Ngài nhiều hình ảnh về Đấng Christ từ những góc cạnh khác nhau. Nhưng dân Do-thái chỉ nắm giữ những hình ảnh đó, không chỉ những hình ảnh ở bốn mặt mà có lẽ là ba mươi hai mặt. Điều đó bao lấy họ, ngăn họ không nhìn thấy Đấng Christ. Đấng Christ ở bên ngoài hàng rào đó. Dân Do-thái đã thấy rất nhiều điều về Đấng Christ, nhưng họ không thể thấy chính Đấng Christ. Vì thế, Sách Hê-bơ-rơ được viết để nói với tất cả tín đồ Do-thái rằng họ phải buông bỏ những hình ảnh, tức cả hệ thống Do-thái Giáo, và nhìn xem Đấng Christ. Hãy nhìn xem Sứ Giả và Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm là Jesus Christ (Hêb. 3:1). Hãy quên Môi-se đi, quên các thiên sứ đi, và quên Giô-suê đi. Chỉ hãy quan tâm đến Jesus Christ, Sứ Giả của chúng ta. Hãy quan tâm đến Jesus Christ, Thầy Tế lễ Thượng Phẩm của chúng ta. Hãy nhìn xem Ngài. Không chỉ nhìn xem Ngài mà còn phải xoay khỏi mọi điều để chỉ ngắm nhìn Ngài (Hêb. 12:2). Hãy xoay khỏi mọi điều của Do-thái Giáo. Hãy xoay khỏi Kinh Thánh để hướng về chính Jesus.

Chúng ta vẫn còn một Sách khác, 1Cô-rin-tô. Trong Sách này, Phao-lô cảnh báo rằng ngay cả những ân tứ thuộc linh –nói tiếng lạ, thông giải, chữa lành, làm việc quyền năng– đều có thể là những màn che đối với Cơ-đốc nhân. Anh em có thấy sự xảo quyệt của kẻ thù không?

Kinh Luật, triết học, Do-thái Giáo với những điều và những sự dạy dỗ dựa vào Kinh Thánh, các ân tứ thuộc linh, tất cả những điều này là tốt, nhưng đã trở thành những màn che trên mặt của nhiều Cơ-đốc nhân thật. Tất cả chúng ta cần thưa với Chúa: “Chúa Jesus ơi, con yêu Ngài. Con yêu Kinh Thánh vì Kinh Thánh bày tỏ Ngài, nhưng con sẽ không bao giờ để cho Kinh Thánh trở thành một màn che. Con yêu Ngài, Chúa Jesus ơi. Chính con đây yêu Ngài, con yêu Ngài cách trực tiếp, con yêu Ngài cách mật thiết nhất. Con yêu Ngài bằng cách hôn Ngài. Con không muốn thấy Ngài cách xa xa. Con muốn thấy Ngài mặt đối mặt. Chúa ơi, thậm chí con muốn hôn Ngài”. Tôi tin rằng nhiều người trong anh em đã bước vào kinh nghiệm này rồi, nhưng tất cả chúng ta cần cứ ở trong kinh nghiệm này. Chúng ta cần nói với Chúa: “Chúa Jesus ơi, con thích các ân tứ vì những ân tứ này giúp con chạm được Ngài, nhưng nếu những ân tứ đó trở thành màn che, con sẽ ném chúng đi. Con chỉ yêu Ngài, Chúa ơi. Con yêu Ngài cách riêng tư, trực tiếp, thân thiết. Con yêu Ngài theo cách mà con có thể hôn Ngài bất kỳ lúc nào. Không có khoảng cách giữa Ngài với con, không khoảng cách, không cách ngăn và không cách ly. Con đang ở trong hiện diện Ngài cách trực tiếp, cách mật thiết”. Nếu giống như vậy, anh em sẽ đang ở trên núi biến hóa. Anh em sẽ được biến hóa và sẽ chói sáng.

Nhiều người trong chúng ta có thể làm chứng về người thân của mình. Khi họ ra khỏi phòng sau thì giờ ở trong hiện diện Chúa, mặt họ chiếu sáng, khiến chúng ta nhận thức rằng họ đã ở với Chúa. Sự chiếu sáng này chinh phục mọi tạo vật nổi loạn, chinh phục chồng, vợ, con cái và mọi loại hoàn cảnh. Đây là Vương Quốc. Đây là sự cai trị. Sự cai trị đến từ sự chiếu sáng. Jesus đã hiện ra trong Vương Quốc Ngài khi Ngài biến hóa. Ngài đang chiếu sáng như mặt trời. Ngài có hình ảnh và có quyền cai trị.

 

 

BÀI CHÍN

S Phục Hồi Và Sáng Tạo Thêm 
Của Đức Chúa Trời

 (6)

S Hoàn Thành Chung Cuộc

Chúng ta tiếp tục với chủ đề Sự Hoàn Thành Chung Cuộc. Như đã thấy trong bài trước, điều đầu tiên trong sự hoàn thành này là Đức Chúa Trời được biểu lộ và đại diện. Đó là đỉnh điểm. Dựa vào điểm này, chúng ta sẽ xem xét nhiều điểm khác.

2)  Đức Chúa Trời Ban Phước 
Cho Con Người Sinh Sản Nhiều

Đức Chúa Trời ban phước cho con người sinh sản, tăng thêm nhiều, đầy dẫy khắp đất, và làm cho đất phục tùng (Sáng. 1:28). Đây không phải là điều nhỏ. Trước khi Đức Chúa Trời có con người để biểu lộ và đại diện Ngài, Ngài không có cách nào để đổ phước hạnh trọn vẹn của Ngài ra. Đức Chúa Trời vốn giàu có, và Ngài thật dư dật trong việc ban phước, nhưng trước khi tạo nên con người, không một đối tượng nào tiếp nhận phước hạnh của Ngài cách đầy đủ. Không cách gì và không có cơ hội nào để Đức Chúa Trời ban phước hạnh của Ngài cho tạo vật Ngài cách đầy đủ. Theo sự ghi chép trong Sáng Thế Ký chương 1, Đức Chúa Trời đã không ban phước cho đến khi những sinh vật xuất hiện (Sáng. 1:22). Dầu vậy, chỉ sự sống con người mới đạt tiêu chuẩn nhận được sự ban phước của Đức Chúa Trời cách đầy đủ. Sau khi tạo nên con người, Đức Chúa Trời có thể thấy trên đất một sinh vật mang hình ảnh Ngài và có quyền cai trị của Ngài. Lập tức, Đức Chúa Trời ban phước dồi dào của Ngài trên con người.

Phước hạnh là một từ liệu tốt. Nhiều người nói về sự ban phước của Đức Chúa Trời. Nhiều khi chúng ta cầu nguyện: “Chúa ơi, xin ban phước cho chúng con”. Tuy nhiên, nếu muốn nhận phước hạnh của Đức Chúa Trời, chúng ta cần thỏa đáp những tiêu chuẩn. Một lần nữa, những tiêu chuẩn này là hình ảnh và quyền cai trị. Nếu có hình ảnh của Đức Chúa Trời với quyền cai trị của Ngài trong gia đình, anh em có thể biết chắc rằng phước hạnh của Đức Chúa Trời sẽ ở đó. Phước hạnh của Đức Chúa Trời luôn đitheo hình ảnh và quyền cai trị của Ngài. Nói cách khác, phước hạnh của Đức Chúa Trời luôn đi theo sự biểu lộ Ngài và đại diện Ngài.

Phước hạnh của Đức Chúa Trời luôn ở với chức tế lễ và vương quyền. Chúng ta thấy điều này với Mên-chi-xê-đéc. Ông là vua Sa-lem và là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao, người đã chúc phước cho Áp-ra-ham (Sáng. 14:17-19). Phước hạnh luôn đến với chức tế lễ và vương quyền. Nếu Hội Thánh tìm kiếm phước hạnh của Đức Chúa Trời, Hội Thánh phải có chức tế lễ và vương quyền. Chức tế lễ và vương quyền có ý nghĩa gì? Đơn giản nghĩa là hình ảnh và quyền cai trị của Đức Chúa Trời. Chức tế lễ là để biểu lộ hình ảnh; vương quyền là để cai trị. Hễ khi nào thi hành chức tế lễ để tiếp xúc, ngắm xem Đức Chúa Trời và để phản chiếu hình ảnh vinh hiển của Ngài, chúng ta sẽ có vương quyền. Phước hạnh của Đức Chúa Trời lập tức theo sau.

Đức Chúa Trời ban phước cho con người để con người có thể sinh sản, thêm nhiều và đầy dẫy trái đất. Phước hạnh này là sinh sản, gia tăng, nhân lên và đầy khắp đất.Giả sử A-đam, người tập thể được tạo nên theo hình ảnh của bọ cạp hay rắn, và Đức Chúa Trời ban phước cho bọ cạp và rắn này sinh sôi nảy nở, và đầy dẫy khắp đất. Trái đất sẽ đầy dẫy bọ cạp và rắn. Trái đất sẽ kinh khủng dường nào! Nếu vậy, thà tôi đừng bao giờ được sanh ra thì hơn. Giả sử anh em có 200 con bọ cạp trong phòng ngủ và 200 con rắn trong phòng khách. Đó không phải là phước hạnh mà là sự rủa sả. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã tạo nên con người theo hình ảnh Ngài, ban cho con người uy quyền để cai trị cho Đấng Toàn Năng trên đất. Con người đã được chuẩn bị cho phước hạnh của Đức Chúa Trời. Phước hạnh của Đức Chúa Trời là làm cho con người có thể sinh sản. Một sẽ thành mười, mười sẽ thành trăm, trăm thành ngàn, ngàn sẽ thành ức, ức sẽ thành triệu và triệu sẽ thành tỉ,… cho đến khi cả trái đất đầy dẫy những gương mặt xinh đẹp biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Ngài.

Mặc dầu loài người đã sa ngã, nhưng điều gì đó kỳ diệu vẫn cứ còn mãi. Điều kỳ diệu đó là hình ảnh của Đức Chúa Trời. Nhiều người có thể yêu chó, nhưng tình yêu họ dành cho chó thì khác xa tình yêu dành cho con người. Cho dù con chó có tốt đến đâu cũng không thể đáng yêu như một người. Mỗi một người thật đáng yêu vì mỗi người đều mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Dù loài người sa ngã đến đâu, trái đất này vẫn đầy dẫy những con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời.

Trong nếp sống Hội Thánh ngày nay, chúng ta là con người đích thực, mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và thi hành quyền cai trị của Ngài. Trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta sẵn sàng để Đức Chúa Trời đến và ban phước cho. Đức Chúa Trời có thể ban phước cho chúng ta nhiều bao nhiêu tùy thuộc vào việc chúng ta biểu lộ và đại diện Ngài bao nhiêu. Nếu biểu lộ và đại diện Ngài cách trọn vẹn, chắc chắn chúng ta sẽ hưởng được phước hạnh trọn vẹn của Ngài trong sự nhân rộng và kết quả.

Về điểm này, tôi muốn nói đôi lời về sự rao giảng Phúc Âm. Mọi điều trong lĩnh vực Cơ-đốc, kể cả việc rao giảng Phúc Âm, đã bị hư hoại bởi sự thực hành nghèo nàn của nhiều thế kỷ trước đây. Sự rao giảng Phúc Âm thực sự không chỉ là công tác bên ngoài. Việc rao giảng Phúc Âm thực sự là kết quả từ sự tuôn tràn sự sống bề trong.Trong Sách Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca, Chúa Jesus truyền phải đi ra, rao giảng Phúc Âm và môn đồ hóa muôn dân, nhưng trong Sách Giăng, Ngài phán rằng chúng ta phải kết quả. Rao giảng là một điều; kết quả là một điều khác. Rao giảng Phúc Âm đúng đắn không phải là thuyết phục người ta theo cách giáo lý, bắt phục suy nghĩ của họ và thay đổi quan niệm của họ. Rao giảng Phúc Âm đúng đắn là cung ứng sự sống cho người khác. Việc kết trái là tuôn tràn những sự phong phú của sự sống bề trong. Hãy nhìn một nhánh cây đầy nhựa sống. Nhánh cây đó có sự tuôn tràn sự sống và sự tuôn tràn này sinh ra trái. Trái là điều lưu xuất từ sự phong phú của sự sống bên trong. Chúng ta phải nhận thức rằng rao giảng Phúc Âm nên là việc sanh bông trái, và việc sanh bông trái đó đến từ sự ban phước của Đức Chúa Trời. Mặc dầu chúng ta cần cầu nguyện cho sự rao giảng Phúc Âm, nhưng đó không chỉ là vấn đề nỗ lực của chúng ta. Chúng ta phải có sự ban phước của Đức Chúa Trời. Nếu Hội Thánh muốn gia tăng, chắc chắn là Phúc Âm phải được rao giảng. Tuy nhiên, nếu sự rao giảng Phúc Âm không ở dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ không gặt được gì dầu nỗ lực bao nhiêu.Những trái có được sẽ không có mặt người, mà là mặt bọ cạp. Anh em có thể dẫn nhiều người đến, nhưng khi Đức Chúa Trời thấy họ, Ngài sẽ phán: “Đây là bọ cạp, kia là rắn, còn kia là ếch. Đúng là con đã đem về nhiều người, nhưng không bao nhiêu người có gương mặt đúng đắn biểu lộ Đức Chúa Trời”. Anh em đang dẫn về loại người nào? Những người có mặt bọ cạp hay những người có gương mặt xinh đẹp biểu lộ chính Đức Chúa Trời? Trái anh em sanh ra là sự biểu lộ của những gì anh em là. Nếu là cây táo, anh em sẽ không bao giờ sanh ra trái cam. Nếu là cây đào, anh em sẽ không bao giờ sanh ra trái chuối. Nếu muốn sanh ra trái chuối, anh em phải là cây chuối. Nếu là Cây Tri Thức, đừng mong sẽ sanh ra trái sự sống. Chỉ có Cây Sự Sống mới có thể sanh ra trái sự sống. Tất cả chúng ta phải nỗ lực rao giảng Phúc Âm, nhưng hãy suy xét chúng ta là gì. Nếu mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và nếu có sự cai trị của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ đem người khác vào trong hình ảnh của Đức Chúa Trời và sự cai trị của Ngài. Tất cả các Hội Thánh địa phương cần phải gia tăng, nhưng đừng bao giờ dùng mánh lới là điều có thể tạo ra “Mô-áp” thay vì ra trái đúng đắn.

Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham về một dòng dõi. Đức Chúa Trời đang thử thách Áp-ra-ham cho đến khi năng lực thiên nhiên của ông bị kết liễu. Sau đó, Ngài ban cho ông một dòng dõi. Khi Áp-ra-ham ở dưới sự thử thách của Đức Chúa Trời, vợ ông đã đến với một lời đề nghị hay (Sáng. 16:1-2). Đề nghị đó được thực hiện. Nhưng nó không sinh ra Y-sác như Đức Chúa Trời muốn, mà là Ích-ma-ên bị Đức Chúa Trời khước từ. Theo mẫu tự của tiếng Anh, cả Y-sác (Isaac) lẫn Ích-ma-ên (Ishmael) đều bắt đầu bằng “Is”. Chúng rất giống nhau. Tất cả các Hội Thánh cần có sự gia tăng, nhưng đừng bắt chước Sa-ra. Đừng sinh ra những Ích-ma-ên.

Một trường hợp khác là hai con gái của Lót (Sáng. 19:30-38). Anh em có nhớ họ đã bàn bạc như thế nào để có con không? Họ nói “Có khả năng là cha chúng ta không thể có hậu tự. Chúng ta hãy làm điều gì đó để giúp cha có con nối dõi”. Họ đã làm điều gì đó và thành công. Họ đã sanh ra Mô-áp và Am-môn. Nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay sanh ra những Ích-ma-ên, những Mô-áp hay những Am-môn. Tốt hơn là không nên có bất kỳ đứa con nào giống như vậy.

Chúng ta phải là những người mang hình ảnh và thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời. Khi đó, chúng ta sẽ ở dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời để sinh sản và thêm nhiều. Những gương mặt người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời sẽ đầy dẫy đất.Đây là một trong những điểm về sự hoàn thành chung cuộc. Đừng nghĩ rằng rao giảng Phúc Âm là một điều thấp thỏi. Điều đó phải cao. Việc rao giảng Phúc Âm của chúng ta phải là đỉnh cao, để không sinh ra những Ích-ma-ên, Mô-áp hay Am-môn, nhưng là những Y-sác.

Chúng ta, Cơ-đốc nhân, luôn có những giấc mơ hão huyền. Chúng ta trích dẫn sự ghi chép trong Công Vụ, tại đó nói rằng 3000 người được cứu vào ngày Lễ Ngũ Tuần và 5000 người được cứu vào một ngày khác. Mặc dầu có sự ghi chép như thế, nhưng số người tin không thể gia tăng quá nhanh. Phải mất hai mươi năm để sản sinh một thế hệ.Anh em không thể có một thế hệ trong năm năm. Sau năm năm, một người vẫn còn là đứa trẻ. Ngay cả sau mười lăm năm, người đó mới chỉ là một thiếu niên. Nhìn chung, phải mất hai mươi năm để sản sinh một thế hệ con người. Tạo ra hoa giả thì dễ. Trong một đêm, chúng ta có thể làm cho phòng nhóm này đầy hoa, nhưng tất cả đều là giả.Tuy nhiên, để có một vườn cây ăn trái phải mất thời gian. Nếu đến vườn cây ăn trái đó một buổi sáng, anh em trông nó có vẻ giống ngày hôm trước. Điều tương tự sẽ xảy ra vào ngày hôm sau, và mỗi ngày dường như giống ngày hôm trước. Phải mất nhiều năm để những cây đó lớn lên và ra trái. Nhưng Ha-lê-lu-gia! Một khi chúng lớn lên, chúng sẽ sinh sản. Đó là nếp sống Hội Thánh. Tất cả các Hội Thánh cần có sự gia tăng, nhưng chúng ta không muốn gia tăng như nấm là sự gia tăng chỉ qua một đêm. Chúng ta cần sự gia tăng đến từ hình ảnh và sự cai trị dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời.Điều này cần có thời gian.

3)  Con Người Và Mọi Sinh Vật Khác Được Thỏa Mãn

Nói rằng con người được thỏa mãn không phải là điều nhỏ (Sáng. 1:29). Giả sử A-đam đã được tạo nên và ở đó không có gì cho ông ăn. Giả sử Đức Chúa Trời phán với A-đam: “Ta đã dựng nên ngươi, nhưng chưa chuẩn bị thứ chi để ngươi ăn. Hãy chờ một, hai ngày nữa”. Tình trạng không như vậy. Mọi sự đã được chuẩn bị trước khi A-đam hiện hữu. Đức Chúa Trời đã làm nên nhiều thứ cây thật tốt để ăn. Khi A-đam xuất hiện từ đôi tay sáng tạo của Đức Chúa Trời, lập tức ông đã có thứ để ăn. Ông thỏa mãn. Không chỉ A-đam thỏa mãn mà tất cả các sinh vật đều thỏa mãn (Sáng. 1:30). Sau này, chúng ta sẽ thấy sự nghỉ ngơi thật xuất phát từ sự thỏa mãn. Nếu đói, chúng ta có thể nghỉ ngơi không? Hễ còn đói, chúng ta không bao giờ có thể nghỉ ngơi.Sự nghỉ ngơi tùy thuộc vào sự thỏa mãn. Ha-lê-lu-gia! Con người đã ăn và được thỏa mãn.

4) Mọi Sự Là Rất Tốt

Sáng Thế Ký 1:31 nói rằng Đức Chúa Trời nhìn xem mọi vật Ngài đã làm nên và thấy là rất tốt. Trước ngày thứ sáu, Đức Chúa Trời không nói “Rất tốt”, Ngài chỉ nói “Tốt”. Tại sao Đức Chúa Trời phán: “Rất tốt” vào ngày thứ sáu? Vì A-đam đã có hình ảnh Ngài và đã được ban cho quyền cai trị. Không ai lằm bằm và không ai bị đói. Đức Chúa Trời có thể phán: “Rất tốt!”. Đó là đỉnh cao. Sau khi Đức Chúa Trời phán lời này, thì ngày thứ bảy, tức ngày nghỉ, bắt đầu.

5) Đức Chúa Trời Nghỉ Ngơi –Đức Chúa Trời Thỏa Lòng

Đức Chúa Trời nghỉ ngơi vì Ngài đã thỏa lòng (Sáng. 2:1-3). Đây là điều cuối cùng trong sự hoàn thành chung cuộc –Đức Chúa Trời nghỉ ngơi và thỏa lòng.

a) Lý Do Nghỉ Ngơi

Lý do để Đức Chúa Trời nghỉ ngơi là vì sự vinh hiển của Ngài đã được hiển lộ vì con người đã có hình ảnh của Ngài, và uy quyền của Ngài sắp được thực thi. Sa-tan, kẻ thù của Đức Chúa Trời, sắp bị Đức Chúa Trời xử lý. Ngay khi con người biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời và xử lý kẻ thù, Đức Chúa Trời có thể nghỉ ngơi. Đó không chỉ là Đức Chúa Trời đã hoàn tất công tác Ngài mà trong công tác của Ngài, đã có được một người có thể mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và chinh phục kẻ thù của Ngài.Dựa trên hai sự kiện này, Đức Chúa Trời nghỉ ngơi.

b) Hình Ảnh Thu Nhỏ Của Sự Nghỉ Ngơi 
–Sự Nghỉ Ngơi Của Cõi Thọ Tạo

Sự nghỉ ngơi của cõi thọ tạo là sự nghỉ ngơi nhỏ, sự nghỉ ngơi thu nhỏ. Trong sự nghỉ ngơi này, con người có hình ảnh của Đức Chúa Trời, và có thể thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời. Hai yếu tố này có thể tạo nên sự nghỉ ngơi, nhưng chỉ là sự nghỉ trên phạm vi rất nhỏ.

c) Những Hình Bóng Về Sự Nghỉ Ngơi

Bất cứ điều gì được đề cập trong Sáng Thế Ký chương 1 và 2 đều là hạt giống.Chúng ta đã thấy trong các bài trước rằng sự sáng, hình ảnh, sự cai trị, đều là những hạt giống. Sự nghỉ ngơi cũng là một hạt giống cần cả Kinh Thánh để lớn lên và phát triển. Hạt giống về sự nghỉ ngơi được gieo trong Sáng Thế Ký và mùa gặt của hạt giống này là trong Sách Khải Thị. Trong Sách Khải Thị, chúng ta có sự hoàn thành của sự nghỉ ngơi.

Kinh Thánh có một số hình bóng về sự nghỉ ngơi. Ngày sa-bát của Cựu Ước là một hình bóng về sự nghỉ ngơi (Xuất. 20:8-11). Con người là một chứng cớ, sự biểu lộ của Đức Chúa Trời. Con người cũng thuận phục uy quyền của Đức Chúa Trời. Uy quyền của Đức Chúa Trời được thi hành trên những người giữ ngày sa-bát. Vì thế, đó là hình bóng của sự nghỉ ngơi.

Chúa Nhật trong Tân Ước cũng là hình bóng về sự nghỉ ngơi (Khải. 1:10; Công. 20:7; 1Cô. 16:2). Chúa Nhật là hình bóng về sự nghỉ ngơi sắp đến. Hội Thánh với các thánh đồ giải phóng sự sống của Chúa, biểu lộ chính Đức Chúa Trời. Đây là sự nghỉ ngơi mà chúng ta có hôm nay. Ngay khi Đức Chúa Trời được biểu lộ, có sự nghỉ ngơi.Hội Thánh với các thánh đồ thi hành uy quyền của Chúa để xử lý kẻ thù. Nếu giải phóng sự sống của Chúa và thi hành uy quyền của Ngài, chúng ta có sự nghỉ ngơi ngay cả trong lúc này. Trái lại, nếu cãi lẫy và tranh đấu, sẽ không có sự nghỉ ngơi vì chúng ta không đang giải phóng sự sống của Chúa. Nếu không thi hành uy quyền trên kẻ thù, sẽ không có sự nghỉ ngơi.

d) Tiền Vị Của Sự Nghỉ Ngơi

Sự nghỉ ngơi mà chúng ta kinh nghiệm hiện nay là tiền vị vì sự nghỉ ngơi trọn vẹn chưa đến.

(1) Với Các Thánh Đồ

Với các thánh đồ, sự sống của Đức Chúa Trời tuôn chảy và chính Đức Chúa Trời được tỏ ra. Ngay khi sự sống của Đức Chúa Trời tuôn chảy và chính Đức Chúa Trời được tỏ ta, có sự nghỉ ngơi. Đây là tiền vị của sự nghỉ ngơi sắp đến. Anh em có thể kinh nghiệm sự nghỉ ngơi này ngay cả khi đang làm việc. Khi để cho sự sống của Đức Chúa Trời tuôn chảy và để cho Đức Chúa Trời được biểu lộ, anh em có cảm nhận về sự nghỉ ngơi. Tuy nhiên, nếu sự tuôn chảy sự sống của Đức Chúa Trời bị cắt đứt, lập tức anh em sẽ bối rối bên trong. Anh em không có sự nghỉ ngơi. Càng tranh cãi với vợ, anh em sẽ càng đau dạ dày; thậm chí có thể bị loét, điều này cho thấy rằng anh em không có sự sống và sự nghỉ ngơi. Trái lại, nếu giải phóng sự sống của Chúa bất cứ khi nào vợ anh em gây rắc rối, anh em sẽ nếm được tiền vị của sự nghỉ ngơi.

Với các thánh đồ, uy quyền của Đức Chúa Trời được thực thi và kẻ thù của Ngài bị xử lý. Khi vợ làm anh em không vừa lòng, đừng dùng quyền làm đầu của mình. Đừng nói với cô ấy: “Cô không biết rằng tôi là đầu sao?” Nếu làm vậy, anh em sẽ mất vẻ mặt của người và biểu lộ vẻ mặt của rắn. Anh em sẽ trở thành bọ cạp. Khi vợ gây cho anh em khó chịu, hãy đến với Chúa như một thầy tế lễ. Hãy để sự sống tuôn chảy và được giải phóng. Uy quyền và sự cai trị sẽ ở đó, kẻ thù sẽ bị khuất phục, và cả anh em lẫn vợ sẽ được nghỉ ngơi. Tất cả chúng ta phải kinh nghiệm điều này.

(2) Với Hội Thánh Là Thân Thể

Với Hội Thánh là Thân Thể, Đức Chúa Trời được biểu lộ và Sa-tan bị xử lý (Êph. 1:23; 3:19b; 6:11-13). Bất cứ khi nào và ở đâu Đức Chúa Trời được biểu lộ và kẻ thù của Ngài bị xử lý, thì ở đó có tiền vị của sự nghỉ ngơi. Điều này cũng đúng trong đời sống gia đình, đời sống hôn nhân, và đời sống cá nhân. Nếu mua một món hàng mà không giúp anh em biểu lộ Đức Chúa Trời và xử lý Sa-tan, anh em sẽ mất tiền vị của sự nghỉ ngơi. Nếu biểu lộ Đức Chúa Trời và xử lý kẻ thù trong bất kỳ điều gì anh em làm và bất cứ nơi nào anh em đi, thì sẽ nếm tiền vị ngọt ngào của sự nghỉ ngơi sắp đến.

Trong nếp sống Hội Thánh, đừng tranh cãi, và đừng lằm bằm. Một đêm nọ, tôi nhận một cuộc điện thoại nói rằng Hội Thánh nọ ở trong tình trạng tệ hại. Hai người đang nói trên điện thoại, một người xác nhận điều người kia nói về tình trạng tồi tệ và đang mắc bệnh của Hội Thánh đó. Họ chấm dứt cuộc nói và muốn nghe tôi nói. Lập tức tôi nói “Đừng nói cách như vậy. Từ bây giờ, hãy quên câu chuyện của anh em đi. Nếu nói Hội Thánh đó tệ hại, chắc chắn Hội Thánh sẽ tệ hại vì anh em tệ hại. Nếu nói Hội Thánh đó là kỳ diệu, chắc chắn Hội Thánh sẽ kỳ diệu vì anh em là kỳ diệu. Vậy Hội Thánh là gì?Hội Thánh là anh em. Khi anh em nói Hội Thánh không tốt, anh em đang tự định tội mình”. Tôi nói thêm với những anh em đó rằng họ phải cảnh giác đối với sự xảo quyệt của kẻ thù. Họ đáp: “Chúng tôi sẽ làm gì? Chúng tôi sẽ đến với ai?” Tôi nói “Đừng đến với bất cứ ai. Đừng nói gì! Chỉ hãy đến các buổi nhóm Hội Thánh và ngợi khen Chúa”.Họ hỏi: “Chúng tôi không cần cầu nguyện sao?” Tôi đáp: “Vâng, anh em nên cầu nguyện, nhưng đừng cầu nguyện tiêu cực. Hãy cầu nguyện cách tích cực. Hội Thánh không có nan đề. Hội Thánh thật vinh diệu. Hội Thánh không cần anh em cầu nguyện như vầy: ‘Ôi Chúa, có một nan đề.’ Anh em là nan đề. Càng cầu nguyện về nan đề đó, anh em càng trở thành nan đề. Đừng tạo nan đề thì sẽ không có nan đề nào. Hãy đến với buổi nhóm Hội Thánh, ngợi khen Chúa và cầu nguyện tích cực”.

Tất cả chúng ta phải thấy bản chất các mưu chước của kẻ thù. Từ nay trở đi, đừng nói về tình trạng của Hội Thánh. Hãy đến với buổi nhóm Hội Thánh và ngợi khen Chúa.Hội Thánh là Hội Thánh. Vì thế, chúng ta có sự nghỉ ngơi. Hễ khi nào nói về tình trạng của Hội Thánh, anh em sẽ mất sự nghỉ ngơi. Anh em sẽ không bao giờ nếm tiền vị của sự nghỉ ngơi. Nếu đến buổi nhóm Hội Thánh và ngợi khen Chúa, lập tức anh em sẽ ở trong tiền vị của sự nghỉ ngơi.

e) Hoàn Thành Sự Nghỉ Ngơi –Sự Nghỉ Ngơi Một Ngàn Năm

Hoàn thành sự nghỉ ngơi là sự nghỉ ngơi ngàn năm, Vương Quốc ngàn năm. Theo Sách Hê-bơ-rơ, có một sự nghỉ ngơi được hứa cho dân Đức Chúa Trời và tất cả chúng ta phải lao khổ để bước vào sự nghỉ ngơi đó (Hêb. 4:1,3,9,11). Nếu không nỗ lực bước vào sự nghỉ ngơi đó, chúng ta sẽ bỏ lỡ. Cách bước vào sự nghỉ ngơi đó là kinh nghiệm tiền vị của nó hôm nay. Nếu nếm tiền vị này, chắc chắn chúng ta sẽ bước vào sự nếm biết đầy đủ. Nếu không nếm tiền vị sự nghỉ ngơi đó hôm nay, chúng ta sẽ bỏ lỡ sự nếm biết đầy đủ sắp đến. Trong sự nghỉ ngơi của thời kỳ ngàn năm, các thánh đồ sẽ giống Đấng Christ hoàn toàn, biểu lộ vinh hiển Đức Chúa Trời (1Gi. 3:2; Côl. 3:4; 1Tês. 2:12).Các thánh đồ sẽ đồng trị với Đấng Christ (Khải. 20:6).

f) Tổng Kết Của Sự Nghỉ Ngơi

Tổng kết của sự nghỉ ngơi là sự nghỉ ngơi trong trời mới đất mới. Tất cả những người được chuộc là một Thân Thể sẽ biểu lộ vinh hiển của Đức Chúa Trời cho đến đời đời (Khải. 21:11,23). Cũng vậy, tất cả những người được chuộc là một Thân Thể sẽcai trị cho Đức Chúa Trời đến đời đời (Khải. 22:5b). Đó sẽ là tổng kết sự nghỉ ngơi. Sự nghỉ ngơi trong Sáng Thế Ký chương 2 chỉ là hình bóng; sự tổng kết sẽ ở trong Giê-ru-sa-lem Mới. Mọi người sẽ thỏa lòng. Mọi người sẽ có sự nghỉ ngơi vì chính Đức Chúa Trời sẽ được thỏa lòng và chính Ngài sẽ tìm được sự nghỉ ngơi của Ngài tại đó. Nếp sống Hội Thánh ngày nay là bức tranh thu nhỏ của Giê-ru-sa-lem Mới. Nếp sống Hội Thánh là tiền vị của sự nếm biết trọn vẹn này. Sự nghỉ ngơi chung cuộc chủ yếu bao gồm hai điều: sự biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời và việc thi hành uy quyền của Ngài.

g) Con Người Cũng Được Nghỉ Ngơi Với Đức Chúa Trời

Nếu đọc cẩn thận Sáng Thế Ký chương 1, anh em thấy rằng sau khi Đức Chúa Trời tạo nên con người, Ngài không bảo con người làm điều gì. Đức Chúa Trời chỉ nói về việc ăn của con người (Sáng. 1:29).

(1) Ngày Thứ Bảy Của Đức Chúa Trời Là Ngày Thứ Nhứt Của Con Người

Theo lịch của Kinh Thánh, ngày không bắt đầu vào buổi sáng mà vào buổi chiều. Tôi tin rằng con người được làm nên vào cuối ngày thứ sáu. Khi con người xuất hiện từ đôitay sáng tạo của Đức Chúa Trời, lập tức con người bước vào ngày thứ bảy. Với Đức Chúa Trời, ngày thứ bảy là ngày nghỉ (Sáng. 2:2-3). Ngày thứ bảy của Đức Chúa Trời là ngày thứ nhứt của con người. Điều này nghĩa là Đức Chúa Trời đã sắm sẵn mọi sự cho con người vui hưởng. Sau khi được tạo nên, con người không tham dự vào công việc của Đức Chúa Trời mà bước vào sự nghỉ ngơi của Ngài. Ha-lê-lu-gia! Đừng nghĩ rằng anh em phải làm điều gì đó. Đức Chúa Trời không cần anh em làm bất kỳ điều gì.Đức Chúa Trời có nhiều của báu và Ngài muốn anh em đến vui hưởng. Đừng làm việc! Nếu cố gắng làm việc, Đức Chúa Trời sẽ phán: “Hỡi đứa con khờ dại kia, Ta không có công việc để con làm đâu, nhưng Ta có rất nhiều sự phong phú lớn cho con vui hưởng. Hãy đến, hãy  cùng Ta nghỉ ngơi. Ngày sa-bát của Ta là ngày đầu tiên của con. Ta đã làm việc trong sáu ngày. Bây giờ hãy đến, hãy cùng Ta  nghỉ ngơi như là ngày đầu tiên của con. Chúng Ta hãy cùng đi nghỉ”. Và con người đã vâng theo.

Tôi đã dành nhiều thì giờ tìm xem con người đã làm gì sau khi được tạo nên. Tôi khám phá rằng con người đã không làm gì ngoài ăn và nghỉ ngơi. Điều này không kỳ diệu sao? Sau khi được cứu, nhiều người nghĩ rằng họ phải làm điều gì đó. Hãy quên việc làm đó đi. Hãy đến ăn Jesus. Hãy đến để được thỏa mãn. Hãy đến để cùng Đức Chúa Trời nghỉ ngơi. Đức Chúa Trời sẽ phán: “Hỡi con bé mọn của Ta, hãy quên việc làm của con đi. Hãy quên công việc đi. Ta đã làm mọi sự rồi. Bây giờ là lúc Ta nghỉ ngơi. Hãy đến để cùng ở trong sự nghỉ ngơi của Ta”.

Năm 1936, khi đang làm việc tại miền Bắc Trung Hoa, tôi rất nặng lòng về công việc Chúa. Công việc gian khổ, đầy thử thách, và hoàn cảnh thì khó khăn. Tôi đạp xe ra ngoại ô, quăng xe xuống đất, rồi nằm dài và khóc: “Chúa ơi, xin giúp con!”. Tôi lo buồn và bị thử thách. Một ngày nọ, trước khi giảng, có một lời đến với tôi rằng: “Con không biết ngày thứ nhứt của con người là ngày thứ bảy của Đức Chúa Trời sao? Ngày thứ bảy của Đức Chúa Trời là ngày thứ nhứt của con người. Tại sao con làm việc cực nhọc như thế? Này, đứa con khờ dại của Ta, hãy bỏ điều đó đi. Ném xa công việc của con đi. Hãy đến với Ta và cùng Ta nghỉ ngơi”. Vào sáng Chúa Nhật đó, tôi đã rao giảng về “Ngày Thứ Bảy Của Đức Chúa Trời Là Ngày Thứ Nhứt Của Con Người”. Tôi nói với mọi người rằng: “Ha-lê-lu-gia! Hôm nay là ngày thứ nhứt của tôi. Trong nhiều tháng qua, tôi đã liên tục làm việc cực nhọc nhưng bây giờ tôi đã ném xa công việc của tôi rồi. Tôi sẽ không làm việc nữa. Hôm nay tôi bắt đầu nghỉ ngơi với Đức Chúa Trời.Ngày thứ bảy của Ngài là ngày thứ nhứt của tôi”. Anh em có thể hỏi: “Vậy sau ngày thứ bảy là ngày gì?” Đó là ngày thứ nhứt trong tuần, Chúa Nhật, một sự nghỉ ngơi mới và một ngày sa-bát mới. Ngợi khen Chúa!

(2) Ngày Sa-bát Được Lập Nên Vì Con Người

Những người Pha-ri-si buộc mọi người phải vì ngày sa-bát. Chúa đã lên án họ, nói rằng họ hoàn toàn sai. Ngài phán rằng ngày sa-bát được lập nên là vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát (Mác 2:27). Ha-lê-lu-gia! Phần định của con người không phải là làm việc –mà là ngày sa-bát.

(3) Con Người Nghỉ Ngơi Vì Đức Chúa Trời Nghỉ Ngơi

Hễ khi nào Đức Chúa Trời thỏa mãn, anh em thỏa mãn. Hễ khi nào anh em thỏa mãn, đó là bằng chứng rằng Đức Chúa Trời đang nghỉ ngơi. Ngài thỏa mãn.

(4) Con Người Nghỉ Ngơi

Khi Công Việc Của Đức Chúa Trời Trên Con Người Đạt Mục Tiêu Của Ngài

Đừng làm việc. Chỉ hãy quan tâm một điều: để cho Đức Chúa Trời đạt mục tiêu của Ngài. Mục tiêu của Đức Chúa Trời là gì? Mục tiêu của Đức Chúa Trời là hình ảnh của Ngài được biểu lộ và quyền cai trị của Ngài được thực thi. Ngay khi anh em để hình ảnh Ngài được biểu lộ và quyền cai trị của Ngài được thực thi nhằm xử lý kẻ thù, thì Đức Chúa Trời đạt mục tiêu của Ngài. Đức Chúa Trời sẽ phán: “Ta thỏa lòng”. Và anh em sẽ nói “Đức Chúa Trời ơi, con cũng thỏa lòng”. Cho nên, anh em cùng nghỉ ngơi với Đức Chúa Trời.

Tất cả những sự nghỉ ngơi được nói ở trên là do Đức Chúa Trời đã đạt được mục tiêu của Ngài, và con người cùng vui hưởng sự nghỉ ngơi với Đức Chúa Trời. Ngợi khen Chúa! Điều này thật kỳ diệu.

Tôi rất vui mừng vì Chúa ban cho chúng tôi cơ hội rao giảng chín bài về Sáng Thế Ký. Từ các bài giảng này, chúng ta có thể thấy rằng mọi điều được chép trong sự ghi chép thần thượng này hoàn toàn tập trung vào sự sống. Sáng Thế Ký chương 1 và 2 chỉ là dàn bài. Tiểu sử của tám người –A-đam, A-bên, Hê-nóc, Nô-ê, Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và Giô-sép– trình bày một bức tranh đầy đủ. Cuối cùng, chúng ta sẽ thấy Gia-cốp và Giô-sép gắn liền với nhau. Hai người này thực ra chỉ là một: Gia-cốp trở nên Ítx-ra-ên, hoàng tử của Đức Chúa Trời, mang hình ảnh của Đức Chúa Trời; Giô-sép trở thành người cai trị mọi sự, thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời. Vào cuối Sáng Thế Ký, chúng ta thấy một người kép –một phương diện là Gia-cốp: biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời, và một phương diện khác là Giô-sép: thi hành quyền cai trị của Đức Chúa Trời. Hình ảnh của Đức Chúa Trời được biểu lộ, uy quyền của Đức Chúa Trời được thực thi, và có sự nghỉ ngơi. Ha-lê-lu-gia!

Cả Kinh Thánh, với tất cả các câu chuyện, lịch sử, tiểu sử và các sự dạy dỗ, đều chú trọng vào sự sống. Sự sống này sẽ sản sinh sự biểu lộ Đức Chúa Trời và sự đại diện cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời được hiển lộ, còn kẻ thù của Ngài bị xử lý.Ha-lê-lu-gia! Khi đó, sẽ có sự nghỉ ngơi chung cuộc trong vũ trụ này. Cảm tạ Đức Chúa Trời về Cựu Ước và Tân Ước. Không có Tân Ước, chúng ta thật khó hiểu các ẩn dụ, hình bóng, hình ảnh của Cựu Ước. Tuy nhiên, không có Cựu Ước, chúng ta chỉ có những lời suông của Tân Ước. Chúng ta sẽ thiếu những hình ảnh. Ngợi khen Chúa vì chúng ta có cả hai chúc thư. Chúng ta có những hình ảnh và có những lời rõ ràng để có thể biết mình đang ở đâu –ở trong hình ảnh của Đức Chúa Trời và trong sự cai trị của Ngài. Chúng ta sẽ ở trong sự nghỉ ngơi của Đức Chúa Trời. Chúng ta cần nhớ năm từ chính yếu đã đề cập trước –hình ảnh, cai trị, phước hạnh, thỏa lòng và nghỉ ngơi. Khi nào mang hình ảnh của Đức Chúa Trời để biểu lộ Ngài, chúng ta sẽ có quyền cai trị để đại diện Ngài. Khi đó phước hạnh trọn vẹn sẽ giáng trên chúng ta và chúng ta sẽ thỏa lòng. Cuối cùng, Đức Chúa Trời và chúng ta đều sẽ nghỉ ngơi trong sự vui thỏa trọn vẹn dưới sự ban phước của Ngài, với hình ảnh và sự cai trị của Ngài.

 

BÀI MƯỜI

Các Thủ Tục Của Đức Chúa Trời 
Để Hoàn Thành Mục Đích Ngài
(1)

Trong các bài trước, chúng ta đã đề cập đến điểm chính yếu đầu tiên của Sáng Thế Ký –khát vọng và mục đích Đức Chúa Trời. Điều này được bày tỏ trong Sáng Thế Ký 1:1–2:3. Khát vọng và mục đích của Đức Chúa Trời là có được một người tập thể để biểu lộ Ngài theo hình ảnh Ngài, và đại diện Ngài với uy quyền của Ngài. Bây giờ, chúng ta cần hỏi một câu: Làm thế nào con người có thể biểu lộ Đức Chúa Trời theo hình ảnh Ngài và đại diện Ngài với uy quyền của Ngài? Điều này dẫn chúng ta đến điểm chính yếu thứ hai của Sách này.

B. Các Thủ Tục Của Đức Chúa Trời 
Để Hoàn Thành Mục Đích Ngài –2:4-7

Sáng Thế Ký chương 2 bày tỏ phương cách Đức Chúa Trời sử dụng để hoàn thành mục đích Ngài. Đây là lý do vì sao chúng ta có phần ký thuật thứ hai về sự sáng tạo trong Sáng Thế Ký chương 2. Khi còn là một Cơ-đốc nhân trẻ, tôi bị bối rối bởi hai phần ký thuật này về sự tạo nên con người. Sáng Thế Ký chương 1 cho chúng ta sự ghi chép về sự sáng tạo. Tại sao chúng ta cần một sự ghi chép nữa trong Sáng Thế Ký chương 2? Mãi cho đến những ngày gần đây trong chức vụ, Đức Chúa Trời mới cho tôi thấy câu trả lời. Mặc dầu phần ký thuật về sự sáng tạo trong Sáng Thế Ký chương 1 đã bày tỏ mục đích của Đức Chúa Trời trong việc tạo nên con người, nhưng không cho thấy cách thực hiện mục đích này. Vì thế, chúng ta cần phần ký thuật thứ hai để bày tỏ phương cách, thủ tục mà Đức Chúa Trời thực hiện để hoàn thành mục đích của Ngài. Sau khi thấy mục đích trong chương 1, chúng ta phải đến chỗ nhìn thấy thủ tục trong chương 2. Thủ tục này được bày tỏ đầy đủ trong Sáng Thế Ký chương 2, bắt đầu với câu 5 và tiếp tục đến hết chương. Nếu đọc phân đoạn Lời này trong ánh sáng của cả Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy thủ tục này gồm ba bước. Chúng ta chỉ có thể nói đến bước một trong bài này, và hai bước còn lại cho các bài sau. Tuy nhiên, trước khi suy xét bước đầu tiên này, chúng tôi muốn lưu ý rằng phương tiện Đức Chúa Trời hoàn thành mục đích của Ngài là sự sống.

1. Bởi Sự Sống

Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành mục đích Ngài bằng phương tiện là sự sống của chính Ngài. Làm thế nào một người có thể biểu lộ một người khác nếu anh ta không có sự sống của người đó? Một con chó không thể biểu lộ con mèo, vì chó không có sự sống của mèo. Chó có sự sống của chó và sự sống này chỉ thích hợp cho việc biểu lộ một con chó. Nếu nghĩ khác đi, thì chúng ta đang mơ. Làm thế nào chúng ta là con người lại có thể biểu lộ Đức Chúa Trời? Không có cách nào khác ngoài việc phải có sự sống của Đức Chúa Trời. Nếu một con chó muốn biểu lộ mèo, chắc chắn chỉ bằng cách truyền sự sống của mèo vào trong con chó đó. Một khi chó nhận được sự sống của mèo, tự động nó sẽ dễ dàng trở thành sự biểu lộ của một con mèo. Con người được định cho sự biểu lộ Đức Chúa Trời. Chúng ta có khả năng làm điều này không? Chúng ta không thể làm điều này bởi sự sống của mình vì đó chỉ là sự sống con người. Đức Chúa Trời là siêu việt. Sự sống của chúng ta quá thấp không thể biểu lộ Ngài. Nếu muốn biểu lộ Đức Chúa Trời, chúng ta cần có sự sống của Đức Chúa Trời. Nếu có sự sống của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ biểu lộ Ngài cách tự phát và vô thức. Một khi có sự sống của Ngài, chúng ta sẽ biểu lộ hình ảnh Ngài. Sự sống là phương cách để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Đây không phải là sự sống thiên nhiên của chúng ta, mà là sự sống thần thượng, đời đời của Đức Chúa Trời.

Uy quyền cũng có liên quan đến sự sống. Không một cái bàn hay cái ghế nào có uy quyền, vì uy quyền luôn có quan hệ đến một sự sống nào đó. Hãy nhìn chính anh em. Càng có sự sống, anh em càng có uy quyền. Con người có uy quyền trên các loài vật vì chúng ta có sự sống cao hơn. Ngay cả trong phạm vi về mối quan hệ con người, chúng ta cũng thấy đúng là khi một người càng có sự sống, sẽ càng có nhiều uy quyền. Nếu tôi trưởng thành hơn anh em, tôi có uy quyền trên anh em. Nếu một thiếu niên đến với tôi, tôi không cần phải dọa dẫm. Tự nhiên, cậu ấy sẽ đến dưới uy quyền của tôi. Uy quyền này không phải do Tổng Thống Mỹ ban cho mà do tuổi tác của tôi. Nếu anh em 110 tuổi và tôi 70 tuổi, tôi sẽ ở dưới uy quyền của anh em. Tuổi của anh em định uy quyền của anh em. Để đại diện Đức Chúa Trời với uy quyền của Ngài, chúng ta cần sự sống của Ngài.

Nếu muốn đại diện một người nào đó trong xã hội, anh em cần sở hữu sự sống gần như là sự sống của người đó. Giả sử anh em được mời để đại diện Tổng Thống Mỹ. Anh em cần có cùng mức lượng sự sống như ông. Nếu sự sống của anh em hơi thấp, anh em sẽ không thể đại diện ông. Tiêu chuẩn về sự sống của anh em phải tương xứng với sự sống của Tổng Thống.

Đây là nguyên tắc căn bản và lô-gíc mà chúng ta phải quan tâm: chúng ta không bao giờ có thể biểu lộ Đức Chúa Trời hay đại diện Ngài bởi sự sống của mình. Hãy nhìn sự sống anh em. Sự sống của anh em không thể biểu lộ Đức Chúa Trời mà chỉ đủ để bày tỏ chính mình. Ở mức độ nào đó, thậm chí một phụ nữ không đủ điều kiện trong sự sống để đại diện cho chồng, vì sự sống của chị không cao bằng sự sống của chồng. Tôi không biết các chị em có đồng ý về điều này hay không. Dù sao đi nữa, tất cả chúng ta phải thừa nhận rằng sự sống thiên nhiên của chúng ta không làm chúng ta đủ điều kiện để biểu lộ và đại diện Đức Chúa Trời. Không những sự sống sa ngã của chúng ta không tương thích cho điều này, mà ngay cả sự sống thọ tạo có từ ban đầu cũng không đủ điều kiện. Như sẽ thấy trong bài kế tiếp, đây là lý do vì sao, sau khi tạo nên con người, Đức Chúa Trời đã đặt con người trước Cây Sự Sống, hàm ý rằng con người cần sở hữu sự sống cao hơn sự sống mà con người đã có.

Một số người có thể hỏi: “Không phải Đức Chúa Trời đã tạo nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài sao?” Đúng, Đức Chúa Trời đã tạo nên chúng ta theo hình ảnh Ngài. Sau đó, họ có thể hỏi: “Vì đã có hình ảnh của Đức Chúa Trời rồi, thế tại sao chúng ta không thể biểu lộ Ngài?” Chúng ta có thể nói rằng con người được tạo nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời giống như tấm ảnh của một người. Giả sử anh em chụp hình anh John rồi cho người khác xem và nói rằng đây là anh John. Trong một ý nghĩa, anh em đúng, vì đó là anh John. Tuy nhiên, tấm ảnh đó không phải là anh John thật; đó chỉ là anh John trong tấm ảnh. Mặc dầu tấm ảnh đó bày tỏ những đặc điểm, phong cách và con người của anh John, nhưng không có sự sống của anh John. Nó có thể cho thấy điều gì đó về anh John, nhưng không thể biểu lộ anh. Cách duy nhất để tấm ảnh đó biểu lộ anh John là nó phải có sự sống của anh. Con người đã được tạo nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, nhưng con người giống như một tấm ảnh cho thấy điều gì đó của Đức Chúa Trời mà không có sự sống của Ngài. Mặc dầu con người là theo hình ảnh của Đức Chúa Trời nhưng không có sự sống của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời định rằng con người sẽ dự phần trong sự sống được hàm ý bởi Cây Sự Sống. Con người đã không làm điều này. Ngày nay, bởi tin nơi Đấng Christ, chúng ta đã được đem trở lại để dự phần trong sự sống đó. Tất cả chúng ta đều đã nhận được sự sống đời đời. Vì thế, không có cách nào khác để chúng ta biểu lộ Đức Chúa Trời theo hình ảnh Ngài và đại diện Ngài với uy quyền của Ngài ngoài việc dự phần trong sự sống của Ngài. Điều này được xác quyết bởi nhiều câu Kinh Thánh.

a. Sự Sống Đồng Hóa Tín Đồ Theo Hình Ảnh 
Đức Chúa Trời Và Đem Họ Vào Trong Vinh Hiển

Kinh Thánh nói rằng chính sự sống đồng hóa tín đồ theo hình ảnh của Con Đức Chúa Trời (La. 8:2,6,29). Chỉ bởi phương cách sự sống chúng ta mới có thể được đồng hóa theo hình ảnh của Con Đức Chúa Trời. La-mã 8:2 nói về “Linh sự sống,” và câu 6 nói rằng tâm trí đặt vào linh là sự sống. Chính bởi sự sống này của Linh mà chúng ta có thể được đồng hóa theo Con Đức Chúa Trời. Điều này rất sáng tỏ. Cũng vậy, chính Đấng Christ là sự sống đem chúng ta vào trong vinh hiển của Đức Chúa Trời để biểu lộ Ngài. Cô-lô-se 3:4 nói rằng Đấng Christ, sự sống của chúng ta, sẽ đem chúng ta vào trong vinh hiển của Đức Chúa Trời hầu chúng ta có thể biểu lộ Đức Chúa Trời. Điều này khẳng định lời tuyên bố rằng chính bởi sự sống của Đức Chúa Trời mà chúng ta biểu lộ Đức Chúa Trời.

b. Sự Sống Phục Sinh Ban Uy Quyền

Kinh Thánh cũng cho thấy rằng chính sự sống phục sinh trổ hoa đã ban uy quyền cho cây gậy của A-rôn (Dân. 17:8). Mười Hai Cây gậy đại diện cho mười hai chi phái của Ítx-ra-ên đã được đặt trước hiện diện Chúa trong một đêm. Mỗi cây gậy là một cây gỗ khô chết. Trong đêm đó, cây gậy của A-rôn trổ hoa, biểu thị rằng sự sống phục sinh đã ban uy quyền cho cây gậy của ông để cai trị tuyển dân. Vì thế, sự sống ban uy quyền. Nếu muốn trở thành người dẫn dắt trong Hội Thánh, anh em cần nhiều sự sống. Các trưởng lão được chỉ định không những bởi sự chỉ định bên ngoài nhưng bởi uy quyền bên trong bằng sự sống. Tất cả trưởng lão cần trưởng thành trong sự sống, và có đủ phẩm chất để cai trị bởi sự sống cai trị này. Điều này cũng đúng với các chấp sự và những người dẫn dắt trong các nhóm phục vụ. Chỉ sự sống mới có thể ban uy quyền.

Khải Thị 20:4 nói rằng chính sự sống phục sinh đắc thắng đem tín đồ vào sự đồng trị với Đấng Christ trong một ngàn năm. Sự sống phục sinh đem chúng ta vào trong quyền làm vua với Đấng Christ vì sự sống lưu xuất từ ngai Đức Chúa Trời. Ngai Đức Chúa Trời tượng trưng cho uy quyền. Chúng ta thấy bức tranh này trong Khải Thị 22:1, tại đó, nước sự sống từ ngai Đức Chúa Trời chảy ra. Do đó, uy quyền và sự sống có liên quan lẫn nhau. Con sông sự sống có liên quan đến ngai Đức Chúa Trời. Nếu có ngai Đức Chúa Trời là nguồn, chúng ta sẽ ở trong sông nước sự sống. Nếu ở trong sông nước sự sống, chúng ta sẽ được đem đến ngai Đức Chúa Trời, nhận được uy quyền, là điều phát xuất từ ngai Ngài. Sự sống sản sinh uy quyền. Tất cả chúng ta phải thấy rằng việc đại diện cho Đức Chúa Trời đòi hỏi sự sống của Đức Chúa Trời.

2. Bước Thứ Nhất 
–Tạo Nên Con Người Như Một Chiếc Bình 
Để Chứa Đựng Đức Chúa Trời Là Sự Sống

Bước thứ nhất trong thủ tục của Đức Chúa Trời để hoàn thành mục đích: Ngài là tạo nên con người như một chiếc bình để chứa đựng chính Ngài là sự sống. Tôi thích từ “chiếc bình”. Anh em có nhận thức rằng, là người, anh em là một chiếc bình không? Một chiếc bình thì giống như cái chai hay cái tách. Ngày nay, trong khi ở với Chúa, tôi rất vui mừng vì tôi là một chiếc bình. Tôi tự nhủ: “Ồ, ngươi thật giống như một cái chai. Miệng ngươi giống như miệng chai. Mục đích của cái chai là để chứa đựng điều gì đó, không phải chứa chính ngươi. Ngươi là chiếc bình được thiết kế để chứa đựng Đức Chúa Trời”.

Đây không phải là quan niệm của tôi. Đầu tiên điều đó được trình bày trong Sáng Thế Ký và sau đó được Phao-lô nhấn mạnh trong La-mã chương 9, khi ông nói “Ngươi là ai mà dám cãi lại Đức Chúa Trời? Ngươi không biết rằng ngươi là đất sét sao? Thợ gốm có toàn quyền để nắn đất sét này thành những chiếc bình”. La-mã 9:21,23 bày tỏ rằng Đức Chúa Trời tạo nên con người như một chiếc bình. Chúng ta là những chiếc bình để chứa đựng Đức Chúa Trời là sự sống.

Vì thế, sau khi tạo nên con người, Đức Chúa Trời đặt con người trước Cây Sự Sống. Cây Sự Sống thật tốt để làm thức ăn. Trong Giăng chương 6, Chúa Jesus phán chúng ta có thể ăn Ngài được, Ngài là Bánh Sự Sống (Gi. 6:35). Vậy nên, tất cả chúng ta đều có thể ăn Ngài. Hơn nữa, chúng ta chứa bất cứ thứ gì mình ăn vì nó trở thành bản thể chúng ta. Bản thể chúng ta đơn giản là chiếc bình để chứa mọi điều chúng ta ăn. Bất cứ điều gì chúng ta ăn không chỉ được chứa trong chúng ta mà còn được đồng hóa thành chính yếu tố của chúng ta. Thậm chí trở thành chúng ta. Do đó, các chuyên gia dinh dưỡng nói rằng: “Chúng ta là những gì chúng ta ăn”. Chúng ta không chỉ là chiếc bình chứa mà còn là chiếc bình ăn, chiếc bình đồng hóa những gì chúng ta ăn. Đức Chúa Trời khao khát chúng ta ăn Ngài. Nếu nói với Đức Chúa Trời rằng chúng ta muốn ăn Ngài, Ngài sẽ rất vui. Chúng ta là những chiếc bình để ăn và đồng hóa Ngài. Cuối cùng, Đức Chúa Trời sẽ trở thành chúng ta. Ngợi khen Chúa! Chúng ta đã được làm nên những chiếc bình để chứa đựng Đức Chúa Trời là sự sống.

La-mã 9:21,23 nói rằng chúng ta là những chiếc bình cho sự tôn trọng, những chiếc bình của sự thương xót được sắm sẵn cho sự vinh hiển. Đây là phần hưởng của chúng ta. Đừng xem thường tôi. Tôi là một chiếc bình cho sự tôn trọng, không phải cho sự hổ thẹn. Một ngày kia, tôi sẽ đầy dẫy vinh hiển và sẽ ở trong sự vinh hiển để biểu lộ Đức Chúa Trời vinh hiển. Tất cả chúng ta là những chiếc bình của sự thương xót được sắm sẵn cho sự vinh hiển.

a) Bối Cảnh

Trước hết, chúng ta cần thấy bối cảnh về bước thứ nhất của Đức Chúa Trời trong sự hoàn thành mục đích Ngài.

1) Đức Chúa Trời Chưa Khiến Mưa Xuống Đất

Tôi yêu Kinh Thánh. Tôi đã ở với Kinh Thánh đúng 50 năm, và ngày nay, tôi yêu Kinh Thánh hơn bao giờ hết. Khi đến với Sáng Thế Ký 2:4-7, tôi muốn nói đôi lời với những người trẻ. Khi còn là một Cơ-đốc nhân trẻ, tôi bị bối rối bởi Sáng Thế Ký chương 2, nghĩ rằng chương đó không có vẻ gì là Kinh Thánh. Tôi cảm thấy Kinh Thánh nên là kinh điển, nhưng Sáng Thế Ký chương 2 dường như chẳng kinh điển gì đối với tôi. Chẳng hạn, trong Sáng Thế Ký 2:5 nói rằng: “Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời không làm cho mưa rơi xuống đất”. Tôi tự hỏi tại sao điều này được đề cập trong Kinh Thánh. Tôi không nghĩ rằng điều đó rất quan trọng. Sau đó, câu 5 nói tiếp: “Chẳng có một người nào cày cấy đất”. Điều này có ý nghĩa gì? Nghe chẳng có vẻ là lời Kinh Thánh. Trước đó, trong câu 5 nói rằng: “Vả, lúc đó, chưa có một cây nhỏ nào mọc ngoài đồng và cũng chưa có một ngọn cỏ nào mọc ngoài ruộng”. Điều này là gì? Tôi nghĩ điều đó giống như từ vựng của một học sinh lớp bốn. Hơn nữa, trong câu 6, chúng ta được biết rằng “Song có hơi nước dưới đất bay lên tưới khắp cùng mặt đất”. Với tôi, điều đó chẳng có vẻ gì là lời Kinh Thánh. Nhiều anh em có thể nói “La-mã chương 8 thì tốt, có vẻ như cách nói của Kinh Thánh; còn Sáng Thế Ký chương 2 thì tôi không thích. Ở đó không có linh, không có tâm trí và không có sự sống. Chỉ nói về “cỏ, cây và hơi nước”. Tuy nhiên, Sáng Thế Ký 2:5-6 là một phần của Kinh Thánh, và không có những câu này, Kinh Thánh sẽ không hoàn chỉnh. Kinh Thánh cần hai câu này của Sáng Thế Ký chương 2 để được hoàn hảo. Thấy được những gì bày tỏ trong phần lời này rất có ý nghĩa cho chúng ta.

Đừng xem thường bất kỳ một dòng nào trong Kinh Thánh, vì Kinh Thánh là Lời từ miệng Đức Chúa Trời phán ra. Mỗi từ, cụm từ, mệnh đề và câu đều từ miệng Ngài phán ra. Đọc một cụm từ trong Kinh Thánh là vấn đề nghiêm trọng. Anh em có thể chứng minh điều này bằng cách đọc Sáng Thế Ký 2:5-6 nhiều lần với một linh cầu nguyện. Nếu cầu nguyện và đọc những câu này theo cách như vậy, anh em sẽ được nuôi dưỡng. Tuy nhiên, nếu cũng làm như vậy với những dòng chữ trong tờ Los Angeles Times hay Santa Ana Register, anh em sẽ chết. Có sự khác biệt lớn giữa những văn phẩm thế tục với Kinh Thánh. Mỗi một từ trong Kinh Thánh đều là thánh; đó là điều ra từ Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời đã không làm cho trời mưa trên đất. Điều này có nghĩa là Ngài đã không ban Linh của Ngài xuống để hòa lẫn với con người là người đã được làm nên từ bụi đất. Trong Giô-ên 2:23,28-29 chúng ta thấy Linh của Đức Chúa Trời được nói bóng là mưa.

Một số Cơ-đốc nhân chỉ trích chúng ta đã quá hình bóng hóa Kinh Thánh. Tuy nhiên, chúng ta phải nhận thức rằng việc hình bóng hóa Kinh Thánh là đúng vì phần nhiều, đặc biệt là Sáng Thế Ký chương 1 và 2, được viết theo cách nói bóng. Chính Phao-lô đã hình bóng hóa Cựu Ước. Trong 2Cô-rin-tô 4:6, ông nói đến Đức Chúa Trời là Đấng ra lịnh cho sự sáng phải chiếu ra từ sự tối tăm. Chắc chắn điều này chỉ về Sáng Thế Ký chương 1. Sự kiện chính Đức Chúa Trời ra lịnh cho sự sáng phải chiếu ra từ tối tăm bây giờ chiếu sáng trong chúng ta, có nghĩa là công việc của Đức Chúa Trời trong Sáng Thế Ký chương 1 là hình bóng về những gì Ngài đang làm bên trong chúng ta ngày nay. Trong Ga-la-ti chương 4, Phao-lô đã hình bóng hóa Sa-ra, vợ của Áp-ra-ham, và A-ga, nàng hầu của Áp-ra-ham. Phao-lô đã hình bóng hóa hai người nữ này là hai giao ước. Do đó, cách tốt nhất để hiểu Cựu Ước là giải thích nghĩa bóng của Cựu Ước.

Trong bốn Sách Phúc Âm, Chúa Jesus đã hình bóng hóa hầu như mọi điều. Ngài hình bóng hóa mọi kiểu mẫu, hình bóng và nhân vật được thấy trong Cựu Ước. Ngài phán rằng Ngài là Sa-lô-môn, Đa-vít, Ngày Sa-bát, Sự Sáng, Thực Phẩm, Không Khí, Cái Cửa, Người Chăn, và Đồng Cỏ. Ngài là mọi sự. Vì thế, chúng ta cần hình bóng hóa Kinh Thánh. Tôi khích lệ anh em làm điều này.

Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu Sáng Thế Ký 2:5-6, tại đó, chúng ta được bảo rằng Đức Chúa Trời đã không ban mưa trên đất. Điều này nghĩa là Đức Chúa Trời chưa giáng mưa thiên thượng của Ngài, tức Linh của Ngài, trên đất. Khi mưa xuống, mưa ngấm xuống đất, hòa lẫn với đất vì mục đích sản sinh sự sống. Bây giờ, chúng ta có thể thấy điểm này: sự kiện không có mưa trước khi Đức Chúa Trời tạo nên con người có nghĩa là Linh từ trời chưa được hòa lẫn với điều gì đó của bụi đất để sản sinh sự sống.

2) Không Có Người Nào Cày Cấy Đất

“Và không có một người nào để cày cấy đất”. Điều này nghĩa là không có con người làm việc với Đức Chúa Trời trong sự phối hợp với thần tính qua sự lao khổ của con người (so với 1Cô. 3:9). Nhiều Cơ-đốc nhân quá siêu-thuộc-linh. Khi quá “siêu”, họ trở nên cạn cợt. Họ thuộc linh cạn cợt khi nói rằng: “Chúng ta không nên làm gì cả. Linh làm mọi sự”. Điều này sai. Nếu anh em không làm gì, Đức Chúa Trời không thể làm gì, vì Ngài cần sự lao khổ của con người để hợp tác với sự lao khổ thần thượng của Ngài. Nếu không có con người cày cấy đất thì mưa xuống để làm gì? Nếu là một người đã cày cấy đất, anh em có quyền cầu nguyện: “Chúa ơi, con ở đây. Xin ban mưa xuống”. Khi đó, Đức Chúa Trời sẽ ban mưa. Tuy nhiên, giả sử không có người ở trên đất đòi ban mưa và một số thiên sứ nói “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ơi, tại sao Ngài không ban mưa xuống?” Đức Chúa Trời sẽ đáp: “Nếu Ta ban mưa xuống, sẽ lãng phí. Ta đang chờ con người cày cấy đất. Một khi con người trên đất đã cày cấy, Ta sẽ ban mưa xuống”.

Trong những ngày này, Hội Thánh quan tâm về sự rao giảng Phúc Âm. Tuy nhiên, giả sử không một Cơ-đốc nhân nào tại A-na-heim làm việc với Đức Chúa Trời, và một số thiên sứ trên trời cầu nguyện: “Hỡi Đức Chúa Trời Toàn Năng, xin cứu những người tại Anaheim. Xin Ngài phát ngôn thì mọi người sẽ ăn năn”. Đức Chúa Trời sẽ đáp: “Điều này thật dại dột. Khi không có ai tại Anaheim cùng làm việc với Ta, làm thế nào Ta có thể cứu họ?” Anh em không nhớ câu chuyện của Cọt-nây sao? Mặc dầu một thiên sứ hiện ra với ông với một sứ điệp, nhưng thiên sứ đó không thể rao giảng Phúc Âm (Công. 10:1-8). Thiên sứ nói với Cọt-nây: “Ngươi hãy sai người đến với Phi-e-rơ và xin người đến. Ta không thể cày cấy đất vì ta là thiên sứ, ta không đủ điều kiện. Loài người đã được chỉ định để rao giảng Phúc Âm. Họ có đủ điều kiện. Hãy mời Phi-e-rơ đến đây”.

Khi không có một người nào trên đất cày cấy đất, Đức Chúa Trời sẽ không ban mưa xuống. Không có một người nào phối hợp làm việc với Đức Chúa Trời bởi sự lao khổ của con người cùng với sự lao tác thần thuợng. Chúng ta phải lao tác trong sự phối hợp với sự lao tác thần thượng của Đức Chúa Trời. Ngày đêm chúng ta phải cầu nguyện cho thân thuộc và bạn bè của mình. Chúng ta phải lao tác trên họ. Khi ấy, mưa sẽ đổ xuống. Nếu không hợp tác với Đức Chúa Trời bằng cách cày cấy đất, sẽ không bao giờ có mưa. Đức Chúa Trời không lãng phí cơn mưa của Ngài. Khi mưa xuống sẽ sản sinh sự sống.

3) Không Có Sự Sống Nào Mọc Lên Từ Đất

“Và lúc đó, chưa có một cây nhỏ nào mọc ngoài đồng, và cũng chưa có một ngọn cỏ nào mọc ngoài ruộng”: điều này nghĩa là chưa có bất kỳ sự sống nào vì chưa có sự sống mọc lên từ đất. Vì không có người nào cày cấy đất và chẳng có mưa nên không thể nào có sự sống.

4) Hơi Nước Từ Đất Bay Lên

“Nhưng có hơi nước dưới đất bay lên tưới khắp cùng mặt đất” (c. 6). Điều này nghĩa là chỉ có điều gì đó ra từ đất mới làm việc trên đất; không có điều gì từ trời xuống để khiến đất mọc lên sự sống.

Bốn điều này tạo nên nền tảng cho sự tạo nên con người. Nếu đến với những câu này theo cách hình bóng, chúng ta sẽ thấy chúng đáng được ghi trong Kinh Thánh. Tôi thích Sáng Thế Ký 2:5-6. Bây giờ chúng ta có thể hiểu rằng chúng ta cần mưa và Đức Chúa Trời cần chúng ta. Đức Chúa Trời cần sự đồng công của chúng ta. Khi ấy, mưa từ trời sẽ đổ xuống hòa lẫn với bụi đất để sản sinh sự sống.

(2) Phương Cách –Sáng Thế Ký 2:7

Bây giờ chúng ta suy xét phương cách Đức Chúa Trời tạo nên con người. Đức Chúa Trời tạo nên con người giống như cái chai, có cổ và miệng chai. Ngợi khen Chúa vì tôi có miệng! Làm thế nào tôi có thể sống mà không có miệng? Đức Chúa Trời đã làm nên tôi như vậy.

1) Lấy Bụi Đất Nắn Nên Thân Thể Người

Đức Chúa Trời lấy bụi đất nắn nên thân thể người để con người có một thân thể làm sự biểu lộ bên ngoài và làm cơ quan tiếp xúc những gì thuộc vật chất. Đức Chúa Trời đã lấy bụi đất, không phải lấy vàng để làm nên con người. Vàng không thể sản sinh sự sống. Nếu gieo hạt giống vào trong đống vàng, anh em sẽ phí hạt giống. Tuy nhiên, bụi đất có thể mọc lên sự sống. Nếu gieo hạt giống xuống bụi đất, hạt giống sẽ mọc lên cây. Chúng ta không phải là một người làm bằng vàng, nhưng là người bằng đất. Tôi vui mừng vì mình là một người thuộc bụi đất. Tôi là một chiếc bình bằng đất. Ha-lê-lu-gia!

Thân thể chúng ta được nắn nên từ bụi đất để làm sự biểu lộ bên ngoài của chúng ta. Khi có thời gian, tôi thích soi gương, đặc biệt để xem mặt mình. Càng nhìn chính mình, tôi càng được thuyết phục rằng tôi đã được Đức Chúa Trời dựng nên. Trong cả vũ trụ không một ai khác có thể tạo nên một tạo vật kỳ diệu như thế. Mẫu mã xe hơi của Mỹ có thể cải tiến và thay đổi hàng năm, nhưng không ai có thể cải tiến kiểu mẫu con người. Đôi tai chúng ta đã được thiết kế cách hoàn hảo để nghe. Thật bất tiện làm sao nếu các chi thể của thân thể chúng ta được sắp xếp lại! Điều gì sẽ xảy ra nếu cái mũi của tôi được đặt trên trán và hướng lên. Mưa, bụi đất có thể rơi vào. Đức Chúa Trời có chủ ý thiết kế cái mũi hướng xuống dưới để chỉ có không khí mới có thể đi vào. Mặc dầu cái mũi tôi không hấp dẫn lắm nhưng tôi vẫn yêu thích nó. Đức Chúa Trời đã thiết kế nó cho tôi.

Có nhiều điều cần suy xét về thân thể con người. Trong Truyền Đạo 12:3, Sa-lô-môn đề cập đến những người xay cối, nói rằng khi một người về già, những kẻ xay cối sẽ ngưng vì chúng còn rất ít. Việc xay cối ở đây chỉ về hành động nhai của răng hàm chúng ta. Răng cửa như cái kéo dùng để cắn, cắt thức ăn, còn răng hàm dùng để nhai. Khi ăn một miếng thịt, răng cửa cắn, rồi lưỡi đẩy nó đến răng hàm để được xay nhuyễn thành dưỡng chất. Theo Sách Truyền Đạo, những người xay cối ngừng lại vì người lớn tuổi thường ít răng hơn. Ai đã tạo chúng ta như vậy? Ai đã tạo những cái kéo, tức răng hàm và nước bọt được tiết ra để hóa lỏng thức ăn? Chắc chắn Đức Chúa Trời đã làm điều này.

Con người đã được Đức Chúa Trời tạo nên. Con người đã được thiết kế bởi một nghệ nhân tài giỏi nhất. Đừng quan tâm đến thuyết tiến hóa. Ngay cả y khoa cũng có thể khẳng định rằng thân thể con người chứa đựng tất cả những yếu tố được tìm thấy trong bụi đất như muối, sulfur, đồng và sắt… Đức Chúa Trời đã tạo nên thân thể con người kỳ diệu từ bụi đất. Tôi không có lời nào để mô tả hết được. Hãy nhìn anh em. Hãy nhìn đôi vai, cánh tay và năm ngón tay. Với bốn ngón và một ngón cái, con người có thể làm bất kỳ điều gì. Chúng ta có thể làm gì nếu có năm ngón cái trên mỗi bàn tay? Chúng ta không thể làm gì ngay cả cầm một vật dụng để ăn. Nếu xem xét cơ thể mình, anh em sẽ thấy đó là một cái chai sống. Thật vậy, chúng ta đã được làm nên bởi Đức Chúa Trời.

2) Hà Hơi Thở Sự Sống Vào Lỗ Mũi Con Người

Đức Chúa Trời hà hơi thở sự sống vào mũi người để con người có một linh là cơ quan tiếp nhận hầu con người có thể tiếp nhận Đức Chúa Trời, tiếp xúc Đức Chúa Trời và những điều thuộc linh (Gi. 4:24; La. 1:9). Bên trong máy thu thanh bán dẫn, có bộ phận tiếp sóng. Khi bộ phận này bị hư, không thể bắt được sóng âm. Cũng vậy, thân thể chúng ta là vật chứa bên ngoài, và bên trong là linh được Đức Chúa Trời làm nên như một bộ phận tiếp nhận để tiếp nhận Đức Chúa Trời là Sóng Âm Thiên Thượng. Bởi cơ quan này, chúng ta có thể tiếp xúc những điều thuộc linh. Tôi dùng tay để tiếp xúc bảng đen. Tôi tiếp xúc mùi vị bằng mũi, màu sắc bằng mắt. Tôi chứng thực âm thanh bằng đôi tai. Tất cả những gì thuộc vật chất đều có thể được chứng thực bởi các giác quan trong thân thể vật lý chúng ta. Trong vũ trụ, cũng có những điều thuộc linh. Trong vũ vụ này có Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời là Linh. Chúng ta không thể chứng thực Ngài bởi những giác quan vật lý. Thật ngu dại khi phủ nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời vì chúng ta không thể chứng thực Ngài theo cách vật lý. Nói rằng một điều gì đó không hiện hữu vì chúng ta không thể cảm nhận thì thật là dại dột. Mặc dầu trong bầu khí quyển có nhiều sóng âm, chúng ta không thể chứng thực chúng nếu không có bộ phận tiếp sóng. Cũng vậy, chúng ta không thể chứng thực Đức Chúa Trời nếu không có bộ phận tiếp nhận đúng đắn, tức nhân linh. Nếu linh chúng ta không thực hiện chức năng tốt, chúng ta sẽ không thể cảm nhận Đức Chúa Trời. Chúng ta cần mở linh ra để bắt sóng. Chúng ta cần vận dụng linh để tiếp xúc Đức Chúa Trời. Bên trong chúng ta, có một cơ quan như vậy mà Kinh Thánh gọi là linh của con người.

a) Hơi Thở Của Sự Sống Và Linh Của Con Người

Trong tiếng Hê-bơ-rơ, từ hơi thơ trong Sáng Thế Ký 2:7 là neshamah, được dịch là “linh” trong Châm Ngôn 20:27. Điều này nghĩa là hơi thở trong Sáng Thế Ký 2:7 là linh con người và linh này là ngọn đèn của Chúa. Thời xưa, người ta dùng đèn dầu. Đèn này có dầu được đốt để tỏa ánh sáng. Bên trong chúng ta có một cái đèn chứa Linh của Đức Chúa Trời như dầu. Mặc dầu có một cái đèn bên trong như vậy, chúng ta vẫn cần dầu thần thượng đổ vào để làm đèn sáng. Châm Ngôn 20:27 nói rằng linh con người dò xét mọi phần bên trong của bản thể chúng ta. Khi Đức Chúa Trời như Dầu được đổ vào để đốt cháy đèn chúng ta, chúng ta sẽ được soi sáng và dò xét. Kinh Thánh nói rõ rằng hơi thở của Đức Chúa Trời đã trở nên nhân linh và nhân linh này là đèn của Đức Chúa Trời để chứa đựng Đức Chúa Trời là Dầu và để ban ánh sáng cho chúng ta.

b) Linh Của Con Người Được Đức Chúa Trời Tạo Nên Cách Đặc Biệt

Linh của con người đã được Đức Chúa Trời tạo nên cách đặc biệt (Xa. 12:1; Gióp 32:8). Xa-cha-ri 12:1 nói rằng Đức Chúa Trời giương các từng trời, lập nền trái đất, và tạo linh bên trong con người. Trong vũ trụ này có ba điều quan trọng ngang nhau: các từng trời, trái đất, và linh con người. Các từng trời dành cho trái đất, trái đất dành cho con người, và con người có một linh dành cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tạo nên các từng trời cho trái đất. Không có các từng trời, không thể có điều gì từ trái đất mọc lên. Trái đất là dành cho con người, và con người có một linh bên trong để chứa đựng Đức Chúa Trời. Do đó, con người là trung tâm của toàn vũ trụ và trung tâm của con người là nhân linh. Điều này hết sức quan trọng. Đối với Đức Chúa Trời, nếu không có linh bên trong con người, con người chỉ là một cái vỏ trống rỗng. Nếu không có con người sống trên đất, trái đất sẽ trống vắng và các từng trời sẽ vô dụng. Ngợi khen Chúa vì các từng trời phục vụ trái đất, trái đất phục vụ con người, và con người có một linh để tiếp nhận Đức Chúa Trời. Ngợi khen Chúa vì “có một linh bên trong con người”.

c) Linh Của Con Người Là Nơi Linh Của Đức Chúa Trời Hành Động 
Và Là Nơi Ở Của Chúa

Linh của con người là nơi Linh của Đức Chúa Trời hành động. La-mã 8:16 nói rằng Linh của Đức Chúa Trời đồng chứng với linh chúng ta. Do đó, Thánh Linh hành động cùng với nhân linh. 2Ti-mô-thê 4:22 nói “Chúa ở với linh của con”. Chúa Jesus bây giờ đang ở với linh chúng ta. Đó là nơi ở của Ngài.

3) Làm Con Người Thành Một Hồn Sống

Đức Chúa Trời làm con người thành một hồn sống để con người có thể có một hồn là thân vị cùng với tính cách, và là một cơ quan để tiếp xúc lĩnh vực tâm lý. Giữa thân thể bên ngoài của chúng ta và linh bên trong, là hồn, tức thân vị chúng ta. Bởi phương tiện là hồn, chúng ta tiếp xúc những điều thuộc tâm lý. Trước đây, tôi đã đề cập đến một số điều thuộc thể và một số điều thuộc linh, bây giờ tôi muốn nói về những điều thuộc tâm lý. Hãy lấy sự vui vẻ làm ví dụ. Vui vẻ không mang tính thuộc thể hay thuộc linh mà thuộc tâm lý. Nếu anh em đến thăm tôi và thấy tôi không vui với anh em, làm thế nào anh em biết là tôi không vui? Anh em biết là do hồn, tức phần thuộc tâm lý. Rõ ràng là Đức Chúa Trời đã làm nên chúng ta gồm ba phần linh, hồn và thân thể.

4)  Làm Con Người Thành Một Hữu Thể Ba Phần 
–Linh, Hồn Và Thân Thể

Đức Chúa Trời làm con người thành một hữu thể ba phần. 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:23 nói rõ rằng chúng ta có linh, hồn và thân thể. Hê-bơ-rơ 4:12 nói rằng linh có thể được phân chia khỏi hồn. Tại sao Đức Chúa Trời tạo nên chúng ta cách như vậy? Đơn giản là để chúng ta có thể là một con người kỳ diệu. Chúng ta kỳ diệu vì chúng ta có ba phần. Loài người không đơn giản. Đừng cho mình là đơn giản. Về hồn, chúng ta có tâm trí, tình cảm và ý chí. Về thân thể, chúng ta có nhiều chi thể. Y khoa phải mất nhiều năm để nghiên cứu cơ thể người mà vẫn không thể nghiên cứu thấu đáo. Bên trong linh, chúng ta có lương tâm, trực giác và sự tương giao. Đức Chúa Trời đã tạo nên chúng ta cách kỳ diệu như thế vì Ngài muốn chúng ta là một chiếc bình của Ngài. Chúng ta không được làm nên cho bất kỳ mục đích nào khác. Thân thể chúng ta hiện hữu để có thể là chiếc bình sống hầu chứa đựng Đức Chúa Trời. Nếu muốn là một chiếc bình như vậy, chúng ta không những cần linh bên trong mà cũng cần thân thể bên ngoài để làm chúng ta có thể sống trên đất, vận dụng linh để tiếp xúc Đức Chúa Trời, nhận Ngài vào, chứa đựng Ngài, và thậm chí đồng hóa Ngài. Ngợi khen Chúa vì chúng ta đã được làm nên theo cách kỳ diệu, có ba phần như vậy!

Vì những người trẻ, tôi muốn dùng một minh họa. Giả sử anh em là một người nghèo. Nỗ lực của anh em là kiếm được tiền, chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu thuộc thể. Cuối cùng, anh em có được một căn nhà tốt, thức ăn ngon, quần áo đẹp và phương tiện đi lại tốt nhất. Một khi nhu cầu thuộc thể của anh em đã được thỏa mãn, anh em bắt đầu thích âm nhạc, thể thao và các thú giải trí. Những điều này thỏa mãn các nhu cầu tâm lý của hồn anh em. Mặc dầu có thể có mọi loại giải trí, nhưng khi ở nhà một mình ban đêm, anh em có cảm nhận rằng sâu xa bên trong mình đang trống vắng. Anh em vẫn cần một điều gì đó. Anh em tự nhủ: “Ngươi có mọi sự. Ngươi muốn điều gì nữa? Ngươi có xe hơi, nhà đẹp, vợ con ngoan, mọi thú vui và giải trí”. Tuy nhiên, sâu xa bên trong, điều gì đó nói “Tôi vẫn còn một nhu cầu”. Sâu xa bên trong anh em, điều gì đó đang ra lịnh, đang đòi hỏi và thậm chí nài xin. Đó là điều gì? Đó là linh của anh em. Phần này của bản thể, tức linh anh em, cần Đức Chúa Trời.

 Chúng ta có ba loại nhu cầu –nhu cầu vật chất, nhu cầu tâm lý và nhu cầu thuộc linh– vì bản thể chúng ta có ba phần. Trong xã hội loài người, nhiều người quan tâm đến hai nhu cầu đầu tiên và bỏ qua nhu cầu thứ ba. Đây là lý do vì sao Hội Thánh có ở đây, vì chỉ có Hội Thánh mới có thể giúp con người thỏa đáp nhu cầu thứ ba. Mặc dầu anh em có thể có sự vui hưởng vật chất tốt nhất và sự thỏa mãn tốt nhất về tâm lý, anh em vẫn thiếu hụt. Anh em cần sự vui hưởng thuộc linh, anh em cần Đức Chúa Trời. Anh em cần được thỏa mãn sâu xa bên trong. Vì đã được thỏa mãn bên trong, tôi không quan tâm nhiều về xe hơi hay nhà ở. Linh của tôi thỏa mãn với Đức Chúa Trời, vì linh tôi đã được làm nên để chứa đựng Ngài.

Để hoàn thành mục đích của Ngài, trước hết Đức Chúa Trời đã làm nên con người như chiếc bình để chứa đựng chính Ngài là Sự Sống. Con người đã được làm nên theo cách đặc biệt như vậy, không những có một thân thể để tồn tại về mặt thuộc thể; có một hồn để biểu lộ chính mình; và cũng có một linh là cơ quan để tiếp xúc Đức Chúa Trời và là bộ phận tiếp nhận để chứa đựng và giữ Đức Chúa Trời. Hồn là thân vị của con người với cả tính cách của người đó. Đó là một con người trọn vẹn. Tuy nhiên, ý định của Đức Chúa Trời khi tạo nên con người không phải để con người dùng chính mình để biểu lộ chính mình. Ý định của Đức Chúa Trời là con người đó, như một tạo vật trọn vẹn, có thể nhận Đức Chúa Trời làm sự sống và biểu lộ Ngài trong mọi tính cách của con người. Vì thế, cùng với hồn, con người cần một cơ quan đặc biệt để tiếp xúc Đức Chúa Trời –nhân linh. Như chúng tôi đã lưu ý trước đó, mọi điều trong Sáng Thế Ký là một hạt giống, sẽ phát triển trong các Sách tiếp theo của Kinh Thánh. Điều này đúng với những vấn đề chúng ta đã xem xét trong bài này, con người là chiếc bình để chứa đựng Đức Chúa Trời, nhân linh là cơ quan để tiếp xúc Đức Chúa Trời v.v… Tất cả những điểm này được gieo trong Sáng Thế Ký như những hạt giống và sẽ phát triển đầy đủ trong Tân Ước như mùa gặt. Chúng ta cần nhiều câu Kinh Thánh từ Tân Ước để đưa ra một định nghĩa toàn diện về những vấn đề này, nhưng vì thời gian có hạn, chúng ta phải dừng tại đây.

 

 

 BÀI SÁU

S Phục Hồi Và Sáng Tạo Thêm 
Của Đức Chúa Trời

 (3)

Mục Đích

Trong bài này, chúng ta xem xét sự tạo nên sự sống con người, sự sống cao hơn với ý thức cao nhất. Vì bài vừa qua là phần mở ngoặc, nên bây giờ chúng ta tiếp tục nghiên cứu tiến trình phục hồi và sáng tạo thêm của Đức Chúa Trời.

13)  Hội Nghị Của Đức Chúa Trời Tam–Nhất

Sáng Thế Ký 1:26 bày tỏ rằng có một hội nghị giữa vòng Đấng Tam–Nhất, do Đấng Tam–Nhất tổ chức. Chúng ta nói “giữa vòng” vì Đức Chúa Trời là Tam–Nhất. Theo ngôn ngữ con người, chúng ta có thể nói rằng có Ba Thân Vị trong Đấng Tam–Nhất, một Đức Chúa Trời với ba Thân Vị. Tôi không thể giải thích điều này. Tôi chỉ có thể nói rằng Đức Chúa Trời là Tam–Nhất, rằng chúng ta có một Đức Chúa Trời với ba Thân Vị. Có một hội nghị được tổ chức bởi ba Thân Vị này của Đấng Tam–Nhất, và một quyết định đã được đưa ra. Hội nghị này cùng với quyết định được đưa ra đã khởi xướng cho sự trưởng thành sự sống. Sau khi Đức Chúa Trời đã tạo nên gia súc, thú vật và các loài bò sát vào phần đầu của ngày thứ sáu, Ngài đã không tạo nên con người ngay. Trái lại, Ngài đã có một Hội Nghị để bàn về vấn đề này. Sáng Thế Ký 1:26 nói “Và Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng Ta hãy làm nên con người…”. Nếu đọc câu này cẩn thận, chúng ta thấy có điều gì đó giống như một hội nghị. Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy…”. Đức Chúa Trời là một; nhưng đại từ ở đây là “Chúng Ta”. Điều này chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời là Tam–Nhất. Câu này không nói “Ta hãy làm nên…” Nếu Kinh Thánh nói “Ta” mà không nói “Chúng Ta” hẳn sẽ không cần nói “hãy”. Cụm từ “Chúng Ta hãy làm nên” có nghĩa là Chúng Ta hãy có sự tương giao nào đó. Dầu anh em có thể cho rằng tôi suy luận quá nhiều, tuy nhiên, trong Kinh Thánh, chúng ta có lời này: “Chúng Ta hãy…”

Sau khi tạo nên mọi điều thuộc sự sống đã nói ở trên, Đức Chúa Trời vẫn cần tạo nên con người là sự sống thọ tạo cao nhất để biểu lộ chính Ngài theo hình ảnh Ngài và theo hình dạng Ngài. Để hoàn thành công tác này cần có Đức Chúa Trời Tam–Nhất –Cha, Con và Linh– hành động trên con người. Điều này được chứng minh đầy đủ bởi các Sách tiếp theo của cả Kinh Thánh.

Cho đến lúc này, chúng ta đã thấy tám điều của sự sống. Đừng quên điều này. Đức Chúa Trời đã tạo nên cỏ, cây thân thảo, cây thân mộc vào cuối ngày thứ ba trước các-vì-sáng-ngày-thứ-tư. Sau các-vì-sáng-ngày-thứ-tư, Ngài tạo nên cá và chim vào ngày thứ năm. Trong phần đầu của ngày thứ sáu, Đức Chúa Trời đã tạo nên gia súc, đại diện là bò; thú vật, đại diện là sư tử, và các loài bò sát. Do đó, có ba điều của sự sống thực vật và năm điều của sự sống động vật. Với chúng ta, dường như khắp trái đất đã đầy dẫy sự sống. Tuy nhiên, chưa có sự trưởng thành của sự sống.

Sự trưởng thành của sự sống trên đất là sự sống con người. Ngay cả ngày nay, sau 6.000 năm, không một sự sống nào trên đất này có thể trỗi hơn sự sống của con người.Đừng đánh giá thấp chính mình. Anh em rất cao trọng, cao hơn cỏ, cao hơn cây thân thảo, và cây thân mộc, cao hơn cả gia súc, thú vật,  loài bò sát. Anh em có sự sống thọ tạo cao nhất. Ngoài con người, không có sự trưởng thành của sự sống. Do đó, Đức Chúa Trời Tam–Nhất đã tổ chức một hội nghị và khởi xướng cho sự trưởng thành của sự sống. Đức Chúa Trời Tam–Nhất quyết định tạo nên sự sống thọ tạo cao nhất.

14) Con Người Được Tạo Nên Như Là Trung Tâm

Con người đã được tạo nên như là trung tâm, tức sự sống cao hơn với ý thức cao nhất. Đây là sự trưởng thành của sự sống, là sự sống có hình ảnh của Đức Chúa Trời và có thể thay mặt Đức Chúa Trời thi hành quyền quản trị. Trên trái đất này, con người là trung tâm. Như chúng tôi đã lưu ý trước đây, trời dành cho đất, và đất dành cho con người. Mọi điều trên bầu trời –ánh nắng, mưa và không khí– đều vì sự lớn lên của sự sống trên đất. Không có ánh sáng mặt trời, mưa và không khí, không thể có sự sống trên đất. Vì thế, trời dành cho đất, và đất này, với đủ loại sự sống, đều dành cho con người. Tất cả chúng ta đều biết rằng các khoáng chất là dành cho thực vật, thực vật dành cho động vật, và cả hai, thực vật và động vật, đều dành cho con người, và con người dành cho Đức Chúa Trời. Do đó, con người là trung tâm.

Các từng trời đã được chuẩn bị và trái đất được sửa soạn xong. Mọi thứ đã sẵn sàng để con người hiện hữu. Ngợi khen Chúa! Đức Chúa Trời đã không tạo nên con người trước, rồi sau đó bảo con người chờ cho đến khi Ngài chuẩn bị các từng trời và sửa soạn trái đất. Trái lại, sau khi Đức Chúa Trời chuẩn bị các từng trời, sửa soạn trái đất, và sẵn sàng mọi thứ, thì con người xuất hiện. Sau cùng, Đức Chúa Trời tạo nên con người. Con người được xếp cuối, dầu vậy con người đã là và vẫn là trung tâm.

Điều này rất giống với hôn nhân theo tục lệ Đông Phương. Trong hôn nhân, chú rễ chuẩn bị mọi thứ, và sau cùng, cô dâu xuất hiện. Cô dâu không xuất hiện trước rồi sau đó chờ mọi thứ được chuẩn bị. Nhưng là, sau khi mọi sự đã chuẩn bị xong, cô dâu đến.Cũng vậy, cả trái đất là nơi dành cho Lễ Cưới của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã chuẩn bị mọi điều cho Lễ Cưới của Ngài. [Nhưng] Cô Dâu là ai? Cô Dâu là con người.

Con người là sự trưởng thành của toàn thể sự sống thọ tạo. Không có con người, không có sự trưởng thành. Hãy xem cây cỏ. Cỏ xanh tươi và mềm mại, nhưng thiếu hình thể, dáng vẻ. Nó không có gương mặt. Cây thân thảo, bao gồm bắp và lúa mì, có hình dạng phát triển hơn. Tuy nhiên, cũng không có gương mặt. Cây thân mộc thì to lớn hơn, mang trái cũng như hạt giống; nhưng không một cây nào có gương mặt để biểu lộ nó. Sau ba mức độ này của sự sống thực vật, chúng ta có cá, mức độ thứ nhất của sự sống động vật. Cá có gương mặt với hai mắt nhỏ, nhưng đầu nó không được phân biệt rõ. Cá không có cổ. Tuy nhiên, chim có mặt rõ rệt và có cổ. Chúng có hai mắt, hai taivà một miệng nhỏ, phần nào giống với mặt con người hơn. Gia súc, ngựa và bò có mặt giống với mặt người. Tiếp theo gia súc, chúng ta có thú rừng, đặc biệt là sư tử. Mặt của sư tử gần giống với mặt người. Mặc dầu Darwin dại dột nói rằng con người là dòng dõi của khỉ, tuy nhiên, điều đó chỉ đúng khi nói rằng mặt của một số loài thú giống với mặt người. Tuy nhiên, dù cho mặt chim, gia súc, thú vật, chim ưng, bò và chiên giống với mặt người đến đâu, vẫn không phải là người. Chúng vẫn thiếu hụt và còn thấp kém.Chúng không phải là sự trưởng thành của sự sống thọ tạo.

Ê-xê-chi-ên 1:5,10 nói về bốn sinh vật. Bốn sinh vật này trông giống như con người. Mỗi con có bốn mặt: mặt người ở phía trước, mặt sư tử ở bên phải, mặt bò ở bên trái, và mặt chim ưng ở phía sau. Chim ưng ở phía sau vì mặt chim ưng không giống mặt người nhiều. Mặt của sư tử và bò giống với mặt người nhiều hơn. Tuy nhiên, mặt người là cao nhất. Vì thế, sự sống con người là sự trưởng thành của tất cả sự sống thọ tạo, có khả năng biểu lộ Đức Chúa Trời và thi hành quyền cai trị của Đức Chúa Trời.

Điều kỳ diệu và nổi bậc nhất về sự sống con người là ý thức. Chúng ta có ý thức cao nhất. Ý thức của chúng ta cao hơn của cá, chim ưng, bò, và sư tử. Về ý thức, sự sống con người là sự sống cao nhất. Chúng ta cần reo mừng: “Ha-lê-lu-gia!” Trong vũ trụ và trên đất này, con người đã được sinh ra. Con người đã được tạo nên, có một sự sống với ý thức cao nhất, một sự sống có thể biểu lộ và đại diện Đức Chúa Trời. Điều này thật kỳ diệu! Sự tạo nên con người thật quan trọng và có tính quyết định đến nỗi Đức Chúa Trời Tam–Nhất phải tổ chức một hội nghị trước khi thực hiện điều đó. Bầu trời đã được phục hồi. Các từng trời đã được chuẩn bị cho mục đích phục vụ trái đất. Đất khô hiện ra vì mục đích sản sinh sự sống thực vật, sự sống động vật, và sự sống con người. Hãy xem bầu trời: có mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, mưa, và không khí. Hãy nhìn trái đất: có cỏ, cây thân thảo và cây thân mộc. Có các loài chim trên không, cá dưới nước, gia súc, thú vật, và các loài bò sát trên đất. Là trung tâm của tất cả điều này, con người là sự biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Đức Chúa Trời. Sau khi Đức Chúa Trời tạo nên con người, Ngài nghỉ ngơi. Ngài thỏa lòng.

b. Những Điểm Trọng Tâm

Bây giờ chúng ta đến những điểm trọng tâm về sự phục hồi và sáng tạo thêm của Đức Chúa Trời.

1) Để Khôi Phục Trái Đất

Đức Chúa Trời cần khôi phục trái đất nhằm sản sinh sự sống và thi hành sự cai trị (Sáng. 1:9,26,28). Hễ trái đất còn ở dưới những dòng nước sự chết thì không thể sản sinh sự sống hay thi hành sự cai trị. Để có hai điều này, trái đất cần được khôi phục.

2)  Để Có Con Người

Điểm chính thứ hai là để có con người làm sự biểu lộ của chính Đức Chúa Trời và để xử lý kẻ thù của Đức Chúa Trời (Sáng. 1:26-28). Sau này, chúng ta sẽ xem nhiều hơn về điểm này.

3)  Để Sản Sinh Sự Sống

Điểm chính thứ ba là để sản sinh sự sống. Điều này là cần thiết cho khả năng biểu lộ Đức Chúa Trời và cai trị cho Đức Chúa Trời. Xin nhớ ba điểm chính này: khôi phục trái đất, có được con người, và sản sinh sự sống. Mặc dầu Đức Chúa Trời đã tạo nên vô số điều, nhưng theo ký thuật trong Sáng Thế Ký chương 1 và 2, Ngài chỉ đề cập đến những vấn đề thuộc sự sống và những điều có liên quan đến sự sống vì sự phục hồi và sáng tạo thêm của Ngài tập trung vào sự sống. Toàn bộ sự sáng tạo của Đức Chúa Trời đều chú trọng vào sự sống. Ngài đã khôi phục trái đất, tạo nên con người, và sản sinh đủ loại sự sống nhằm mục đích biểu lộ chính Ngài và xử lý kẻ thù của Ngài.

c. Mục Đích

 Bây giờ chúng ta đến mục đích của Đức Chúa Trời trong sự phục hồi và sáng tạo thêm. Điều này cực kỳ quan trọng.

1) Để Có Con Người Biểu Lộ Đức Chúa Trời

Mục đích chính của sự phục hồi và sáng tạo thêm của Đức Chúa Trời là để có con người, một người tập thể, nhằm biểu lộ Đức Chúa Trời (Sáng. 1:26-27). Con người mà Đức Chúa Trời tạo nên là một người tập thể. Đức Chúa Trời không tạo nên nhiều người. Đức Chúa Trời tạo nên loài người cách tập thể trong một người là A-đam. Đức Chúa Trời tạo nên A-đam, và A-đam là một người tập thể, người tập hợp. Khi A-đam được tạo nên, chúng ta đều đã được tạo nên. Nếu hôm nay anh em ba mươi tuổi, đừng nói rằng anh em đã được tạo nên cách đây ba mươi năm. Anh em đã được sanh ra cách đây ba mươi năm, nhưng anh em đã được tạo nên cách đây sáu ngàn năm rồi.Mặc dầu tôi sanh ra trước anh em bốn mươi năm, nhưng chúng ta đều đã được tạo nên cùng một lúc. Khi A-đam được tạo nên, chúng ta đều đã được tạo nên vì chúng ta đều đã được tạo nên cách tập thể trong A-đam. Chúng ta đã được bao hàm trong A-đam.Đức Chúa Trời đã không tạo nên một người cá thể, nhưng là một người tập thể để biểu lộ Ngài. Trong câu 26, Đức Chúa Trời phán: “Để họ” –một người, nhưng đại từ lại là “họ”. Điều này chứng tỏ rằng con người này là một người tập thể. Trong câu này, như đại từ “Chúng Ta” biểu thị Đức Chúa Trời là Tam–Nhất, thì đại từ “họ” biểu thị con người là tập thể. Đức Chúa Trời đã tạo nên một người tập thể như thế theo hình và tượng Ngài để có thể biểu lộ chính Đức Chúa Trời.

(a) Với Hình Ảnh Của Đức Chúa Trời Bên Trong.

Sáng Thế Ký 1:26 nói “Và Đức Chúa Trời phán: Chúng Ta hãy làm nên con người như hình ảnh Chúng Ta và theo hình dạng Chúng Ta…” Ở đây chúng ta thấy hai điều: hình ảnh và hình dạng. Tất cả các học giả thông thạo Kinh Thánh đều đồng ý rằng hình ảnh chỉ về điều gì đó bên trong và hình dạng chỉ về điều gì đó bên ngoài. Tất cả chúng ta đều có điều gì đó bên trong –sự thông minh, ý chí và tình cảm. Về bên ngoài, chúng ta có hình trạng, hình dạng của thân thể.

(1) Hình Ảnh Của Đức Chúa Trời Là Đấng Christ.

2Cô-rin-tô 4:4 và Cô-lô-se 1:15 đều nói rằng hình ảnh của Đức Chúa Trời là Đấng Christ. Đấng Christ là hình ảnh của Đức Chúa Trời không thấy được. Đức Chúa Trời là không thấy được; dầu vậy, Ngài có một hình ảnh. Đức Chúa Trời không thấy được có một hình ảnh thấy được. Chẳng ai từng thấy Đức Chúa Trời bao giờ, nhưng Đấng Christ đã giải bày Ngài (Gi. 1:18). Tất cả chúng ta, không nhiều thì ít, đều đã thấy Đấng Christ. Phi-e-rơ đã thấy Ngài. Giăng đã thấy Ngài. Sau sự phục sinh của Ngài, có năm trăm anh em đã đồng thời thấy Ngài (1Cô. 15:6). Ngài thực sự là hình ảnh của Đức Chúa Trời. Hê-bơ-rơ 1:3 nói rằng Đấng Christ là hình ảnh giống hệt của Thân Vị Đức Chúa Trời.

(2) Con Người Được Tạo nên Theo Hình Ảnh Của Đấng Christ

Vì đã được tạo nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời và hình ảnh của Đức Chúa Trời là Đấng Christ, nên con người đã được tạo nên theo hình ảnh của Đấng Christ. Trong Sáng Thế Ký 1:26, Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy làm nên con người theohình ảnh của Chúng Ta…” Nhưng câu 27 nói “Đức Chúa Trời đã tạo nên con ngườitheo hình ảnh Ngài”. Chắc chắn ở đây “hình ảnh của Ngài” có nghĩa là hình ảnh của Đấng Christ. Do đó, con người đã được làm nên theo hình ảnh của Đấng Christ.

(3) A-đam Là Hình Bóng Của Đấng Christ.

La-mã 5:14 nói rằng A-đam, người đầu tiên, là hình bóng, hình ảnh của Đấng Christ.Nếu chụp hình một ai đó, thì bức hình này là hình ảnh hay hình bóng của người đó. A-đam là tấm hình của Đấng Christ. Đấng Christ là hình ảnh của Đức Chúa Trời, và A-đam là hình ảnh của Đấng Christ. Như tấm hình là sự biểu lộ của một người nào đó, thì con người đã được làm nên để biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời, là Đấng Christ.

Tôi muốn dùng minh họa về chiếc bao tay. Bao tay được làm theo hình ảnh và hình dáng của bàn tay. Cả bàn tay lẫn bao tay đều có năm ngón. Bao tay được làm như hình ảnh của bàn tay để một ngày kia, bàn tay được xỏ vào trong đó. Bàn tay lấp đầy bao tay, và bao tay đó biểu lộ bàn tay. Tại sao con người được làm nên như hình ảnh của Đấng Christ? Vì ý định của Đức Chúa Trời là đến một ngày, Đấng Christ sẽ vào trong con người và được biểu lộ qua con người. La-mã 9:21,23 nói rõ rằng con người đã được làm nên như một chiếc bình, tức là như một vật chứa. Con người không phải là con dao, cái búa, hay bất kỳ dụng cụ nào. Con người là một chiếc bình, một vật chứa. La-mã 9:21,23 nói thêm rằng con người đã được làm nên như một chiếc bình tôn trọng để chứa đựng Đức Chúa Trời, chứa đựng sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. 2Cô-rin-tô 4:7 nói rằng chúng ta có của báu này trong những bình bằng đất. Chiếc bình này giống như bao tay; đến một ngày, bàn tay sẽ xỏ vào trong đó; nội dung được đem vào vật chứa nầy. Chúng ta đơn giản là một chiếc bình chứa đựng Đấng Christ.

(4) Đấng Christ Được Làm Nên Theo Hình Dạng Của Con Người

Đã có một ngày, Đấng Christ đến để được làm nên theo hình dạng của con người (Phi. 2:6-8). Con người đã được làm nên theo hình ảnh của Đấng Christ, và Đấng Christ được làm nên theo hình dạng của con người. Điều này không kỳ diệu sao? Aitheo ai? Điều này mang tính hỗ tương. Con người đã được làm nên theo Đấng Christ và Đấng Christ đã được làm nên theo hình dạng của con người, hầu cho qua sự chết và phục sinh của Ngài, con người có thể nhận được sự sống của Đức Chúa Trời. Đó là một huyền nhiệm; tuy nhiên, đó cũng là một sự kiện. Ha-lê-lu-gia! Tất cả chúng ta đã nhận được sự sống này.

(5) Con Người Có Thể Được Biến Đổi Thành 
Và Được Đồng Hóa Theo Hình Ảnh Của Đấng Christ.

Vì có sự sống thần thượng này, chúng ta có thể được biến đổi thành và được đồng hóa theo hình ảnh của Đấng Christ (2Cô. 3:18, theo Hy Văn; La. 8:29). Ở đây chúng ta có hai điều: sự biến đổi và sự đồng hóa. Sự biến đổi là bên trong, còn sự đồng hóa là bên ngoài.

Chúng ta có sự thông minh, ý chí và tình cảm, là những điều đã được làm nên theoĐấng Christ. Chắc chắn rằng Đấng Christ có sự thông minh tốt nhất, ý chí tốt nhất và tình cảm tốt nhất. Sự thông minh, ý chí và tình cảm của chúng ta là không thật. Hãy xem lại một lần nữa minh họa về bàn tay và bao tay. Bàn tay người có một ngón cái và bốn ngón, thì bao tay cũng có một ngón cái và bốn ngón khác. Chúng ta không thể phủ nhận ngón cái của bao tay là một ngón cái, nhưng so với ngón cái thật, chúng ta thấy có sự khác nhau lớn. Hãy so sánh sự thông minh của chúng ta với sự thông minh của Đấng Christ. Sự thông minh của chúng ta giống như ngón cái rỗng của bao tay. Sự thông minh của Đấng Christ giống như ngón cái thật của bàn tay người. Chúng ta có sự khôn ngoan, nhưng một lần nữa sự khôn ngoan của chúng ta giống như ngón cái rỗng và sự khôn ngoan của Đấng Christ giống như ngón cái thật. Tuy nhiên, đến một ngày, ngón cái thật sẽ bước vào trong ngón cái của bao tay và hai ngón cái sẽ trở thành một! Một là dáng vẻ bên ngoài, sự biểu lộ; một là thực tại, nội dung. Sự khôn ngoan của chúng ta chỉ là chiếc bình chứa đựng sự khôn ngoan của Đấng Christ, tức sự biểu lộ sự khôn ngoan của Đấng Christ. Anh em có tình yêu không? Có, tất cả chúng ta đều có tình yêu, nhưng tình yêu của chúng ta giống như chiếc bao tay rỗng. Hỡi những người vợ, đừng mong đợi tình yêu đến từ chồng. Cho dù chồng yêu vợ đến đâu, tình yêu đó vẫn là trống rỗng. Ngợi khen Chúa vì tình yêu đó là trống rỗng! Nó phải trống rỗng để tình yêu của Chúa có thể bước vào.

Nhưng điều này không phải lúc nào cũng dễ. Phải cần một sự xử lý nào đó để tình yêu của Đấng Christ có thể bước vào trong chúng ta. Những ngón tay của bao tay có thể xoắn lại hay cong vẹo, kháng cự lại bàn tay muốn xỏ vào. Cũng vậy, chúng ta cần một số xử lý nào đó để tình yêu của Đấng Christ có thể vào trong chúng ta. Đến một ngày, tình yêu của Đấng Christ sẽ vào trong tình yêu trống rỗng của người chồng. Lúc đó, chị em sẽ vui hưởng tình yêu thật, tình yêu của Đấng Christ, qua tình yêu trống không của chồng mình. Ngợi khen Chúa!

Bất cứ điều gì chúng ta có, bất cứ điều gì chúng ta là, và bất cứ điều gì chúng ta có thể làm chỉ là một hình dạng trống rỗng, cao nhất chỉ là dùng làm chiếc bình để chứa đựng tất cả những gì Đấng Christ là, tất cả những gì Đấng Christ có, và tất cả những gì Đấng Christ có thể làm.

Đấng Christ ở trong chúng ta. Sự sống của Đấng Christ đang liên tục thực hiện công tác biến đổi bên trong chúng ta. Tình yêu, tình cảm và suy nghĩ của chúng ta là không đầy đủ. Không điều gì chúng ta có theo thiên nhiên là đầy đủ vì nó trống rỗng và giới hạn. Thể yếu, yếu tố của Đấng Christ phải truyền vào trong tất cả những gì chúng ta là.Sự khôn ngoan của Đấng Christ phải truyền vào trong sự khôn ngoan trống rỗng của chúng ta, ban cho chúng ta tâm trí của Đấng Christ (Phi. 2:5). Tâm trí chúng ta phải là chiếc bình chứa đựng tâm trí của Đấng Christ; tâm trí của Đấng Christ phải đầy dẫy tâm trí chúng ta. Khi đó, tâm trí chúng ta sẽ được biến đổi thành hình ảnh của Đấng Christ. 2Cô-rin-tô 3:18 nói rằng chúng ta đều để mặt trần mà ngắm xem và chiếu lại sự vinh hiển của Chúa như một cái gương, và được biến đổi theo hình ảnh Ngài. Đây là sự biến đổi bên trong. Sự biến đổi bên trong này cũng sẽ trở thành sự đồng hóa bên ngoài.Chúng ta sẽ được đồng hóa theo hình ảnh của Con Đức Chúa Trời (La-mã 8:29).

(6) Thân Thể Chúng Ta Sẽ Biến Hóa Theo Hình Dạng
 Của Thân Thể Vinh Hiển Của Đấng Christ

Chúng ta đã được dựng nên theo Đấng Christ. Một ngày nọ, Đấng Christ đã đến trong hình dạng giống như hình dạng của chúng ta. Chúng ta đã tiếp nhận Ngài và Ngài đã ngự trong chúng ta. Đấng Christ này bây giờ ở bên trong chúng ta đang thực hiện công tác biến đổi, không những biến đổi chúng ta theo hình ảnh Ngài mà cũng đồng hóa chúng ta nên giống hình thể Ngài. Cuối cùng, Ngài sẽ đến để biến hóa thân thể bên ngoài của chúng ta giống với hình trạng của thân thể vinh hiển của Ngài (Phi.. 3:21). Khi đó, chúng ta sẽ giống như Ngài cách trọn vẹn, hoàn toàn (1Gi. 3:2b). Khi nhìn chúng ta, Ngài sẽ nói “Tất cả các ngươi đều giống như Ta”. Khi nhìn chính mình, chúng ta sẽ nói với Chúa Jesus: “Chúng tôi đều giống như Ngài, và Ngài giống như chúng tôi”.Sẽ không có khác biệt nào. Chúng ta đều sẽ giống Đấng Christ và Đấng Christ sẽ giống chúng ta hoàn toàn. Đấng Christ và chúng ta, chúng ta và Đấng Christ –đều sẽ có cùng một hình ảnh và cùng một chân dung. Đây là mục đích của Đức Chúa Trời khi tạo nên con người để biểu lộ chính Ngài. Trong một ý nghĩa, sự tạo nên con người đã hoàn tất, nhưng tiến trình biến đổi vẫn đang tiếp diễn. Chúng ta đang trong tiến trình biến đổi, chờ đợi sự tái lâm của Ngài.

b) Với Hình Dạng Của Đức Chúa Trời Bên Ngoài

Con người được tạo nên, về bên trong, không những như hình ảnh của Đức Chúa Trời, mà về bên ngoài, còn theo hình dạng  của Ngài. Mọi vật sống khác trong sự sáng tạo đều theo “loài của chúng”. Tuy nhiên, con người không theo loài người mà theo hình dạng của Đức Chúa Trời. Như hình ảnh hàm ý đến bản thể bề trong của Đức Chúa Trời, thì hình dạng phải hàm ý đến hình thể bên ngoài của Đức Chúa Trời.

Mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và con người là một huyền nhiệm. Một mặt, Kinh Thánh nói rằng Đức Chúa Trời không thể thấy được. Mặt khác, Kinh Thánh cũng cho thấy rằng ngay cả trước khi Chúa nhục hóa làm người, Ngài đã nhiều lần hiện ra như một người với nhiều người trong Cựu Ước. Nhiều lần Đấng Christ đã hiện ra trong hình thể của một thân thể con người. Trong khi Áp-ra-ham ngồi trước cửa trại, ông thấy ba người đang đến (Sáng. 18:2a). Chúa và hai thiên sứ đã hiện ra với ông. Áp-ra-ham mời ba người vào trại và dọn cho họ một bữa ăn thịnh soạn. Cả ba cùng ăn với ông. Đức Chúa Trời đã ăn với Áp-ra-ham và họ đã có một cuộc nói chuyện thông suốt. Đó là lý do vì sao Áp-ra-ham được gọi là bạn của Đức Chúa Trời (Gia-cơ 2:23). Nếu đọc Sáng Thế Ký chương 18, chúng ta sẽ thấy đó là sự ghi chép về sự tương giao giữa bạn bè.Đức Chúa Trời là Bạn đối với Áp-ra-ham. Một lát sau, hai thiên sứ được Chúa sai đi, còn Chúa vẫn ở lại với Áp-ra-ham. Áp-ra-ham đứng trước mặt Chúa như một người bạn (Sáng. 18:16a,22). Đó là Đấng Christ trước khi Ngài nhục hóa.

Lần thứ hai Đấng Christ đã hiện ra trong hình thể của một người là trong trường hợp của Gia-cốp tại Phê-ni-ên. Một người đã đến để chinh phục một Gia-cốp mạnh mẽ (Sáng. 32:24). Tuy nhiên, Gia-cốp đang vật lộn với Đức Chúa Trời! Đức Chúa Trời trong hình thể của một người, đang vật lộn với Gia-cốp. Gia-cốp thực sự mạnh mẽ, và Đức Chúa Trời không thể chinh phục ông cho đến khi Ngài đụng vào bắp vế của ông, và Gia-cốp trở nên khập khiểng. Gia-cốp hỏi: “Xin cho biết tên Ngài là gì?” Đức Chúa Trời phán: “Đừng hỏi tên Ta. Hãy để Ta ban phước cho ngươi”. Cuối cùng, Gia-cốp nhận biết rằng ông đã gặp Đức Chúa Trời mặt đối mặt (Sáng. 32:28-30). Phê-ni-ên có nghĩa là mặt của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã hiện ra tại đó như một người, một người thực sự. Nếu không phải là một người thật, làm thể nào Ngài có thể vật lộn với Gia-cốp?

Một trường hợp khác Đức Chúa Trời hiện ra trong hình thể của một người là trong Giô-suê chương 5. Khi đó, Giô-suê đang nặng lòng về việc đánh bại thành Giê-ri-cô. Có lẽ ngày mai quân đội của Đức Chúa Trời sẽ ra đánh thành Giê-ri-cô, và Giô-suê, lãnh đạo của họ, đang nặng lòng về cuộc chiến đó. Tôi tin rằng vào chiều tối, khi đang xem xét tình hình, thình lình ông thấy một người. Giô-suê hỏi người đó: “Ngươi là người của chúng ta hay của kẻ thù?” Người đó đáp: “Không, bây giờ Ta đến để làm Tướng của đạo binh Đức Giê-hô-va” (Giô. 5:13-14). Người đó bảo Giô-suê: “Hãy lột giày khỏi chân ngươi, vì nơi ngươi đứng là thánh” (Giô. 5:15). Đó là nơi Đức Chúa Trời ở.

Qua những ví dụ này, chúng ta có thể thấy rằng trước khi nhục hóa, Chúa Jesus đã nhiều lần hiện ra trong hình thể của một người. Điều này thực sự huyền nhiệm.

Cỏ không có gương mặt, cây thân thảo hay cây thân mộc cũng không có gương mặt.Bắt đầu từ sự sống động vật, chúng ta đã thấy rằng cá có gương mặt, nhưng không giống với mặt người. Kế đến là chim, gia súc và thú vật. Rồi đến con người có mặt rất giống với Đức Chúa Trời. Đây là một huyền nhiệm. Dù sao đi nữa, chúng ta biết rõ rằng chúng ta được làm nên như hình ảnh của Đức Chúa Trời. Đây là lý do vì sao chúng ta có sự khôn ngoan, ý chí và tình cảm giống với Đức Chúa Trời, nhưng không có thực tại. Những gì chúng ta có chỉ là sự biểu lộ. Chúng ta cần nội dung.

Chúng ta cũng có một hình thể, hình thể của hình ảnh, giống như tấm ảnh. Tuy nhiên, tấm ảnh đó không có thực tại. Khi được tạo nên theo hình thể, hình ảnh của Đức Chúa Trời, con người chưa có thực tại của Đức Chúa Trời. Sau khi được tạo nên, con người vẫn cần nhận Đức Chúa Trời vào. Dù có hình thể và hình ảnh của Đức Chúa Trời bao nhiêu, con người vẫn chưa có thực tại của Đức Chúa Trời hay sự sống của Đức Chúa Trời. Con người đã thất bại. Sau đó, Chúa hiện đến trong hình thể của một người. Ngài đã chết trong hình thể này, và được phục sinh để nâng cao hình thể này. Bởi sự chết và phục sinh của Ngài, bây giờ chúng ta dễ dàng nhận Ngài vào. Chúng ta đã tiếp nhận và có được sự sống thần thượng này, và bởi sự sống thần thượng này, tất cả chúng ta đều có thể có thực tại của Đức Chúa Trời. Sự sống thần thượng này bây giờ đang hành động trong chúng ta để biến đổi sự sống trống rỗng của chúng ta thành hình thể thần thượng cách thực sự. Đó là sự biến đổi. Cuối cùng, chúng ta sẽ được đồng hóa theohình ảnh Ngài. Kinh Thánh là sự khải thị về một huyền nhiệm như vậy. Việc nhìn thấy tất cả chúng ta đều được dựng nên theo hình ảnh và hình dạng của Đức Chúa Trời là hết sức quan trọng, cần yếu và có tính quyết định. Tất cả chúng ta cần thấy Đấng Christ là hình ảnh này như thế nào, và Đấng Christ đã được làm nên trong hình thể của một người là làm sao, để có thể nhận Ngài vào làm sự sống và thực tại của mình. Cuối cùng, Ngài và chúng ta sẽ hòa lẫn với nhau nên một. Chúng ta sẽ là dáng vẻ và sự biểu lộ của Ngài; Ngài sẽ là thực tại và nội dung của chúng ta. Ngài và chúng ta sẽ là một.Ngài sẽ giống chúng ta và chúng ta sẽ giống Ngài. Khi đó, chúng ta sẽ biểu lộ Đức Chúa Trời cho cả vũ trụ.

Bây giờ chúng ta có thể thấy lý do vì sao Đức Chúa Trời tạo nên các từng trời, trái đất, và lý do tại sao Ngài tạo nên sự sống con người. Đây là ý nghĩa và trung tâm của vũ trụ. Nếu không thấy điều này, chúng ta sẽ không biết ý nghĩa của vũ trụ là gì, và không biết mình sẽ đi đâu. Ngày nay, chúng ta biết ý nghĩa của vũ trụ, và biết mình đang ở đâu và sẽ đi đâu. Chúng ta ở đây để biểu lộ Ngài và sẽ gặp Ngài để là một với Ngài.

Khi được cứu, sự sống thần thượng bên trong chúng ta giống như cỏ. Sự sống ấy lớn lên thành cây thân thảo, rồi thành cây thân mộc. Sau đó, bước vào bình diện cao hơn của sự sống –cá, chim, gia súc và thú vật. Chúng ta không bao giờ có thể biểu lộ Đức Chúa Trời cho đến khi đạt đến đỉnh cao của sự sống thọ tạo. Chúng ta cần sự sống con người. Theo Ê-xê-chi-ên 1:5,10 và Khải Thị 4:6-7, trong chín điều thuộc sự sống được chép trong Sáng Thế Ký chương 1, chỉ có bốn điều được đại diện để ở trong hiện diện của Đức Chúa Trời – chim ưng, bò, sư tử và con người. Bốn điều này ở trong hiện diện của Đức Chúa Trời, đại diện cho tất cả tạo vật ở trước mặt Đức Chúa Trời. Trong Ê-xê-chi-ên và Khải Thị, không có sự đề cập đến cỏ, cây thân thảo, cây thân mộc, cá hay loài bò sát. Cho đến đời đời và trong cõi đời đời sẽ không có biển. Vì thế, sẽ không có cá. Chắc chắn sẽ không có loài bò sát. Những điều được đại diện trong hiện diện của Đức Chúa Trời sẽ là con người với gia súc, sư tử và chim ưng. Tất cả chúng ta phải lớn lên cho đến khi đạt đến bình diện sự sống cao hơn, đó là bình diện của gia súc, sư tử và chim ưng. Chúng ta phải tiến tới cho đến khi đạt đến sự sống trưởng thành được tiêu biểu bởi sự sống con người. Chỉ có sự sống này mới có thể biểu lộ Đức Chúa Trời. Chỉ có sự sống này mới có thể cai trị cho Đức Chúa Trời. Đây là mục tiêu của chúng ta.Chúng ta phải lớn lên, lớn lên và lớn lên từ sự sống thực vật đến sự sống động vật, và từ sự sống động vật đến sự sống con người.

Lời Nói Thêm

Anh em đã nghe rằng tất cả các lẽ thật trong Kinh Thánh đều được gieo trong Sáng Thế Ký, đặc biệt trong chương 1. Như đã thấy, Sáng Thế Ký chương 1 nói một điều gì đó về sự sáng, và sự sáng này đã phát triển khắp cả Kinh Thánh. Chúng ta đã thấy sự sáng vào ngày thứ nhứt, các vì sáng vào ngày thứ tư, và sự phát triển của những vì sáng này cho đến cuối Kinh Thánh, trong đó, hai chương cuối nói rằng: “Sẽ không có ban đêm”. Cuối cùng, chính Đức Chúa Trời là Sự Sáng cho những người được chuộc của Ngài. Là những người được chuộc trong Giê-ru-sa-lem Mới, chúng ta sẽ không cần mặt trời, mặt trăng hay bất kỳ sự sáng nào. Sự Sáng sẽ là chính Đức Chúa Trời. Do đó, hạt giống về sự sáng được gieo trong Sáng Thế Ký chương 1 đã phát triển đầy đủ trong Khải Thị chương 22.

Cùng một nguyên tắc, chúng ta có từ “hình ảnh”. “Đức Chúa Trời tạo nên con ngườitheo hình ảnh Ngài”. Hình ảnh của Đức Chúa Trời là để biểu lộ của Đức Chúa Trời.Biểu lộ Đức Chúa Trời chính là làm hiển lộ sự vinh hiển của Ngài. Từ “hình ảnh” nhỏ bé này được phát triển và tiếp tục phát triển cho đến cuối Kinh Thánh, đã trở thành Giê-ru-sa-lem Mới. Toàn bộ Thành có dáng vẻ của bích ngọc (Khải. 21:11). Nếu đọc Khải Thị 4:3, anh em có thể thấy Đấng ngự trên ngai trông giống như bích ngọc. Dáng vẻ của Đức Chúa Trời giống như bích ngọc. Cuối cùng, toàn thể Thành Giê-ru-sa-lem Mới được xây bằng bích ngọc. Tường thành cũng được xây bằng bích ngọc (Khải. 21:18a). Từ mọi góc cạnh, từ mọi hướng và từ mọi phía, Giê-ru-sa-lem Mới đều có dáng vẻ của Đức Chúa Trời. Đó là sự biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời.

Sáng nay, đang khi đọc-cầu nguyện Lời, Anh Al đã hỏi tôi về bốn sinh vật trong Ê-xê-chi-ên 1:5,10 và Khải Thị 4:6-7. Trong Ê-xê-chi-ên, mỗi sinh vật có bốn mặt: phía trước là mặt người, phía sau là mặt chim ưng, mặt sư tử ở bên hữu và mặt bò ở bên tả.Tuy nhiên, nếu đi tiếp từ Ê-xê-chi-ên đến Khải Thị chương 4, anh em thấy có khác nhau một chút. Ở đó, mỗi một trong bốn sinh vật chỉ có một mặt. Sinh vật thứ nhứt không phải là người nhưng là sư tử. Sinh vật thứ hai không phải là bò đực nhưng là bê con. Anh em biết sự khác nhau giữa bò đực và bê con. Bò đực thì lớn tuổi hơn. Điều này thật kỳ lạ. Theo ý kiến tôi, bò trong Ê-xê-chi-ên nên là bê con, còn bê con trong Khải Thị nên là bò đực –con trước phải trẻ hơn, rồi mới đến con già hơn. Nhưng Kinh Thánh đề cập con lớn hơn trước rồi đến con nhỏ hơn –đầu tiên là bò đực, rồi đến bê con. Tôi xin nói với anh em, chúng ta, Cơ-đốc nhân, sẽ không trở thành già hơn, mà là trẻ hơn. Càng lớn lên, chúng ta càng trẻ lại.

Trong Sách Khải Thị, sư tử là sinh vật thứ nhứt, bê con là thứ hai, người là thứ ba và chim ưng là thứ . Anh Al hỏi tôi vì sao có sự khác nhau như vậy giữa Ê-xê-chi-ên và Khải Thị. Lý do là thứ tự của các sinh vật trong Khải Thị là theo thứ tự của bốn Sách Phúc Âm. Trong Ma-thi-ơ, chúng ta có sư tử, tức vua. Trong Mác, chúng ta có tôi tớ, nô lệ, tức bê con. Trong Lu-ca, chúng ta có con người. Trong Giăng, chúng ta có Đức Chúa Trời, chim ưng bay cao. Điều này có ý nghĩa gì? Bốn sinh vật trong Ê-xê-chi-ên, nói cách chính xác, là sự hiển lộ vinh hiển của Đức Chúa Trời. Trong kỳ Hội Đồng về Sách Ê-xê-chi-ên, chúng tôi đề cập đến Ê-xê-chi-ên chương 1, và đã thấy bốn sinh vật là sự hiển lộ của vinh hiển Đức Chúa Trời là thế nào rồi. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời là gì? Đó là Đấng Christ. Khi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời được hiển lộ, đó là Đấng Christ. Nhưng xin lưu ý sự khác biệt. Bốn sinh vật trong Ê-xê-chi-ên là sự hiển lộ vinh hiển của Đức Chúa Trời. Bốn sinh vật trong Khải Thị là sự biểu lộ của chính Đấng Christ. Có một sự tiến bộ từ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đến chính Đấng Christ. Vì thế, trong Khải Thị, diện mạo của bốn sinh vật giống như bốn Sách Phúc Âm. Điều này nghĩa là bốn sinh vật trong Khải Thị chính là sự biểu lộ của Đấng Christ. Tôi không nói bốn sinh vật  Đấng Christ. Bốn sinh vật không phải là Đấng Christ, nhưng là sự biểu lộ Đấng Christ. Bốn sinh vật đó biểu lộ những gì Đấng Christ là. Đấng Christ ở trong bốn phương diện: vua, nô lệ, con người, và chính Đức Chúa Trời. Đấng Christ mang bốn phương diện này, và Đấng Christ này cần một sự biểu lộ trong cõi thọ tạo của Ngài.Do đó, trong vũ trụ này có bốn sinh vật, đại diện cho mọi loại sự sống trên mọi bình diện, để biểu lộ Đấng Christ.

Mọi điều trong Sáng Thế Ký chương 1, ngoại trừ sự tối tăm, những dòng nước sự chết và loài bò sát, đều là Đấng Christ. Linh đã đến để ấp ủ. Đó là Đấng Christ. Đấng Christ là Linh. Đấng Christ cũng là Lời. Sự sáng đã xuất hiện. Sự Sáng này là Đấng Christ. Chắc chắn, không khí là Đấng Christ. Linh là Đấng Christ và Lời là Đấng Christ, sự sáng là Đấng Christ và không khí là Đấng Christ. Đất khô là Đấng Christ. Cỏ là Đấng Christ vì Đấng Christ là Đồng Cỏ xanh tươi. Cây thân thảo là Đấng Christ.Đấng Christ là bắp, lúa mì, hoa phụng tiên và đủ loại cây hoa đẹp. Mọi cây thân mộc đều là Đấng Christ. Đấng Christ là Cây Ô-liu, Cây Vả, Cây Nho, Cây Sự Sống. Cá cũng là Đấng Christ. Với năm ổ bánh và hai con cá, Đấng Christ đã cho năm ngàn người ăn. Phần lớn Cơ-đốc nhân chỉ quan tâm đến năm ổ bánh, quên mất hai con cá.Tuy nhiên, Đấng Christ không những là năm Ổ Bánh, mà cũng là hai Con Cá, tức là điều gì đó từ những dòng nước sự chết để nuôi dưỡng chúng ta. Đấng Christ cũng là các loài chim. Ngài là Chim Ưng. Xuất Ai-cập Ký 19:4 nói rằng Đấng Christ là Chim Ưng Lớn, chở con cái Ítx-ra-ên trên hai cánh Ngài. Là Chim Ưng Lớn, Ngài đã giải cứu dân Ngài ra khỏi Ai-cập. Một ngày nọ, Đấng Christ nói rằng Ngài là Gà Mái Lớn. Cuối Ma-thi-ơ chương 23 (c. 37), Ngài phán: “Ta là Gà Mái. Ta muốn túc (nhóm họp) tất cả các ngươi dưới cánh, nhưng các ngươi chẳng khứng đến cùng Ta”. Đấng Christ là Gia Súc, Bò Đực, Bê, Bò Cái, Chiên, Chiên Con. Đấng Christ cũng là Sư Tử (Khải. 5:5). Cuối cùng, Đấng Christ là Con Người, A-đam Thật. Đấng Christ cũng là Mặt Trời, Sao Mai, và Nguồn Sáng Thật của ánh trăng. Trong chương 1 của Sáng Thế Ký, mọi sự là Đấng Christ và Đấng Christ là mọi sự.

 Nếu chỉ vui hưởng Đấng Christ là cỏ, anh em không đủ điều kiện để biểu lộ Ngài.Nếu vui hưởng Ngài là cây thân thảo và mọi loài cây thân mộc, anh em vẫn không đủ điều kiện. Mặc dầu có thể vui hưởng Đấng Christ như cá, anh em vẫn chưa đủ điều kiện để biểu lộ Ngài. Mặc dầu có thể vui hưởng Đấng Christ nhiều, anh em vẫn chưa đủ điều kiện để biểu lộ Ngài. Anh em phải tiến triển từ tất cả những mức độ của sự sống này cho đến mức độ của sự sống loài chim. Khi đó, anh em bắt đầu có đủ điều kiện để biểu lộ Đấng Christ.

Sự sống loài chim là một trong bốn loại sự sống được đại diện trước ngai Đức Chúa Trời. Như tôi đã đề cập tối qua, trong chín loại sự sống trong Sáng Thế Ký chương 1, chỉ bốn loại được đại diện trước ngai Đức Chúa Trời. Chín loại sự sống đó là: cỏ, cây thân thảo, cây thân mộc, cá, chim, gia súc, thú vật, loài bò sát, và con người.

Trong chín loại này, chỉ có bốn –chim, gia súc, thú vật và con người– có đủ điều kiện để biểu lộ Đấng Christ. Cỏ không đủ điều kiện. Cỏ thì tốt, nhưng là loại sự sống ở mức thấp nhất. Cây thân thảo, cây thân mộc hay cá đều không đủ điều kiện. Dĩ nhiên, mọi loài bò sát đều bị loại bỏ cho đến đời đời. Chúng đi xuống Hồ Lửa.

Chỉ có loài chim, gia súc, thú vật và con người là có gương mặt khác hẳn. Gương mặt là dáng vẻ bên ngoài của bản thể bề trong anh em. Những gì anh em là ở bên trong được biểu lộ ra bên ngoài qua gương mặt. Như tôi đã đề cập trước đó, cỏ, cây thân thảo, cây thân mộc không có gương mặt. Cá có gương mặt, nhưng mặt của chúng không phân biệt được. Và cá không có cổ. Chúng ta cần một cái cổ dài hơn để làm cho mặt chúng ta dễ nhận ra hơn. Trong chín loại này, chỉ có bốn loại có vẻ mặt khác hẳn, và trong bốn loại này, mặt người là tốt đẹp nhất, cao trọng nhất và khác biệt nhất. Thử so sánh mặt anh em với mặt của chim ưng, bê con hay sư tử. Anh em sẽ thấy mặt mình dễ nhìn hơn. Tại sao? Vì sự sống con người bên trong anh em đặc biệt hơn sự sống của chim, gia súc và thú vật.

Theo gia tể của Đức Chúa Trời, Đấng Christ có bốn phương diện. Ngài là Con Người, nhưng Ngài phục vụ mọi người như một Bê Con. Ngài là một Người, nhưng Ngài đánh trận, chỉ huy và nắm quyền cai trị như một Sư Tử. Ngài là một Người, nhưng Ngài có thể bay xa, bay cao như một Chim Ưng. Dầu cần sự sống con người để biểu lộ Đấng Christ, chúng ta vẫn cần sự sống của bò, sự sống của sư tử, và sự sống của chim ưng. Khi có đủ bốn loại sự sống này, chúng ta có thể biểu lộ Đấng Christ cách đầy đủ.

Bây giờ chúng ta có thể thấy rằng từ “hình ảnh” nhỏ bé trong Sáng Thế Ký chương 1 đã trải qua sự phát triển lớn. Chúng ta không những có bốn sinh vật biểu lộ Đấng Christ trong bốn phương diện mà cuối cùng, chúng ta có Giê-ru-sa-lem Mới, một Thành cao với hình ảnh của Đức Chúa Trời biểu lộ Đấng Christ. Đức Chúa Trời trông giống như bích ngọc, và dáng vẻ của Giê-ru-sa-lem Mới cũng như bích ngọc, cùng một dáng vẻ của Đức Chúa Trời. Đây là sự hoàn thành Sáng Thế Ký 1:26. Ha-lê-lu-gia! Ha-lê-lu-gia!

 

BÀI BẢY

S Phục Hồi Và Sáng Tạo Thêm 
Của Đức Chúa Trời

 (4)

Mục Đích

Chúng ta đã thấy con người là trung tâm trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, và sự sống con người là sự sống thọ tạo cao nhất. Chúng ta không nên quên chín điều thuộc sự sống được đề cập trong Sáng Thế Ký chương 1: đó là cỏ, cây thân thảo, cây thân mộc, cá, chim, gia súc, thú vật, loài bò sát, và con người. Con người là sự sống thọ tạo cao nhất. Theo lời chép trong Sáng Thế Ký chương 1, khi đến thời điểm tạo nên con người, Đức Chúa Trời tổ chức một hội nghị. Hội nghị này giữa Thần Cách rất ấn tượng. Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy…”. Điều này hoàn toàn có ý nghĩa. Ba Thân Vị của Đấng Tam–Nhất đều cần thiết cho sự tạo nên con người. Những Sách tiếp theo của toàn bộ Kinh Thánh phát triển chủ đề về công tác của Đức Chúa Trời Tam–Nhất trên con người. Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy làm nên người như hình ảnh Chúng Ta, theo hình dạng Chúng Ta”. Sau đó, Đức Chúa Trời phán: “Hãy để họ”. Đức Chúa Trời không nói nhiều người; Ngài nói người. Người là danh từ số ít, còn họ là đại từ số nhiều. “Chúng ta hãy làm nên người… Hãy để họ…”. Có một Đức Chúa Trời hay nhiều Đức Chúa Trời? Có một người hay nhiều người? Đức Chúa Trời của chúng ta là Duy Nhất mà là Ba. Con người là một mà là tập thể. Ha-lê-lu-gia! Đừng bao giờ quên hai từ “hãy” trong Sáng Thế Ký 1:26. Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy” và Đức Chúa Trời phán: “Hãy để họ”. Từ “Chúng Ta” bày tỏ rằng Đức Chúa Trời duy nhất là Tam–Nhất; từ “họ” bày tỏ rằng con người duy nhất này là tập thể. Đức Chúa Trời Tam–Nhất đã tạo dựng một con người tập thể.

2)  Để Con Người 
Thi Hành Sự Quản Trị Của Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy làm nên con người theo hình ảnh Chúng Ta… và để họ quản trị…”. Đức Chúa Trời đã tạo nên một người tập thể để thi hành sự quản trị của Ngài (Sáng. 1:26-28). Từ liệu sự quản trị bao hàm nhiều điều hơn chỉ là uy quyền. Sự quản trị nghĩa là có uy quyền để cai trị và để lập một vương quốc. Sự quản trị nghĩa là có vương quốc như một phạm vi để thực hiện uy quyền. Nếu tôi có uy quyền mà không có phạm vi để cai trị, thì tôi không có quyền quản trị. Đức Chúa Trời phán: “Để con người quản trị”. Con người được ban cho quyền quản trị trên muôn vật. Hãy nhớ các lời này ‘hình ảnh và sự quản trị’ và gạch chân hai từ nầy trong Kinh Thánh.

Rất ít Cơ-đốc nhân quan tâm đến từ ‘sự quản trị’ khi đọc Sáng Thế Ký chương 1. Chúng ta cần xem xét các từ “hình ảnh” và “sự quản trị” thêm một ít. Hình ảnh là sự bày tỏ. Đức Chúa Trời đã tạo nên con người theo hình ảnh Ngài với ý định để con người có thể bày tỏ Ngài. Đức Chúa Trời không thấy được, khao khát được bày tỏ. Ngài cần một sự bày tỏ. Sự quản trị có nghĩa là Vương Quốc, uy quyền. Con người được làm nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời để bày tỏ Đức Chúa Trời, và được ban cho uy quyền để đại diện Đức Chúa Trời và để quản trị. Chúng ta là sự bày tỏ của Đức Chúa Trời và đại diện của Đức Chúa Trời. Đặc biệt, những người trẻ cần nắm vững hai từ này với hai sự khải thị cơ bản: hình ảnh và sự quản trị. Mục đích sự phục hồi và sáng tạo thêm của Đức Chúa Trời có hai phương diện: có được con người tập thể để bày tỏ Đức Chúa Trời, và để con người tập thể này thi hành sự quản trị của Ngài.

a) Lĩnh Vực

Việc quản trị này bao gồm một lĩnh vực hay một phạm vi. Có ba điều liên hệ đến lĩnh vực này:

(1) Trên Mọi Vật Trong Biển

Con người phải thi hành quyền quản trị trên biển. Biển là chỗ ở của các quỉ (Mat. 8:32; 12:43). Do đó, phạm vi quản trị của Đức Chúa Trời phải bao gồm biển.

2) Trên Mọi Vật Trên Không

Con người phải thi hành quyền quản trị mọi vật trên không, là nơi ở của Sa-tan và các thiên sứ của hắn (Êph. 2:2; 6:12). Trên không trung có những quyền lực gian ác, với Sa-tan là đầu. Ê-phê-sô 2:2 mô tả Sa-tan là bá chủ của quyền lực chốn không trung.

3) Trên Mọi Vật Trên Đất

Con người phải thi hành quyền quản trị trên mọi vật dướiđất, tức lĩnh vực thuộc về hoạt động của Sa-tan. Sa-tan rất năng động trên đất (Lu. 4:5-6). Vì vậy, ở đây, trong Sáng Thế Ký 1:26, đặc biệt nói rằng con người có quyền quản trị “trên khắp đất”. Trái đất đã bị Sa-tan chiếm đoạt. Vì vậy, trái đất cần được con người, tức đại diện của Đức Chúa Trời, cai trị.

Xin nhớ rằng lĩnh vực thuộc sự quản trị của Đức Chúa Trời mà Ngài ủy thác cho con người bao gồm ba phần: biển –chỗ ở của các quỉ; không trung –chỗ ở của Sa-tan và các thiên sứ của hắn; trái đất –phạm vi hoạt động của Sa-tan.

Khi Chúa Jesus sống trên đất, Ngài đã xử lý Sa-tan, các thiên sứ sa ngã, hay các quỷ, bất cứ nơi nào Ngài đến. Đó là lý do vì sao Chúa Jesus quở gió và sóng biển trong cơn bão tố. Gió đến từ các thiên sứ sa ngã trên không trung, và sóng biển đến từ các quỷ ở dưới nước. Chúa bảo gió: “Hãy dừng lại”, và bảo sóng biển: “Hãy yên lặng”. Lập tức gió dừng lại và sóng biển êm lặng như tờ. Các thiên sứ sa ngã và các quỷ bị Chúa Jesus bắt phục và cai trị. Nếu biết cách đọc Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy trong bốn Sách Phúc Âm, Chúa thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời trên biển, không trung và trái đất. Đây là lĩnh vực thuộc sự quản trị của Đức Chúa Trời mà Ngài ủy thác cho con người.

 (b) Ý Định

Quyền quản trị của Đức Chúa Trời không những có lĩnh vực mà cũng có ý định. Ý định của Đức Chúa Trời là gì khi ban cho con người quyền quản trị?

(1) Để Xử Lý Kẻ Thù Của Đức Chúa Trời

Phương diện đầu tiên trong ý định của Đức Chúa Trời là xử lý Sa-tan, kẻ thù của Ngài, được tiêu biểu bởi loài bò sát (Sáng. 1:26). Trong Kinh Thánh, loài bò sát là thuộc về các quỷ, thuộc về Kẻ Ác, và thuộc về Sa-tan. Trong bài vừa rồi, chúng tôi đã chỉ ra rằng chỉ có bốn loài sinh vật, đại diện cho toàn cõi thọ tạo, được đứng trước ngai Đức Chúa Trời là chim ưng, bò, sư tử và con người. Không một loài bò sát nào như rắn hay bò cạp được đại diện trước mặt Đức Chúa Trời. Trong Kinh Thánh, Sa-tan được tượng trưng bởi con rắn (Sáng. 3:1). Trong Khải Thị 12:9, Sa-tan được gọi là “Con Rắn Già (Xưa)”. Hắn đã trở nên già vì lần hắn xuất hiện đầu tiên là trong Sáng Thế Ký chương 3.

Trong sự sáng tạo nguyên thủy của Đức Chúa Trời, Ngài chỉ có một mục đích là bày tỏ chính Ngài. Do sự phản loạn của Sa-tan, bây giờ Đức Chúa Trời có một mục đích khác –xử lý kẻ thù của Ngài. Khi Đức Chúa Trời tạo nên con người, Ngài có cả hai mục đích này. Vì vậy, Ngài tạo nên con người theo hình ảnh Ngài để con người có thể bày tỏ Ngài và Ngài ban quyền quản trị cho con người để con người có thể xử lý kẻ thù của Ngài. Cả hai điều này phải được hoàn thành. Chúng ta cần hình ảnh của Đức Chúa Trời để bày tỏ Ngài và cần quyền quản trị của Đức Chúa Trời để chinh phục kẻ thù của Ngài.

Chúng ta cần bày tỏ Đức Chúa Trời và xử lý Sa-tan trong đời sống gia đình của mình. Nhiều khi người chồng về nhà thì lập tức người vợ không bày tỏ Đức Chúa Trời. Chị biểu lộ con rắn. Gương mặt chị có sự biểu lộ của một con rắn quỉ quyệt. Nhiều khi, người chồng cũng biểu lộ con rắn. Tôi biết điều này bởi kinh nghiệm. Thỉnh thoảng, khi thấy Sa-tan được biểu lộ trong các thành viên của gia đình, tôi không nói lời nào. Tôi vào phòng, quì xuống và cầu nguyện: “Chúa ôi, xin cột trói con rắn”. Nhiều khi, tôi nhận thức rằng chính mình cũng đang biểu lộ con rắn. Một lần nữa, tôi bỏ chạy để cầu nguyện: “Ô Chúa, xin tha thứ con. Xin cột trói con rắn”. Nhiều khi, uy quyền thần thượng của Đức Chúa Trời không được thực thi. Thay vào đó, quyền lực gian ác của Sa-tan được biểu lộ. Gần đây, tôi biết rằng nhiều anh em trẻ đang sống trong nhà sinh viên. Tuy nhiên, tôi e rằng ngay cả trong nhà tập thể này, hình ảnh của Sa-tan vẫn có thể được biểu lộ chứ không phải hình ảnh của Đức Chúa Trời; rằng quyền lực của Kẻ Ác chứ không phải uy quyền của Đức Chúa Trời, sẽ được thực thi. Tất cả chúng ta phải nhận thức rằng ngày nay Đức Chúa Trời phải hoàn thành mục tiêu hai mặt là bày tỏ chính Ngài và xử lý kẻ thù của Ngài. Thực ra, đó không phải là chồng của chị em nổi nóng mà chính là con rắn. Thực ra, đó không phải là vợ anh em nói điều gì đó chọc giận mình mà chính là con rắn. Đừng giải quyết với chồng và cũng đừng giải quyết với vợ. Không phải lỗi của họ. Chúng ta phải xử lý con rắn ở phía sau họ. Lời qua tiếng lại không bao giờ có thể xử lý Sa-tan. Càng tranh luận, Sa-tan càng chiếm nhiều chỗ. Cách duy nhất để xử lý Sa-tan là quỳ gối, cầu nguyện, kêu cầu danh Jesus và xin Ngài cột trói con rắn.

(2) Để Khôi Phục Trái Đất

Phương diện thứ hai trong ý định của Đức Chúa Trời khi ban quyền quản trị cho con người là khôi phục trái đất (Sáng. 1:26-28). Con người có quyền quản trị, bắt phục và chinh phục trái đất. Chinh phục trái đất nghĩa là kẻ thù đã ở đó rồi và cuộc chiến đang diễn ra ác liệt. Do đó, chúng ta phải chiến đấu và chinh phục.

Các bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào hôn nhân cần nhận thức rằng hôn nhân là một cuộc chiến. Nhiều người trong chúng ta biết điều này qua kinh nghiệm. Ngay cả trong tuần trăng mật, chúng ta cũng đang ở trên chiến trường, chiến đấu với chồng hay với vợ mình. Nếu không phải là đánh nhau bên ngoài, thì cũng là đang đánh nhau bên trong. Mỗi lĩnh vực của đời sống –đời sống học đường, đời sống công sở, đời sống gia đình– là một chiến trường. Kẻ thù không bao giờ ngủ. Suốt ngày hắn luôn rình rập, không chỉ trong đời sống gia đình mà còn trong nếp sống Hội Thánh. Ngay cả trong nếp sống Hội Thánh, Sa-tan và các sứ giả của hắn cũng rất bận rộn. Trên đất đang diễn ra một cuộc chiến ác liệt. Ý định của Đức Chúa Trời là khôi phục trái đất.

Trái đất đã và vẫn đang bị Sa-tan chiếm đoạt. Hãy nhìn vào xã hội hôm nay. Hãy nhìn thấy cách mà kẻ thù vẫn đang chiếm đoạt cả trái đất.

Đức Chúa Trời muốn chiếm lại trái đất này. Trái đất đã trở thành một chiến trường trọng yếu, nơi Sa-tan muốn nắm giữ, và cũng là nơi Đức Chúa Trời muốn chiếm lại. Trận chiến diễn ra khắp đất. Hễ ai chiếm được đất thì ấy là kẻ chiến thắng. Nếu Sa-tan có thể nắm giữ trái đất trong tay, hắn đã giành chiến thắng. Nếu Đức Chúa Trời có thể chiếm lại trái đất, Ngài sẽ giành chiến thắng. Chúa Jesus chưa trở lại vì trái đất vẫn còn ở dưới sự chiếm đoạt của Sa-tan quá nhiều. Đó là lý do vì sao Đức Chúa Trời cần Hội Thánh. Hội Thánh phải đánh trận để chiếm lại trái đất, nếu không phải cả trái đất thì ít nhất là một số bàn đạp, một số tiền đồn để Chúa Jesus đặt chân. Trái đất thật quan trọng.

Vấn đề này đã được chứng tỏ đầy đủ qua Thi Thiên 8. Thi Thiên 8 bắt đầu bằng cách nói “Hỡi Đức Giê-hô-va là Chúa chúng tôi, danh Chúa được sang cả trên khắp trái đất biết bao!”. Thi Thiên này cũng kết thúc giống như vậy. Chắc chắn danh Chúa là vượt trỗi trên các từng trời, nhưng theo một ý nghĩa, danh Chúa không được vượt trỗi trên trái đất này. Danh Ngài không vượt trỗi giữa vô số những người sa ngã. Chúng ta cần cầu nguyện: “Danh Cha được tôn thánh” (Mat. 6:9). Ô, danh Chúa phải được biệt ra thánh trên đất này. Nan đề không ở trên các từng trời mà ở đây, tức trên trái đất.

Đức Chúa Trời khao khát Vương Quốc Ngài đến trên trái đất và ý chỉ Ngài sẽ được thực hiện trên đất (Mat. 6:10). Bây giờ chúng ta có thể hiểu lời cầu nguyện mà Chúa Jesus đã dạy. Ngài phán: “Nguyện danh Cha được tôn thánh. Nước Cha được đến”. Chắc chắn điều này có nghĩa là từ các từng trời xuống đất… Lời cầu nguyện này tiếp tục: “Ý Cha được nên, ở đất như ở trời”. Ý chỉ của Đức Chúa Trời hiện đang được thực hiện trên trời. Nhưng trên đất có nhiều sự ngăn trở, cản trở việc thực hiện ý chỉ của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải cầu nguyện: “Nguyện danh Cha được tôn thánh. Nước Cha được đến. Ý Cha được nên, ở đất như ở trời”. Chúng ta phải chiến đấu để khôi phục trái đất.

Vào thời đại Ngàn Năm, trái đất sẽ trở nên Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Điều này được bày tỏ trong Khải Thị 11:15. Khi Chúa Jesus đến để mở ra thời đại Ngàn Năm, cả trái đất sẽ trở nên Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Khi đó trái đất sẽ được Đức Chúa Trời chiếm lại.

Trong cõi đời đời, nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời từ trời sẽ xuống đất mới (Khải. 21:1-2). Nhiều Cơ-đốc nhân mơ ước lên thiên đàng. Đó là giấc mơ tốt và chắc chắn hết thảy chúng ta đều sẽ ở đó. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời khao khát từ trời xuống đất. Chúng ta thích các từng trời nhưng Đức Chúa Trời thích trái đất. Chúng ta sẽ đi lên, nhưng Ngài sẽ đi xuống. Ha-lê-lu-gia! Tôi xin nói cho anh em sự thật là khi chúng ta lên trời, Chúa sẽ nói “Các con ơi, chúng ta hãy đi xuống. Chúng ta hãy đi xuống tiếp quản trái đất”. Trong cõi đời đời, các từng trời không phải là nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời. Nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời sẽ là Giê-ru-sa-lem Mới, và Giê-ru-sa-lem Mới từ các từng trời sẽ xuống đất mới. Điều này chứng tỏ khát vọng của Đức Chúa Trời là sở hữu trái đất.

Sa-tan, kẻ chiếm đoạt, không những sẽ bị quăng khỏi không trung mà còn bị quăng khỏi trái đất. Theo Khải Thị 12:9, trước hết, Sa-tan từ không trung sẽ bị quăng xuống đất. Sau đó, Sa-tan sẽ bị trói, và từ trái đất, hắn sẽ bị quăng xuống vực sâu không đáy (Khải. 20:2-3). Sẽ không còn mây mù thuộc linh nữa. Chúng ta sẽ có không trung tươi mới, và trái đất được tẩy sạch khỏi mọi ô uế. Điều này sẽ diễn ra trong Thiên Hi Niên. Sa-tan sẽ bị quăng xuống Hồ Lửa (Khải. 20:10). Sau thời đại Ngàn Năm, chúng ta sẽ có cõi đời đời, trong đó nơi cư ngụ đời đời của Đức Chúa Trời sẽ ở trên đất mới. Đức Chúa Trời muốn trái đất.

(3) Để Đem Uy Quyền Của Đức Chúa Trời Đến

Phương diện thứ ba trong ý định của Đức Chúa Trời, khi ban quyền quản trị cho con người, là đem uy quyền của Đức Chúa Trời đến để thực thi uy quyền của Đức Chúa Trời trên khắp đất. Con người phải thực thi uy quyền của Đức Chúa Trời để Vương Quốc của Ngài có thể đến trên đất, hầu ý chỉ của Đức Chúa Trời có thể được thực hiện trên đất và vinh hiển của Đức Chúa Trời có thể được hiển lộ trên đất. Mọi điều này sẽ diễn ra trên đất. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ thỏa lòng nếu chỉ có Vương Quốc của Ngài trên các từng trời. Ngài sẽ không vui nếu ý chỉ Ngài chỉ thành tựu trên các từng trời ,và cũng sẽ không vui nếu chỉ thấy vinh hiển Ngài được tỏ ra trên các từng trời. Ngài muốn tất cả những điều này xảy ra trên đất. Đây là trách nhiệm của Hội Thánh hôm nay. Trong Hội Thánh, chúng ta có Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Trong Hội Thánh, ý chỉ của Đức Chúa Trời được thực hiện. Trong Hội Thánh, vinh hiển của Đức Chúa Trời được hiển lộ. Ha-lê-lu-gia! Chúng ta có tiền vị. Bây giờ, chúng ta có thể biết vì sao Đức Chúa Trời ban cho con người quyền quản trị trên mọi vật trong biển, trên không và trên đất. Ý định của Đức Chúa Trời là kết liễu kẻ thù, chiếm lại trái đất, và làm hiển lộ vinh hiển Ngài.

(4) Sự Hoàn Thành

Điều này đã hoàn thành chưa? Chắc chắn là chưa. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã tạo nên con người cho ý định này. Sa-tan biết rõ điều đó hơn chúng ta nhiều. Kinh Thánh bảo rằng ngay sau khi sáng tạo con người, Sa-tan đã đến làm hủy hoại con người mà Đức Chúa Trời đã dựng nên cho mục đích của Ngài. Con người sa ngã. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời không từ bỏ con người. Chính Ngài đã trở thành người. Ngài đã đến để có thể vào trong con người, làm chính Ngài nên một với con người. Ngài đã đến để làm Người Thứ Hai, tên là Jesus (1Cô. 15:47). Người Thứ Nhất không hoàn thành được mục đích của Đức Chúa Trời; Người Thứ Hai đã hoàn thành. Người Thứ Nhất là một người tập thể, và Người Thứ Hai cũng là một người tập thể. A-đam là đầu của người tập thể thứ nhất, và Đấng Christ là Đầu của người tập thể thứ hai. Mục đích của Đức Chúa Trời được hoàn thành bởi Người Thứ Hai này.

(a) Với Đấng Christ

Sự hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời khi ban quyền quản trị cho con người đã bắt đầu với Đấng Christ.

aa. Khi Đấng Christ Đến, Vương Quốc Của Đức Chúa Trời Đến

Trong Tân Ước, sự rao giảng bắt đầu theo cách khác thường, cách trái với quan niệm của chúng ta. Sự rao giảng đó là: “Hãy ăn năn vì Vương Quốc thiên thượng đã đến gần” (Mat. 4:17). Cụm từ “đã đến gần” có nghĩa là đến. Khi Đấng Christ đến, Vương Quốc Đức Chúa Trời đến. Đấng Christ đem Vương Quốc đến. Con người nhỏ bé Jesus là Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Nhiều Cơ-đốc nhân nghĩ rằng khi Jesus đến thì Vương Quốc chưa đến. Theo quan niệm của họ, khi người Do-thái khước từ Jesus cùng với Vương Quốc, thì Vương Quốc bị tạm ngưng và thời đại Hội Thánh bắt đầu. Họ nghĩ rằng Hội Thánh không phải là Vương Quốc, rằng sau thời đại Hội Thánh, Vương Quốc sẽ được thiết lập vào lúc Jesus tái lâm. Trong Kinh Thánh, có nền tảng nào đó để nói như vậy, và theo một ý nghĩa, điều này đúng, nhưng chỉ đúng một phần. La-mã 14:17 bảo rằng Hội Thánh ngày nay chính là Vương Quốc. Nếp sống Hội Thánh là Vương Quốc. Về một ý nghĩa, người Do-thái đã khước từ Vương Quốc. Một ý nghĩa khác, Chúa đã thiết lập Vương Quốc bằng cách thiết lập Hội Thánh. Chúng ta không bao giờ có thể tách rời Hội Thánh khỏi Vương Quốc. Trong Ma-thi-ơ 16:18, Chúa bảo Phi-e-rơ: “Này Phi-e-rơ, ngươi là viên đá và Ta sẽ xây Hội Thánh Ta trên chính Ta là Vầng Đá này. Các cửa Âm Phủ sẽ không thắng được Hội Thánh này”. Ngay sau điều này (c. 19), Chúa Jesus phán: “Ta sẽ giao các chìa khóa Vương Quốc cho ngươi”. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần và tại nhà của Cọt-nây, Phi-e-rơ đã thiết lập Hội Thánh bằng cách sử dụng chìa khóa Vương Quốc để mở cửa cho cả người Do-thái lẫn người Ngoại bước vào Vương Quốc. Vì vậy, khi Hội Thánh bắt đầu, thì Vương Quốc xuất hiện. Hội Thánh là Vương Quốc. Chắc chắn sẽ có một sự hiển lộ trọn vẹn của Vương Quốc trong tương lai. Nhưng thực tại của Vương Quốc đang ở đây hôm nay. Đó là nếp sống Hội Thánh.

bb. Đấng Christ Đuổi Quỉ Để Đem Vương Quốc Đức Chúa Trời Đến

Bốn Sách Phúc Âm cho thấy rằng bất cứ nơi nào Jesus đến, Ngài đều đối đầu với các quỉ. Jesus không bao giờ dung thứ cho các quỉ mà Ngài đuổi chúng ngay lập tức. Trong Ma-thi-ơ 12:28, Jesus bảo rằng việc Ngài đuổi quỉ là sự đến của Vương Quốc. Đó là quyền quản trị của Đức Chúa Trời. A-đam đã thất bại, không đem Vương Quốc đến; nhưng khi Jesus đến, Ngài đem Vương Quốc đến bởi việc đuổi quỉ. Đuổi quỉ có nghĩa là đem Vương Quốc Đức Chúa Trời đến.

cc. Đấng Christ Ban Cho Môn Đồ Ngài Uy quyền Trên Sức Mạnh Của Kẻ Thù

Đấng Christ cũng ban cho các môn đồ Ngài uy quyền trên cả sức mạnh của Sa-tan. Trong Lu-ca 10:19, Chúa Jesus phán: “Này, Ta ban cho các ngươi uy quyền giày đạp rắn, bò cạp và trên cả sức mạnh của kẻ thù”. Cả rắn lẫn bò cạp đều ở số nhiều, ngụ ý rằng chúng rất nhiều. Trong câu 18 của chương này, chúng ta thấy Sa-tan. Trong câu 20, chúng ta thấy các linh, tức các quỉ. “Rắn” nghĩa là quyền lực của Sa-tan, và “bò cạp” nghĩa là quyền lực của các quỉ. Sa-tan, rắn, và bò cạp, đều có quyền lực nhưng chúng ta có uy quyền. Uy quyền của chúng ta vượt trên quyền lực của chúng. Trên đường phố có nhiều xe hơi [có động cơ] mạnh. Dầu vậy, viên cảnh sát nhỏ bé có uy quyền. Khi cảnh sát ra lệnh: “Dừng lại,” anh em phải dừng lại. Xe hơi có sức mạnh, trong khi cảnh sát có uy quyền. Sa-tan và các quỉ có quyền lực nhưng chúng ta là Cảnh Sát của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải truyền lệnh cho Sa-tan: “Dừng lại!”. Khi Jesus ban uy quyền cho các môn đồ Ngài và họ đã thực thi uy quyền đó để đuổi quỉ, thì họ rất phấn khởi. Tuy nhiên, Chúa Jesus bảo họ rằng: “Chớ mừng trong điều này. Các ngươi hãy vui mừng về điều tốt hơn: ấy là tên các ngươi được ghi trên trời”. Khi Jesus đến, Vương Quốc đến. Khi Jesus đuổi quỉ, Ngài đem Vương Quốc của Đức Chúa Trời đến. Cũng vậy, Jesus thực hiện điều này bởi và qua các môn đồ Ngài. Ngài ban cho họ uy quyền để đuổi quỉ và họ đã thực hiện.

dd. Đấng Christ Nhận Được Mọi Uy quyền

Sau khi phục sinh, Đấng Christ đã nhận được mọi uy quyền trên trời và dưới đất (Mat. 28:18). Là Đức Chúa Trời, Chúa có uy quyền trước khi Ngài phục sinh. Là con người tên Jesus, người Na-xa-rét, Ngài được giao cho mọi uy quyền trên trời, dưới đất sau khi Ngài phục sinh. Jesus là A-đam thật. Quyền quản trị của Đức Chúa Trời đã được giao cho Ngài.

b) Với Hội Thánh, Bao Gồm Các Thánh Đồ

aa. Các Cửa Âm Phủ Không Thể Thắng Được Hội Thánh

Sự hoàn thành ý định của Đức Chúa Trời trong việc ban quyền quản trị cho con người có quan hệ đến Đấng Christ, là Đầu, và Hội Thánh, bao gồm tất cả các thánh đồ, là Thân Thể. Sự hoàn thành ý định của Đức Chúa Trời không chỉ với Đầu mà còn với Thân Thể. Các cửa Âm Phủ không thể thắng được Hội Thánh (Mat. 16:18). Kinh Thánh không nói các cửa Âm Phủ (nghĩa là quyền lực của Sa-tan) không thể thắng được các thánh đồ. Chúng có thể thắng hơn các thánh đồ nếu các thánh đồ sống riêng lẻ hay cá nhân. Anh em cần được xây dựng vào trong Hội Thánh. Thân Thể được xây dựng bằng Đấng Christ không bao giờ bị Sa-tan đánh bại. Sa-tan không bao giờ có thể thắng hơn Hội Thánh được xây dựng.

bb. Thánh Đồ Được Ban Cho Uy Quyền Để Trói Buộc Kẻ Thù

Thánh đồ đã được ban cho uy quyền trói buộc kẻ thù (Mat. 16:19; 18:18). Lời trong Ma-thi-ơ 16:19 được phán cho Phi-e-rơ, còn Lời trong Ma-thi-ơ 18:18 dành cho mọi tín đồ. Giáo Hội Công Giáo công bố rằng Phi-e-rơ có uy quyền đại diện cho Đấng Christ. Họ lấy Ma-thi-ơ 16:19 làm nền tảng cho điều này. Tuy nhiên, phải nói với họ rằng chúng ta cũng có Ma-thi-ơ 18:18. Không những Phi-e-rơ đã được ban cho uy quyền buộc và mở mà chúng ta cũng có. Mỗi tín đồ đã được ban cho uy quyền buộc và mở. Ngày nay, Hội Thánh với tất cả các thánh đồ đều có uy quyền buộc và mở. Nhiều khi chúng ta không chỉ nên cầu nguyện mà cũng nên buộc và mở.

cc. Đức Chúa Trời Sẽ Chà Nát Sa-tan Dưới Chân Các Thánh Đồ

La-mã 16:20 nói “Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ kíp chà nát Sa-tan dưới chân anh em”. Phao-lô nói rằng “sẽ kíp”. Tôi không biết Phao-lô cảm thấy như thế nào khi nói lời này cách đây 1900 năm rồi. Đối với chúng ta, dường như một thời gian dài đã trôi qua. Nhưng chúng ta tin điều này không quá lâu đâu. Chẳng bao lâu nữa, Sa-tan sẽ bị chà nát. Từ chà nát không những có nghĩa là giày đạp hay phá vỡ mà còn có nghĩa là khuất phục. Sa-tan phải ở dưới chân chúng ta. Trong đời sống gia đình, Sa-tan phải ở dưới chân anh em. Trong đời sống hôn nhân, Sa-tan phải ở dưới chân anh em. Trong nếp sống Hội Thánh, Sa-tan phải ở dưới chân anh em. Anh em phải bảo hắn: “Ớ Sa-tan, vị trí của ngươi là ở dưới chân ta”. Ngay bây giờ và tại đây, Sa-tan phải ở dưới chân chúng ta.

dd. Các Thánh Đồ Phải Chiến Đấu Chống Kẻ Thù

2Cô-rin-tô 10:3-5 và Ê-phê-sô 6:11-13 bảo rằng chúng ta phải chiến đấu chống kẻ thù. Không những chiến đấu mà còn phải vật lộn. Vật lộn thì khó hơn chiến đấu. Chúng ta phải vật lộn với các quyền lực gian ác chốn không trung.

ee. Các Thánh Đồ Đắc Thắng Sẽ Có Uy quyền Trên Các Dân

Các thánh đồ đắc thắng sẽ có uy quyền trên các dân (Khải. 2:26-27), và trong Thiên Hi Niên, họ sẽ là các vua đồng trị với Đấng Christ trên khắp đất (Khải. 20:4,6). Bấy giờ, Đức Chúa Trời sẽ cai trị hoàn toàn trái đất này. Đó sẽ là sự hoàn thành điều mà Đức Chúa Trời khao khát có được trong Sáng Thế Ký chương 1.

ff. Tất Cả Thánh Đồ Sẽ Cai Trị Cho Đến Đời Đời

Cuối cùng, tất cả thánh đồ sẽ trị vì như các vua trên đất cho đến đời đời trong Giê-ru-sa-lem Mới. Bấy giờ, Sa-tan, các thiên sứ ác trên không trung, và biển cùng toàn bộ các quỉ sẽ bị quăng vào Hồ Lửa (Khải. 20:10,13-14; Mat. 25:41). Tất cả mọi sự ô uế sẽ được tẩy sạch. Không trung, nước, và trái đất đã bị ô uế. Khi cõi đời đời xuất hiện, tất cả mọi sự ô uế sẽ biến mất. Mọi thứ sẽ trong suốt, và quyền quản trị của Đức Chúa Trời sẽ đến. Uy quyền của Đức Chúa Trời sẽ được thực thi trên đất. Trong lĩnh vực và phạm vi đó, hình ảnh của Đức Chúa Trời sẽ được biểu lộ trọn vẹn và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sẽ được hiển lộ hoàn toàn. Đó là Vương Quốc đời đời, sự quản trị của Đức Chúa Trời.

Sáng Thế Ký chương 1 như một vườn ươm. Mọi hạt giống lẽ thật đã được gieo ở đó. Chúng ta đã thấy từ sự sáng được gieo trong Sáng Thế Ký chương 1 và được phát triển qua toàn bộ Kinh Thánh cho đến Khải Thị 22, tại đó, không cần đến mặt trời, mặt trăng hay bất kỳ ngọn đèn nào. Chính Đức Chúa Trời là Sự Sáng. Cũng vậy, từ hình ảnh lần đầu tiên xuất hiện trong Sáng Thế Ký chương 1 và được phát triển suốt toàn bộ Kinh Thánh cho đến khi chúng ta thấy Giê-ru-sa-lem Mới mang hình ảnh của Đức Chúa Trời, biểu lộ Đức Chúa Trời. Cùng một nguyên tắc, từ sự quản trị cũng cần cả Kinh Thánh để giải thích. Chúng ta bắt đầu từ từ liệu sự quản trị trong Sáng Thế Ký chương 1 đến Khải Thị 22:5, tại đó chúng ta thấy toàn thể các thánh đồ sẽ trị vì với Đức Chúa Trời cho đến đời đời. Đó sẽ là sự hoàn thành chung cuộc sự quản trị của Đức Chúa Trời.

Con người được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời để biểu lộ Ngài, và được ban cho quyền quản trị của Đức Chúa Trời để đại diện Ngài và để xử lý kẻ thù của Ngài. Ngày nay, Hội Thánh chiếm phần lớn trong Người Thứ Hai này. Về mặt tích cực, trách nhiệm và là nhiệm vụ của Hội Thánh là biểu lộ Đức Chúa Trời, và về mặt tiêu cực,  chinh phục kẻ thù. Đây là nhiệm vụ của chúng ta. Chúng ta phải gánh trách nhiệm này.

 

 

BÀI TÁM

S Phục Hồi Và Sáng Tạo Thêm 
Của Đức Chúa Trời

 (5)

 S Hoàn Thành Chung Cuộc

d. Sự Hoàn Thành Chung Cuộc

Trong bài này, chúng ta đến sự hoàn thành chung cuộc, đỉnh điểm của Sáng Thế Ký chương 1. Cần nhớ lại các bước khác nhau trong tiến trình phục hồi và sáng tạo thêm của Đức Chúa Trời. Linh ấp ủ trên sự tối tăm và sự chết. Sự sáng đến và có sự phân rẽ giữa sáng và tối. Đức Chúa Trời tạo nên khoảng không để chia những điều ở trên với những điều ở dưới. Kế đến, Đức Chúa Trời truyền cho đất khô lộ ra khỏi những dòng nước sự chết. Từ đất khô ấy sản sinh sự sống thực vật. Sau khi có sự sống thực vật, các-vì-sáng-ngày-thứ-tư xuất hiện để chiếu sáng trái đất. Sau đó xuất hiện sự sống loài cá, sự sống loài chim, sự sống của gia súc, sự sống của thú vật và mọi loài bò sát. Cuối cùng, Đức Chúa Trời tạo nên con người. Con người là đỉnh điểm trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời vì con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Đây không phải là điều nhỏ

1) Đức Chúa Trời Được Biểu Lộ Và Đại Diện

Con người là sự biểu lộ của Đức Chúa Trời vì con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Con người cũng có quyền quản trị của Đức Chúa Trời. Con người được giao quyền quản trị của Đức Chúa Trời trên biển, không trung, trái đất, và đặc biệt, trên mọi loài bò sát. Con người có sức mạnh, uy quyền, và quyền cai trị vì con người giống như Đức Chúa Trời. Con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời; vì thế, con người có uy quyền. Đỉnh cao trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời là con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và đại diện Ngài với uy quyền của Ngài trên muôn vật.

Khi con người nhìn Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời nhìn con người, cả hai rất giống nhau. Nếu tôi lấy tấm ảnh của anh em, anh em giống với tấm ảnh đó, và tấm ảnh đó giống với anh em. Cũng vậy, Đức Chúa Trời có thể phán: “Hỡi con người, ngươi rất giống Ta”. Con người sẽ đáp: “Đức Chúa Trời ơi, Ngài rất giống con. Cả hai rất giống nhau”. Cũng vậy, khi bước ra từ hiện diện của Đức Chúa Trời, con người là người cai trị trên mọi tạo vật. Con người có uy quyền để cai trị. Đó là quyền cai trị, vương quốc.

Hai từ quan trọng trong chương 1 của Sáng Thế Ký là hình ảnh  quyền cai trị. Anh em có thể quên những loài bò sát và cá, nhưng đừng quên con người có hình ảnh và quyền cai trị. Con người không được làm nên theo hình ảnh của rắn hay bò cạp, mà theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Đây là đỉnh điểm: con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời, thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời để duy trì sự quản trị.

Hình ảnh và quyền cai trị được gieo như hai hạt giống trong Sáng Thế Ký chương 1. Tuy nhiên, những hạt giống này cần cả Kinh Thánh để lớn lên và phát triển. Mùa gặt, sự trưởng thành trọn vẹn, được thấy trong Khải Thị chương 21 và 22. Toàn thể Giê-ru-sa-lem Mới biểu lộ Đức Chúa Trời, mang dáng vẻ của Đức Chúa Trời. Giê-ru-sa-lem Mới cũng thi hành uy quyền thần thượng của Đức Chúa Trời để duy trì quyền cai trị của Đức Chúa Trời cho đến đời đời. Ngày nay, hai hạt giống này đang lớn lên trong anh em và tôi. Hình ảnh của Đức Chúa Trời và uy quyền của Đức Chúa Trời đang liên tục lớn lên bên trong chúng ta

Hãy xem trường hợp của một cặp vợ chồng trẻ. Chồng yêu vợ và vợ yêu chồng. Dù yêu chồng, người vợ vẫn thầm nhủ: “Dù mình yêu chồng, nhưng anh ấy chỉ là một thanh niên hư hỏng”. Nói với người vợ này rằng chồng là đầu vợ là điều chỉ đúng theo giáo lý. Tuy nhiên, người vợ này sẽ nói trong lòng rằng: “Tôi biết chồng là đầu vợ, nhưng thực tế anh ấy là một thanh niên hư hỏng. Tôi khó mà tôn trọng anh ấy được”. Một ngày nọ, người chồng này được cứu và sự sống thần thượng được truyền vào trong anh. Đây là hạt giống và hạt giống này lớn lên trong người trẻ này từng ngày, từng tháng. Có lẽ sau mười tám tháng, người vợ này nhìn chồng và nói “Chắc chắn là tôi phải tôn trọng anh ấy. Trước đây anh ấy chỉ là một thanh niên hư hỏng. Nhưng hôm nay, hãy nhìn anh ấy xem! Anh ấy có một một giá trị nào đó. Anh ấy không còn phóng túng, hời hợt như trước nữa. Anh ấy thật có giá trị”. Chồng không cần phải dùng uy quyền và nói “Em phải biết rằng anh bây giờ là một người chồng Cơ-đốc. Em phải thuận phục anh”. Người chồng không cần nói như vậy. Hễ khi nào người vợ nhìn chồng, cô sẽ nhận thức những lời của anh có trọng lượng, rằng có một điều gì đó quí báu và giá trị ở anh. Tự phát cô tôn trọng anh. Trước đây, cô tranh cãi. Bây giờ cô tôn trọng, xem mọi điều anh nói là đúng đắn vì bây giờ anh mang hình ảnh của Đức Chúa Trời, và từ hình ảnh này toát ra uy quyền thần thượng. Đây là sự cai trị.

Nhiều người đã đọc quyển “Uy Quyền Thuộc Linh” của Anh Nghê Thác Thanh. Họ chỉ lợi dụng quyển sách đó, nói rằng: “Chúng tôi là những trưởng lão của Hội Thánh. Chúng tôi là những người dẫn dắt một nhóm Cơ-đốc nhân. Chúng tôi là uy quyền của Đức Chúa Trời”. Nếu nói như vậy, anh em kể như không còn uy quyền của Đức Chúa Trời. Anh em không mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Khi sống trên đất, Chúa Jesus không bao giờ có bất kỳ thái độ nào với người khác rằng Ngài là uy quyền và người khác phải thuận phục. Ngài không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, khi sống trên đất, Ngài đã mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Ngài cũng có uy quyền của Đức Chúa Trời. Uy quyền luôn luôn toát ra từ hình ảnh.

Sự hoàn thành chung cuộc là Đức Chúa Trời được biểu lộ và đại diện. Không gì có thể cao hơn điều này. Khi Đức Chúa Trời được biểu lộ và đại diện, đó là đỉnh điểm.

Con người đã được làm nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời để có thể biểu lộ Ngài. Đây là vấn đề sự sống. Sự sống với hình ảnh là để biểu lộ của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban cho con người quyền cai trị muôn vật để con người có thể đại diện Ngài. Đây là vấn đề uy quyền. Nếu muốn đại diện Đức Chúa Trời với uy quyền, anh em cần biểu lộ Đức Chúa Trời trong sự sống. Toàn bộ Kinh Thánh chỉ là một chuyện kể về các thánh đồ là những người biểu lộ và đại diện Đức Chúa Trời. Bây giờ chúng ta cần xem 18 trường hợp bao gồm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước.

a) Trường Hợp Của Áp-ra-ham

Chúng ta bắt đầu với Áp-ra-ham. Điều này không có nghĩa là trước Áp-ra-ham không có người nào biểu lộ Đức Chúa Trời. Ít ra có ba người –A-bên, Hê-nóc và Nô-ê. Tuy nhiên, nếu đọc lịch sử của họ, chúng ta không tìm thấy sự ghi chép nào nói rằng họ đã chiến thắng kẻ thù hay chinh phục điều gì. Mãi cho đến Áp-ra-ham, Kinh Thánh không chép về người nào đã chinh phục được kẻ thù. Áp-ra-ham đã dựng một bàn thờ để có thể tiếp xúc Đức Chúa Trời (Sáng. 12:7). Càng tiếp xúc Đức Chúa Trời, anh em càng mang hình ảnh của Ngài. Càng nhìn xem Đức Chúa Trời, anh em sẽ càng giống Ngài. Dựng bàn thờ với mục đích tiếp xúc Đức Chúa Trời nghĩa là ngày càng biến đổi theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham đã không xây tháp. Người dân tại Ba-bên không xây bàn thờ để tiếp xúc Đức Chúa Trời mà đã xây một tháp để làm mình nổi danh (Sáng. 11:4). Đó là sự tự cao. Tuy nhiên, Áp-ra-ham đã được gọi ra khỏi môi trường đó; ông đã dựng một bàn thờ nhỏ, và tại đó, tiếp xúc Đức Chúa Trời. Càng tiếp xúc Đức Chúa Trời, ông càng giống Ngài. Kinh Thánh cho biết rằng cuối cùng, Đức Chúa Trời trở thành bạn của Áp-ra-ham, và Áp-ra-ham được gọi là bạn của Đức Chúa Trời (Gia-cơ 2:23). Nếu đọc Sáng Thế Ký chương 18, anh em sẽ thấy rằng Đức Chúa Trời không đến với Áp-ra-ham như là Đấng Sáng Tạo hay Đức Chúa Trời Toàn Năng mà như một Người Bạn. Đức Chúa Trời và Áp-ra-ham có sự tương giao giống như hai người bạn đang nói chuyện với nhau. Vào lúc đó, Áp-ra-ham càng giống Đức Chúa Trời hơn. Vì thế, chúng ta được bảo rằng Áp-ra-ham đã chinh phục và đánh bại kẻ thù (Sáng. 14:17).

b) Trường Hợp Của Giô-sép.

Giô-sép là nhân vật cuối cùng có tiểu sử được ghi lại trong Sáng Thế Ký. Ông đã sống đời sống thánh khiết và đắc thắng (Sáng. 39:11-12). Ông đã sống cuộc đời rất giống với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là thánh khiết; Giô-sép là thánh khiết. Đức Chúa Trời đắc thắng; Giô-sép cũng đắc thắng. Giô-sép mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Ông là người hoàn thành ý định của Ngài. Câu chuyện về Giô-sép là câu chuyện về một đời sống thánh khiết và đắc thắng, đời sống mà cuối cùng trở nên uy quyền cai trị. Giô-sép đã cai trị trên cả Ai-cập (Sáng. 41:39-45). Trong Sáng Thế Ký chương 1, chúng ta thấy một người được Đức Chúa Trời tạo nên theo hình ảnh Ngài và được giao quyền cai trị của Đức Chúa Trời. Trong vài chương cuối của Sáng Thế Ký, chúng ta cũng thấy một người thực sự biểu lộ Đức Chúa Trời, đại diện Ngài, và cai trị khắp đất.

c) Trường Hợp Của Môi-se

Môi-se không phải là chính trị gia đại tài. Ông là người tiếp xúc Đức Chúa Trời. Sau khi tiếp xúc Đức Chúa Trời, mặt ông sáng ngời vinh hiển thần thượng (Xuất. 34:29-30). Khi mặt Môi-se sáng ngời vinh hiển của Đức Chúa Trời, ông mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Do đó, Môi-se trở thành một người có uy quyền. Ông có uy quyền cai trị trên cả nhà Ítx-ra-ên (Hêb. 3:2,5). Ông cũng có uy quyền để đánh bại kẻ thù (Xuất. 14:30-31). Ông không chiến đấu bằng súng máy hay bom nguyên tử, nhưng bằng cây gậy nhỏ. Cây gậy nhỏ này không những đại diện cho quyền năng mà cũng đại diện cho uy quyền. Môi-se đã dùng cây gậy này và phán với Biển Đỏ: “Hãy mở đường”. Những dòng nước liền rẽ ra. Đó là uy quyền. Môi-se là người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và đại diện Đức Chúa Trời với uy quyền thần thượng.

d) Trường Hợp Của Ítx-ra-ên Với Đền Tạm

Sau Môi-se, chúng ta có dân Ítx-ra-ên. Ítx-ra-ên là dân được gọi là vương quốc của các thầy tế lễ (Xuất. 19:6). Ítx-ra-ên không được gọi là vương quốc các vua, nhưng là vương quốc các thầy tế lễ. Chức tế lễ hoàn toàn có liên quan đến hình ảnh của Đức Chúa Trời. Vương quyền có liên quan đến uy quyền của Đức Chúa Trời. Trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, chúng ta có hai chức vụ: chức tế lễ và vương quyền. Chức tế lễ là để tiếp xúc Đức Chúa Trời và có hình ảnh của Ngài; vương quyền là để đại diện Đức Chúa Trời và thi hành uy quyền của Ngài. Sau này, chúng ta sẽ thấy rằng Cơ-đốc nhân đã được kêu gọi để là thầy tế lễ và vua. Phần định của dân Ítx-ra-ên là trở thành vương quốc thầy tế lễ. Họ được định để tiếp xúc Đức Chúa Trời cho đến khi, giống như Môi-se, mặt họ sáng ngời vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đừng nhìn mặt tiêu cực của dân Ítx-ra-ên. Hãy nhìn mặt tích cực. Với Hòm Giao Ước của Đền Tạm, họ là những thầy tế lễ đã đánh bại thành Giê-ri-cô (Giô. 6:1-21). Nếu đọc Giô-suê chương 6 một lần nữa, anh em sẽ thấy cả quốc gia Ítx-ra-ên không đánh trận bằng gươm hay giáo. Hằng ngày, họ mang chứng cớ và thổi kèn tiếng vang. Sau đó, họ reo la có nghĩa là họ ngợi khen Đức Chúa Trời. Thành Giê-ri-cô sụp đổ. Họ đã không chiến đấu như những binh lính hay chiến binh. Họ đánh trận như những thầy tế lễ. Hễ khi là thầy tế lễ, anh em có đủ điều kiện để đánh bại kẻ thù.

Hỡi những người vợ, vì sao các chị thua trận trong đời sống gia đình? Vì chị em không có vẻ mặt của thầy tế lễ. Có lẽ chị em có vẻ mặt của bò cạp, rùa hay rắn. Nếu không biểu lộ vẻ mặt của thầy tế lễ, chị em đã thua trận rồi. Hỡi những người chồng, chúng ta là đầu, nhưng là loại đầu gì –đầu của một bọ cạp? Người chồng nào có đầu của bọ cạp không bao giờ có thể là một đầu đúng đắn. Anh em phải có đầu mang gương mặt của thầy tế lễ, chiếu sáng vinh hiển của Đức Chúa Trời. Nếu có vẻ mặt của thầy tế lễ, chúng ta sẽ đắc thắng trong đời sống gia đình. Thậm chí tôi muốn kiểm tra các anh em là những người sống trong nhà tập thể [sinh viên]. Anh em có loại vẻ mặt nào? Anh em có vẻ mặt của một thầy tế lễ phản chiếu sự vinh hiển của Chúa hay vẻ mặt của một con chuột? Chúng ta phải là thầy tế lễ. Khi đó, chúng ta sẽ chinh phục toàn bộ hoàn cảnh. Ngay khi có vẻ mặt của thầy tế lễ, anh em có uy quyền. Thành Giê-ri-cô sẽ bị chinh phục.

e) Trường Hợp Của A-rôn Với Cây Gậy Trổ Hoa

Trường hợp của A-rôn rất thú vị. Mặc dầu ý định của Đức Chúa Trời là làm cho toàn thể dân Ítx-ra-ên thành Vương Quốc thầy tế lễ, nhưng dân này đã quên Đức Chúa Trời. Vì thế, từ trong dân này, Đức Chúa Trời đã kêu gọi một chi phái, chi phái Lê-vi, làm chi phái thầy tế lễ. Đầu của chi phái này là nhà A-rôn. Một lần nọ, dân Ítx-ra-ên lằm bằm và nói nghịch A-rôn rằng: “Phải chăng Đức Chúa Trời chỉ ở với ông mà không ở với chúng tôi?” Sau đó, Đức Chúa Trời yêu cầu mỗi một quan trưởng trong mười hai chi phái đem đến một cây gậy có viết tên của chi phái mình trên đó. Cây gậy có nghĩa là uy quyền. Cây gậy của A-rôn là cây gậy duy nhất trổ hoa (Dân. 17:2-10), ra những nụ hạnh nhân. Tại xứ Palestine, cây đầu tiên trổ hoa vào mùa xuân là hạnh nhân. Theo hình bóng, hoa hạnh nhân tượng trưng cho sự sống phục sinh. Sau mùa đông, cây đầu tiên trổ hoa là hạnh nhân –nghĩa là sự sống phục sinh. Cây gậy của A-rôn là một khúc gỗ chết. Qua một đêm, cây gỗ chết này đã trổ hoa, trở thành cây gậy trổ hoa, không phải trổ những trái táo hay nho, mà là những trái hạnh nhân. Điều này nghĩa là nó đang sống bằng sự sống phục sinh. Ở đâu có sự sống, ở đó có uy quyền. Ở đâu có sự sống thần thượng, ở đó có uy quyền thần thượng. Ở đâu có sự sống, ở đó có hình ảnh, và hình ảnh này dẫn đến quyền cai trị. Vì thế, A-rôn có sự sống phục sinh để biểu lộ Đức Chúa Trời. Cho nên, A-rôn có uy quyền để đại diện Đức Chúa Trời.

Thưa các trưởng lão trong các Hội Thánh địa phương, những người dẫn dắt trong tất cả các nhóm phục vụ, các chị em hướng dẫn, tất cả anh chị em phải rất sáng tỏ rằng để là một người dẫn dắt trong các Hội Thánh giữa vòng dân Đức Chúa Trời có nghĩa là anh chị em phải trổ hoa. Anh em phải trổ hoa bằng sự sống phục sinh. Chúng ta chỉ là những khúc gỗ chết. Khúc gỗ chết này có trở thành cây gậy uy quyền hay không, tùy thuộc vào việc có trổ hoa bằng sự sống phục sinh hay không. Nếu có ý định trở thành một người dẫn dắt trong một sự phục vụ nào đó, chúng ta phải chờ xem cây gỗ chết đó mục rữa hay trổ hoa. Nếu trổ hoa với sự sống phục sinh, đó là dấu hiệu uy quyền có ở đó. Nó không còn là một cây gỗ chết; mà là một cây gậy uy quyền.

f) Trường Hợp Của Giô-suê Và Ca-lép

Nguyên tắc tương tự với trường hợp của Giô-suê và Ca-lép. Họ đi theo Chúa cách trọn vẹn (Dân 14:24). Chính Chúa làm chứng rằng Ca-lép đã đi theo Ngài cách trọn vẹn. Vì thế, họ đã đánh bại kẻ thù (Dân. 14:6-9). Khi đi theo Chúa, họ có hình ảnh. Và họ đã có uy quyền.

g) Trường Hợp Của Các Quan Xét

Tôi thích Các Quan xét 5:31. Câu này nói rằng trong thời kỳ Các Quan Xét, có một số người yêu Chúa. Những người yêu Chúa này đã chói sáng như ánh mặt trời. Vì thế, họ đã đánh bại kẻ thù. Hễ khi một người nào đó chiếu sáng như mặt trời, thì sẽ có sự đắc thắng kẻ thù và đem sự yên nghỉ đến cho toàn dân. Cả Sách Các Quan Xét là Sách của sự lặp lại. Hễ khi nào có một người yêu Chúa và chiếu sáng như mặt trời, thì qua người đó có sự đắc thắng. Qua người đó, toàn dân hưởng được sự yên nghỉ.

h) Trường Hợp Của Đa-vít

Đa-vít là người theo lòng Đức Chúa Trời. Nếu đọc 1Sa-mu-ên 13:14, anh em sẽ thấy ban đầu Sau-lơ làm vua. Tuy nhiên, Sau-lơ không có lòng đi theo Đức Chúa Trời. Ông đã mất ngai vua, và Đức Chúa Trời tìm một người khác là người theo lòng Ngài. Chắc chắn người này, tức Đa-vít, có hình ảnh của Đức Chúa Trời. Ông là người đã đánh bại kẻ thù (1Sử. 22:8a).

i) Trường Hợp Của Các Vua

Chúng ta đã thấy chức tế lễ. Bây giờ chúng ta đến với vương quyền. Hễ khi nào các vua là một với Chúa, họ đánh bại kẻ thù (2Sử. 14:2-14). Hễ khi nào không là một với Chúa, họ bị đánh bại. Họ mất uy quyền. Nói cách khác, hễ khi nào các vua mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và biểu lộ Ngài, họ có uy quyền để đánh bại kẻ thù. Ngày nay, chúng ta có cả chức tế lễ và vương quyền. Đừng bao giờ quên rằng chức vụ tế lễ là để biểu lộ hình ảnh, và vương quyền là để cai trị. Bây giờ, chúng ta là những thầy tế lễ để nên giống Đức Chúa Trời, đồng thời, cũng là các vua đại diện Đức Chúa Trời, thi hành uy quyền của Ngài trên kẻ thù.

j) Trường Hợp Của Đa-ni-ên

Đa-ni-ên là một phu tù tại Ba-by-lôn, một người đứng chầu trong cung vua. Tuy nhiên, ông đã sống đời sống thánh khiết, đời sống biểu lộ Đức Chúa Trời (Đa. 1:8). Vì thế, ông trở thành người có quyền lực. Ông có uy quyền trên thế gian vào thời đó (Đa. 6:28).

k) Trường Hợp Của Jesus

Khi Jesus sống trên đất, Ngài biểu lộ Đức Chúa Trời. Bất cứ ở đâu, Ngài đều biểu lộ Đức Chúa Trời. Ngài là một người đích thực và điển hình, nhưng liên tục biểu lộ Đức Chúa Trời. Vì thế, Ngài đã nhận được uy quyền trên mọi sự (Mat. 28:18). Xa-cha-ri 6:13 nói rằng Jesus có hai chức vụ: chức tế lễ và vương quyền. Ngài là Thầy Tế Lễ và Ngài là Vua. Ngày nay, Ngài vẫn là Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm và Vua của các vua. Ngài là Đấng biểu lộ Đức Chúa Trời, Đấng đại diện Đức Chúa Trời. Ngài mang hình ảnh của Đức Chúa Trời, và có uy quyền của Đức Chúa Trời. Đây là Jesus.

l) Trường Hợp Hai Con Trai Của Xê-bê-đê

Một ngày nọ, mẹ của các con Xê-bê-đê cùng hai con trai đến với Jesus để cầu xin (Mat. 20:20-23). Bà có một lời cầu nguyện tốt, xin cho hai con được ngồi bên hữu, bên tả Chúa trong Vương Quốc. Có lẽ tất cả chúng ta đã có lời cầu nguyện như thế. Chúa Jesus đáp lời cầu nguyện của bà, nhưng không theo cách bà cầu xin. Chúa Jesus phán: “Ngươi đã cầu xin về việc ngồi bên hữu, bên tả. Bây giờ ngươi phải biết rằng việc các con ngươi có ngồi bên hữu bên tả hay không thì không do Ta. Điều đó là do Cha. Nhưng Ta bảo ngươi một điều: ngươi phải chịu khổ. Ngươi phải uống những gì Ta uống và chịu những gì Ta chịu”. Điều này nghĩa là nếu muốn có uy quyền, anh em cần có sự sống. Chịu khổ là để có sự sống. Nếu không có sự chết, không có sự sống. Nếu không có sự chịu khổ, không có sự sống. Sự sống chỉ đến qua đau khổ. Nếu muốn nhận được uy quyền, chúng ta cần chiếm được sự sống qua đau khổ.

m) Trường Hợp Của Các Sứ Đồ

Cả Sách Công Vụ và toàn bộ Thư Tín cho thấy các sứ đồ là những người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Do đó, họ luôn luôn có uy quyền của Đức Chúa Trời. Họ có hình ảnh của Đức Chúa Trời và thi hành uy quyền của Ngài. Chúng ta không nên chỉ xem họ là những thầy giảng tốt hay giáo sư lớn. Điều này quá thấp. Đây không phải là đỉnh cao. Chúng ta nên xem họ là những người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và thi hành uy quyền thần thượng.

n) Trường Hợp Tiêu Cực Của Bảy Con Trai Sê-va

Bảy con trai của Sê-va thấy cách Phao-lô dùng danh của Jesus mà đuổi quỉ (Công. 19:13-16). Họ bắt chước Phao-lô, bảo các quỉ rằng: “Ta chỉ Jesus, là Đấng Phao-lô rao giảng, mà đuổi chúng bay”. Các quỉ không dễ bị xử lý như thế. Nó nói “Ta biết Jesus, cũng quen Phao-lô, nhưng các ngươi là ai mà đuổi ta? Ta sẽ vồ lấy các ngươi”. Thay vì đánh bại các quỉ thì các quỉ đã đánh bại họ. Nếu không có hình ảnh, anh em không thể có uy quyền. Các quỉ biết và chính anh em cũng biết điều đó. Nếu không có sự sống, anh em không có uy quyền. Nếu không mang hình ảnh, anh em không bao giờ có thể thi hành quyền cai trị.

o) Trường Hợp Của Tín Đồ Trong Thời Đại Hội Thánh

Cả Khải Thị 5:10 và 1Phi-e-rơ 2:9 đều bảo rằng ngày nay, Cơ-đốc nhân là những thầy tế lễ hoàng gia. Một mặt, chúng ta là các thầy tế lễ; mặt khác, chúng ta là các vua. Tuy nhiên, chúng ta cần tiếp xúc Đức Chúa Trời hầu có thể có hình ảnh thật để mang sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong đời sống. Khi đó, chúng ta có uy quyền để đại diện Đức Chúa Trời. Nhưng phần lớn Cơ-đốc nhân đã bỏ mất điều này. Họ không giống thầy tế lễ; vì thế, họ không phải là vua. Nếu không mang hình ảnh, anh em sẽ mất uy quyền. Ngợi khen Chúa, vì trải qua mọi thế kỷ đã có và vẫn còn có một số thánh đồ tiếp xúc Đức Chúa Trời, giữ mình trong chức tế lễ thật. Họ có uy quyền và thi hành vương quyền.

p) Trường Hợp Của Các Thánh Đồ Đắc Thắng Trong Thời Kỳ Ngàn Năm

Trong thời kỳ ngàn năm, thời đại Ngàn Năm của Vương Quốc sắp đến, các thánh đồ đắc thắng sẽ là các thầy tế lễ và các vua (Khải. 20:4,6). Họ sẽ là các thầy tế lễ biểu lộ Đức Chúa Trời, và là các vua đại diện Đức Chúa Trời.

q) Trường Hợp Của Toàn Thể Thánh Đồ Trong Trời Mới Đất Mới

Trong cõi đời đời, tất cả thánh đồ sẽ phụng sự Đức Chúa Trời như những thầy tế lễ (Khải. 22:3b-4). Họ sẽ biểu lộ Đức Chúa Trời và mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Các thánh đồ cũng sẽ cai trị như các vua, đại diện Đức Chúa Trời với uy quyền của Ngài (Khải. 22:5b).

r) Trường Hợp Của Giê-ru-sa-lem Mới

Cuối cùng, Giê-ru-sa-lem Mới sẽ mang dáng vẻ của Đức Chúa Trời. Khải Thị 4:3a nói rằng dáng vẻ của Đức Chúa Trời giống như bích ngọc. Sau cùng, tường của toàn bộ Thành Giê-ru-sa-lem Mới sẽ được xây bằng bích ngọc (Khải. 21:18a). Cả Thành sẽ có dáng vẻ của Đức Chúa Trời (Khải. 21:11). Khi đó, Thành sẽ thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời (Khải. 21:24,26). Trong cõi đời đời, toàn thể thánh đồ được chuộc sẽ mang hình ảnh của Đức Chúa Trời để biểu lộ Ngài và thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời để đại diện Ngài. Đó là đỉnh điểm và sự hoàn thành chung cuộc.

Chúng ta không phải chờ đợi ngày đó. Ngày nay, tất cả chúng ta đều nếm tiền vị này. Chúng ta có thể vui hưởng hình ảnh của Đức Chúa Trời và quyền cai trị của Ngài. Ngày nay, chúng ta là những thầy tế lễ và các vua. Chúng ta phải gìn giữ quyền con trưởng của mình. Chúng ta ở đây để biểu lộ Đức Chúa Trời với hình ảnh của Ngài, và đại diện Đức Chúa Trời với quyền cai trị của Ngài. Ha-lê-lu-gia! Đây là địa vị và trách nhiệm –dầu vậy, đây cũng là sự vui hưởng! Ngợi khen Chúa! Chúng ta là những thầy tế lễ và là các vua của Đức Chúa Trời. Chúng ta mang hình ảnh của Đức Chúa Trời, và có quyền cai trị của Đức Chúa Trời. Bây giờ, chúng ta là những người trong Hội Thánh biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Đức Chúa Trời. Ha-lê-lu-gia! Chúng ta có hình ảnh và quyền cai trị.

Tôi hi vọng tất cả anh em đều thấy rằng cả Kinh Thánh là sự ghi chép về sự phát triển của hình ảnh và quyền cai trị. Đó không phải là điều nhỏ vì hai điều này là đỉnh cao của sự ghi chép trong Sáng Thế Ký chương 1. Chương này bắt đầu với sự tối tăm, trống rỗng, hoang vu và những dòng nước sự chết. Sau đó Linh ấp ủ, sự sáng phân rẽ, và khoảng không phân cách. Đất khô xuất hiện để sản sinh sự sống. Sau đó xuất hiện sự sống thấp nhất, sự sống cao hơn, sự sống cao hơn nữa và sự sống thọ tạo cao nhất –là con người. Hãy xem tất cả những hình thức sự sống nầy. Với cỏ, cây thân thảo và cây thân mộc thì không có gương mặt. Cá có gương mặt nhưng không rõ nét. Mặt của chim rõ nét hơn. Kế đến, có gia súc và thú vật. Cuối cùng, có mặt người. Tất cả chúng ta phải thừa nhận rằng mặt người là rõ nét nhất. Đó là gương mặt mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Với gương mặt này, tức là với sự biểu lộ này, uy quyền của Đức Chúa Trời đã được giao cho.

Mọi sự đều được quyết định bởi việc chúng ta giống điều gì. Nếu anh em giống như bọ cạp, là điều có liên hệ với các quỉ. Nếu giống như rắn, là điều có liên quan đến Sa-tan, Nhưng nếu giống một người thật sự, điều đó có liên quan đến hình ảnh của Đức Chúa Trời. Một người thật sự mới có uy quyền.

Thế thì, người thực sự là gì? Người thực sự là thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời. Nếu là thầy tế lễ, anh em cũng là vua. Nếu ở trong chức tế lễ, chắc chắn anh em sẽ có vương quyền. Điều này nghĩa là nếu có hình ảnh của Đức Chúa Trời trong đời sống, chắc chắn anh em có uy quyền của Đức Chúa Trời để cai trị cho Ngài.

Cả Kinh Thánh là sự ghi chép về sự phát triển của hình ảnh và quyền cai trị. Trong Sáng Thế Ký chương 1, chúng ta có A-đam theo hình ảnh của Đức Chúa Trời và có quyền cai trị của Ngài, nhưng đây chỉ là một hạt giống nhỏ. Chúng ta tiếp tục với Áp-ra-ham. Áp-ra-ham là người đầu tiên đã trưởng thành và phát triển điều gì đó về hình ảnh và uy quyền của Đức Chúa Trời. Ông tiếp xúc Đức Chúa Trời và đánh bại kẻ thù. Sau đó, chúng ta đến với Giô-sép, người trưởng thành hoàn toàn. Khi đọc câu chuyện của Giô-sép, chúng ta thấy một người mang hình ảnh đầy đủ của Đức Chúa Trời về sự thánh khiết và đắc thắng. Chúng ta thấy người này thi hành uy quyền. Thời đó, uy quyền không phải là Pha-ra-ôn xứ Ai-cập mà là Giô-sép. Giô-sép đã trị vì cả trái đất. Khi tiếp tục lần theo Cựu Ước, chúng ta thấy Đức Chúa Trời đã kêu gọi một dân để trở thành một nước thầy tế lễ. Toàn thể dân tộc này sẽ tiếp xúc Đức Chúa Trời và mang hình ảnh của Ngài như những thầy tế lễ của Ngài. Do đó, họ sẽ là các vua trong mọi loại hoàn cảnh. Họ không cần phải đánh trận. Toàn bộ hoàn cảnh sẽ bị phục dưới chân họ. Sau đó, chúng ta đến với các vua và các tiên tri. Cuối cùng, đến với Jesus. Ngài hoàn toàn là Thầy Tế Lễ cũng là Vua. Với Ngài, có chức tế lễ để biểu lộ Đức Chúa Trời, và vương quyền để đại diện Đức Chúa Trời. Đấng Christ là Đầu. Theo sau Ngài là Thân Thể, kết cấu gồm tất cả các thánh đồ được chuộc. Là Thân Thể, chúng ta giống với Đầu, mang hình ảnh như những thầy tế lễ và thi hành uy quyền như các vua. Ngày nay, chúng ta là những thầy tế lễ và các vua trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta biểu lộ Đức Chúa Trời trong nếp sống Hội Thánh và đại diện Ngài trong mọi hoàn cảnh. Kế đến là thời kỳ ngàn năm, thời kỳ đầy đủ, trong đó tất cả các thánh đồ đắc thắng, theo nghĩa đen, sẽ là những thầy tế lễ biểu lộ Đức Chúa Trời với hình ảnh Ngài, và là các vua đại diện Đức Chúa Trời với uy quyền Ngài, thi hành sự cai trị hoàn toàn trên đất này. Cuối cùng, chúng ta sẽ có cõi đời đời. Trong cõi đời đời, chúng ta sẽ thấy một chung cuộc tuyệt diệu –Giê-ru-sa-lem Mới. Đây sẽ là đỉnh điểm thật sự. Không gì có thể cao hơn hay trọn vẹn hơn điều này. Cả Thành Giê-ru-sa-lem Mới sẽ mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và cả Thành sẽ thi hành quyền cai trị của Đức Chúa Trời. Ha-lê-lu-gia! Đây là sự ghi chép của Kinh Thánh. Kinh Thánh ghi chép lại sự phát triển về hình ảnh Đức Chúa Trời với quyền cai trị của Ngài. Đức Chúa Trời sẽ được biểu lộ và đại diện bởi dân được chuộc của Ngài cho đến đời đời.

Lời Nói Thêm

Chúng ta hãy đến với Sách Ma-thi-ơ và đọc câu cuối của chương 16 và 2 câu đầu của chương 17. Chúa Jesus phán: “Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, trong những người đứng đây có kẻ hẳn chẳng nếm sự chết trước khi chưa thấy Con Người ngự đến trong nước Ngài. Sau sáu ngày, Jesus đem Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng là em người, lánh riêng lên núi cao. Ngài biến hóa trước mặt họ, mặt Ngài sáng chói như mặt trời, áo Ngài trắng như ánh sáng”. Trong những câu này, chúng ta thấy Jesus đến trong Vương Quốc Ngài. Khi Jesus đang chói sáng trong sự biến hóa của Ngài, đó là Vương Quốc đến. Ở đâu có sự chiếu sáng của Jesus, ở đó là Vương Quốc. Sự chói sáng này là việc mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Khi có hình ảnh, lập tức quyền cai trị hiển lộ. Khi chiếu sáng sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, chúng ta không cần cố ý thi hành quyền cai trị. Uy quyền của Đức Chúa Trời có ngay tại đó.

Làm thế nào chúng ta có thể chiếu sáng vinh hiển của Đức Chúa Trời? Chúng ta cần đọc 2Cô-rin-tô 3:18: “Nhưng chúng ta đều để mặt trần mà ngắm xem và chiếu lại sự vinh hiển của Chúa như một cái gương thì đều đang được biến đổi nên cùng một hình ảnh từ vinh quang đến vinh quang, như từ Chúa Linh vậy”. Tôi thích từ “gương mặt, mặt trần”. Trong sự biến hóa, mặt của Chúa Jesus chói sáng như mặt trời rực rỡ. Tuy nhiên, từ “mặt” được đề cập trong 2Cô-rin-tô 3:18 không chỉ là mặt ở bên ngoài mà còn là mặt bên trong. Chúng ta đều có mặt bên ngoài và mặt bề trong. Mặt bên ngoài đơn giản là sự biểu hiện của mặt bề trong. Mặt bề ngoài là bản thể bên ngoài của chúng ta; mặt bề trong là bản thể bề trong của chúng ta. Gương mặt là sự thể hiện toàn bản thể, sự biểu lộ của toàn bản thể chúng ta. Không ai trong chúng ta ở đây có màn che trên mặt bề ngoài của mình cả, nhưng tôi e rằng nhiều người trong chúng ta vẫn còn có một số màn che trên mặt bề trong. Chúng ta cần để mặt trần.

Những điều tôn giáo và những điều thánh khiết cũng như những điều tội lỗi và thế tục có thể là một màn che đối với chúng ta. Nếu nghiên cứu văn mạch của 2Cô-rin-tô chương 3, anh em sẽ thấy màn che được đề cập ở đây đặc biệt chỉ về Cựu Ước theo văn tự. Ngay cả Kinh Thánh cũng có thể là một màn che. Ngay cả văn tự trong Kinh Thánh cũng có thể là màn che, ngăn chúng ta không thấy Chúa sống động. Nếu văn tự của Kinh Thánh có thể là một màn che đối với chúng ta, thì mọi sự khác cũng có thể là một màn che –vợ, chồng, bạn bè, con cái, bản ngã, anh chị em, hành vi tốt, hành vi xấu, hoạt động sốt sắng, công tác cho Đức Chúa Trời, tức là mọi sự. Mọi điều, nếu không phải là chính Chúa, đều có thể là một màn che. Bất kể điều gì thánh khiết đến đâu, thiên thượng đến đâu, thuộc linh đến đâu, hay mang tính tôn giáo đến đâu, hễ không phải là chính Chúa, thì đều có thể là một màn che. Có thể anh em vẫn còn ở dưới loại màn che này. Đó là lý do vì sao anh em ngồi đây mà không thấy Chúa.

2Cô-rin-tô 3:18 nói rằng chúng ta đều để mặt trần mà ngắm xem Chúa như một cái gương. Chúng ta là cái gương. Là một cái gương, chúng ta ngắm nhìn. Những gì cái gương trông thấy, nó đều phản chiếu lại. Chúng ta cần có mặt trần để ngắm xem và phản chiếu vinh hiển của Chúa; giống như Môi-se, khi ông ngắm nhìn sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong bốn mươi ngày, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đã phát sáng từ mặt ông. Khi xuống núi, ông đã tỏa sáng, rực sáng vinh hiển của Đức Chúa Trời. Tất cả chúng ta cần giống như vậy. Tất cả chúng ta cần quên đi mọi điều xấu, tốt, thánh khiết, bất khiết, tôn giáo, không tôn giáo, thuộc linh, không thuộc linh. Bất kể điều đó là gì, nếu không phải là chính Đấng Christ, phải gạt bỏ đi. Chúng ta cần nhận ra sự xảo quyệt của kẻ thù. Sa-tan có thể dùng bất cứ điều gì để làm anh em xoay khỏi việc ngắm xem Chúa. Điều duy nhất Sa-tan không thể sử dụng là chính Chúa.

Trong Tân Ước có ít nhất bốn Sách đặc biệt viết về những điều cản trở con người không ngắm xem Chúa, những điều che khuất con người không tiếp xúc và vui hưởng Chúa. Sách Ga-la-ti đề cập đến Kinh Luật, tôn giáo và truyền thống. Tất cả những điều này là bức màn ngăn cách. Kinh Luật được Đức Chúa Trời ban cho và là thánh. Ngay cả Tân Ước cũng nói rằng Kinh Luật là thánh (La. 7:12). Tuy nhiên, ngay cả điều thánh như Kinh Luật cũng có thể ngăn cách anh em với Đấng Christ, cắt đứt anh em khỏi sự vui hưởng Đấng Christ (Gal. 5:4, theo bản ASV). Chúng ta có thể bị ngăn cách khỏi Đấng Christ, không chỉ bởi những sách vô đạo đức mà ngay cả bởi Kinh Luật được Đức Chúa Trời ban cho. Sao lại thế? Vì mặt anh em có thể hướng về Kinh Luật thay vì hướng về Đấng Christ. Vì vậy, Kinh Luật lập tức trở thành màn che. Kinh Luật luôn hình thành tôn giáo và tôn giáo có những truyền thống lâu đời. Vì thế, chúng ta có Kinh Luật, tôn giáo, và những truyền thống, tất cả tạo nên những lớp cách điện, cách ly anh em với Điện Năng Thần Thượng là chính Chúa.

Cô-lô-se là một Sách khác. Trong Cô-lô-se, từ “triết học” được dùng đến. Từ triết học trong Cô-lô-se thực ra là Trí Huệ Giáo. Trí Huệ Giáo là một triết học cao hơn, đó là sự cấu thành giữa triết học Hi-lạp, Ai-cập và Ba-by-lôn, cộng với triết học của Cơ-đốc Giáo, tức là bao hàm cả triết học của Do-thái Giáo. Đó hoàn toàn là một sự pha trộn. Triết học đó, sản phẩm cao nhất của văn hóa loài người, đã bước vào Hội Thánh đầu tiên, tạo ra một cản trở lớn. Mặc dầu triết học có thể tốt và là sản phẩm tốt nhất của văn hóa loài người, nhưng vì không phải là Chúa, nên trở thành một màn che. Nó phải được xử lý.

Chúng ta đến với một Sách khác, Sách Hê-bơ-rơ. Nếu đọc Sách này, anh em sẽ thấy Sách liệt kê tất cả những điều tốt trong Do-thái Giáo. Sách này cho chúng ta thấy rằng tất cả những điều tốt trong Do-thái Giáo cần được xem là những hình bóng, hình ảnh, và bóng của Đấng Christ.

Giả sử trước khi đến thăm tôi, anh em gởi đến tôi tấm hình của anh em. Vì yêu anh em, tôi quí trọng tấm hình đó. Điều này đúng đắn. Tôi chỉ yêu thích tấm hình của anh em. Bây giờ, đích thân anh em đến thăm tôi, thay vì nhìn anh em, tôi cứ ngắm nhìn mãi tấm hình và yêu thích nó. Ngay cả tấm hình của anh em đã trở thành màn che mắt tôi. Anh em sẽ nói “Anh ngốc ơi, quăng tấm hình đó đi. Hãy nhìn tôi đây”.

Trước khi Jesus đến, Đức Chúa Trời đã dùng Cựu Ước để trình bày cho dân Ngài nhiều hình ảnh về Đấng Christ từ những góc cạnh khác nhau. Nhưng dân Do-thái chỉ nắm giữ những hình ảnh đó, không chỉ những hình ảnh ở bốn mặt mà có lẽ là ba mươi hai mặt. Điều đó bao lấy họ, ngăn họ không nhìn thấy Đấng Christ. Đấng Christ ở bên ngoài hàng rào đó. Dân Do-thái đã thấy rất nhiều điều về Đấng Christ, nhưng họ không thể thấy chính Đấng Christ. Vì thế, Sách Hê-bơ-rơ được viết để nói với tất cả tín đồ Do-thái rằng họ phải buông bỏ những hình ảnh, tức cả hệ thống Do-thái Giáo, và nhìn xem Đấng Christ. Hãy nhìn xem Sứ Giả và Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm là Jesus Christ (Hêb. 3:1). Hãy quên Môi-se đi, quên các thiên sứ đi, và quên Giô-suê đi. Chỉ hãy quan tâm đến Jesus Christ, Sứ Giả của chúng ta. Hãy quan tâm đến Jesus Christ, Thầy Tế lễ Thượng Phẩm của chúng ta. Hãy nhìn xem Ngài. Không chỉ nhìn xem Ngài mà còn phải xoay khỏi mọi điều để chỉ ngắm nhìn Ngài (Hêb. 12:2). Hãy xoay khỏi mọi điều của Do-thái Giáo. Hãy xoay khỏi Kinh Thánh để hướng về chính Jesus.

Chúng ta vẫn còn một Sách khác, 1Cô-rin-tô. Trong Sách này, Phao-lô cảnh báo rằng ngay cả những ân tứ thuộc linh –nói tiếng lạ, thông giải, chữa lành, làm việc quyền năng– đều có thể là những màn che đối với Cơ-đốc nhân. Anh em có thấy sự xảo quyệt của kẻ thù không?

Kinh Luật, triết học, Do-thái Giáo với những điều và những sự dạy dỗ dựa vào Kinh Thánh, các ân tứ thuộc linh, tất cả những điều này là tốt, nhưng đã trở thành những màn che trên mặt của nhiều Cơ-đốc nhân thật. Tất cả chúng ta cần thưa với Chúa: “Chúa Jesus ơi, con yêu Ngài. Con yêu Kinh Thánh vì Kinh Thánh bày tỏ Ngài, nhưng con sẽ không bao giờ để cho Kinh Thánh trở thành một màn che. Con yêu Ngài, Chúa Jesus ơi. Chính con đây yêu Ngài, con yêu Ngài cách trực tiếp, con yêu Ngài cách mật thiết nhất. Con yêu Ngài bằng cách hôn Ngài. Con không muốn thấy Ngài cách xa xa. Con muốn thấy Ngài mặt đối mặt. Chúa ơi, thậm chí con muốn hôn Ngài”. Tôi tin rằng nhiều người trong anh em đã bước vào kinh nghiệm này rồi, nhưng tất cả chúng ta cần cứ ở trong kinh nghiệm này. Chúng ta cần nói với Chúa: “Chúa Jesus ơi, con thích các ân tứ vì những ân tứ này giúp con chạm được Ngài, nhưng nếu những ân tứ đó trở thành màn che, con sẽ ném chúng đi. Con chỉ yêu Ngài, Chúa ơi. Con yêu Ngài cách riêng tư, trực tiếp, thân thiết. Con yêu Ngài theo cách mà con có thể hôn Ngài bất kỳ lúc nào. Không có khoảng cách giữa Ngài với con, không khoảng cách, không cách ngăn và không cách ly. Con đang ở trong hiện diện Ngài cách trực tiếp, cách mật thiết”. Nếu giống như vậy, anh em sẽ đang ở trên núi biến hóa. Anh em sẽ được biến hóa và sẽ chói sáng.

Nhiều người trong chúng ta có thể làm chứng về người thân của mình. Khi họ ra khỏi phòng sau thì giờ ở trong hiện diện Chúa, mặt họ chiếu sáng, khiến chúng ta nhận thức rằng họ đã ở với Chúa. Sự chiếu sáng này chinh phục mọi tạo vật nổi loạn, chinh phục chồng, vợ, con cái và mọi loại hoàn cảnh. Đây là Vương Quốc. Đây là sự cai trị. Sự cai trị đến từ sự chiếu sáng. Jesus đã hiện ra trong Vương Quốc Ngài khi Ngài biến hóa. Ngài đang chiếu sáng như mặt trời. Ngài có hình ảnh và có quyền cai trị.

 

 

BÀI CHÍN

S Phục Hồi Và Sáng Tạo Thêm 
Của Đức Chúa Trời

 (6)

S Hoàn Thành Chung Cuộc

Chúng ta tiếp tục với chủ đề Sự Hoàn Thành Chung Cuộc. Như đã thấy trong bài trước, điều đầu tiên trong sự hoàn thành này là Đức Chúa Trời được biểu lộ và đại diện. Đó là đỉnh điểm. Dựa vào điểm này, chúng ta sẽ xem xét nhiều điểm khác.

2)  Đức Chúa Trời Ban Phước 
Cho Con Người Sinh Sản Nhiều

Đức Chúa Trời ban phước cho con người sinh sản, tăng thêm nhiều, đầy dẫy khắp đất, và làm cho đất phục tùng (Sáng. 1:28). Đây không phải là điều nhỏ. Trước khi Đức Chúa Trời có con người để biểu lộ và đại diện Ngài, Ngài không có cách nào để đổ phước hạnh trọn vẹn của Ngài ra. Đức Chúa Trời vốn giàu có, và Ngài thật dư dật trong việc ban phước, nhưng trước khi tạo nên con người, không một đối tượng nào tiếp nhận phước hạnh của Ngài cách đầy đủ. Không cách gì và không có cơ hội nào để Đức Chúa Trời ban phước hạnh của Ngài cho tạo vật Ngài cách đầy đủ. Theo sự ghi chép trong Sáng Thế Ký chương 1, Đức Chúa Trời đã không ban phước cho đến khi những sinh vật xuất hiện (Sáng. 1:22). Dầu vậy, chỉ sự sống con người mới đạt tiêu chuẩn nhận được sự ban phước của Đức Chúa Trời cách đầy đủ. Sau khi tạo nên con người, Đức Chúa Trời có thể thấy trên đất một sinh vật mang hình ảnh Ngài và có quyền cai trị của Ngài. Lập tức, Đức Chúa Trời ban phước dồi dào của Ngài trên con người.

Phước hạnh là một từ liệu tốt. Nhiều người nói về sự ban phước của Đức Chúa Trời. Nhiều khi chúng ta cầu nguyện: “Chúa ơi, xin ban phước cho chúng con”. Tuy nhiên, nếu muốn nhận phước hạnh của Đức Chúa Trời, chúng ta cần thỏa đáp những tiêu chuẩn. Một lần nữa, những tiêu chuẩn này là hình ảnh và quyền cai trị. Nếu có hình ảnh của Đức Chúa Trời với quyền cai trị của Ngài trong gia đình, anh em có thể biết chắc rằng phước hạnh của Đức Chúa Trời sẽ ở đó. Phước hạnh của Đức Chúa Trời luôn đitheo hình ảnh và quyền cai trị của Ngài. Nói cách khác, phước hạnh của Đức Chúa Trời luôn đi theo sự biểu lộ Ngài và đại diện Ngài.

Phước hạnh của Đức Chúa Trời luôn ở với chức tế lễ và vương quyền. Chúng ta thấy điều này với Mên-chi-xê-đéc. Ông là vua Sa-lem và là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao, người đã chúc phước cho Áp-ra-ham (Sáng. 14:17-19). Phước hạnh luôn đến với chức tế lễ và vương quyền. Nếu Hội Thánh tìm kiếm phước hạnh của Đức Chúa Trời, Hội Thánh phải có chức tế lễ và vương quyền. Chức tế lễ và vương quyền có ý nghĩa gì? Đơn giản nghĩa là hình ảnh và quyền cai trị của Đức Chúa Trời. Chức tế lễ là để biểu lộ hình ảnh; vương quyền là để cai trị. Hễ khi nào thi hành chức tế lễ để tiếp xúc, ngắm xem Đức Chúa Trời và để phản chiếu hình ảnh vinh hiển của Ngài, chúng ta sẽ có vương quyền. Phước hạnh của Đức Chúa Trời lập tức theo sau.

Đức Chúa Trời ban phước cho con người để con người có thể sinh sản, thêm nhiều và đầy dẫy trái đất. Phước hạnh này là sinh sản, gia tăng, nhân lên và đầy khắp đất.Giả sử A-đam, người tập thể được tạo nên theo hình ảnh của bọ cạp hay rắn, và Đức Chúa Trời ban phước cho bọ cạp và rắn này sinh sôi nảy nở, và đầy dẫy khắp đất. Trái đất sẽ đầy dẫy bọ cạp và rắn. Trái đất sẽ kinh khủng dường nào! Nếu vậy, thà tôi đừng bao giờ được sanh ra thì hơn. Giả sử anh em có 200 con bọ cạp trong phòng ngủ và 200 con rắn trong phòng khách. Đó không phải là phước hạnh mà là sự rủa sả. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã tạo nên con người theo hình ảnh Ngài, ban cho con người uy quyền để cai trị cho Đấng Toàn Năng trên đất. Con người đã được chuẩn bị cho phước hạnh của Đức Chúa Trời. Phước hạnh của Đức Chúa Trời là làm cho con người có thể sinh sản. Một sẽ thành mười, mười sẽ thành trăm, trăm thành ngàn, ngàn sẽ thành ức, ức sẽ thành triệu và triệu sẽ thành tỉ,… cho đến khi cả trái đất đầy dẫy những gương mặt xinh đẹp biểu lộ Đức Chúa Trời và đại diện Ngài.

Mặc dầu loài người đã sa ngã, nhưng điều gì đó kỳ diệu vẫn cứ còn mãi. Điều kỳ diệu đó là hình ảnh của Đức Chúa Trời. Nhiều người có thể yêu chó, nhưng tình yêu họ dành cho chó thì khác xa tình yêu dành cho con người. Cho dù con chó có tốt đến đâu cũng không thể đáng yêu như một người. Mỗi một người thật đáng yêu vì mỗi người đều mang hình ảnh của Đức Chúa Trời. Dù loài người sa ngã đến đâu, trái đất này vẫn đầy dẫy những con người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời.

Trong nếp sống Hội Thánh ngày nay, chúng ta là con người đích thực, mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và thi hành quyền cai trị của Ngài. Trong nếp sống Hội Thánh, chúng ta sẵn sàng để Đức Chúa Trời đến và ban phước cho. Đức Chúa Trời có thể ban phước cho chúng ta nhiều bao nhiêu tùy thuộc vào việc chúng ta biểu lộ và đại diện Ngài bao nhiêu. Nếu biểu lộ và đại diện Ngài cách trọn vẹn, chắc chắn chúng ta sẽ hưởng được phước hạnh trọn vẹn của Ngài trong sự nhân rộng và kết quả.

Về điểm này, tôi muốn nói đôi lời về sự rao giảng Phúc Âm. Mọi điều trong lĩnh vực Cơ-đốc, kể cả việc rao giảng Phúc Âm, đã bị hư hoại bởi sự thực hành nghèo nàn của nhiều thế kỷ trước đây. Sự rao giảng Phúc Âm thực sự không chỉ là công tác bên ngoài. Việc rao giảng Phúc Âm thực sự là kết quả từ sự tuôn tràn sự sống bề trong.Trong Sách Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca, Chúa Jesus truyền phải đi ra, rao giảng Phúc Âm và môn đồ hóa muôn dân, nhưng trong Sách Giăng, Ngài phán rằng chúng ta phải kết quả. Rao giảng là một điều; kết quả là một điều khác. Rao giảng Phúc Âm đúng đắn không phải là thuyết phục người ta theo cách giáo lý, bắt phục suy nghĩ của họ và thay đổi quan niệm của họ. Rao giảng Phúc Âm đúng đắn là cung ứng sự sống cho người khác. Việc kết trái là tuôn tràn những sự phong phú của sự sống bề trong. Hãy nhìn một nhánh cây đầy nhựa sống. Nhánh cây đó có sự tuôn tràn sự sống và sự tuôn tràn này sinh ra trái. Trái là điều lưu xuất từ sự phong phú của sự sống bên trong. Chúng ta phải nhận thức rằng rao giảng Phúc Âm nên là việc sanh bông trái, và việc sanh bông trái đó đến từ sự ban phước của Đức Chúa Trời. Mặc dầu chúng ta cần cầu nguyện cho sự rao giảng Phúc Âm, nhưng đó không chỉ là vấn đề nỗ lực của chúng ta. Chúng ta phải có sự ban phước của Đức Chúa Trời. Nếu Hội Thánh muốn gia tăng, chắc chắn là Phúc Âm phải được rao giảng. Tuy nhiên, nếu sự rao giảng Phúc Âm không ở dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ không gặt được gì dầu nỗ lực bao nhiêu.Những trái có được sẽ không có mặt người, mà là mặt bọ cạp. Anh em có thể dẫn nhiều người đến, nhưng khi Đức Chúa Trời thấy họ, Ngài sẽ phán: “Đây là bọ cạp, kia là rắn, còn kia là ếch. Đúng là con đã đem về nhiều người, nhưng không bao nhiêu người có gương mặt đúng đắn biểu lộ Đức Chúa Trời”. Anh em đang dẫn về loại người nào? Những người có mặt bọ cạp hay những người có gương mặt xinh đẹp biểu lộ chính Đức Chúa Trời? Trái anh em sanh ra là sự biểu lộ của những gì anh em là. Nếu là cây táo, anh em sẽ không bao giờ sanh ra trái cam. Nếu là cây đào, anh em sẽ không bao giờ sanh ra trái chuối. Nếu muốn sanh ra trái chuối, anh em phải là cây chuối. Nếu là Cây Tri Thức, đừng mong sẽ sanh ra trái sự sống. Chỉ có Cây Sự Sống mới có thể sanh ra trái sự sống. Tất cả chúng ta phải nỗ lực rao giảng Phúc Âm, nhưng hãy suy xét chúng ta là gì. Nếu mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và nếu có sự cai trị của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ đem người khác vào trong hình ảnh của Đức Chúa Trời và sự cai trị của Ngài. Tất cả các Hội Thánh địa phương cần phải gia tăng, nhưng đừng bao giờ dùng mánh lới là điều có thể tạo ra “Mô-áp” thay vì ra trái đúng đắn.

Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham về một dòng dõi. Đức Chúa Trời đang thử thách Áp-ra-ham cho đến khi năng lực thiên nhiên của ông bị kết liễu. Sau đó, Ngài ban cho ông một dòng dõi. Khi Áp-ra-ham ở dưới sự thử thách của Đức Chúa Trời, vợ ông đã đến với một lời đề nghị hay (Sáng. 16:1-2). Đề nghị đó được thực hiện. Nhưng nó không sinh ra Y-sác như Đức Chúa Trời muốn, mà là Ích-ma-ên bị Đức Chúa Trời khước từ. Theo mẫu tự của tiếng Anh, cả Y-sác (Isaac) lẫn Ích-ma-ên (Ishmael) đều bắt đầu bằng “Is”. Chúng rất giống nhau. Tất cả các Hội Thánh cần có sự gia tăng, nhưng đừng bắt chước Sa-ra. Đừng sinh ra những Ích-ma-ên.

Một trường hợp khác là hai con gái của Lót (Sáng. 19:30-38). Anh em có nhớ họ đã bàn bạc như thế nào để có con không? Họ nói “Có khả năng là cha chúng ta không thể có hậu tự. Chúng ta hãy làm điều gì đó để giúp cha có con nối dõi”. Họ đã làm điều gì đó và thành công. Họ đã sanh ra Mô-áp và Am-môn. Nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay sanh ra những Ích-ma-ên, những Mô-áp hay những Am-môn. Tốt hơn là không nên có bất kỳ đứa con nào giống như vậy.

Chúng ta phải là những người mang hình ảnh và thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời. Khi đó, chúng ta sẽ ở dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời để sinh sản và thêm nhiều. Những gương mặt người mang hình ảnh của Đức Chúa Trời sẽ đầy dẫy đất.Đây là một trong những điểm về sự hoàn thành chung cuộc. Đừng nghĩ rằng rao giảng Phúc Âm là một điều thấp thỏi. Điều đó phải cao. Việc rao giảng Phúc Âm của chúng ta phải là đỉnh cao, để không sinh ra những Ích-ma-ên, Mô-áp hay Am-môn, nhưng là những Y-sác.

Chúng ta, Cơ-đốc nhân, luôn có những giấc mơ hão huyền. Chúng ta trích dẫn sự ghi chép trong Công Vụ, tại đó nói rằng 3000 người được cứu vào ngày Lễ Ngũ Tuần và 5000 người được cứu vào một ngày khác. Mặc dầu có sự ghi chép như thế, nhưng số người tin không thể gia tăng quá nhanh. Phải mất hai mươi năm để sản sinh một thế hệ.Anh em không thể có một thế hệ trong năm năm. Sau năm năm, một người vẫn còn là đứa trẻ. Ngay cả sau mười lăm năm, người đó mới chỉ là một thiếu niên. Nhìn chung, phải mất hai mươi năm để sản sinh một thế hệ con người. Tạo ra hoa giả thì dễ. Trong một đêm, chúng ta có thể làm cho phòng nhóm này đầy hoa, nhưng tất cả đều là giả.Tuy nhiên, để có một vườn cây ăn trái phải mất thời gian. Nếu đến vườn cây ăn trái đó một buổi sáng, anh em trông nó có vẻ giống ngày hôm trước. Điều tương tự sẽ xảy ra vào ngày hôm sau, và mỗi ngày dường như giống ngày hôm trước. Phải mất nhiều năm để những cây đó lớn lên và ra trái. Nhưng Ha-lê-lu-gia! Một khi chúng lớn lên, chúng sẽ sinh sản. Đó là nếp sống Hội Thánh. Tất cả các Hội Thánh cần có sự gia tăng, nhưng chúng ta không muốn gia tăng như nấm là sự gia tăng chỉ qua một đêm. Chúng ta cần sự gia tăng đến từ hình ảnh và sự cai trị dưới sự ban phước của Đức Chúa Trời.Điều này cần có thời gian.

3)  Con Người Và Mọi Sinh Vật Khác Được Thỏa Mãn

Nói rằng con người được thỏa mãn không phải là điều nhỏ (Sáng. 1:29). Giả sử A-đam đã được tạo nên và ở đó không có gì cho ông ăn. Giả sử Đức Chúa Trời phán với A-đam: “Ta đã dựng nên ngươi, nhưng chưa chuẩn bị thứ chi để ngươi ăn. Hãy chờ một, hai ngày nữa”. Tình trạng không như vậy. Mọi sự đã được chuẩn bị trước khi A-đam hiện hữu. Đức Chúa Trời đã làm nên nhiều thứ cây thật tốt để ăn. Khi A-đam xuất hiện từ đôi tay sáng tạo của Đức Chúa Trời, lập tức ông đã có thứ để ăn. Ông thỏa mãn. Không chỉ A-đam thỏa mãn mà tất cả các sinh vật đều thỏa mãn (Sáng. 1:30). Sau này, chúng ta sẽ thấy sự nghỉ ngơi thật xuất phát từ sự thỏa mãn. Nếu đói, chúng ta có thể nghỉ ngơi không? Hễ còn đói, chúng ta không bao giờ có thể nghỉ ngơi.Sự nghỉ ngơi tùy thuộc vào sự thỏa mãn. Ha-lê-lu-gia! Con người đã ăn và được thỏa mãn.

4) Mọi Sự Là Rất Tốt

Sáng Thế Ký 1:31 nói rằng Đức Chúa Trời nhìn xem mọi vật Ngài đã làm nên và thấy là rất tốt. Trước ngày thứ sáu, Đức Chúa Trời không nói “Rất tốt”, Ngài chỉ nói “Tốt”. Tại sao Đức Chúa Trời phán: “Rất tốt” vào ngày thứ sáu? Vì A-đam đã có hình ảnh Ngài và đã được ban cho quyền cai trị. Không ai lằm bằm và không ai bị đói. Đức Chúa Trời có thể phán: “Rất tốt!”. Đó là đỉnh cao. Sau khi Đức Chúa Trời phán lời này, thì ngày thứ bảy, tức ngày nghỉ, bắt đầu.

5) Đức Chúa Trời Nghỉ Ngơi –Đức Chúa Trời Thỏa Lòng

Đức Chúa Trời nghỉ ngơi vì Ngài đã thỏa lòng (Sáng. 2:1-3). Đây là điều cuối cùng trong sự hoàn thành chung cuộc –Đức Chúa Trời nghỉ ngơi và thỏa lòng.

a) Lý Do Nghỉ Ngơi

Lý do để Đức Chúa Trời nghỉ ngơi là vì sự vinh hiển của Ngài đã được hiển lộ vì con người đã có hình ảnh của Ngài, và uy quyền của Ngài sắp được thực thi. Sa-tan, kẻ thù của Đức Chúa Trời, sắp bị Đức Chúa Trời xử lý. Ngay khi con người biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời và xử lý kẻ thù, Đức Chúa Trời có thể nghỉ ngơi. Đó không chỉ là Đức Chúa Trời đã hoàn tất công tác Ngài mà trong công tác của Ngài, đã có được một người có thể mang hình ảnh của Đức Chúa Trời và chinh phục kẻ thù của Ngài.Dựa trên hai sự kiện này, Đức Chúa Trời nghỉ ngơi.

b) Hình Ảnh Thu Nhỏ Của Sự Nghỉ Ngơi 
–Sự Nghỉ Ngơi Của Cõi Thọ Tạo

Sự nghỉ ngơi của cõi thọ tạo là sự nghỉ ngơi nhỏ, sự nghỉ ngơi thu nhỏ. Trong sự nghỉ ngơi này, con người có hình ảnh của Đức Chúa Trời, và có thể thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời. Hai yếu tố này có thể tạo nên sự nghỉ ngơi, nhưng chỉ là sự nghỉ trên phạm vi rất nhỏ.

c) Những Hình Bóng Về Sự Nghỉ Ngơi

Bất cứ điều gì được đề cập trong Sáng Thế Ký chương 1 và 2 đều là hạt giống.Chúng ta đã thấy trong các bài trước rằng sự sáng, hình ảnh, sự cai trị, đều là những hạt giống. Sự nghỉ ngơi cũng là một hạt giống cần cả Kinh Thánh để lớn lên và phát triển. Hạt giống về sự nghỉ ngơi được gieo trong Sáng Thế Ký và mùa gặt của hạt giống này là trong Sách Khải Thị. Trong Sách Khải Thị, chúng ta có sự hoàn thành của sự nghỉ ngơi.

Kinh Thánh có một số hình bóng về sự nghỉ ngơi. Ngày sa-bát của Cựu Ước là một hình bóng về sự nghỉ ngơi (Xuất. 20:8-11). Con người là một chứng cớ, sự biểu lộ của Đức Chúa Trời. Con người cũng thuận phục uy quyền của Đức Chúa Trời. Uy quyền của Đức Chúa Trời được thi hành trên những người giữ ngày sa-bát. Vì thế, đó là hình bóng của sự nghỉ ngơi.

Chúa Nhật trong Tân Ước cũng là hình bóng về sự nghỉ ngơi (Khải. 1:10; Công. 20:7; 1Cô. 16:2). Chúa Nhật là hình bóng về sự nghỉ ngơi sắp đến. Hội Thánh với các thánh đồ giải phóng sự sống của Chúa, biểu lộ chính Đức Chúa Trời. Đây là sự nghỉ ngơi mà chúng ta có hôm nay. Ngay khi Đức Chúa Trời được biểu lộ, có sự nghỉ ngơi.Hội Thánh với các thánh đồ thi hành uy quyền của Chúa để xử lý kẻ thù. Nếu giải phóng sự sống của Chúa và thi hành uy quyền của Ngài, chúng ta có sự nghỉ ngơi ngay cả trong lúc này. Trái lại, nếu cãi lẫy và tranh đấu, sẽ không có sự nghỉ ngơi vì chúng ta không đang giải phóng sự sống của Chúa. Nếu không thi hành uy quyền trên kẻ thù, sẽ không có sự nghỉ ngơi.

d) Tiền Vị Của Sự Nghỉ Ngơi

Sự nghỉ ngơi mà chúng ta kinh nghiệm hiện nay là tiền vị vì sự nghỉ ngơi trọn vẹn chưa đến.

(1) Với Các Thánh Đồ

Với các thánh đồ, sự sống của Đức Chúa Trời tuôn chảy và chính Đức Chúa Trời được tỏ ra. Ngay khi sự sống của Đức Chúa Trời tuôn chảy và chính Đức Chúa Trời được tỏ ta, có sự nghỉ ngơi. Đây là tiền vị của sự nghỉ ngơi sắp đến. Anh em có thể kinh nghiệm sự nghỉ ngơi này ngay cả khi đang làm việc. Khi để cho sự sống của Đức Chúa Trời tuôn chảy và để cho Đức Chúa Trời được biểu lộ, anh em có cảm nhận về sự nghỉ ngơi. Tuy nhiên, nếu sự tuôn chảy sự sống của Đức Chúa Trời bị cắt đứt, lập tức anh em sẽ bối rối bên trong. Anh em không có sự nghỉ ngơi. Càng tranh cãi với vợ, anh em sẽ càng đau dạ dày; thậm chí có thể bị loét, điều này cho thấy rằng anh em không có sự sống và sự nghỉ ngơi. Trái lại, nếu giải phóng sự sống của Chúa bất cứ khi nào vợ anh em gây rắc rối, anh em sẽ nếm được tiền vị của sự nghỉ ngơi.

Với các thánh đồ, uy quyền của Đức Chúa Trời được thực thi và kẻ thù của Ngài bị xử lý. Khi vợ làm anh em không vừa lòng, đừng dùng quyền làm đầu của mình. Đừng nói với cô ấy: “Cô không biết rằng tôi là đầu sao?” Nếu làm vậy, anh em sẽ mất vẻ mặt của người và biểu lộ vẻ mặt của rắn. Anh em sẽ trở thành bọ cạp. Khi vợ gây cho anh em khó chịu, hãy đến với Chúa như một thầy tế lễ. Hãy để sự sống tuôn chảy và được giải phóng. Uy quyền và sự cai trị sẽ ở đó, kẻ thù sẽ bị khuất phục, và cả anh em lẫn vợ sẽ được nghỉ ngơi. Tất cả chúng ta phải kinh nghiệm điều này.

(2) Với Hội Thánh Là Thân Thể

Với Hội Thánh là Thân Thể, Đức Chúa Trời được biểu lộ và Sa-tan bị xử lý (Êph. 1:23; 3:19b; 6:11-13). Bất cứ khi nào và ở đâu Đức Chúa Trời được biểu lộ và kẻ thù của Ngài bị xử lý, thì ở đó có tiền vị của sự nghỉ ngơi. Điều này cũng đúng trong đời sống gia đình, đời sống hôn nhân, và đời sống cá nhân. Nếu mua một món hàng mà không giúp anh em biểu lộ Đức Chúa Trời và xử lý Sa-tan, anh em sẽ mất tiền vị của sự nghỉ ngơi. Nếu biểu lộ Đức Chúa Trời và xử lý kẻ thù trong bất kỳ điều gì anh em làm và bất cứ nơi nào anh em đi, thì sẽ nếm tiền vị ngọt ngào của sự nghỉ ngơi sắp đến.

Trong nếp sống Hội Thánh, đừng tranh cãi, và đừng lằm bằm. Một đêm nọ, tôi nhận một cuộc điện thoại nói rằng Hội Thánh nọ ở trong tình trạng tệ hại. Hai người đang nói trên điện thoại, một người xác nhận điều người kia nói về tình trạng tồi tệ và đang mắc bệnh của Hội Thánh đó. Họ chấm dứt cuộc nói và muốn nghe tôi nói. Lập tức tôi nói “Đừng nói cách như vậy. Từ bây giờ, hãy quên câu chuyện của anh em đi. Nếu nói Hội Thánh đó tệ hại, chắc chắn Hội Thánh sẽ tệ hại vì anh em tệ hại. Nếu nói Hội Thánh đó là kỳ diệu, chắc chắn Hội Thánh sẽ kỳ diệu vì anh em là kỳ diệu. Vậy Hội Thánh là gì?Hội Thánh là anh em. Khi anh em nói Hội Thánh không tốt, anh em đang tự định tội mình”. Tôi nói thêm với những anh em đó rằng họ phải cảnh giác đối với sự xảo quyệt của kẻ thù. Họ đáp: “Chúng tôi sẽ làm gì? Chúng tôi sẽ đến với ai?” Tôi nói “Đừng đến với bất cứ ai. Đừng nói gì! Chỉ hãy đến các buổi nhóm Hội Thánh và ngợi khen Chúa”.Họ hỏi: “Chúng tôi không cần cầu nguyện sao?” Tôi đáp: “Vâng, anh em nên cầu nguyện, nhưng đừng cầu nguyện tiêu cực. Hãy cầu nguyện cách tích cực. Hội Thánh không có nan đề. Hội Thánh thật vinh diệu. Hội Thánh không cần anh em cầu nguyện như vầy: ‘Ôi Chúa, có một nan đề.’ Anh em là nan đề. Càng cầu nguyện về nan đề đó, anh em càng trở thành nan đề. Đừng tạo nan đề thì sẽ không có nan đề nào. Hãy đến với buổi nhóm Hội Thánh, ngợi khen Chúa và cầu nguyện tích cực”.

Tất cả chúng ta phải thấy bản chất các mưu chước của kẻ thù. Từ nay trở đi, đừng nói về tình trạng của Hội Thánh. Hãy đến với buổi nhóm Hội Thánh và ngợi khen Chúa.Hội Thánh là Hội Thánh. Vì thế, chúng ta có sự nghỉ ngơi. Hễ khi nào nói về tình trạng của Hội Thánh, anh em sẽ mất sự nghỉ ngơi. Anh em sẽ không bao giờ nếm tiền vị của sự nghỉ ngơi. Nếu đến buổi nhóm Hội Thánh và ngợi khen Chúa, lập tức anh em sẽ ở trong tiền vị của sự nghỉ ngơi.

e) Hoàn Thành Sự Nghỉ Ngơi –Sự Nghỉ Ngơi Một Ngàn Năm

Hoàn thành sự nghỉ ngơi là sự nghỉ ngơi ngàn năm, Vương Quốc ngàn năm. Theo Sách Hê-bơ-rơ, có một sự nghỉ ngơi được hứa cho dân Đức Chúa Trời và tất cả chúng ta phải lao khổ để bước vào sự nghỉ ngơi đó (Hêb. 4:1,3,9,11). Nếu không nỗ lực bước vào sự nghỉ ngơi đó, chúng ta sẽ bỏ lỡ. Cách bước vào sự nghỉ ngơi đó là kinh nghiệm tiền vị của nó hôm nay. Nếu nếm tiền vị này, chắc chắn chúng ta sẽ bước vào sự nếm biết đầy đủ. Nếu không nếm tiền vị sự nghỉ ngơi đó hôm nay, chúng ta sẽ bỏ lỡ sự nếm biết đầy đủ sắp đến. Trong sự nghỉ ngơi của thời kỳ ngàn năm, các thánh đồ sẽ giống Đấng Christ hoàn toàn, biểu lộ vinh hiển Đức Chúa Trời (1Gi. 3:2; Côl. 3:4; 1Tês. 2:12).Các thánh đồ sẽ đồng trị với Đấng Christ (Khải. 20:6).

f) Tổng Kết Của Sự Nghỉ Ngơi

Tổng kết của sự nghỉ ngơi là sự nghỉ ngơi trong trời mới đất mới. Tất cả những người được chuộc là một Thân Thể sẽ biểu lộ vinh hiển của Đức Chúa Trời cho đến đời đời (Khải. 21:11,23). Cũng vậy, tất cả những người được chuộc là một Thân Thể sẽcai trị cho Đức Chúa Trời đến đời đời (Khải. 22:5b). Đó sẽ là tổng kết sự nghỉ ngơi. Sự nghỉ ngơi trong Sáng Thế Ký chương 2 chỉ là hình bóng; sự tổng kết sẽ ở trong Giê-ru-sa-lem Mới. Mọi người sẽ thỏa lòng. Mọi người sẽ có sự nghỉ ngơi vì chính Đức Chúa Trời sẽ được thỏa lòng và chính Ngài sẽ tìm được sự nghỉ ngơi của Ngài tại đó. Nếp sống Hội Thánh ngày nay là bức tranh thu nhỏ của Giê-ru-sa-lem Mới. Nếp sống Hội Thánh là tiền vị của sự nếm biết trọn vẹn này. Sự nghỉ ngơi chung cuộc chủ yếu bao gồm hai điều: sự biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời và việc thi hành uy quyền của Ngài.

g) Con Người Cũng Được Nghỉ Ngơi Với Đức Chúa Trời

Nếu đọc cẩn thận Sáng Thế Ký chương 1, anh em thấy rằng sau khi Đức Chúa Trời tạo nên con người, Ngài không bảo con người làm điều gì. Đức Chúa Trời chỉ nói về việc ăn của con người (Sáng. 1:29).

(1) Ngày Thứ Bảy Của Đức Chúa Trời Là Ngày Thứ Nhứt Của Con Người

Theo lịch của Kinh Thánh, ngày không bắt đầu vào buổi sáng mà vào buổi chiều. Tôi tin rằng con người được làm nên vào cuối ngày thứ sáu. Khi con người xuất hiện từ đôitay sáng tạo của Đức Chúa Trời, lập tức con người bước vào ngày thứ bảy. Với Đức Chúa Trời, ngày thứ bảy là ngày nghỉ (Sáng. 2:2-3). Ngày thứ bảy của Đức Chúa Trời là ngày thứ nhứt của con người. Điều này nghĩa là Đức Chúa Trời đã sắm sẵn mọi sự cho con người vui hưởng. Sau khi được tạo nên, con người không tham dự vào công việc của Đức Chúa Trời mà bước vào sự nghỉ ngơi của Ngài. Ha-lê-lu-gia! Đừng nghĩ rằng anh em phải làm điều gì đó. Đức Chúa Trời không cần anh em làm bất kỳ điều gì.Đức Chúa Trời có nhiều của báu và Ngài muốn anh em đến vui hưởng. Đừng làm việc! Nếu cố gắng làm việc, Đức Chúa Trời sẽ phán: “Hỡi đứa con khờ dại kia, Ta không có công việc để con làm đâu, nhưng Ta có rất nhiều sự phong phú lớn cho con vui hưởng. Hãy đến, hãy  cùng Ta nghỉ ngơi. Ngày sa-bát của Ta là ngày đầu tiên của con. Ta đã làm việc trong sáu ngày. Bây giờ hãy đến, hãy cùng Ta  nghỉ ngơi như là ngày đầu tiên của con. Chúng Ta hãy cùng đi nghỉ”. Và con người đã vâng theo.

Tôi đã dành nhiều thì giờ tìm xem con người đã làm gì sau khi được tạo nên. Tôi khám phá rằng con người đã không làm gì ngoài ăn và nghỉ ngơi. Điều này không kỳ diệu sao? Sau khi được cứu, nhiều người nghĩ rằng họ phải làm điều gì đó. Hãy quên việc làm đó đi. Hãy đến ăn Jesus. Hãy đến để được thỏa mãn. Hãy đến để cùng Đức Chúa Trời nghỉ ngơi. Đức Chúa Trời sẽ phán: “Hỡi con bé mọn của Ta, hãy quên việc làm của con đi. Hãy quên công việc đi. Ta đã làm mọi sự rồi. Bây giờ là lúc Ta nghỉ ngơi. Hãy đến để cùng ở trong sự nghỉ ngơi của Ta”.

Năm 1936, khi đang làm việc tại miền Bắc Trung Hoa, tôi rất nặng lòng về công việc Chúa. Công việc gian khổ, đầy thử thách, và hoàn cảnh thì khó khăn. Tôi đạp xe ra ngoại ô, quăng xe xuống đất, rồi nằm dài và khóc: “Chúa ơi, xin giúp con!”. Tôi lo buồn và bị thử thách. Một ngày nọ, trước khi giảng, có một lời đến với tôi rằng: “Con không biết ngày thứ nhứt của con người là ngày thứ bảy của Đức Chúa Trời sao? Ngày thứ bảy của Đức Chúa Trời là ngày thứ nhứt của con người. Tại sao con làm việc cực nhọc như thế? Này, đứa con khờ dại của Ta, hãy bỏ điều đó đi. Ném xa công việc của con đi. Hãy đến với Ta và cùng Ta nghỉ ngơi”. Vào sáng Chúa Nhật đó, tôi đã rao giảng về “Ngày Thứ Bảy Của Đức Chúa Trời Là Ngày Thứ Nhứt Của Con Người”. Tôi nói với mọi người rằng: “Ha-lê-lu-gia! Hôm nay là ngày thứ nhứt của tôi. Trong nhiều tháng qua, tôi đã liên tục làm việc cực nhọc nhưng bây giờ tôi đã ném xa công việc của tôi rồi. Tôi sẽ không làm việc nữa. Hôm nay tôi bắt đầu nghỉ ngơi với Đức Chúa Trời.Ngày thứ bảy của Ngài là ngày thứ nhứt của tôi”. Anh em có thể hỏi: “Vậy sau ngày thứ bảy là ngày gì?” Đó là ngày thứ nhứt trong tuần, Chúa Nhật, một sự nghỉ ngơi mới và một ngày sa-bát mới. Ngợi khen Chúa!

(2) Ngày Sa-bát Được Lập Nên Vì Con Người

Những người Pha-ri-si buộc mọi người phải vì ngày sa-bát. Chúa đã lên án họ, nói rằng họ hoàn toàn sai. Ngài phán rằng ngày sa-bát được lập nên là vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát (Mác 2:27). Ha-lê-lu-gia! Phần định của con người không phải là làm việc –mà là ngày sa-bát.

(3) Con Người Nghỉ Ngơi Vì Đức Chúa Trời Nghỉ Ngơi

Hễ khi nào Đức Chúa Trời thỏa mãn, anh em thỏa mãn. Hễ khi nào anh em thỏa mãn, đó là bằng chứng rằng Đức Chúa Trời đang nghỉ ngơi. Ngài thỏa mãn.

(4) Con Người Nghỉ Ngơi

Khi Công Việc Của Đức Chúa Trời Trên Con Người Đạt Mục Tiêu Của Ngài

Đừng làm việc. Chỉ hãy quan tâm một điều: để cho Đức Chúa Trời đạt mục tiêu của Ngài. Mục tiêu của Đức Chúa Trời là gì? Mục tiêu của Đức Chúa Trời là hình ảnh của Ngài được biểu lộ và quyền cai trị của Ngài được thực thi. Ngay khi anh em để hình ảnh Ngài được biểu lộ và quyền cai trị của Ngài được thực thi nhằm xử lý kẻ thù, thì Đức Chúa Trời đạt mục tiêu của Ngài. Đức Chúa Trời sẽ phán: “Ta thỏa lòng”. Và anh em sẽ nói “Đức Chúa Trời ơi, con cũng thỏa lòng”. Cho nên, anh em cùng nghỉ ngơi với Đức Chúa Trời.

Tất cả những sự nghỉ ngơi được nói ở trên là do Đức Chúa Trời đã đạt được mục tiêu của Ngài, và con người cùng vui hưởng sự nghỉ ngơi với Đức Chúa Trời. Ngợi khen Chúa! Điều này thật kỳ diệu.

Tôi rất vui mừng vì Chúa ban cho chúng tôi cơ hội rao giảng chín bài về Sáng Thế Ký. Từ các bài giảng này, chúng ta có thể thấy rằng mọi điều được chép trong sự ghi chép thần thượng này hoàn toàn tập trung vào sự sống. Sáng Thế Ký chương 1 và 2 chỉ là dàn bài. Tiểu sử của tám người –A-đam, A-bên, Hê-nóc, Nô-ê, Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và Giô-sép– trình bày một bức tranh đầy đủ. Cuối cùng, chúng ta sẽ thấy Gia-cốp và Giô-sép gắn liền với nhau. Hai người này thực ra chỉ là một: Gia-cốp trở nên Ítx-ra-ên, hoàng tử của Đức Chúa Trời, mang hình ảnh của Đức Chúa Trời; Giô-sép trở thành người cai trị mọi sự, thi hành uy quyền của Đức Chúa Trời. Vào cuối Sáng Thế Ký, chúng ta thấy một người kép –một phương diện là Gia-cốp: biểu lộ hình ảnh của Đức Chúa Trời, và một phương diện khác là Giô-sép: thi hành quyền cai trị của Đức Chúa Trời. Hình ảnh của Đức Chúa Trời được biểu lộ, uy quyền của Đức Chúa Trời được thực thi, và có sự nghỉ ngơi. Ha-lê-lu-gia!

Cả Kinh Thánh, với tất cả các câu chuyện, lịch sử, tiểu sử và các sự dạy dỗ, đều chú trọng vào sự sống. Sự sống này sẽ sản sinh sự biểu lộ Đức Chúa Trời và sự đại diện cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời được hiển lộ, còn kẻ thù của Ngài bị xử lý.Ha-lê-lu-gia! Khi đó, sẽ có sự nghỉ ngơi chung cuộc trong vũ trụ này. Cảm tạ Đức Chúa Trời về Cựu Ước và Tân Ước. Không có Tân Ước, chúng ta thật khó hiểu các ẩn dụ, hình bóng, hình ảnh của Cựu Ước. Tuy nhiên, không có Cựu Ước, chúng ta chỉ có những lời suông của Tân Ước. Chúng ta sẽ thiếu những hình ảnh. Ngợi khen Chúa vì chúng ta có cả hai chúc thư. Chúng ta có những hình ảnh và có những lời rõ ràng để có thể biết mình đang ở đâu –ở trong hình ảnh của Đức Chúa Trời và trong sự cai trị của Ngài. Chúng ta sẽ ở trong sự nghỉ ngơi của Đức Chúa Trời. Chúng ta cần nhớ năm từ chính yếu đã đề cập trước –hình ảnh, cai trị, phước hạnh, thỏa lòng và nghỉ ngơi. Khi nào mang hình ảnh của Đức Chúa Trời để biểu lộ Ngài, chúng ta sẽ có quyền cai trị để đại diện Ngài. Khi đó phước hạnh trọn vẹn sẽ giáng trên chúng ta và chúng ta sẽ thỏa lòng. Cuối cùng, Đức Chúa Trời và chúng ta đều sẽ nghỉ ngơi trong sự vui thỏa trọn vẹn dưới sự ban phước của Ngài, với hình ảnh và sự cai trị của Ngài.

 

BÀI MƯỜI

Các Thủ Tục Của Đức Chúa Trời 
Để Hoàn Thành Mục Đích Ngài
(1)

Trong các bài trước, chúng ta đã đề cập đến điểm chính yếu đầu tiên của Sáng Thế Ký –khát vọng và mục đích Đức Chúa Trời. Điều này được bày tỏ trong Sáng Thế Ký 1:1–2:3. Khát vọng và mục đích của Đức Chúa Trời là có được một người tập thể để biểu lộ Ngài theo hình ảnh Ngài, và đại diện Ngài với uy quyền của Ngài. Bây giờ, chúng ta cần hỏi một câu: Làm thế nào con người có thể biểu lộ Đức Chúa Trời theo hình ảnh Ngài và đại diện Ngài với uy quyền của Ngài? Điều này dẫn chúng ta đến điểm chính yếu thứ hai của Sách này.

B. Các Thủ Tục Của Đức Chúa Trời 
Để Hoàn Thành Mục Đích Ngài –2:4-7

Sáng Thế Ký chương 2 bày tỏ phương cách Đức Chúa Trời sử dụng để hoàn thành mục đích Ngài. Đây là lý do vì sao chúng ta có phần ký thuật thứ hai về sự sáng tạo trong Sáng Thế Ký chương 2. Khi còn là một Cơ-đốc nhân trẻ, tôi bị bối rối bởi hai phần ký thuật này về sự tạo nên con người. Sáng Thế Ký chương 1 cho chúng ta sự ghi chép về sự sáng tạo. Tại sao chúng ta cần một sự ghi chép nữa trong Sáng Thế Ký chương 2? Mãi cho đến những ngày gần đây trong chức vụ, Đức Chúa Trời mới cho tôi thấy câu trả lời. Mặc dầu phần ký thuật về sự sáng tạo trong Sáng Thế Ký chương 1 đã bày tỏ mục đích của Đức Chúa Trời trong việc tạo nên con người, nhưng không cho thấy cách thực hiện mục đích này. Vì thế, chúng ta cần phần ký thuật thứ hai để bày tỏ phương cách, thủ tục mà Đức Chúa Trời thực hiện để hoàn thành mục đích của Ngài. Sau khi thấy mục đích trong chương 1, chúng ta phải đến chỗ nhìn thấy thủ tục trong chương 2. Thủ tục này được bày tỏ đầy đủ trong Sáng Thế Ký chương 2, bắt đầu với câu 5 và tiếp tục đến hết chương. Nếu đọc phân đoạn Lời này trong ánh sáng của cả Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy thủ tục này gồm ba bước. Chúng ta chỉ có thể nói đến bước một trong bài này, và hai bước còn lại cho các bài sau. Tuy nhiên, trước khi suy xét bước đầu tiên này, chúng tôi muốn lưu ý rằng phương tiện Đức Chúa Trời hoàn thành mục đích của Ngài là sự sống.

1. Bởi Sự Sống

Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành mục đích Ngài bằng phương tiện là sự sống của chính Ngài. Làm thế nào một người có thể biểu lộ một người khác nếu anh ta không có sự sống của người đó? Một con chó không thể biểu lộ con mèo, vì chó không có sự sống của mèo. Chó có sự sống của chó và sự sống này chỉ thích hợp cho việc biểu lộ một con chó. Nếu nghĩ khác đi, thì chúng ta đang mơ. Làm thế nào chúng ta là con người lại có thể biểu lộ Đức Chúa Trời? Không có cách nào khác ngoài việc phải có sự sống của Đức Chúa Trời. Nếu một con chó muốn biểu lộ mèo, chắc chắn chỉ bằng cách truyền sự sống của mèo vào trong con chó đó. Một khi chó nhận được sự sống của mèo, tự động nó sẽ dễ dàng trở thành sự biểu lộ của một con mèo. Con người được định cho sự biểu lộ Đức Chúa Trời. Chúng ta có khả năng làm điều này không? Chúng ta không thể làm điều này bởi sự sống của mình vì đó chỉ là sự sống con người. Đức Chúa Trời là siêu việt. Sự sống của chúng ta quá thấp không thể biểu lộ Ngài. Nếu muốn biểu lộ Đức Chúa Trời, chúng ta cần có sự sống của Đức Chúa Trời. Nếu có sự sống của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ biểu lộ Ngài cách tự phát và vô thức. Một khi có sự sống của Ngài, chúng ta sẽ biểu lộ hình ảnh Ngài. Sự sống là phương cách để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Đây không phải là sự sống thiên nhiên của chúng ta, mà là sự sống thần thượng, đời đời của Đức Chúa Trời.

Uy quyền cũng có liên quan đến sự sống. Không một cái bàn hay cái ghế nào có uy quyền, vì uy quyền luôn có quan hệ đến một sự sống nào đó. Hãy nhìn chính anh em. Càng có sự sống, anh em càng có uy quyền. Con người có uy quyền trên các loài vật vì chúng ta có sự sống cao hơn. Ngay cả trong phạm vi về mối quan hệ con người, chúng ta cũng thấy đúng là khi một người càng có sự sống, sẽ càng có nhiều uy quyền. Nếu tôi trưởng thành hơn anh em, tôi có uy quyền trên anh em. Nếu một thiếu niên đến với tôi, tôi không cần phải dọa dẫm. Tự nhiên, cậu ấy sẽ đến dưới uy quyền của tôi. Uy quyền này không phải do Tổng Thống Mỹ ban cho mà do tuổi tác của tôi. Nếu anh em 110 tuổi và tôi 70 tuổi, tôi sẽ ở dưới uy quyền của anh em. Tuổi của anh em định uy quyền của anh em. Để đại diện Đức Chúa Trời với uy quyền của Ngài, chúng ta cần sự sống của Ngài.

Nếu muốn đại diện một người nào đó trong xã hội, anh em cần sở hữu sự sống gần như là sự sống của người đó. Giả sử anh em được mời để đại diện Tổng Thống Mỹ. Anh em cần có cùng mức lượng sự sống như ông. Nếu sự sống của anh em hơi thấp, anh em sẽ không thể đại diện ông. Tiêu chuẩn về sự sống của anh em phải tương xứng với sự sống của Tổng Thống.

Đây là nguyên tắc căn bản và lô-gíc mà chúng ta phải quan tâm: chúng ta không bao giờ có thể biểu lộ Đức Chúa Trời hay đại diện Ngài bởi sự sống của mình. Hãy nhìn sự sống anh em. Sự sống của anh em không thể biểu lộ Đức Chúa Trời mà chỉ đủ để bày tỏ chính mình. Ở mức độ nào đó, thậm chí một phụ nữ không đủ điều kiện trong sự sống để đại diện cho chồng, vì sự sống của chị không cao bằng sự sống của chồng. Tôi không biết các chị em có đồng ý về điều này hay không. Dù sao đi nữa, tất cả chúng ta phải thừa nhận rằng sự sống thiên nhiên của chúng ta không làm chúng ta đủ điều kiện để biểu lộ và đại diện Đức Chúa Trời. Không những sự sống sa ngã của chúng ta không tương thích cho điều này, mà ngay cả sự sống thọ tạo có từ ban đầu cũng không đủ điều kiện. Như sẽ thấy trong bài kế tiếp, đây là lý do vì sao, sau khi tạo nên con người, Đức Chúa Trời đã đặt con người trước Cây Sự Sống, hàm ý rằng con người cần sở hữu sự sống cao hơn sự sống mà con người đã có.

Một số người có thể hỏi: “Không phải Đức Chúa Trời đã tạo nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài sao?” Đúng, Đức Chúa Trời đã tạo nên chúng ta theo hình ảnh Ngài. Sau đó, họ có thể hỏi: “Vì đã có hình ảnh của Đức Chúa Trời rồi, thế tại sao chúng ta không thể biểu lộ Ngài?” Chúng ta có thể nói rằng con người được tạo nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời giống như tấm ảnh của một người. Giả sử anh em chụp hình anh John rồi cho người khác xem và nói rằng đây là anh John. Trong một ý nghĩa, anh em đúng, vì đó là anh John. Tuy nhiên, tấm ảnh đó không phải là anh John thật; đó chỉ là anh John trong tấm ảnh. Mặc dầu tấm ảnh đó bày tỏ những đặc điểm, phong cách và con người của anh John, nhưng không có sự sống của anh John. Nó có thể cho thấy điều gì đó về anh John, nhưng không thể biểu lộ anh. Cách duy nhất để tấm ảnh đó biểu lộ anh John là nó phải có sự sống của anh. Con người đã được tạo nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, nhưng con người giống như một tấm ảnh cho thấy điều gì đó của Đức Chúa Trời mà không có sự sống của Ngài. Mặc dầu con người là theo hình ảnh của Đức Chúa Trời nhưng không có sự sống của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời định rằng con người sẽ dự phần trong sự sống được hàm ý bởi Cây Sự Sống. Con người đã không làm điều này. Ngày nay, bởi tin nơi Đấng Christ, chúng ta đã được đem trở lại để dự phần trong sự sống đó. Tất cả chúng ta đều đã nhận được sự sống đời đời. Vì thế, không có cách nào khác để chúng ta biểu lộ Đức Chúa Trời theo hình ảnh Ngài và đại diện Ngài với uy quyền của Ngài ngoài việc dự phần trong sự sống của Ngài. Điều này được xác quyết bởi nhiều câu Kinh Thánh.

a. Sự Sống Đồng Hóa Tín Đồ Theo Hình Ảnh 
Đức Chúa Trời Và Đem Họ Vào Trong Vinh Hiển

Kinh Thánh nói rằng chính sự sống đồng hóa tín đồ theo hình ảnh của Con Đức Chúa Trời (La. 8:2,6,29). Chỉ bởi phương cách sự sống chúng ta mới có thể được đồng hóa theo hình ảnh của Con Đức Chúa Trời. La-mã 8:2 nói về “Linh sự sống,” và câu 6 nói rằng tâm trí đặt vào linh là sự sống. Chính bởi sự sống này của Linh mà chúng ta có thể được đồng hóa theo Con Đức Chúa Trời. Điều này rất sáng tỏ. Cũng vậy, chính Đấng Christ là sự sống đem chúng ta vào trong vinh hiển của Đức Chúa Trời để biểu lộ Ngài. Cô-lô-se 3:4 nói rằng Đấng Christ, sự sống của chúng ta, sẽ đem chúng ta vào trong vinh hiển của Đức Chúa Trời hầu chúng ta có thể biểu lộ Đức Chúa Trời. Điều này khẳng định lời tuyên bố rằng chính bởi sự sống của Đức Chúa Trời mà chúng ta biểu lộ Đức Chúa Trời.

b. Sự Sống Phục Sinh Ban Uy Quyền

Kinh Thánh cũng cho thấy rằng chính sự sống phục sinh trổ hoa đã ban uy quyền cho cây gậy của A-rôn (Dân. 17:8). Mười Hai Cây gậy đại diện cho mười hai chi phái của Ítx-ra-ên đã được đặt trước hiện diện Chúa trong một đêm. Mỗi cây gậy là một cây gỗ khô chết. Trong đêm đó, cây gậy của A-rôn trổ hoa, biểu thị rằng sự sống phục sinh đã ban uy quyền cho cây gậy của ông để cai trị tuyển dân. Vì thế, sự sống ban uy quyền. Nếu muốn trở thành người dẫn dắt trong Hội Thánh, anh em cần nhiều sự sống. Các trưởng lão được chỉ định không những bởi sự chỉ định bên ngoài nhưng bởi uy quyền bên trong bằng sự sống. Tất cả trưởng lão cần trưởng thành trong sự sống, và có đủ phẩm chất để cai trị bởi sự sống cai trị này. Điều này cũng đúng với các chấp sự và những người dẫn dắt trong các nhóm phục vụ. Chỉ sự sống mới có thể ban uy quyền.

Khải Thị 20:4 nói rằng chính sự sống phục sinh đắc thắng đem tín đồ vào sự đồng trị với Đấng Christ trong một ngàn năm. Sự sống phục sinh đem chúng ta vào trong quyền làm vua với Đấng Christ vì sự sống lưu xuất từ ngai Đức Chúa Trời. Ngai Đức Chúa Trời tượng trưng cho uy quyền. Chúng ta thấy bức tranh này trong Khải Thị 22:1, tại đó, nước sự sống từ ngai Đức Chúa Trời chảy ra. Do đó, uy quyền và sự sống có liên quan lẫn nhau. Con sông sự sống có liên quan đến ngai Đức Chúa Trời. Nếu có ngai Đức Chúa Trời là nguồn, chúng ta sẽ ở trong sông nước sự sống. Nếu ở trong sông nước sự sống, chúng ta sẽ được đem đến ngai Đức Chúa Trời, nhận được uy quyền, là điều phát xuất từ ngai Ngài. Sự sống sản sinh uy quyền. Tất cả chúng ta phải thấy rằng việc đại diện cho Đức Chúa Trời đòi hỏi sự sống của Đức Chúa Trời.

2. Bước Thứ Nhất 
–Tạo Nên Con Người Như Một Chiếc Bình 
Để Chứa Đựng Đức Chúa Trời Là Sự Sống

Bước thứ nhất trong thủ tục của Đức Chúa Trời để hoàn thành mục đích: Ngài là tạo nên con người như một chiếc bình để chứa đựng chính Ngài là sự sống. Tôi thích từ “chiếc bình”. Anh em có nhận thức rằng, là người, anh em là một chiếc bình không? Một chiếc bình thì giống như cái chai hay cái tách. Ngày nay, trong khi ở với Chúa, tôi rất vui mừng vì tôi là một chiếc bình. Tôi tự nhủ: “Ồ, ngươi thật giống như một cái chai. Miệng ngươi giống như miệng chai. Mục đích của cái chai là để chứa đựng điều gì đó, không phải chứa chính ngươi. Ngươi là chiếc bình được thiết kế để chứa đựng Đức Chúa Trời”.

Đây không phải là quan niệm của tôi. Đầu tiên điều đó được trình bày trong Sáng Thế Ký và sau đó được Phao-lô nhấn mạnh trong La-mã chương 9, khi ông nói “Ngươi là ai mà dám cãi lại Đức Chúa Trời? Ngươi không biết rằng ngươi là đất sét sao? Thợ gốm có toàn quyền để nắn đất sét này thành những chiếc bình”. La-mã 9:21,23 bày tỏ rằng Đức Chúa Trời tạo nên con người như một chiếc bình. Chúng ta là những chiếc bình để chứa đựng Đức Chúa Trời là sự sống.

Vì thế, sau khi tạo nên con người, Đức Chúa Trời đặt con người trước Cây Sự Sống. Cây Sự Sống thật tốt để làm thức ăn. Trong Giăng chương 6, Chúa Jesus phán chúng ta có thể ăn Ngài được, Ngài là Bánh Sự Sống (Gi. 6:35). Vậy nên, tất cả chúng ta đều có thể ăn Ngài. Hơn nữa, chúng ta chứa bất cứ thứ gì mình ăn vì nó trở thành bản thể chúng ta. Bản thể chúng ta đơn giản là chiếc bình để chứa mọi điều chúng ta ăn. Bất cứ điều gì chúng ta ăn không chỉ được chứa trong chúng ta mà còn được đồng hóa thành chính yếu tố của chúng ta. Thậm chí trở thành chúng ta. Do đó, các chuyên gia dinh dưỡng nói rằng: “Chúng ta là những gì chúng ta ăn”. Chúng ta không chỉ là chiếc bình chứa mà còn là chiếc bình ăn, chiếc bình đồng hóa những gì chúng ta ăn. Đức Chúa Trời khao khát chúng ta ăn Ngài. Nếu nói với Đức Chúa Trời rằng chúng ta muốn ăn Ngài, Ngài sẽ rất vui. Chúng ta là những chiếc bình để ăn và đồng hóa Ngài. Cuối cùng, Đức Chúa Trời sẽ trở thành chúng ta. Ngợi khen Chúa! Chúng ta đã được làm nên những chiếc bình để chứa đựng Đức Chúa Trời là sự sống.

La-mã 9:21,23 nói rằng chúng ta là những chiếc bình cho sự tôn trọng, những chiếc bình của sự thương xót được sắm sẵn cho sự vinh hiển. Đây là phần hưởng của chúng ta. Đừng xem thường tôi. Tôi là một chiếc bình cho sự tôn trọng, không phải cho sự hổ thẹn. Một ngày kia, tôi sẽ đầy dẫy vinh hiển và sẽ ở trong sự vinh hiển để biểu lộ Đức Chúa Trời vinh hiển. Tất cả chúng ta là những chiếc bình của sự thương xót được sắm sẵn cho sự vinh hiển.

a) Bối Cảnh

Trước hết, chúng ta cần thấy bối cảnh về bước thứ nhất của Đức Chúa Trời trong sự hoàn thành mục đích Ngài.

1) Đức Chúa Trời Chưa Khiến Mưa Xuống Đất

Tôi yêu Kinh Thánh. Tôi đã ở với Kinh Thánh đúng 50 năm, và ngày nay, tôi yêu Kinh Thánh hơn bao giờ hết. Khi đến với Sáng Thế Ký 2:4-7, tôi muốn nói đôi lời với những người trẻ. Khi còn là một Cơ-đốc nhân trẻ, tôi bị bối rối bởi Sáng Thế Ký chương 2, nghĩ rằng chương đó không có vẻ gì là Kinh Thánh. Tôi cảm thấy Kinh Thánh nên là kinh điển, nhưng Sáng Thế Ký chương 2 dường như chẳng kinh điển gì đối với tôi. Chẳng hạn, trong Sáng Thế Ký 2:5 nói rằng: “Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời không làm cho mưa rơi xuống đất”. Tôi tự hỏi tại sao điều này được đề cập trong Kinh Thánh. Tôi không nghĩ rằng điều đó rất quan trọng. Sau đó, câu 5 nói tiếp: “Chẳng có một người nào cày cấy đất”. Điều này có ý nghĩa gì? Nghe chẳng có vẻ là lời Kinh Thánh. Trước đó, trong câu 5 nói rằng: “Vả, lúc đó, chưa có một cây nhỏ nào mọc ngoài đồng và cũng chưa có một ngọn cỏ nào mọc ngoài ruộng”. Điều này là gì? Tôi nghĩ điều đó giống như từ vựng của một học sinh lớp bốn. Hơn nữa, trong câu 6, chúng ta được biết rằng “Song có hơi nước dưới đất bay lên tưới khắp cùng mặt đất”. Với tôi, điều đó chẳng có vẻ gì là lời Kinh Thánh. Nhiều anh em có thể nói “La-mã chương 8 thì tốt, có vẻ như cách nói của Kinh Thánh; còn Sáng Thế Ký chương 2 thì tôi không thích. Ở đó không có linh, không có tâm trí và không có sự sống. Chỉ nói về “cỏ, cây và hơi nước”. Tuy nhiên, Sáng Thế Ký 2:5-6 là một phần của Kinh Thánh, và không có những câu này, Kinh Thánh sẽ không hoàn chỉnh. Kinh Thánh cần hai câu này của Sáng Thế Ký chương 2 để được hoàn hảo. Thấy được những gì bày tỏ trong phần lời này rất có ý nghĩa cho chúng ta.

Đừng xem thường bất kỳ một dòng nào trong Kinh Thánh, vì Kinh Thánh là Lời từ miệng Đức Chúa Trời phán ra. Mỗi từ, cụm từ, mệnh đề và câu đều từ miệng Ngài phán ra. Đọc một cụm từ trong Kinh Thánh là vấn đề nghiêm trọng. Anh em có thể chứng minh điều này bằng cách đọc Sáng Thế Ký 2:5-6 nhiều lần với một linh cầu nguyện. Nếu cầu nguyện và đọc những câu này theo cách như vậy, anh em sẽ được nuôi dưỡng. Tuy nhiên, nếu cũng làm như vậy với những dòng chữ trong tờ Los Angeles Times hay Santa Ana Register, anh em sẽ chết. Có sự khác biệt lớn giữa những văn phẩm thế tục với Kinh Thánh. Mỗi một từ trong Kinh Thánh đều là thánh; đó là điều ra từ Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời đã không làm cho trời mưa trên đất. Điều này có nghĩa là Ngài đã không ban Linh của Ngài xuống để hòa lẫn với con người là người đã được làm nên từ bụi đất. Trong Giô-ên 2:23,28-29 chúng ta thấy Linh của Đức Chúa Trời được nói bóng là mưa.

Một số Cơ-đốc nhân chỉ trích chúng ta đã quá hình bóng hóa Kinh Thánh. Tuy nhiên, chúng ta phải nhận thức rằng việc hình bóng hóa Kinh Thánh là đúng vì phần nhiều, đặc biệt là Sáng Thế Ký chương 1 và 2, được viết theo cách nói bóng. Chính Phao-lô đã hình bóng hóa Cựu Ước. Trong 2Cô-rin-tô 4:6, ông nói đến Đức Chúa Trời là Đấng ra lịnh cho sự sáng phải chiếu ra từ sự tối tăm. Chắc chắn điều này chỉ về Sáng Thế Ký chương 1. Sự kiện chính Đức Chúa Trời ra lịnh cho sự sáng phải chiếu ra từ tối tăm bây giờ chiếu sáng trong chúng ta, có nghĩa là công việc của Đức Chúa Trời trong Sáng Thế Ký chương 1 là hình bóng về những gì Ngài đang làm bên trong chúng ta ngày nay. Trong Ga-la-ti chương 4, Phao-lô đã hình bóng hóa Sa-ra, vợ của Áp-ra-ham, và A-ga, nàng hầu của Áp-ra-ham. Phao-lô đã hình bóng hóa hai người nữ này là hai giao ước. Do đó, cách tốt nhất để hiểu Cựu Ước là giải thích nghĩa bóng của Cựu Ước.

Trong bốn Sách Phúc Âm, Chúa Jesus đã hình bóng hóa hầu như mọi điều. Ngài hình bóng hóa mọi kiểu mẫu, hình bóng và nhân vật được thấy trong Cựu Ước. Ngài phán rằng Ngài là Sa-lô-môn, Đa-vít, Ngày Sa-bát, Sự Sáng, Thực Phẩm, Không Khí, Cái Cửa, Người Chăn, và Đồng Cỏ. Ngài là mọi sự. Vì thế, chúng ta cần hình bóng hóa Kinh Thánh. Tôi khích lệ anh em làm điều này.

Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu Sáng Thế Ký 2:5-6, tại đó, chúng ta được bảo rằng Đức Chúa Trời đã không ban mưa trên đất. Điều này nghĩa là Đức Chúa Trời chưa giáng mưa thiên thượng của Ngài, tức Linh của Ngài, trên đất. Khi mưa xuống, mưa ngấm xuống đất, hòa lẫn với đất vì mục đích sản sinh sự sống. Bây giờ, chúng ta có thể thấy điểm này: sự kiện không có mưa trước khi Đức Chúa Trời tạo nên con người có nghĩa là Linh từ trời chưa được hòa lẫn với điều gì đó của bụi đất để sản sinh sự sống.

2) Không Có Người Nào Cày Cấy Đất

“Và không có một người nào để cày cấy đất”. Điều này nghĩa là không có con người làm việc với Đức Chúa Trời trong sự phối hợp với thần tính qua sự lao khổ của con người (so với 1Cô. 3:9). Nhiều Cơ-đốc nhân quá siêu-thuộc-linh. Khi quá “siêu”, họ trở nên cạn cợt. Họ thuộc linh cạn cợt khi nói rằng: “Chúng ta không nên làm gì cả. Linh làm mọi sự”. Điều này sai. Nếu anh em không làm gì, Đức Chúa Trời không thể làm gì, vì Ngài cần sự lao khổ của con người để hợp tác với sự lao khổ thần thượng của Ngài. Nếu không có con người cày cấy đất thì mưa xuống để làm gì? Nếu là một người đã cày cấy đất, anh em có quyền cầu nguyện: “Chúa ơi, con ở đây. Xin ban mưa xuống”. Khi đó, Đức Chúa Trời sẽ ban mưa. Tuy nhiên, giả sử không có người ở trên đất đòi ban mưa và một số thiên sứ nói “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ơi, tại sao Ngài không ban mưa xuống?” Đức Chúa Trời sẽ đáp: “Nếu Ta ban mưa xuống, sẽ lãng phí. Ta đang chờ con người cày cấy đất. Một khi con người trên đất đã cày cấy, Ta sẽ ban mưa xuống”.

Trong những ngày này, Hội Thánh quan tâm về sự rao giảng Phúc Âm. Tuy nhiên, giả sử không một Cơ-đốc nhân nào tại A-na-heim làm việc với Đức Chúa Trời, và một số thiên sứ trên trời cầu nguyện: “Hỡi Đức Chúa Trời Toàn Năng, xin cứu những người tại Anaheim. Xin Ngài phát ngôn thì mọi người sẽ ăn năn”. Đức Chúa Trời sẽ đáp: “Điều này thật dại dột. Khi không có ai tại Anaheim cùng làm việc với Ta, làm thế nào Ta có thể cứu họ?” Anh em không nhớ câu chuyện của Cọt-nây sao? Mặc dầu một thiên sứ hiện ra với ông với một sứ điệp, nhưng thiên sứ đó không thể rao giảng Phúc Âm (Công. 10:1-8). Thiên sứ nói với Cọt-nây: “Ngươi hãy sai người đến với Phi-e-rơ và xin người đến. Ta không thể cày cấy đất vì ta là thiên sứ, ta không đủ điều kiện. Loài người đã được chỉ định để rao giảng Phúc Âm. Họ có đủ điều kiện. Hãy mời Phi-e-rơ đến đây”.

Khi không có một người nào trên đất cày cấy đất, Đức Chúa Trời sẽ không ban mưa xuống. Không có một người nào phối hợp làm việc với Đức Chúa Trời bởi sự lao khổ của con người cùng với sự lao tác thần thuợng. Chúng ta phải lao tác trong sự phối hợp với sự lao tác thần thượng của Đức Chúa Trời. Ngày đêm chúng ta phải cầu nguyện cho thân thuộc và bạn bè của mình. Chúng ta phải lao tác trên họ. Khi ấy, mưa sẽ đổ xuống. Nếu không hợp tác với Đức Chúa Trời bằng cách cày cấy đất, sẽ không bao giờ có mưa. Đức Chúa Trời không lãng phí cơn mưa của Ngài. Khi mưa xuống sẽ sản sinh sự sống.

3) Không Có Sự Sống Nào Mọc Lên Từ Đất

“Và lúc đó, chưa có một cây nhỏ nào mọc ngoài đồng, và cũng chưa có một ngọn cỏ nào mọc ngoài ruộng”: điều này nghĩa là chưa có bất kỳ sự sống nào vì chưa có sự sống mọc lên từ đất. Vì không có người nào cày cấy đất và chẳng có mưa nên không thể nào có sự sống.

4) Hơi Nước Từ Đất Bay Lên

“Nhưng có hơi nước dưới đất bay lên tưới khắp cùng mặt đất” (c. 6). Điều này nghĩa là chỉ có điều gì đó ra từ đất mới làm việc trên đất; không có điều gì từ trời xuống để khiến đất mọc lên sự sống.

Bốn điều này tạo nên nền tảng cho sự tạo nên con người. Nếu đến với những câu này theo cách hình bóng, chúng ta sẽ thấy chúng đáng được ghi trong Kinh Thánh. Tôi thích Sáng Thế Ký 2:5-6. Bây giờ chúng ta có thể hiểu rằng chúng ta cần mưa và Đức Chúa Trời cần chúng ta. Đức Chúa Trời cần sự đồng công của chúng ta. Khi ấy, mưa từ trời sẽ đổ xuống hòa lẫn với bụi đất để sản sinh sự sống.

(2) Phương Cách –Sáng Thế Ký 2:7

Bây giờ chúng ta suy xét phương cách Đức Chúa Trời tạo nên con người. Đức Chúa Trời tạo nên con người giống như cái chai, có cổ và miệng chai. Ngợi khen Chúa vì tôi có miệng! Làm thế nào tôi có thể sống mà không có miệng? Đức Chúa Trời đã làm nên tôi như vậy.

1) Lấy Bụi Đất Nắn Nên Thân Thể Người

Đức Chúa Trời lấy bụi đất nắn nên thân thể người để con người có một thân thể làm sự biểu lộ bên ngoài và làm cơ quan tiếp xúc những gì thuộc vật chất. Đức Chúa Trời đã lấy bụi đất, không phải lấy vàng để làm nên con người. Vàng không thể sản sinh sự sống. Nếu gieo hạt giống vào trong đống vàng, anh em sẽ phí hạt giống. Tuy nhiên, bụi đất có thể mọc lên sự sống. Nếu gieo hạt giống xuống bụi đất, hạt giống sẽ mọc lên cây. Chúng ta không phải là một người làm bằng vàng, nhưng là người bằng đất. Tôi vui mừng vì mình là một người thuộc bụi đất. Tôi là một chiếc bình bằng đất. Ha-lê-lu-gia!

Thân thể chúng ta được nắn nên từ bụi đất để làm sự biểu lộ bên ngoài của chúng ta. Khi có thời gian, tôi thích soi gương, đặc biệt để xem mặt mình. Càng nhìn chính mình, tôi càng được thuyết phục rằng tôi đã được Đức Chúa Trời dựng nên. Trong cả vũ trụ không một ai khác có thể tạo nên một tạo vật kỳ diệu như thế. Mẫu mã xe hơi của Mỹ có thể cải tiến và thay đổi hàng năm, nhưng không ai có thể cải tiến kiểu mẫu con người. Đôi tai chúng ta đã được thiết kế cách hoàn hảo để nghe. Thật bất tiện làm sao nếu các chi thể của thân thể chúng ta được sắp xếp lại! Điều gì sẽ xảy ra nếu cái mũi của tôi được đặt trên trán và hướng lên. Mưa, bụi đất có thể rơi vào. Đức Chúa Trời có chủ ý thiết kế cái mũi hướng xuống dưới để chỉ có không khí mới có thể đi vào. Mặc dầu cái mũi tôi không hấp dẫn lắm nhưng tôi vẫn yêu thích nó. Đức Chúa Trời đã thiết kế nó cho tôi.

Có nhiều điều cần suy xét về thân thể con người. Trong Truyền Đạo 12:3, Sa-lô-môn đề cập đến những người xay cối, nói rằng khi một người về già, những kẻ xay cối sẽ ngưng vì chúng còn rất ít. Việc xay cối ở đây chỉ về hành động nhai của răng hàm chúng ta. Răng cửa như cái kéo dùng để cắn, cắt thức ăn, còn răng hàm dùng để nhai. Khi ăn một miếng thịt, răng cửa cắn, rồi lưỡi đẩy nó đến răng hàm để được xay nhuyễn thành dưỡng chất. Theo Sách Truyền Đạo, những người xay cối ngừng lại vì người lớn tuổi thường ít răng hơn. Ai đã tạo chúng ta như vậy? Ai đã tạo những cái kéo, tức răng hàm và nước bọt được tiết ra để hóa lỏng thức ăn? Chắc chắn Đức Chúa Trời đã làm điều này.

Con người đã được Đức Chúa Trời tạo nên. Con người đã được thiết kế bởi một nghệ nhân tài giỏi nhất. Đừng quan tâm đến thuyết tiến hóa. Ngay cả y khoa cũng có thể khẳng định rằng thân thể con người chứa đựng tất cả những yếu tố được tìm thấy trong bụi đất như muối, sulfur, đồng và sắt… Đức Chúa Trời đã tạo nên thân thể con người kỳ diệu từ bụi đất. Tôi không có lời nào để mô tả hết được. Hãy nhìn anh em. Hãy nhìn đôi vai, cánh tay và năm ngón tay. Với bốn ngón và một ngón cái, con người có thể làm bất kỳ điều gì. Chúng ta có thể làm gì nếu có năm ngón cái trên mỗi bàn tay? Chúng ta không thể làm gì ngay cả cầm một vật dụng để ăn. Nếu xem xét cơ thể mình, anh em sẽ thấy đó là một cái chai sống. Thật vậy, chúng ta đã được làm nên bởi Đức Chúa Trời.

2) Hà Hơi Thở Sự Sống Vào Lỗ Mũi Con Người

Đức Chúa Trời hà hơi thở sự sống vào mũi người để con người có một linh là cơ quan tiếp nhận hầu con người có thể tiếp nhận Đức Chúa Trời, tiếp xúc Đức Chúa Trời và những điều thuộc linh (Gi. 4:24; La. 1:9). Bên trong máy thu thanh bán dẫn, có bộ phận tiếp sóng. Khi bộ phận này bị hư, không thể bắt được sóng âm. Cũng vậy, thân thể chúng ta là vật chứa bên ngoài, và bên trong là linh được Đức Chúa Trời làm nên như một bộ phận tiếp nhận để tiếp nhận Đức Chúa Trời là Sóng Âm Thiên Thượng. Bởi cơ quan này, chúng ta có thể tiếp xúc những điều thuộc linh. Tôi dùng tay để tiếp xúc bảng đen. Tôi tiếp xúc mùi vị bằng mũi, màu sắc bằng mắt. Tôi chứng thực âm thanh bằng đôi tai. Tất cả những gì thuộc vật chất đều có thể được chứng thực bởi các giác quan trong thân thể vật lý chúng ta. Trong vũ trụ, cũng có những điều thuộc linh. Trong vũ vụ này có Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời là Linh. Chúng ta không thể chứng thực Ngài bởi những giác quan vật lý. Thật ngu dại khi phủ nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời vì chúng ta không thể chứng thực Ngài theo cách vật lý. Nói rằng một điều gì đó không hiện hữu vì chúng ta không thể cảm nhận thì thật là dại dột. Mặc dầu trong bầu khí quyển có nhiều sóng âm, chúng ta không thể chứng thực chúng nếu không có bộ phận tiếp sóng. Cũng vậy, chúng ta không thể chứng thực Đức Chúa Trời nếu không có bộ phận tiếp nhận đúng đắn, tức nhân linh. Nếu linh chúng ta không thực hiện chức năng tốt, chúng ta sẽ không thể cảm nhận Đức Chúa Trời. Chúng ta cần mở linh ra để bắt sóng. Chúng ta cần vận dụng linh để tiếp xúc Đức Chúa Trời. Bên trong chúng ta, có một cơ quan như vậy mà Kinh Thánh gọi là linh của con người.

a) Hơi Thở Của Sự Sống Và Linh Của Con Người

Trong tiếng Hê-bơ-rơ, từ hơi thơ trong Sáng Thế Ký 2:7 là neshamah, được dịch là “linh” trong Châm Ngôn 20:27. Điều này nghĩa là hơi thở trong Sáng Thế Ký 2:7 là linh con người và linh này là ngọn đèn của Chúa. Thời xưa, người ta dùng đèn dầu. Đèn này có dầu được đốt để tỏa ánh sáng. Bên trong chúng ta có một cái đèn chứa Linh của Đức Chúa Trời như dầu. Mặc dầu có một cái đèn bên trong như vậy, chúng ta vẫn cần dầu thần thượng đổ vào để làm đèn sáng. Châm Ngôn 20:27 nói rằng linh con người dò xét mọi phần bên trong của bản thể chúng ta. Khi Đức Chúa Trời như Dầu được đổ vào để đốt cháy đèn chúng ta, chúng ta sẽ được soi sáng và dò xét. Kinh Thánh nói rõ rằng hơi thở của Đức Chúa Trời đã trở nên nhân linh và nhân linh này là đèn của Đức Chúa Trời để chứa đựng Đức Chúa Trời là Dầu và để ban ánh sáng cho chúng ta.

b) Linh Của Con Người Được Đức Chúa Trời Tạo Nên Cách Đặc Biệt

Linh của con người đã được Đức Chúa Trời tạo nên cách đặc biệt (Xa. 12:1; Gióp 32:8). Xa-cha-ri 12:1 nói rằng Đức Chúa Trời giương các từng trời, lập nền trái đất, và tạo linh bên trong con người. Trong vũ trụ này có ba điều quan trọng ngang nhau: các từng trời, trái đất, và linh con người. Các từng trời dành cho trái đất, trái đất dành cho con người, và con người có một linh dành cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tạo nên các từng trời cho trái đất. Không có các từng trời, không thể có điều gì từ trái đất mọc lên. Trái đất là dành cho con người, và con người có một linh bên trong để chứa đựng Đức Chúa Trời. Do đó, con người là trung tâm của toàn vũ trụ và trung tâm của con người là nhân linh. Điều này hết sức quan trọng. Đối với Đức Chúa Trời, nếu không có linh bên trong con người, con người chỉ là một cái vỏ trống rỗng. Nếu không có con người sống trên đất, trái đất sẽ trống vắng và các từng trời sẽ vô dụng. Ngợi khen Chúa vì các từng trời phục vụ trái đất, trái đất phục vụ con người, và con người có một linh để tiếp nhận Đức Chúa Trời. Ngợi khen Chúa vì “có một linh bên trong con người”.

c) Linh Của Con Người Là Nơi Linh Của Đức Chúa Trời Hành Động 
Và Là Nơi Ở Của Chúa

Linh của con người là nơi Linh của Đức Chúa Trời hành động. La-mã 8:16 nói rằng Linh của Đức Chúa Trời đồng chứng với linh chúng ta. Do đó, Thánh Linh hành động cùng với nhân linh. 2Ti-mô-thê 4:22 nói “Chúa ở với linh của con”. Chúa Jesus bây giờ đang ở với linh chúng ta. Đó là nơi ở của Ngài.

3) Làm Con Người Thành Một Hồn Sống

Đức Chúa Trời làm con người thành một hồn sống để con người có thể có một hồn là thân vị cùng với tính cách, và là một cơ quan để tiếp xúc lĩnh vực tâm lý. Giữa thân thể bên ngoài của chúng ta và linh bên trong, là hồn, tức thân vị chúng ta. Bởi phương tiện là hồn, chúng ta tiếp xúc những điều thuộc tâm lý. Trước đây, tôi đã đề cập đến một số điều thuộc thể và một số điều thuộc linh, bây giờ tôi muốn nói về những điều thuộc tâm lý. Hãy lấy sự vui vẻ làm ví dụ. Vui vẻ không mang tính thuộc thể hay thuộc linh mà thuộc tâm lý. Nếu anh em đến thăm tôi và thấy tôi không vui với anh em, làm thế nào anh em biết là tôi không vui? Anh em biết là do hồn, tức phần thuộc tâm lý. Rõ ràng là Đức Chúa Trời đã làm nên chúng ta gồm ba phần linh, hồn và thân thể.

4)  Làm Con Người Thành Một Hữu Thể Ba Phần 
–Linh, Hồn Và Thân Thể

Đức Chúa Trời làm con người thành một hữu thể ba phần. 1Tê-sa-lô-ni-ca 5:23 nói rõ rằng chúng ta có linh, hồn và thân thể. Hê-bơ-rơ 4:12 nói rằng linh có thể được phân chia khỏi hồn. Tại sao Đức Chúa Trời tạo nên chúng ta cách như vậy? Đơn giản là để chúng ta có thể là một con người kỳ diệu. Chúng ta kỳ diệu vì chúng ta có ba phần. Loài người không đơn giản. Đừng cho mình là đơn giản. Về hồn, chúng ta có tâm trí, tình cảm và ý chí. Về thân thể, chúng ta có nhiều chi thể. Y khoa phải mất nhiều năm để nghiên cứu cơ thể người mà vẫn không thể nghiên cứu thấu đáo. Bên trong linh, chúng ta có lương tâm, trực giác và sự tương giao. Đức Chúa Trời đã tạo nên chúng ta cách kỳ diệu như thế vì Ngài muốn chúng ta là một chiếc bình của Ngài. Chúng ta không được làm nên cho bất kỳ mục đích nào khác. Thân thể chúng ta hiện hữu để có thể là chiếc bình sống hầu chứa đựng Đức Chúa Trời. Nếu muốn là một chiếc bình như vậy, chúng ta không những cần linh bên trong mà cũng cần thân thể bên ngoài để làm chúng ta có thể sống trên đất, vận dụng linh để tiếp xúc Đức Chúa Trời, nhận Ngài vào, chứa đựng Ngài, và thậm chí đồng hóa Ngài. Ngợi khen Chúa vì chúng ta đã được làm nên theo cách kỳ diệu, có ba phần như vậy!

Vì những người trẻ, tôi muốn dùng một minh họa. Giả sử anh em là một người nghèo. Nỗ lực của anh em là kiếm được tiền, chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu thuộc thể. Cuối cùng, anh em có được một căn nhà tốt, thức ăn ngon, quần áo đẹp và phương tiện đi lại tốt nhất. Một khi nhu cầu thuộc thể của anh em đã được thỏa mãn, anh em bắt đầu thích âm nhạc, thể thao và các thú giải trí. Những điều này thỏa mãn các nhu cầu tâm lý của hồn anh em. Mặc dầu có thể có mọi loại giải trí, nhưng khi ở nhà một mình ban đêm, anh em có cảm nhận rằng sâu xa bên trong mình đang trống vắng. Anh em vẫn cần một điều gì đó. Anh em tự nhủ: “Ngươi có mọi sự. Ngươi muốn điều gì nữa? Ngươi có xe hơi, nhà đẹp, vợ con ngoan, mọi thú vui và giải trí”. Tuy nhiên, sâu xa bên trong, điều gì đó nói “Tôi vẫn còn một nhu cầu”. Sâu xa bên trong anh em, điều gì đó đang ra lịnh, đang đòi hỏi và thậm chí nài xin. Đó là điều gì? Đó là linh của anh em. Phần này của bản thể, tức linh anh em, cần Đức Chúa Trời.

 Chúng ta có ba loại nhu cầu –nhu cầu vật chất, nhu cầu tâm lý và nhu cầu thuộc linh– vì bản thể chúng ta có ba phần. Trong xã hội loài người, nhiều người quan tâm đến hai nhu cầu đầu tiên và bỏ qua nhu cầu thứ ba. Đây là lý do vì sao Hội Thánh có ở đây, vì chỉ có Hội Thánh mới có thể giúp con người thỏa đáp nhu cầu thứ ba. Mặc dầu anh em có thể có sự vui hưởng vật chất tốt nhất và sự thỏa mãn tốt nhất về tâm lý, anh em vẫn thiếu hụt. Anh em cần sự vui hưởng thuộc linh, anh em cần Đức Chúa Trời. Anh em cần được thỏa mãn sâu xa bên trong. Vì đã được thỏa mãn bên trong, tôi không quan tâm nhiều về xe hơi hay nhà ở. Linh của tôi thỏa mãn với Đức Chúa Trời, vì linh tôi đã được làm nên để chứa đựng Ngài.

Để hoàn thành mục đích của Ngài, trước hết Đức Chúa Trời đã làm nên con người như chiếc bình để chứa đựng chính Ngài là Sự Sống. Con người đã được làm nên theo cách đặc biệt như vậy, không những có một thân thể để tồn tại về mặt thuộc thể; có một hồn để biểu lộ chính mình; và cũng có một linh là cơ quan để tiếp xúc Đức Chúa Trời và là bộ phận tiếp nhận để chứa đựng và giữ Đức Chúa Trời. Hồn là thân vị của con người với cả tính cách của người đó. Đó là một con người trọn vẹn. Tuy nhiên, ý định của Đức Chúa Trời khi tạo nên con người không phải để con người dùng chính mình để biểu lộ chính mình. Ý định của Đức Chúa Trời là con người đó, như một tạo vật trọn vẹn, có thể nhận Đức Chúa Trời làm sự sống và biểu lộ Ngài trong mọi tính cách của con người. Vì thế, cùng với hồn, con người cần một cơ quan đặc biệt để tiếp xúc Đức Chúa Trời –nhân linh. Như chúng tôi đã lưu ý trước đó, mọi điều trong Sáng Thế Ký là một hạt giống, sẽ phát triển trong các Sách tiếp theo của Kinh Thánh. Điều này đúng với những vấn đề chúng ta đã xem xét trong bài này, con người là chiếc bình để chứa đựng Đức Chúa Trời, nhân linh là cơ quan để tiếp xúc Đức Chúa Trời v.v… Tất cả những điểm này được gieo trong Sáng Thế Ký như những hạt giống và sẽ phát triển đầy đủ trong Tân Ước như mùa gặt. Chúng ta cần nhiều câu Kinh Thánh từ Tân Ước để đưa ra một định nghĩa toàn diện về những vấn đề này, nhưng vì thời gian có hạn, chúng ta phải dừng tại đây.

 

 

 

 

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2