"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:7543156
Đang truy cập:354

ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA SỰ PHỤC SINH--2 -

accutane acne

buy accutane uk bizautomation.com accutane without side effects

 Hỡi anh chị em, hãy nhận cho rõ sự khác nhau ở đây. Các phép lạ được thực hiện cho dân Y sơ ra ên trong đồng vắng là các tác động của Đức Chúa Trời hằng sống; nhưng dù cho có nhiều phép lạ đã được thực hiện cho họ, không có điều gì của Đức Chúa Trời được truyền vào thể chất của họ. Các phép lạ được thực hiện cho Phao lô là được Đức Chúa Trời của sự phục sinh thực hiện, và mỗi một kỳ tích tươi mới truyền một lượng tươi mới của Đức Chúa Trời vào sự sống của Phao lô. Đau đớn thay! Dù nhiều thế đại đã trôi qua kể từ Sự Phục Sinh, nhiều cơ đốc nhân vẫn hầu như dốt nát về Đức Chúa Trời của sự phục sinh và chỉ lưu ý đến Đức Chúa Trời hằng sống mà thôi. Tôi đang cố gắng đưa điều này đến chỗ thông thường cho đời sống hằng ngày của chúng ta.

Một anh em kia bị bệnh rất nghiêm trọng. Trường hợp người có thể xem là tuyệt vọng, nhưng Đức Chúa Trời đã thương xót người và vận hành một phép lạ thay cho người khiến người được bình phục. Sau đó người làm chứng cho sự kiện rằng Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời hằng sống. Tuy nhiên, ít lâu sau khi đã bình phục người sa đọa ngay vào thế giới. Ngay cả khi người sống với thế giới, người vẫn còn nhớ rằng Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời hằng sống và rằng Đức Chúa Trời đã bảo tồn mạng sống người khỏi sự chết. Nhưng người không kinh nghiệm sự tăng trưởng sự sống thần thượng; người chỉ kinh nghiệm một phép lạ chữa bệnh mà thôi.
-
Có một anh em khác nữa bị bệnh. Ngày nay qua ngày kia không thấy có dấu hiệu bình phục nào. Người đến gần cửa phần mộ. Rồi khi người tuyệt vọng hoàn toàn, nhưng trong sâu thẳm của bản thể mình, người lần lần nhận thức được Đức Chúa Trời. Sự sống phục sinh bắt đầu hoạt động bên trong, người thức tỉnh đối với sự kiện rằng sự sống phục sinh này là một sự sống mà có thể chiến thắng tất cả phiền muộn và ngay đến cũng có thể nuốt cả sự chết. Người vẫn cảm xúc rất nhiều về sự yếu đuối và bị thử thách cách đau buồn, hơn nữa có nhận thức sâu xa rằng Đức Chúa Trời không chỉ vận hành để bày tỏ quyền năng Ngài trong các tác động tỏ tường, nhưng cũng đang vận động để truyền đạt chính mình Ngài nữa. Ánh sáng chiếu từ từ trên người và rồi sức khỏe người bình phục lần lần. Anh em này không kinh nghiệm một sự chữa lành nhưng được bước vào một kinh nghiệm mới mẻ về Đức Chúa Trời. Anh em kia có thể làm chứng cho một phép lạ được thực hiện trong thân thể, và ít lâu sau sa đọa vào thế giới. Nhưng nếu anh em này làm chứng thì không ai cảm động về lời ấy cả, không có sự nhấn mạnh về sự chữa lành, tuy nhiên người đã gặp Đức Chúa Trời trong sự sống của mình.
Hãy để cho tôi kể một câu chuyện khác để giải thích thêm về điều này. Một anh em kia dự phần vao công việc xuất khẩu, anh đã trù liệu gởi hàng hóa bằng một chiếc tàu nọ. Nhưng hàng hóa anh bị trễ nên phải gởi một tàu khác sau đó. Sau đó ít lâu, anh ấy nghe tin rằng chiếc tàu mà lúc đầu tiên anh định gởi hàng hóa đó đã bị chìm. Người ấy đã ngợi khen Đức Chúa Trời về ân điển của Ngài là dường nào! Người thưa: “Ô lạy Đức Chúa Trời, sự dẫn dắt của Ngài là toàn hảo dường nào! Ngài thật là Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống.”
-
Ít lâu sau đó cũng anh em ấy lại mắc phải bịnh lao phổi, người trở nên bối rối. Anh ta ở vào tình thế khổ não, nhưng vợ người an ủi người và nói: “Anh há không nhớ việc xảy ra hai tháng trước lúc Đức Chúa Trời cứu thoát việc gởi hàng hóa hay sao? Ồ Đức Chúa Trời chúng ta là Đấng hằng sống và chân thật.” Nhưng trong trường hợp này Đức Chúa Trời dường như không chân thật cũng không hằng sống, vợ chống càng cầu nguyện chừng nào, anh em ấy càng xuất huyết nhiều chừng nấy. Anh ta càng cầu nguyện, tình trạng càng khổ não hơn. Anh ấy khốn khổ vô cùng! Rốt lại anh ấy sa vào sự nghi ngờ và vợ anh bắt đầu thắc mắc nữa. Một ít tháng sau công việc anh ta bị đứng lại. Sức khỏe càng suy sụp và tài lực anh ta bị hao hụt, đến nỗi cả hai vợ chồng anh đến chỗ tuyệt vọng. Trong chỗ cùng cực họ mất hết đức tin và cầu nguyện: “Chúa ôi, Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống, chúng tôi tin Ngài sẽ thương xót chúng tôi.” Nhưng ngày hôm sau do sự nhẫn nại ấy họ được thêm một sự xuất huyết, cả hai vợ chồng không còn lòng tin cậy nữa. Đức Chúa Trời hằng sống đã biến mất khỏi chân trời của họ! Bạn hữu và người lân cận đều tuyên bố trường hợp của anh ta là tuyệt vọng, vả sự khám xét của bác sĩ xác nhận cho lời của họ là đúng.
-
Tuy nhiên, đây chưa phải là điểm chấm dứt câu chuyện. Một biến động xảy ra trong sự sống bề trong của anh em đó. Nó bắt đầu biểu lộ trong anh em (Dù rằng anh không thể định nghĩa nó là gì trong khi anh đã biết Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời hằng sống, anh không biết Ngài là Đức Chúa Trời của sự phục sinh). Anh biết giáo lý phục sinh nhưng anh không biết thực tế của sự phục sinh. Anh biết bằng kinh nghiệm rằng chính anh ta bước vào sự sống Đức Chúa Trời rồi. Từ ngày tin Chúa cho đến ngay bây giờ có một điều được sáng tỏ cho anh rằng, anh đã sở hữu sự sống Đức Chúa Trời, nhưng anh chưa sống trong sự sống của Ngài. Ngay cả khi anh cầu nguyện với Đức Chúa Trời, anh không không ở trong sự tùy thuộc vào Ngài. Anh nhìn thấy mọi cố gắng của anh để làm vui lòng Đức Chúa Trời là một vài điều biệt lập với Ngài. Lòng anh đầy dẫy sự ăn năn. Anh gớm nghê chính mình. Sự chữa bệnh không còn là vấn đề cho anh nữa. Tình trạng của anh không còn là nan đề cho anh nữa.Vấn đề của anh là chính mình anh. Anh ấy nhận rõ cách trọn vẹn rằng điều mà anh cho mình là sự phục vụ thuộc linh trước kia, nay là sự việc ở ngoài lề sự sống thần thượng.
-
Không ai giảng cho anh, nhưng Thánh Linh đã ban cho anh sự ghi nhận sâu xa về cá nhân chủ nghĩa của anh. Anh tự xét đoán cách thẳng thắn, không còn lo nghĩ sự cải thiện sức khỏe hay hoàn cảnh của mình. Trong lúc này có một điều khác biệt đã xảy ra: sức khỏe anh gần cải thiện. Không một ai biết sức khỏe anh hồi phục cách nào và khi nào. Có một sự gia tăng tiệm tiến của sức lực cho đến khi anh ấy bình phục hẳn. Lúc trước anh có thể làm chứng Đức Chúa Trời hằng sống, nhưng nếp sống của anh biệt lập với Đức Chúa Trời, từ hôm nay anh biết Đức Chúa Trời của sự phục sinh và bắt đầu sống tùy thuộc vào sự sống phục sinh.
Hỡi anh chị em, hãy nhớ rằng Đức Chúa Trời cho phép chúng ta trải qua mọi nỗi khốn khổ chỉ vì lý do này, để chúng ta có thể biết Ngài là Đức Chúa Trời của sự phục sinh. Ngài vẫn tiếp tục đưa chúng ta vào sự chết, vì chỉ trong sự chết chúng ta mới có thể kinh nghiệm sự sống phục sinh.
Kinh thánh nói về hai cuộc sáng tạo, sáng tạo cũ và mới. Bản chất thần thượng không cư trú trong cuộc sáng tạo cũ, đó là lý do tại sao nó phải trở nên cũ đi. Nơi nào Đức Chúa Trời cư trú nơi đó có sự mới mẻ. Giê ru sa lem ở trên được gọi là: “Giê ru sa lem mới,” vì nó đầy dẫy Đức Chúa Trời. Sáng tạo thứ nhất, dù nó là sáng tạo của Đức Chúa Trời hằng sống, nhưng không có nội dung thần thượng nào; điều mà Đức Chúa Trời của sự phục sinh khiến sống lại từ kẻ chết thì có một nội dung thần thượng và loài người. Nó bao gồm cả sự sống thọ tạo và sự sống siêu nhiên. Sáng tạo thứ nhất, dù được dựng nên bởi chính mình Đức Chúa Trời, nhưng đã được Đức Chúa Trời cho đùa vào sự chết để nó có thể xuất hiện, trồi lên trong hình thức phục sinh, một sáng tạo mới có hai bản chất song đôi, tức bao hàm cả bản chất Đức Chúa Trời và con người.
-
Nguyên tắc này có thể được áp dụng cho chúng ta cách cá nhân và cho tất cả các mối liên hệ của chúng ta. Hai bạn đồng công yêu thương nhau và cộng tác với nhau cách hòa hợp, tưởng chừng tình yêu hỗ tương và sự hợp tác của họ như là một điều thuộc linh, các kẻ khác cũng có thể ghi nhận như vậy. Tuy nhiên, đó là một sự liên hệ phàm trần không có một nội dung thần thượng nào. Nhưng ngày kia tay Chúa giáng trên họ, và sự đồng công cộng tác chấm dứt. Vì một vài lý do không giải thích được hai bạn đồng lao trên không thể đi chung được nữa. Họ buồn khổ về điều đó, cầu nguyện và mong mỏi phục hồi sự hòa hợp như trước kia, nhưng họ càng cầu nguyện, sự hòa hợp càng lánh họ. Rồi một ngày kia họ biết thực sự về kinh nghiệm xưa của họ, họ thấy chính mình đang ở trong một mối tương quan mới mẻ - không phải là sự hiệp nhất của bản chất xác thịt, nhưng là một sự hiệp nhất của cả thần tính và nhân tính.
Dù sáng tạo cũ đã được hiện hữu bởi bàn tay quyền năng của Đức Chúa Trời hằng sống, nhưng chính mình Ngài không cư ngụ ở đó. Nó được dựng nên bởi Ngài và bày tỏ ra quyền năng Ngài, nhưng nó không tỏ ra hiện diện Ngài. Làm thế nào sáng tạo cũ có thể được biến đổi thành sáng tạo mới? Bởi sự ngự vào của Đức Chúa Trời. Nhưng làm sao sự ngự vào của Ngài được thực hiện? Đây là chỗ mà các khó khăn chính yếu dấy lên. Bản chất cũ phải bị bẻ gãy dọn đường cho Ngài. Hỡi anh chị em, mọi sự trong đời sống của anh chị em phải được đưa vào sự thử nghiệm tột bực là chết để dọn đường cho Đức Chúa Trời của sự phục sinh. Nếu anh em chỉ biết Đức Chúa Trời hằng sống, tri thức của anh em còn quá khách quan. Ngài vẫn là Đức Chúa Trời, anh em vẫn là amh em riêng rẽ. Anh em cần biết Đức Chúa Trời của sự phục sinh, và chỉ do sự chết mà Ngài có thể rẽ tách ra cho Ngài một đường lối bước vào sự sống của anh em.
Trước khi tôi đến xứ này (Mỹ), tôi đã thăm viếng một xưởng dệt lớn tại Manila. Tôi quan sát ở đó sự diễn tiến trong việc sản xuất một vài nguyên liệu. Sau khi vải đã được dệt xong, tôi nhìn xem một sự diễn tiến thứ hai xảy ra. Vải hoàn tất đó được nhúng vào thùng thuốc nhuộm để thấm ướt hết vải đó, rồi một nguyên tố mới được thêm vào đó. Đó cũng như sự sáng tạo cũ. Nó phải trải qua một diễn trình tàn phá, để được thấm nhuần với hiện diện Đức Chúa Trời.
-
Tôi bị ấn tượng cách sâu đậm đang khi đứng ở hãng dệt đó quan sát hai diễn trình và so sánh hai loại vải ra từ diễn trình này và diễn trình kia. Bản chất vải của chúng thực là một, nhưng một số vải trải qua tình trạng tiêu diệt sự diễm lệ tạm thời để có được sự diễm lệ mới mẽ, trường tồn ban phát cho chúng.
Ý nghĩa của sự đau khổ là gì? Điều ấy là để đem sự tàn phá cho sự sáng tạo cũ dành cơ hội cho Đức Chúa Trời của sự phục sinh truyền đạt chính mình Ngài cho tạo vật Ngài, để đến nỗi chúng có thể xuất phát ra từ diễn trình chết mà trong thể chất của chúng có được một yếu tố thần thượng.
Mục đích căn bản của sự đau khổ trong vũ trụ này đặc biệt đối với con cái Đức Chúa Trời là để qua sự đau khổ bản chất Đức Chúa Trời được xây dựng trong bản chất con người. “Dầu người bề ngoài hư nát, nhưng người bề trong cứ càng ngày càng đổi mới.” Qua diễn trình hư nát ngoại tại, diễn trình nội tại đang tiếp tục diễn ra để thêm vào một cấu tạo mới cho sự sống của anh em.
-
Hỡi anh chị em yêu dấu, qua khó khăn và đè nén, nguyên tố thần thượng sẽ được cấu tạo trong chính “Vải” của bản thể anh em, đến nỗi anh em không còn làm cơ đốc nhân vô màu sắc nữa, nhưng có một thứ thuốc nhuộm thiên thượng đã truyền đạt cho anh em thay cho chỗ thiếu khuyết trước kia. Bất cứ sự đau khổ đó là gì cũng đều có hiệu quả - đây là điều cơ bản – đưa những kẻ mà Đức Chúa Trời cho sở hữu sự sống thọ tạo được vào trong sự sống bất thọ tạo của Đức Chúa Trời của sự phục sinh. Ấy là do các kinh nghiệm về sự chết, do sự chịu khổ nên sự sống của tạo vật được hỗn hợp với sự sống của Tạo Hóa. Chúng ta có thể biết Đức Chúa Trời hằng sống mà không có các kinh nghiệm quyết liệt như vậy, nhưng chỉ bởi trải qua sự chết chúng ta mới có thể đạt đến một tri thức thực nghiệm về Đức Chúa Trời của sự phục sinh.
Sự đau khổ là số phận do Đức Chúa Trời ấn định cho các cơ đốc nhân. Sự hạnh phúc của cơ đốc nhân không được tìm thấy trong mọi vật bên ngoài, nhưng trong sự học hỏi vui hưởng chính mình Đức Chúa Trời ở giữa cơn khổ nạn. Phao lô và Si la có thể ca hát ngợi khen Ngài trong lao tù, vì cớ sự sung sướng của họ không đến từ ngoại cảnh, nhưng từ sự vui hưởng Đức Chúa Trời ở bề trong. Trong bức thư ngắn ngủi của Phao lô viết trong ngục thất gởi cho anh em tại thành Phi líp, có trên vài chục chỗ bày tỏ sự vui mừng. Giữa sự khổ nạn, người vẫn có thể vui mừng, vì cớ người đã học tập hiểu biết Christ, chiếm hữu Christ, vui hưởng Christ trong cơn đau khổ. Các ngoại cảnh đều đưa đến sự đau buồn, nhưng trong cơn đau buồn Christ có thể được truyền đạt cho người như là nguồn mạch vui vẻ.
-
Hỡi anh chị em yêu dấu, anh em muốn làm kẻ dự phần sáng tạo mới không? Anh em muốn nếm sự tươi mới vĩnh cửu không? Anh em phải bày tỏ lòng ưng thuận với Đức Chúa Trời khi Ngài tìm cách dẫn anh em qua diễn trình tàn phá. Anh em cần bình tĩnh vì Đức Chúa Trời biết làm sao để phân chia sự đau khổ cho anh em. Ngài là Đấng thông thạo đang chọn lựa sự đau khổ hợp với tình trạng chúng ta. Ngài cân nhắc mọi việc cách chính xác và chọn lựa sự đau khổ thế tục nào thích hợp cho nhu cầu thế tục. Ngài chọn lựa số phận cho mỗi một người cho mục tiêu trước mắt – sự tăng trưởng nội dung thần thượng trong đời sống chúng ta. Nếu Ngài sửa phạt chúng ta, ấy là luôn luôn “Vì ích lợi chúng ta, để chúng ta được dự phần trong sự thánh khiết Ngài.” “Mọi sự hiệp lại làm ích cho những kẻ... được gọi theo mục đích của Ngài.” Làm ích điều gì? Để chúng ta trở nên giống như hình ảnh của Con Ngài.
 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2